BỘ
NỘI VỤ - VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO - TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
*******
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
*******
|
Số:
10/TTLB
|
Hà
Nội, ngày 31 tháng 12 năm 1996
|
THÔNG TƯ
HƯỚNG DẪN XỬ LÝ CÁC HÀNH VI ĐUA XE TRÁI PHÉP
Hiện nay, tình trạng đua xe trái
phép, đặc biệt là đua xe máy, diễn ra phức tạp, gây mất trật tự công cộng, vi
phạm các quy định về trật tự, an toàn giao thông đường bộ và trật tự, an toàn giao
thông đô thị, đe dọa tính mạng, sức khỏe của con người, tài sản của cá nhân, tổ
chức hoặc Nhà nước. Trong thời gian qua việc xử lý về hình sự của các cơ quan
Công an, Viện Kiểm sát, Tòa án đối với loại vi phạm pháp luật này còn chưa thống
nhất, dẫn đến hạn chế hiệu quả của việc ngăn chặn loại vi phạm pháp luật này.
Vì vậy, Bộ Nội vụ, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao thống
nhất hướng dẫn xử lý các hành vi đua xe trái phép như sau:
I. VIỆC XỬ LÝ ĐỐI
VỚI CÁC HÀNH VI ĐUA XE TRÁI PHÉP
1 - Người đua xe trái phép
Người đua xe trái phép nói trong
thông tư này là người điều khiển xe trên đường giao thông với mục đích cùng đua
với người điều khiển xe khác mà không được phép của cơ quan có thẩm quyền. Cũng
được coi là người đua xe trái phép với vai trò đồng phạm đối với người tổ chức
(người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy) cuộc đua xe trái phép; người xúi giục (người
kích động, dụ dỗ, thúc đẩy) người khác đua xe trái phép; người giúp sức (người
tạo những điều kiện vật chất hoặc tinh thần) cho việc đua xe trái phép; người
ngồi cùng với người điều khiển xe đua trái phép mà cùng cố ý đua xe như: Trước
khi ngồi lên xe hoặc sau khi ngồi lên xe biết người điều khiển xe sẽ thực hiện
việc đua, nhưng vẫn ngồi với ý thức tham gia đua xe; trước khi ngồi lên xe hoặc
sau khi ngồi lên xe không biết người điều khiển xe sẽ thực hiện việc đua xe,
nhưng sau khi người điều khiển xe thực hiện việc đua xe thì có hành vi cổ vũ,
reo hò…
Đối với người sau khi ngồi lên xe vẫn
không biết người điều khiển xe sẽ thực hiện việc đua xe, nhưng trên đường đi
người điều khiển xe đã thực hiện việc đua xe mà người ngồi sau xe buộc phải ngồi
lại trên xe, không có hành vi cổ vũ, reo hò… thì họ không bị coi là người đua
xe trái phép.
2 - Về định tội danh
a. Mọi trường hợp đua xe trái phép
có từ 2 xe tham gia trở lên đều bị coi là hành vi gây rối trật tự công cộng và
người đua xe trái phép phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội gây rối trật
tự công cộng, theo khoản 1 Điều 198 Bộ luật hình sự.
- Người tổ chức cuộc đua xe trái
phép, người xúi giục người khác đua xe trái phép thì bị truy cứu trách nhiệm
hình sự theo khoản 2 Điều 198 Bộ luật hình sự.
b. Người đua xe trái phép nếu gây
thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe của người khác hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng
đến tài sản, mà thiệt hại xảy ra là do lỗi vô ý, thì ngoài việc bị truy cứu
trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 198 Bộ luật hình sự (nếu có hành vi tổ chức,
xúi giục thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 198 Bộ luật hình
sự) còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 186 Bộ luật hình sự.
c. Người đua xe trái phép gây thiệt
hại đến tính mạng, sức khỏe của người khác hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng đến
tài sản, mà thiệt hại xảy ra là do lỗi cố ý, thì ngoài việc bị truy cứu trách
nhiệm hình sự theo Điều 198 Bộ luật hình sự, còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự
theo điều tương ứng của Bộ luật hình sự về tội phạm khác đó (Điều 101, Điều
109, Điều 138 hoặc Điều 160).
d. Người đua xe trái phép vì mục
đích được thua bằng tiền hoặc hiện vật thì ngoài việc bị truy cứu trách nhiệm
hình sự theo khoản 1 hoặc khoản 2 Điều 198 Bộ luật hình sự còn bị truy cứu
trách nhiệm hình sự theo Điều 200 Bộ luật hình sự.
đ. Người đua xe trái phép có hành
vi chống lại người thi hành công vụ ngoài việc bị truy cứu trách nhiệm hình sự
theo khoản 2 Điều 198 Bộ luật hình sự còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội
chống người thi hành công vụ theo Điều 205 Bộ luật hình sự.
e. Người đua xe trái phép có hành
vi chống lại người thi hành công vụ làm cho người thi hành công vụ bị thương hoặc
chết thì ngoài việc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 198 Bộ luật
hình sự, căn cứ vào từng trường hợp cụ thể còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự
theo điều tương ứng (Điều 101, Điều 109) của Bộ luật hình sự.
3 - Việc xử lý xe dùng để đua trái
phép và giấy phép lái xe
a. Việc xử lý xe dùng để đua trái
phép
- Đối với xe dùng để đua trái phép
thuộc sở hữu của người đua xe thì tịch thu sung công quỹ Nhà nước (theo quy định
tại điểm a khoản 1 Điều 33 Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 Điều 58 Bộ luật tố
tụng hình sự).
- Đối với xe dùng để đua trái phép
không thuộc sở hữu, hoặc quản lý hợp pháp của người đua thì tùy từng trường hợp
cụ thể mà giải quyết như sau:
+ Nếu chủ sở hữu biết người đua xe
dùng xe của mình để đua mà vẫn cho mượn, cho sử dụng (ví dụ như xe thuộc sở hữu
của bố; mẹ và bố, mẹ cho con sử dụng; con đã dùng xe đó để đua trái phép; bố, mẹ
biết nhưng vẫn tiếp tục cho con sử dụng dẫn đến con thực hiện tiếp việc đua xe
trái phép), thì tịch thu xe sung công quỹ Nhà nước (theo quy định tại điểm b
khoản 1 Điều 33 Bộ luật tố tụng hình sự).
+ Nếu chủ sở hữu không biết người
đua xe dùng xe của mình để đua, thì trả lại xe cho chủ sở hữu (theo quy định
khoản 2 Điều 33 Bộ luật hình sự và điểm b khoản 2 Điều 58 Bộ luật tố tụng hình
sự).
+ Nếu xe dùng để đua là xe bị chiếm
đoạt, thì trả lại xe cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp (theo quy định
tại khoản 2 Điều 33 Bộ luật hình sự và điểm b khoản 2 Điều 58 Bộ luật tố tụng
hình sự).
+ Trường hợp không xác định được chủ
sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp của xe dùng để đua, thì tịch thu xe sung
công quỹ Nhà nước.
b. Về giấy phép lái xe
Trong mọi trường hợp, người đua xe
trái phép nếu đã được cấp giấy phép lái xe thì đều bị tước quyền sử dụng giấy
phép lái xe
4 - Một số vấn đề về bắt, tạm giữ,
tạm giam người đua xe trái phép và thu giữ xe đua trái phép.
Trong mọi trường hợp người đang thực
hiện hành vi đua xe trái phép phải bị bắt theo quy định tại Điều 64 của Bộ luật
tố tụng hình sự về trường hợp bắt người phạm tội quả tang. Việc bắt, tạm giữ, tạm
giam người đua xe trái phép và thu giữ xe đua trái phép phải tuân thủ các quy định
của pháp luật.
II. TRÁCH NHIỆM
CỦA CÁC CƠ QUAN CÔNG AN, VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN, TÒA ÁN NHÂN DÂN
Để góp phần vào việc đấu tranh chống
tình trạng đua xe trái phép, các cơ quan Công an, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa
án nhân dân phải kiên quyết trong việc xử lý loại vi phạm pháp luật này. Căn cứ
vào tình hình cụ thể mà xác định một số vụ đưa vào diện vụ án trọng điểm và thực
hiện theo Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 15/10/1994 của Bộ Nội vụ, Viện kiểm
sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao “Hướng dẫn việc giải quyết các vụ
án trọng điểm”.
III. HIỆU LỰC
THI HÀNH
1 - Thông tư này có hiệu lực kể từ
ngày ban hành.
2 - Đối với các hành vi đua xe trái
phép đã thực hiện trước ngày ban hành Thông tư này, nhưng việc điều tra, truy tố,
xét xử chưa kết thúc trước ngày ban hành Thông tư hoặc sau ngày ban hành Thông
tư mới điều tra, truy tố, xét xử, thì áp dụng Thông tư này khi điều tra, truy tố,
xét xử.
3 - Đối với các vụ án đã được xét xử
sơ thẩm, phúc thẩm trước ngày ban hành Thông tư này, nếu đã có kháng nghị theo
hướng tăng nặng, thì việc xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm được thực hiện theo
hướng dẫn tại Thông tư này.
4 - Đối với các bản án đã có hiệu lực
pháp luật trước ngày ban hành Thông tư này và vụ án đã được xét xử theo đúng hướng
dẫn trước đây, thì không áp dụng các hướng dẫn tại Thông tư này để kháng nghị
theo thủ tục giám đốc thẩm.
Trong quá trình thực hiện Thông tư
này, nếu thấy có vướng mắc, các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử báo cáo ngay
cho Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ để có hướng
dẫn kịp thời.