SẮC LUẬT
QUY ĐỊNH VIỆC BẮT,
GIAM, KHÁM NGƯỜI, KHÁM NHÀ Ở, KHÁM ĐỒ VẬT
HỘI ĐỒNG CHÁNH PHỦ
CÁCH MẠNG LÂM THỜI CỘNG HÒA MIỀN NAM VIỆT NAM
Căn cứ vào Nghị quyết cơ bản của Đại hội Đại
biểu quốc dân miền Nam Việt Nam ngày 8 tháng 6 năm 1969;
Để bảo đảm việc trấn áp bọn phản cách mạng và
việc trừng trị những kẻ phạm tội khác, đồng thời bảo đảm quyền tự do thân thể
nhân phẩm và quyền bất khả xâm phạm về nhà ở và về đồ vật của công dân;
Theo đề nghị của ông Bộ trưởng Bộ Nội vụ và ông
Bộ trưởng Bộ Tư pháp về quy định việc bắt giam, khám người, khám nhà ở, khám đồ
vật;
Sau khi được sự thỏa thuận của Hội đồng cố vấn
Chánh phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam,
RA SẮC LUẬT
Điều 1. Nguyên tắc chung
Việc bắt, giam, khám người, khám nhà ở, khám đồ vật
phải có lệnh viết của cơ quan có thẩm quyền, trừ trường hợp phạm tội quả tang
và trường hợp khẩn cấp quy định ở các điều 2 và 3 dưới đây.
Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan có quyền ra lệnh
bắt, giam, khám người, khám nhà ở, khám đồ vật trong những vụ án hình sự. Ủy
ban nhân dân cách mạng từ cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trở lên
là cơ quan có quyền ra lệnh bắt, giam, khám người, khám nhà ở, khám đồ vật đối
với những phần tử cần tập trung cải tạo.
Tòa án nhân dân có quyền ra lệnh bắt, giam kẻ phạm
tội trong những vụ án hình sự đang thụ lý.
Trưởng hoặc phó cơ quan an ninh từ cấp huyện, quận,
thị xã, thành phố thuộc tỉnh trở lên có quyền ra lệnh bắt, giam, khám người,
khám nhà ở, khám đồ vật của kẻ phạm tội; lệnh đó phải được sự phê chuẩn trước
của Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, nếu là vụ án hình sự, hoặc của Ủy ban nhân
dân cách mạng cùng cấp, nếu là trường hợp tập trung cải tạo.
Ủy ban nhân dân cách mạng xã, phường có nhiệm vụ
báo cáo với Viện kiểm sát nhân dân, Ủy ban nhân dân cách mạng hoặc cơ quan an
ninh huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh về những trường hợp cần bắt,
khám người, khám nhà ở, khám đồ vật. Sau khi được lệnh viết của một trong các
cơ quan nói trên, Ủy ban nhân dân cách mạng xã, phường có quyền tiến hành việc
bắt, khám người, khám nhà ở, khám đồ vật và phải dẫn ngay người bị bắt đến cơ
quan đã ra lệnh.
Điều 2. Bắt người, khám người, khám nhà ở, khám
đồ vật trong trường hợp phạm tội quả tang.
Trong trường hợp phạm tội quả tang, bất cứ công dân
nào cũng có quyền bắt và giải ngay kẻ phạm tội đến Ủy ban nhân dân cách mạng,
cơ quan an ninh, hoặc Viện kiểm sát nhân dân gần nhất.
Những trường hợp sau đây là phạm tội quả tang:
a) Đang làm việc phạm tội hoặc ngay sau khi phạm
tội thì bị phát giác.
b) Đang bị đuổi bắt sau khi phạm tội.
c) Đang bị giam giữ mà lẫn trốn.
d) Đang có lệnh truy nã.
Điều 3. Bắt người, khám người, khám nhà ở, khám
đồ vật trong trường hợp khẩn cấp.
Đội trưởng đội tuần tra của cơ quan an ninh hoặc
của quân đội, trưởng hoặc phó đồn an ninh, trưởng hoặc phó cơ quan an ninh
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, trưởng hoặc phó ban của cơ quan an
ninh từ cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trở lên, trong khi làm nhiệm
vụ, có quyền ra lệnh hoặc tự mình bắt, khám người, khám nhà ở, khám đồ vật
trong những trường hợp khẩn cấp.
Ủy ban nhân dân cách mạng xã, phường có nhiệm vụ báo
cáo với Viện kiểm sát nhân dân, Ủy ban nhân dân cách mạng hoặc cơ quan an ninh
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh về những trường hợp khẩn cấp cần bắt,
khám người, khám nhà ở, khám đồ vật. Sau khi được lệnh viết của một trong các
cơ quan nói trên, Ủy ban nhân dân cách mạng xã, phường có quyền tiến hành việc
bắt, khám người, khám nhà ở, khám đồ vật và phải dẫn ngay người bị bắt đến cơ
quan đã ra lệnh.
Những trường hợp khẩn cấp là những trường hợp sau
đây:
a) Có hành động chuẩn bị phạm tội.
b) Người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra
tội phạm chính mắt trong thấy và xác nhận đúng là kẻ phạm tội.
c) Tìm thấy chứng cứ phạm tội trong người hoặc tại
nhà ở của người tình nghi phạm tội.
d) Có hành động chuẩn bị trốn hoặc đang trốn.
đ) Có hành động chuẩn bị tiêu hủy chứng cứ hoặc
đang tiêu hủy chứng cứ, làm giả chứng cứ, có sự thông đồng giữa những kẻ phạm
tội với nhau để trốn tránh pháp luật.
e) Căn cước, lai lịch không rõ ràng.
Sau khi đã bắt, khám trong trường hợp khẩn cấp, đội
trưởng tuần tra, trưởng hoặc phó đồn an ninh và Ủy ban nhân dân cách mạng xã,
phường phải dẫn giải ngay người bị bắt đến cơ quan an ninh hoặc Viện kiểm sát
nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
Điều 4. Lập biên bản khám người, khám nhà ở,
khám đồ vật của kẻ phạm tội
Cán bộ tiến hành việc khám người, khám nhà ở, khám
đồ vật của kẻ phạm tội phải lập biên bản về việc khám xét, đọc lại cho người bị
khám xét nghe, yêu cầu họ cùng ký và trao cho họ một bản.
Nếu bắt được tang vật thì phải ghi rõ trong biên
bản và phải chuyển ngay đến cơ quan an ninh hoặc Viện kiểm sát nhân dân có thẩm
quyền; nếu cần thì phải niêm phong hoặc cử người coi giữ.
Nghiêm cấm việc tự sử dụng, lấy cắp, thay đổi, làm
mất, làm hư hỏng tang vật.
Điều 5. Tạm giam
Sau khi bắt hoặc nhận người bị bắt trong trường hợp
phạm tội quả tang hoặc trường hợp khẩn cấp, cơ quan an ninh hoặc Viện kiểm sát
nhân dân phải xét hỏi ngay. Trong hạn 3 ngày kể từ khi bắt hoặc nhận người bị
bắt, các cơ quan này phải xét, quyết định trả lại tự do, tha hẳn, tạm tha hoặc
giải người bị bắt lên cấp trên, nếu là vụ án thuộc thẩm quyền của cấp trên.
Nếu xét cần phải tạm giam thì việc tạm giam phải có
lệnh viết của Viện kiểm sát nhân dân từ cấp huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh trở lên, hoặc lệnh viết của cơ quan an ninh cấp tương đương, đã được
sự phê chuẩn trước của Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, nếu là vụ án hình sự,
hoặc của Ủy ban nhân dân cách mạng cùng cấp, nếu là trường hợp tập trung cải
tạo.
Thời gian tạm giam không được quá:
- 2 tháng đối với các vụ thường phạm mà pháp luật
quy định hình phạt từ 5 năm tù trở xuống;
- 4 tháng đối với các vụ phạm đến an ninh chánh trị
và các vụ thường phạm mà pháp luật quy định hình phạt trên 5 năm tù.
Nếu xét thật cần thiết cho cuộc điều tra thì cơ
quan ra lệnh tạm giam có thể ra hạn một hoặc hai lần nữa. Đối với những vụ án
phức tạp, cần phải điều tra lâu hơn, thì phải được sự chuẩn y của cơ quan Tư
pháp Trung ương.
Điều 6. Sử dụng biện pháp cưỡng chế
Trong khi tiến hành việc bắt, khám người, khám nhà
ở, khám đồ vật mà kẻ phạm tội kháng cự lại hoặc có hành động để trốn tránh pháp
luật thì có thể dùng biện pháp cưỡng chế thích đáng để bắt kẻ phạm tội tuân
theo pháp luật.
Điều 7. Cấm dùng nhục hình
Nghiêm cấm việc tra tấn hoặc dùng bất cứ nhục hình
nào trong khi bắt, giam, xét hỏi.
Điều 8. Xử lý những trường hợp bắt, giam, khám
người, khám nhà ở, khám đồ vật trái phép hoặc làm nhục hình
Những người bắt, giam, khám người, khám nhà ở, khám
đồ vật trái phép hoặc dùng nhục hình sẽ tùy từng trường hợp mà bị thi hành kỷ
luật hành chánh hoặc bị truy tố trước pháp luật; nếu có gây thiệt hại về vật
chất thì phải bồi thường.
Điều 9. Tổ chức thi hành
Ông Bộ trưởng Phủ Chủ tịch, ông Bộ trưởng Bộ Nội vụ
và ông Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chi tiết thi hành Sắc luật này./.
TM. HỘI ĐỒNG CÓ
VẤN
CHỦ TỊCH
Nguyễn Hữu Thọ
|
Ngày 15 tháng 5
năm 1976
TM. HỘI ĐỒNG
CHÁNH PHỦ
CHỦ TỊCH
Huỳnh Tấn Phát
|