BAN CHẤP
HÀNH TRUNG ƯƠNG
--------
|
ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM
---------------
|
Số: 26-KL/TW
|
Hà Nội, ngày
02 tháng 08 năm 2012
|
KẾT LUẬN
CỦA BỘ CHÍNH TRỊ VỀ TIẾP TỤC THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ
37-NQ/TW, NGÀY 01/7/2004 CỦA BỘ CHÍNH TRỊ KHÓA IX NHẰM ĐẨY MẠNH PHÁT TRIỂN KINH
TẾ - XÃ HỘI VÀ BẢO ĐẢM QUỐC PHÒNG, AN NINH VÙNG TRUNG DU VÀ MIỀN NÚI BẮC BỘ ĐẾN
NĂM 2020
Tại phiên họp ngày 05/7/2012, sau khi xem xét
báo cáo kết quả tổng kết 6 năm thực hiện Nghị quyết số 37-NQ/TW, ngày 01/7/2004
của Bộ Chính trị khóa IX “Về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm
quốc phòng, an ninh vùng trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2010” của Ban Chỉ
đạo tổng kết, Bộ Chính trị đã thảo luận và kết luận:
1- Về tình hình thực hiện
Nghị quyết
1.1- Nghị quyết số 37-NQ/TW của Bộ Chính
trị khóa IX được ban hành kịp thời, đánh giá đúng đặc điểm, vị trí quan trọng,
tiềm năng, lợi thế, những khó khăn, thách thức và xác định rõ hướng phát triển
của vùng trung du và miền núi Bắc Bộ; đã được các tỉnh ủy trong vùng, đảng
đoàn, ban cán sự đảng, đảng ủy trực thuộc Trung ương tổ chức quán triệt,
triển khai thực hiện nghiêm túc, từng bước đi vào cuộc sống và đã đạt được những
kết quả quan trọng. Nổi bật là:
Bước đầu đã phát huy được tiềm năng, lợi thế để
phát triển, kinh tế tăng trưởng khá, tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm đạt
11,57%, vượt mục tiêu Nghị quyết đề ra và cao hơn mức bình quân chung của cả nước;
cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực (tăng dần tỉ trọng công nghiệp –
xây dựng, giảm dần tỉ trọng nông nghiệp). Nông nghiệp phát triển khá toàn diện,
hình thành một số vùng sản xuất hàng hóa, vùng chuyên canh tập trung gắn với
công nghiệp chế biến và đảm bảo an ninh lương thực. Công nghiệp phát triển
nhanh, khai thác tốt tiềm năng về khai khoáng, thủy điện, chế biến lâm sản, tạo
động lực cho chuyển đổi cơ cấu và nâng cao hiệu quả kinh tế. Thương mại, dịch vụ
được mở rộng, đáp ứng tốt hơn nhu cầu đời sống và sản xuất. Kim ngạch xuất khẩu
tăng bình quân 23%/năm. Thu ngân sách tăng bình 29,31%/năm. Tổng đầu tư toàn xã
hội đạt khá, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và đô thị được quan tâm,
nhiều công trình trọng điểm ghi trong Nghị quyết đã và đang được thực hiện.
Công tác di dân, tái định cư các dự án thủy điện bước đầu đạt kết quả tốt.
Các lĩnh vực văn hóa- xã hội có nhiều tiến bộ; đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên; công tác phát triển nguồn
nhân lực được chú trọng; an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc
làm đạt kết quả khá.
An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội cơ bản
ổn định; chủ quyền biên giới quốc gia được giữ vững; công tác quốc phòng, an
ninh được tăng cường. Hệ thống chính trị các cấp, nhất là ở cơ sở không ngừng
được củng cố, kiện toàn và từng bước nâng cao chất lượng hoạt động.
1.2- Tuy nhiên, kết quả thực hiện các mục tiêu
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh chưa tương
xứng với tiềm năng và yêu cầu quan trọng, cấp bách của vùng, có 5 mục tiêu quan
trọng Nghị quyết đề ra chưa đạt; chưa tạo được sự chuyển biến căn bản, đột phá
quan trọng cho sự phát triển nhanh và bền vững của toàn vùng. Quy mô kinh tế
còn nhỏ bé, tăng trưởng kinh tế chưa bền vững, tính liên kết thấp, chủ yếu sản
phẩm thô, hiệu quả chưa cao. Công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch còn nhiều
yếu kém, đến nay chưa xây dựng và phê duyệt được quy hoạch vùng. Kết cấu
hạ tầng kinh tế - xã hội vẫn còn nhiều yếu kém, nhiều dự án triển khai chậm so
với yêu cầu.
Công tác giáo dục – đào tạo chuyển biến chậm; chất
lượng nguồn nhân lực còn thấp; đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào vùng
cao, vùng dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn, khoảng cách về mức sống của nhân
dân chưa được thu hẹp so với các vùng khác.
Quản lý hoạt động tôn giáo, dân tộc, nhất là đối
với đạo Tin Lành còn nhiều lúng túng; tình trạng dân di cư tự do gắn với truyền
đạo trái pháp luật, kích động ly khai, tự trị, tuyên truyền thành lập “Vương quốc
Mông” diễn biến phức tạp hơn; tệ nạn và tội phạm ma túy đang là những vấn đề bức
xúc cần hết sức quan tâm. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội vẫn tiềm ẩn
nhiều nhân tố phức tạp, gây mất ổn định. Năng lực hoạt động của hệ thống chính
trị vẫn còn nhiều hạn chế.
Những hạn chế, yếu kém nêu trên có nguyên nhân
khách quan là do điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội vùng trung du và miền núi Bắc
Bộ mang tính đặc thù, có nhiều khó khăn; các thế lực thù địch tập trung chống
phá thông qua các chiêu bài lợi dung vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân
quyền, đặc biệt là ở địa bàn vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Nhưng chủ yếu là di một số nguyên nhân chủ quan:
Việc phổ biến, quán triệt Nghị quyết số 37-NQ/TW ở một số bộ, ngành và địa
phương chưa thật sự sâu rộng; nhận thức về ý nghĩa chiến lược, tầm quan trọng,
tính cấp bách của Nghị quyết chưa đầy đủ, đồng đều. Cơ chế, chính sách đặc thù
cho vùng chưa được ban hành kịp thời, nguồn lực đầu tư chưa đáp ứng yêu cầu, mục
tiêu, nhiệm vụ Nghị quyết đề ra. Một số cấp ủy, chính quyền địa phương còn thiếu
chủ động, sáng tạo, chưa phát huy cao độ vao trò của người dân và doanh nghiệp
trong phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo. Sự phối hợp giữa các bộ, ban,
ngành Trung ương và các địa phương trong quá trình triển khai thực hiện các nhiệm
vụ nhiều lúc, nhiều nơi chưa kịp thời; tính liên kết còn nhiều hạn chế; một số
bộ, ngành của Trung ương chưa quan tâm đúng mức đến vùng Tây Bắc, chưa đề xuất
cơ chế, chính sách phù hợp với đặc điểm vùng.
2- Phương hướng đến năm 2020
Các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp của
Nghị quyết số 37-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX đến nay cơ bản vẫn phù hợp; Bộ
Chính trị yêu cầu các tỉnh ủy trong vùng, các đảng đoàn, ban cán sự đảng và đảng
ủy trực thuộc Trung ương cần tiếp tục tổ chức thực hiện đến năm 2020, tập trung
chỉ đạo,thực hiện tốt một số vấn đề chủ yếu sau đây:
2.1- Nhận thức rõ vị trí,
vai trò của vùng trung du và miền núi Bắc Bộ
Vùng trung du và miền núi Bắc Bộ được mở rộng gồm:
Hà Giang, Lào Cai, Yên Bái, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình, Cao Bằng, Bắc
Kạn, Lạng Sơn, Bắc Giang, Thái Nguyên, Phú Thọ, Tuyên Quang các các huyện phía
tây của các tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng
về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của cả nước, có vai trò
quyết định đối với môi trường sinh thái của cả vùng Bắc Bộ; có tiềm năng, lợi
thế phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy điện, khai khoáng, du lịch và kinh
tế cửa khẩu; có nhiều đồng bào các dân tộc cùng sinh sống gắn bó lâu dài với bản
sắc văn hóa riêng, có truyền thống yêu nước, đoàn kết, kiên cường chống ngoại
xâm; trên địa bàn có nhiều di tích lịch sử, văn hóa, căn cứ cách mạng. Tuy vậy,
đây vẫn là vùng nghèo và khó khăn nhất cả nước. Xây dựng vùng trung du và miền
núi Bắc Bộ vững mạnh toàn diện vừa là yêu cầu, nguyện vọng của đồng bào các dân
tộc trung vùng, vừa là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng đối với sự nghiệp phát triển
kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh lâu dài của đất nước.
2.2- Mục tiêu tổng quát đến
năm 2020
Tiếp tục duy trì nhịp độ phát triển kinh tế - xã
hội vùng trung di và miền núi Bắc Bộ cao hơn nhịp độ phát triển chung của cả nước;
cải thiện rõ rệt và đồng bộ hệ thống hạ tầng kinh tế - xã hội đáp ứng yêu cầu
phát triển kinh tế, dân sinh và bảo đảm quốc phòng, an ninh của vùng; đẩy mạnh
khai thác hợp lý và có hiệu quả các tiềm năng, thế mạnh về phát triển nông,
lâm, ngư nghiệp, thủy điện, khoáng sản, du lịch và kinh tế cửa khẩu để phát triển
kinh tế, từng bước thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển và mức sống của
người dân trong vùng so với mức bình quân chung của cả nước; cơ bản hoàn thành
sắp xếp ổn định dân cư, nhất là vùng đồng bào tái định cư, đưa dân trở lại biên
giới, khắc phục cơ bản tình trạng dân di cư tự do; bảo tồn và phát huy bản sắc
văn hóa các dân tộc, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân; gắn
phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh,
ổn định chính trị, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia.
2.3- Các nhiệm vụ chủ yếu
a) Về phát triển kinh tế
- Tiếp tục thực hiện các quan điểm, định hướng về
phát triển kinh tế của vùng được nêu trong Nghị quyết 37-NQ/TW của Bộ Chính trị
gắn với thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng và Chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội 10 năm 2011-2020 theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và tính bền
vững của kinh tế vùng, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và an sinh xã hội; phấn đấu
đến năm 2020 GDP bình quân/người đạt 2.000 USD. Voi trọng đẩy mạnh ứng dụng
công nghệ cao, hiện đại, tăng nhanh hàm lượng công nghệ, giảm nhanh tỉ trọng xuất
khẩu các sản phẩm thô, không qua chế biến. Hình hành một số sản phẩm chủ yếu,
có thương hiệu trong cả nước và có khả năng cạnh tranh quốc tế trong các lĩnh vực
điện, phân bón, hóa chất, luyện kim, dược liệu, nông, lâm sản; tiến kiệm tài
nguyên, an toàn trong sản xuất và bảo vệ môi trường sinh thái. Ưu tiên phát triển
và hiện đại hóa các ngành dịch vụ, du lịch, thương mại, vận tải, giáo dục, y tế
ở những nơi có tiềm năng, lợi thế, nhất là ở các khu kinh tế cửa khaair; khuyến
khích phát triển, nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế với Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa và Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào.
b) Về phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã
hội
- Tiếp tục tập trung thực hiện các nhiệm vụ, mục
tiêu nêu trong Nghị quyết số 37-NQ/TW và một số nhiệm vụ, mục tiêu mới được xác
định trong Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, trong đó, ưu tiên hàng đầu việc
xây dựng và nâng cấp hệ thống đường bộ, tạo cơ sở liên kết vùng để phát triển
nhanh kinh tế - xã hội của vùng và bảo đảm quốc phòng, an ninh. Đẩy nhanh tiến
độ xây dựng các tuyến đường cao tốc Hà Nội – Thái Nguyên – Chợ Mới (Bắc Kạn),
Hà Nội – Lào Cai, Hòa Lạc – Hòa Ninh; triển khai xây dựng đường cao tốc Hà Nội
– Lạng Sơn, một số tuyến đường kết nối các tỉnh với các tuyến đường cao tốc,
các tuyến đường vành đai, đường đến cửa khẩu, đường tuần tra biên giới. Cải tạo,
nâng cấp các tuyến đường sắt hiện có trong vùng. Tổ chức quản lý và khai thác tốt
các tuyến đường thủy trên sông, trên hồ trong vùng.
- Tiếp tục đầu tư xây dựng các công trình thủy lợi,
đặc biệt là các công trình thủy lợi có quy mô nhỏ và vừa, các công trình kè bờ
sông biên giới, cấp thoát nước, hệ thống truyền tải điện, bưu chính – viễn
thông theo hướng hiện đại, đồng bộ, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội,
nâng cao đời sống nhân dân.
- Tiếp tục hoàn thiện quy hoạch và phát triển hệ
thống đô thị đồng bộ với sự phát triển kinh tế - xã hội, nhất là các đô thị đã
được xác định trong nghị quyết số 37-NQ/TW, ác thành phố, thị xã mới được
bổ sung vào vùng; chú ý xây dựng hạ tầng các cụm dân cư, thị trấn, thị tư,
trung tâm cụm xã gắn với việc bố trí, sắp xếp lại dân cư trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng các nhà máy thủy điện lớn trong vùng và
chương trình xây dựng nông thôn mới, các xã dọc tuyến biên giới Việt – Trung,
Việt – Lào.
- Ban hành cơ chế, chính sách ưu đãi hơn, tập
trung huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước để đầu tư với nhiều hình thức
đa dạng, phù hợp phát triển cơ sở hạ tầng, đẩy nhanh tiến độ hoàn thành các
công trình, dự án, mục tiêu ghi trong Nghị quyết số 37-NQ/TW và các nghị quyết
khác của Trung ương, của Chính phủ.
c) Về phát triển văn hóa – xã hội
- Tiếp tục đầu tư xây dựng và hoàn thiện cơ bản
các thiết chế văn hóa cơ sở, coi trọng việc gìn giữ và phát huy truyền thống
văn hóa tốt đẹp của các dân tộc, xóa bỏ các tập tục lạc hậu. Phấn đấu đến năm
2020, nhân dân các thôn, bản trong vùng đều được nghe đài và xem Truyền hình Việt
Nam; tăng thời lượng và nâng cao chất lượng phát thanh, truyền hình bằng các tiếng
dân tộc.
- Tập trung phát triển và nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực cho các địa phương trong vùng, đặc biệt ưu tiên đào tạo cán bộ tại
chỗ, cán bộ là người dân tộc thiểu số, cán bộ hệ thống chính trị cơ sở. Đầu tư
phát triển nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông, hoàn thành cơ bản chương
trình kiên cố hóa trường lớp học và nhà công vụ cho giáo viên. Tiếp tục đầu tư
cơ sở vật chất và nâng cao năng lực đào tạo cho mọt số trường đại học và các cơ
sở dạy nghề trong vùng. Phấn đấu đến năm 2020 tỉ lệ lao động qua đào tạo trên
65%.
- Phấn đấu đến năm 2020 có trên 80% số xã có bác
sĩ; 100% số xã đạt chuẩn quốc gia về y tế; xây dựng một số trung tâm y tế khu vực
chất lượng cao tại Thái Nguyên, Sơn La, Phú Thọ, Lào Cai đáp ứng yêu cầu khám
chữa bệnh cho nhan dân.
- Thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước về công tác dân tộc, tôn giáo; các chương trình quốc gia về xóa
đói, giảm nghèo bền vững, phấn đấu hằng năm giảm bình quân 3-4% hộ nghèo.
d) Về bảo đảm quốc phòng, an ninh
- Tiếp tục kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh
tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh, xây dựng thế trận quốc phòng toàn
dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, nhất là trên tuyến biến giới và các địa
bàn trọng yếu. Tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh cả về cơ sở vật chất, vũ
khí, khí tài và lực lượng; xây dựng các khu vực kinh tế - quốc phòng theo quy
hoạch; thực hiện tốt việc xây dựng các tỉnh thành khu vực phòng thủ vững chắc
trong tình hình mới.
- Tăng cường công tác quản lý nhà nước về quốc
phòng, an ninh trên địa bàn, chủ động nắm chắc tình hình, không bị động, bất ngờ;
chống lợi dụng dân tộc, tôn giáo, tuyên truyền xuyên tạc của các thế lực thù địch,
đặc biệt là ở các địa bàn trọng điểm. Quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền biên
giới quốc gia, xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị với các nước láng giềng.
e) Về xây dựng hệ thống chính trị và đội ngũ
cán bộ Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp
- Đẩy mạng công tác tuyên truyền, giáo dục làm
cho cán bộ, đảng viên và nhân dân cả nước cũng như các tỉnh trong vùng thống nhất
nhận thức về yêu cầu quan trọng và cấp bách của việc đẩy mạnh phát triển kinh tế
- xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng trung di và miền núi Bắc Bộ, không
chỉ là nhiệm vụ của các địa phương trong vùng mà còn là nhiệm vụ chung của cả
nước, để từ đó tích cực tham gia, phối hợp thực hiện tốt.
- Tiếp tục tăng cường công tác xây dựng Đảng
trên cả 3 mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức; xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong
sạch, vững mạnh, có đủ năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu. Xây dựng hệ thống
chính quyền các cấp trong sạch, vững mạnh, hiệu lực, hiệu quả. Xây dựng Mặt trận
Tổ quốc và đoàn thể các cấp theo hướng gần dân, sát cơ sở, thực sự vì quyền và
lợi ích chính đáng của đoàn viên, hội viên.
2.4- Các giải pháp chủ yếu
- Sớm hoàn thành việc xây dựng và phê duyệt Quy
hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng trung du và miền núi Bắc Bộ đến
năm 2020 làm cơ sở cho việc rà soát, điều chỉnh và hoàn thiện các quy hoạch
ngành, lĩnh vực và quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội của từng tỉnh
trong vùng. Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của toàn vùng phải
hướng vào khai thác tối đa mọi tiềm năng, thế mạnh của từng tỉnh và của cả
vùng, bảo đảm sự phát triển gắn kết, hài hòa giữa các tỉnh, tạo thành không
gian kinh tế vùng liên hoàn, hợp lý.
- Tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, ban hành đồng bộ
các cơ chế, chính sách đặc thù, trọng tâm là những cơ chế, chính sách nhằm khai
thác tối đa tiềm năng, lợi thế của vùng như: cơ chế, chính sách và pháp luật về
đất đai, giải phóng mặt bằng, di dân, tái định cư, giữ đất trồng lương thực,
dành đất để làm thủy điện, công nghiệp, đô thị; các cơ chế, chính sách về tài
chính, nhất là đối với các tỉnh nghèo, đối tượng nghèo, đồng bào dân tộc; chính
sách phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa; các cơ chế, chính sách về khai thác và
huy động tối đa các nguồn lực của mọi thành phần kinh tế và các nguồn ngoài
ngân sách cho đầu tư phát triển; chính sách phát triển giáo dục phổ thông và
đào tạo nguồn nhân lực; chính sách về phát triển khoa học – công nghệ và bảo vệ
môi trường, nhất là bảo vệ rừng...
3- Tổ chức thực hiện
- Ban cán sự đảng Chính phủ chỉ đạo, điều hành
việc cụ thể hóa và triển khai thực hiện Nghị quyết số 37-NQ/TW của Bộ Chính trị
khóa IX và Kết luận này. Các ban đảng, đảng đoàn, ban cán sự đảng, đảng ủy trực
thuộc Trung ương và các tỉnh ủy vùng trung du và miền núi Bắc Bộ cụ thể hóa
thành chương trình, kế hoạch để tiếp tục lãnh đạo và tổ chức thực hiện
nghiêm túc Nghị quyết và Kết luận này.
- Ban Chỉ đạo Tây Bắc phối hợp với Văn phòng
Trung ương Đảng, các ban đảng ở Trung ương giúp Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Thủ
tướng Chính phủ đôn đốc, theo dõi, kiểm tra, giám sát các bộ, ban, ngành, đoàn thể
và các tỉnh trong vùng tổ chức thực hiện; định kỳ sơ kết, tổng kết việc thực hiện
Nghị quyết, Kết luận này và báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Thủ tướng Chính
phủ.
|
T/M. BỘ
CHÍNH TRỊ
Lê Hồng Anh
|