BỘ CÔNG AN-BỘ TƯ
PHÁP-VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
********
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
01/2000/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP-BCA
|
Hà Nội , ngày 12
tháng 6 năm 2000
|
THÔNG TƯ LIÊN TỊCH
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO - BỘ TƯ PHÁP - BỘ CÔNG AN SỐ
01/2000/TTLT-TADNTC-VKSNDTC-BTP-BCA NGÀY 12 THÁNG 6 NĂM 2000 HƯỚNG DẪN THI HÀNH
MỤC 3 NGHỊ QUYẾT SỐ 32/1999/QH10 NGÀY 21 THÁNG 12 NĂM 1999 CỦA QUỐC HỘI VÀ NGHỊ
QUYẾT SỐ 229/2000/NQ-UBTVQH10 NGÀY 28 THÁNG 1 NĂM 2000 CỦA UỶ BAN THƯỜNG VỤ QUỐC
HỘI
Ngày 21-12-1999, Quốc hội nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá X đã thông qua Bộ luật Hình sự mới của nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (từ đây gọi tắt là Bộ luật Hình sự năm 1999).
Quốc hội cũng đã thông qua Nghị quyết số 32/1999/QH10 về việc thi hành Bộ luật
Hình sự (từ đây gọi tắt là Nghị quyết số 32). Tại Mục 1 của Nghị
quyết đã quy định là Bộ luật Hình sự năm 1999 có hiệu lực từ ngày
01-7-2000, nhưng tại Mục 3 của Nghị quyết đã quy định đường
lối, chính sách xử lý đối với một số trường hợp cụ thể được áp dụng kể từ ngày
Bộ luật Hình sự được công bố (ngày 4-1-2000). Ngày 28-1-2000, Uỷ ban thường vụ
Quốc hội cũng đã ban hành Nghị quyết số 229/2000/NQ-UBTVQH10 về việc triển khai
thực hiện Mục 3 Nghị quyết của Quốc hội "về việc thi
hành Bộ luật Hình sự" (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 229).
Để thi hành đúng các quy định tại
Mục 3 Nghị quyết số 32 của Quốc hội và các quy định tại Nghị
quyết số 229 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm
sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Công an thống nhất hướng dẫn một số điểm
sau đây, kể từ ngày Bộ luật Hình sự được công bố (ngày 4-1-2000):
1. Trong mọi
trường hợp khi xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm cũng không áp dụng hình phạt tử
hình đối với người phạm một trong những tội mà Bộ luật Hình sự năm 1999 đã bỏ
hình phạt tử hình đối với tội đó; cụ thể là các tội sau đây:
STT
|
Tội
danh và Điều luật theo
BLHS
năm 1985
|
Tội
danh và Điều luật theo
BLHS
năm 1999
|
1
|
Tội phạm an ninh lãnh thổ
(Điều 75)
|
Tội xâm phạm an ninh lãnh thổ
(Điều 81)
|
2
|
Tội chống phá trại giam
(Điều 84)
|
Tội chống phá trại giam
(Điều 90)
|
3
|
Tội chế tạo, tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm
đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự
(Điều 95)
|
Tội chế tạo, tàng chữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái
phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự
(Điều 230)
|
4
|
Tội vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới
(Điều 97)
|
Tội vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới
(Điều 154)
|
5
|
Tội trộm cắp tài sản XHCN
(Điều 132)
|
Tội trộm cắp tài sản
(Điều 138)
|
6
|
Tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản XHCN
(Điều 138)
|
Tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
(Điều 143)
|
7
|
Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của
công dân
(Điều 156)
|
Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản
(Điều 280)
|
8
|
Tội làm hàng giả, tội buôn bán hàng giả
(Điều 167)
|
- Tội sản xuất, buôn bán hàng giả (Điều
156)
- Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn
nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi
(Điều 158)
|
9
|
Tội cưỡng bức, lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất
ma tuý
(Điều 185m)
|
Tội cưỡng bức, lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất
ma tuý
(Điều 200)
|
10
|
Tội làm môi giới hối lộ
(Điều 227)
|
Tội làm môi giới hối lộ
(Điều 290)
|
11
|
Tội bỏ vị trí chiến đấu
(Điều 258)
|
Tội bỏ vị trí chiến đấu
(Điều 324)
|
12
|
Tội tuyển mộ lính đánh thê, tội làm lính đánh thê
(Điều 280)
|
Tôị thuyển mộ lính đánh thuê, tội làm lính đánh thuê
(Điều 344)
|
Trong các trường hợp trên đây, nếu
khi xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm mà xét thấy hành vi phạm tội là đặc biệt
nghiêm trọng và theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 1985 phải xử phạt người
phạm tội với mức hình phạt cao nhất là tử hình, thì nay áp dụng điều luật tương
ứng của Bộ luật Hình sự năm 1999 để xử phạt người phạm tội với mức hình phạt
cao nhất mà điều luật đó quy định.
2. Khi xét xử
sơ thẩm, xét xử phúc thẩm không áp dụng hình phạt tử hình đối với phụ nữ có
thai, phụ nữ đang có con (con đẻ, con nuôi) dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc
khi xét xử về tội phạm mà Bộ luật Hình sự năm 1999 vẫn quy định hình phạt tử
hình.
Chỉ được coi là con nuôi, nếu việc
nhận con nuôi và được nhận làm con nuôi được thực hiện theo các điều kiện,
trình tự, thủ tục do pháp luật về hôn nhân và gia đình, pháp luật về hộ tịch
quy định.
3. Điểm c Mục 3 Nghị quyết số 32 quy định:
"Không xử lý về hình sự đối với người thực hiện hành vi mà Bộ luật Hình sự
trước đây quy định là tội phạm, nhưng Bộ luật Hình sự này không quy định là tội
phạm...." Hành vi mà Bộ luật Hình sự năm 1985 (đã được sửa đổi, bổ sung
vào các năm 1989, 1991, 1992 và 1997) quy định là tội phạm, nhưng Bộ luật Hình
sự năm 1999 không quy định là tội phạm bao gồm:
a. Hành vi mà Bộ luật Hình sự
năm 1985 quy định thành một tội danh cụ thể trong một điều luật cụ thể nay Bộ
luật Hình sự năm 1999 không quy định là tội phạm nữa và đã bỏ tội danh này; cụ
thể là:
STT
|
Điều luật và tội
danh theo BLHS năm 1985
|
1
|
Điều 86. Các tội chống nhà nước XHCN
anh em
|
2
|
Điều 98. Tội phá huỷ tiền tệ
|
3
|
Điều 164. Tội cản trở việc thực hiện
các quy định của Nhà nước về cải tạo xã hội chủ nghĩa
|
4
|
Điều 172. Tội chiếm đoạt tem, phiếu; tội
làm hoặc lưu hành tem, phiếu giấy tờ giả dùng vào việc phân phối
|
5
|
Điều 177 Tội lưu hành sản phẩm kém phẩm
chất
|
6
|
Điều 183. Tội sản xuất hoặc buôn bán
rượu, thuốc lá trái phép (nếu không thuộc trường hợp kinh doanh trái phép quy
định tại Điều 159 Bộ luật Hình sự năm 1999).
|
7
|
Điều 184. Tội lạm sát gia súc
|
8
|
Điều 208. Tội trốn tránh nghĩa vụ lao động
công ích
|
9
|
Điều 209. Tội làm trái hoặc cản trở việc
thực hiện nghĩa vụ lao động công ích
|
10
|
Điều 261. Tội vắng mặt trái phép
|
b. Hành vi mà Bộ luật Hình sự
năm 1985 quy định là tội phạm trong một điều luật cụ thể về một tội danh cụ thể,
nay Bộ luật Hình sự năm 1999 tuy vẫn có điều luật cụ thể về tội danh đó, nhưng
trong điều luật đó đã bỏ hành vi phạm tội này.
Ví dụ 1: Hành vi chuyển nhượng
trái phép nhà do Nhà nước hoặc tổ chức xã hội quản lý thu lợi bất chính lớn,
thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội "vi phạm các quy định về
quản lý nhà" theo quy định tại Điều 214 Bộ luật Hình sự
năm 1985, nay trong Bộ luật Hình sự năm 1999 tuy vẫn có Điều
270 quy định về tội "vi phạm các quy định về quản lý nhà ở",
nhưng trong điều luật đó đã bỏ hành vi này.
Ví dụ 2: hành vi của ông, bà,
cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội không tố
giác các tội phạm không phải là các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội
phạm khác không phải là tội đặc biệt nghiêm trọng, thì có thể bị truy cứu trách
nhiệm hình sự về tội "không tố giác tội phạm" theo quy định tại Điều 247 Bộ luật Hình sự năm 1985, nay trong Bộ luật Hình sự
năm 1999 tuy vẫn có Điều 314 quy định về tội không tố giác
tội phạm, nhưng trong điều luật đó đã bỏ hành vi này;
c. Hành vi mà Bộ luật Hình sự
năm 1985 quy định là tội phạm, nay theo Bộ luật Hình sự năm 1999 thì hành vi
này không phải là tội phạm vì không có một hoặc một số dấu hiệu cấu thành bắt
buộc mới được bổ sung.
Ví dụ 1: Các hành vi công nhiên
chiếm đoạt tài sản, trộm cắp tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản có giá trị dưới
năm trăm nghìn đồng theo Bộ luật Hình sự năm 1985 có thể bị truy cứu trách nhiệm
hình sự về tội danh tương ứng mà không cần phải kèm theo bất kỳ một điều kiện
nào, nay theo Bộ luật Hình sự năm 1999 thì chỉ coi là tội phạm và có thể bị
truy cứu trách nhiệm hình sự theo tội danh tương ứng, nếu thuộc một trong các
trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi
chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích
mà còn vi phạm; do đó, các hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản, trộm cắp tài
sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản có giá trị dưới năm trăm nghìn đồng mà không
thuộc một trong các trường họp này, thì theo Bộ luật Hình sự năm 1999 không phải
là tội phạm.
Ví dụ 2: Các hành vi như cưỡng
ép kết hôn, cản trở hôn nhân tự nguyện tiến bộ, tổ chức tảo hôn hoặc tảo hôn
theo Bộ luật Hình sự năm 1985 có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội
danh tương ứng, nay theo Bộ luật Hình sự năm 1999 thì chỉ coi là tội phạm và có
thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội danh tương ứng, nếu họ đã bị
xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm. Trong trường hợp chưa bị xử
phạt hành chính về hành vi này, thì không phải là tội phạm.
Ví dụ 3: Các hành vi vi phạm các
quy định về quản lý đất đai không vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác nếu gây hậu
quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử lý hành chính theo Bộ luật Hình sự năm 1985 có
thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội "vi phạm các quy định về quản
lý và bảo vệ đất đai", (Điều 180); nay theo Bộ luật
Hình sự năm 1999 thì chỉ coi là tội phạm và có thể bị truy cứu trách nhiệm hình
sự về "tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai" (Điều
174) nếu đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm. Trong trường hợp
chưa bị xử lý kỷ luật (kể cả xử phạt vi phạm hành chính) về hành vi này, dù thuộc
một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 174 Bộ luật
Hình sự năm 1999 thì vẫn không phải là tội phạm. (Nếu vì vụ lợi hoặc động
cơ cá nhân khác, thì tuỳ từng thời điểm, từng trường hợp có thể bị truy cứu
trách nhiệm hình sự về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công
vụ quy định tại Điều 221 Bộ luật Hình sự năm 1985 hoặc Điều 281 Bộ luật Hình sự năm 1999).
4. Điểm d Mục 3 Nghị quyết số 32 của Quốc hội
quy định: "không xử lý về hình sự đối với người chưa thành niên từ đủ 14
tuổi đến dưới 16 tuổi về tội phạm có mức cao nhất của khung hình phạt đến bảy
năn tù..."; do đó, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử một vụ án
hình sự mà có bị can, bị cáo là người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16
tuổi khi phạm tội, cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Toà án cần kiểm tra xem
về tội phạm mà người chưa thành niên đó bị khởi tố, truy tố hoặc xét xử, thì Bộ
luật Hình sự năm 1999 quy định mức cao nhất của khung hình phạt là bao nhiêu
năm tù; nếu Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định mức cao nhất của khung hình phạt
đó là 7 năm tù trở xuống, thì đình chỉ điều tra vụ án hoặc đình chỉ vụ án.
5. Việc đình chỉ
điều tra vụ án, đình chỉ vụ án đối với các trường hợp nêu tại Mục 3 và Mục 4
Thông tư này được thực hiện như sau:
a. Nếu vụ án đang trong giai đoạn
điều tra, thì cơ quan điều tra áp dụng điểm c (hoặc điểm d) Mục
3 Nghị quyết số 32 của Quốc hội, Mục 3 Nghị quyết số 229 của
Uỷ ban thường vụ Quốc hội và điểm a khoản 1 Điều 139 Bộ luật tố
tụng hình sự ra quyết định đình chỉ điều tra vụ án;
b. Nếu hồ sơ vụ án đã được chuyển
đến Viện kiểm sát để quyết định việc truy tố, thì Viện kiểm sát áp dụng điểm c (hoặc điểm d) Mục 3 Nghị quyết số 32 của Quốc hội, Mục 3 Nghị quyết số 229 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội và khoản 1 Điều 143 b Bộ luật Tố tụng hình sự ra quyết định đình
chỉ vụ án;
c. Nếu vụ án đang trong giai đoạn
xét xử sơ thẩm, thì cần phân biệt như sau:
- Trong trường hợp Viện kiểm sát
có Công văn rút lại hồ sơ để điều tra bổ sung làm rõ trách nhiệm hình sự của bị
can mà Toà án xét thấy có căn cứ, thì Toà án áp dụng điểm b khoản
2 Điều 151 Bộ luật Tố tụng hình sự ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm
sát; nếu qua điều tra bổ sung thấy vẫn thuộc một trong các trường hợp nêu tại
các mục 3 và 4 Thông tư này, thì Viện kiểm sát áp dụng điểm c
(hoặc điểm d) Mục 3 Nghị quyết số 32 của Quốc hội, Mục 3
Nghị quyết số 229 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Điều 143
b Bộ luật Tố tụng hình sự ra quyết định đình chỉ vụ án và thông báo cho Toà
án biết theo quy định tại khoản 2 Điều 154 Bộ luật Tố tụng hình
sự;
- Trong trường hợp Viện kiểm sát
có Công văn (hoặc Quyết định ) rút quyết định truy tố và đề nghị Toà án đình chỉ
vụ án, thì Thẩm phán được phân công làm chủ toạ phiên toà xét xử vụ án đó áp dụng
điểm c (hoặc điểm d) Mục 3 Nghị quyết số 32 của Quốc hội, Mục 3 Nghị quyết số 229 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Điều 156 Bộ luật Tố tụng hình sự ra quyết định đình chỉ vụ án;
- Trong trường hợp Viện Kiểm sát
vẫn giữ nguyên quyết định truy tố, thì Thẩm phán được phân công làm chủ toạ
phiên toà (nếu trong thời hạn chuẩn bị xét xử) hoặc Hội đồng xét xử (nếu tại
phiên toà sơ thẩm) áp dụng điểm c Mục 3 Nghị quyết số 32 của
Quốc hội, Mục 3 Nghị quyết số 229 của Uỷ ban thường vụ Quốc
hội và điểm 2 Điều 89 Bộ luật Tố tụng hình sự ra quyết định
đình chỉ vụ án (đối với trường hợp được nêu tại mục 3 Thông tư này) hoặc áp dụng
điểm d mục 3 Nghị quyết số 32 của Quốc hội, Mục
3 Nghị quyết số 229 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, điểm 3
Điều 89 và Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự ra quyết định đình chỉ vụ án (đối
với trường hợp được nêu tại Mục 4 Thông tư này);
d. Nếu vụ án đang trong giai đoạn
xét xử phúc thẩm, thì Toà án cấp phúc thẩm phải mở phiên toà và tuỳ từng trường
hợp việc quyết định đình chỉ vụ án được thực hiện như sau:
- Đối với trường hợp được nêu tại
Mục 3 Thông tư này, thì Hội đồng xét xử áp dụng điểm c Mục 3
Nghị quyết số 32 của Quốc hội, Mục 3 Nghị quyết số 229 của
Uỷ ban thường vụ Quốc hội, điểm 2 Điều 89 và Điều 223 Bộ luật Tố
tụng hình sự quyết định huỷ bản án sơ thẩm, tuyên bố bị cáo không phải chịu
trách nhiệm hình sự và đình chỉ vụ án.
- Đối với trường hợp được nêu tại
Mục 4 Thông tư này, thì Hội đồng xét xử áp dụng điểm d Mục 3
Nghị quyết số 32 của Quốc hội, Mục 3 Nghị quyết số 229
của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội, điểm 3 Điều 89 và Điều 223 Bộ luật
Tố tụng hình sự quyết định huỷ bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án.
đ. Cần chú ý rằng việc đình chỉ
điều tra vụ án, đình chỉ vụ án được hướng dẫn tại các điểm a, b, c và d mục này
chỉ là đình chỉ đối với các trường hợp được nêu tại các Mục 3 và 4 Thông tư này
về mặt hình sự, còn các vấn đề khác như trách nhiệm bồi thường thiệt hại, xử lý
vật chứng... (kể cả việc xử lý hành chính, xử lý kỷ luật) và việc truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với các bị can, bị cáo khác trong vụ án (nếu có), thì vẫn
được giải quyết theo thủ tục chung.
6. Việc miễn chấp
hành hình phạt quy định tại mục 4 Nghị quyết số 229 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội được tiến hành theo các bước
như sau:
a. Cơ quan được giao thẩm quyền
đề nghị theo quy định tại Mục 4 Nghị quyết số 229 của Uỷ
ban thường vụ Quốc hội có trách nhiệm rà soát các đối tượng thuộc diện được miễn
chấp hành hình phạt và lập thành một danh sách. Danh sách này cần ghi rõ họ,
tên người được đề nghị miễn chấp hành hình phạt; ngày, tháng, năm sinh và nơi
cư trú của họ, tội danh và mức hình phạt đã bị Toà án xử phạt theo bản án số...,
ngày, tháng, năm. Kèm theo danh sách này là bản sao bản án, quyết định của Toà
án đã có hiệu lực pháp luật đối với mỗi một đối tượng cụ thể. Danh sách này và
các bản sao bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật được gửi kèm
theo Công văn đề nghị đến Chánh án Toà án nhân dân có thẩm quyền ra quyết định
miễn chấp hành hình phạt theo quy định tại Mục 4 Nghị quyết số
229 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội;
b. Chánh án Toà án nhân dân có
thẩm quyền ra quyết định miễn nhiệm chấp hành hình phạt xem xét và nếu thấy các
tài liệu đã đầy đủ rõ ràng, thì tuỳ từng trường hợp áp dụng điểm tương ứng Mục 4 Nghị quyết số 229 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội ra quyết
định miễn chấp hành hình phạt cho các đối tượng được đề nghị; nếu có tài liệu
nào chưa đủ hoặc có vấn đề gì chưa rõ thì yêu cầu cơ quan được giao thẩm quyền
đề nghị cung cấp tài liệu đó hoặc làm rõ thêm;
c. Bản sao quyết định miễn chấp
hành hình phạt được gửi cho đương sự, cơ quan đề nghị miễn chấp hành hình phạt,
các cơ quan liên quan để thi hành và Viện kiểm sát cùng cấp;
d. Cần chú ý là điểm
c Mục 3 Nghị quyết số 32 của Quốc hội chỉ quy định việc miễn chấp hành hình
phạt (cả hình phạt chính và hình phạt bổ sung), còn đối với các vấn đề khác đối
với họ, như trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trả lại tài sản, xử lý vật chứng....,
thì họ vẫn phải thi hành;
đ. Cần chú ý là việc miễn chấp
hành hình phạt theo các bước trên đây chỉ được tiến hành đối với người bị kết
án trước ngày công bố Bộ luật Hình sự năm 1999 (ngày 4-1-2000). Đối với các đối
tượng được nêu tại các mục 3 và 4 Thông tư này mà bị kết án kể từ ngày
4-1-2000, thì không thực hiện miễn chấp hành hình phạt đối với họ mà phải xét lại
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật đối với họ theo thủ tục giám đốc thẩm.
7. Trong trường
hợp một người bị kết án về nhiều tội (trong cùng một bản án hoặc trong nhiều bản
án), trong đó có tội mà Bộ luật Hình sự năm 1999 không quy định là tội phạm nữa,
thì việc miễn chấp hành hình phạt đối với tội này được thực hiện như sau:
a. Nếu người bị kết án chưa chấp
hành hình phạt hoặc đang chấp hành hình phạt, nhưng thời gian đã chấp hành hình
phạt chưa vượt quá mức hình phạt mà Toà án đã xử phạt đối với tội mà Bộ luật
Hình sự năm 1999 vẫn quy định là tội phạm, thì họ được miễn chấp hành toàn bộ
hình phạt đối với tội mà Bộ luật Hình sự năm 1999 không quy định là tội phạm nữa.
Ví dụ 1: Nguyễn Văn A bị toà án
xử phạt 2 năm tù về tội "vắng mặt trái phép" và 3 năm tù về tội
"làm mất vũ khí quân dụng", tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp
hành hình phạt chung là 5 năm tù; nếu Nguyễn Văn A chưa chấp hành hình phạt tù
hoặc đang chấp hành hình phạt tù, nhưng thời gian đã chấp hành hình phạt tù
chưa quá ba năm, thì Nguyễn Văn A được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt 2 năm
tù đối với tội "vắng mặt trái phép";
b. Nếu người bị kết án đã chấp
hành một phần hình phạt hoặc dang chấp hành hình phạt, nhưng thời gian đã chấp
hành hình phạt vượt quá mức hình phạt mà Toà án đã xử phạt đối với tội mà Bộ luật
Hình sự năm 1999 vẫn quy định là tội phạm, thì họ được miễn chấp hành phần hình
phạt còn lại.
Ví dụ 2: Nếu trong ví dụ 1 trên
đây của Mục này, Nguyễn Văn A đã chấp hành hình phạt tù quá 3 năm, thì Nguyễn
văn A được miễn chấp hành phần hình phạt tù còn lại.
8. Khi đình chỉ
điều tra vụ án, đình chỉ vụ án cũng như miễn chấp hành hình phạt, thì cơ quan
ra quyết định đình chỉ hay quyết định miễn chấp hành hình phạt cần giải thích
cho người được đình chỉ điều tra vụ án, đình chỉ vụ án hoặc được miễn chấp hành
hình phạt biết là việc đình chỉ hoặc miễn chấp hành hình phạt này là do chính
sách hình sự mới nhân đạo của Nhà nước ta, chứ không phải về oan sai do cơ quan
tiến hành tố tụng gây ra; do đó, họ không có quyền yêu cầu đòi bồi thường thiệt
hại theo quy định tại Điều 624 Bộ luật Dân sự.
9. Trong trường
hợp các cơ quan, tổ chức, cũng như bản thân người bị kết án đề nghị việc miễn
chấp hành hình phạt theo quy định tại Mục 4 Nghị quyết số
229 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, thì các cơ quan
Công an, Viện kiểm sát, Toà án, Tư pháp cần hướng dẫn họ làm đơn đề nghị và
cùng bản sao bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật gửi cho cơ
quan được giao thẩm quyền đề nghị theo quy định tại Mục 4
Nghị quyết số 229 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội
để tiến hành việc miễn chấp hành hình phạt theo hướng dẫn tại Mục 6 Thông tư
này.
10. Đối với
các đối tượng được nêu tại các mục 3 và 4 Thông tư này cũng như các đối tượng
thuộc diện được miễn chấp hành phạt theo quy định tại mục 4
Nghị quyết số 229 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội mà
đang bị truy nã, thì cơ quan ra quyết định đình chỉ điều tra vụ án, đình chỉ vụ
án hoặc miễn chấp hành hình phạt đồng thời phải thông báo cho cơ quan đã ra quyết
định (hoặc lệnh) truy nã biết để cơ quan này ra ngay quyết định (hoặc lệnh)
đình nã, nếu họ không bị truy nã về hành vi phạm tội khác.
11. Thông tư
này có hiệu lực kể từ ngày 27 tháng 6 năm 2000 và thay thế các văn bản trước
đây của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn về việc
thi hành Mục 3 Nghị quyết số 32 của
Quốc hội.
Trong quá trình thực hiện, nếu
có gì vướng mắc hoặc chưa được hướng dẫn, cần phải giải thích hoặc hướng dẫn bổ
sung, thì đề nghị phản ánh cho Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân
tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Công an để có sự giải thích hoặc hướng dẫn bổ sung kịp
thời.
Lê Thế Tiệm
(Đã ký)
|
Nguyễn Đình Lộc
(Đã ký)
|
Phạm Sĩ Chiến
(Đã ký)
|
Trịnh Hồng Dương
(Đã ký)
|