HỘI
ĐỒNG THẨM PHÁN
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
******
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
02-/HĐTP/NQ
|
Hà
Nội, ngày 16 tháng 11 năm 1988
|
NGHỊ QUYẾT
CỦA HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
HƯỚNG DẪN BỔ SUNG NGHỊ QUYẾT SỐ 02-HĐTP NGÀY
5-1-1986
Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 5-1-1986 của Hội đồng
thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, đã hướng dẫn áp dụng một số quy định của phần
chung Bộ luật hình sự. Nói chung, nội dung của Nghị quyết này là đúng, nhưng
qua thực tiễn xét xử, Tòa án nhân dân tối cao nhận thấy cần phải hướng dẫn thêm
về các vấn đề: Phạm tội có tổ chức và tổng hợp hình phạt. Sự hướng dẫn về thi
hành án treo cũng còn có chỗ chưa chính xác, nên cần phải hướng dẫn lại.
Vì vậy, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao họp ngày 16 tháng 11 năm 1988, với sự tham gia của đại diện Bộ Tư pháp và
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, hướng dẫn bổ sung Nghị quyết số 02-HĐTP ngày
5-1-1986 về các vấn đề sau đây:
I- PHẠM TỘI CÓ TỔ CHỨC
(khoản 3 điều 17 BLHS)
Khoản 3 điều 17 Bộ luật hình sự quy định: “Phạm
tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người
cùng thực hiện tội phạm”. Do đó cần phải phân biệt phạm tội có tổ chức với những
trường hợp đồng phạm khác, vì phạm tội có tổ chức là một trong những tình tiết
tăng nặng quy định ở điều 39 Bộ luật hình sự; và đối với nhiều
tội phạm, phạm tội có tổ chức còn là một tình tiết định khung hình phạt cao
hơn. Việc xác định phạm tội có tổ chức nhiều khi còn có hậu quả là Tòa án nhân
dân cấp huyện không có thẩm quyền xét xử vụ án, và nếu khung hình phạt được áp
dụng có mức cao nhất là tử hình, thì điều 160 Bộ luật tố tụng
hình sự còn quy định là Hội đồng xét xử phải có 5 người (2 thẩm phán và 3 hội
thẩm nhân dân) và điều 37 quy định là nếu bị cáo không nhờ
người bào chữa thì Tòa án phải yêu cầu Đoàn luật sư cử người bào chữa cho bị
cáo.
Thực tiễn xét xử cho thấy do chưa có quan niệm
thống nhất cho nên một số Tòa án đã lẫn lộn phạm tội có tổ chức quy định ở khoản 3 điều 17 Bộ luật hình sự với những trường hợp đồng phạm
khác. Vì vậy để phân biệt phạm tội có tổ chức với những trường hợp đồng phạm
khác cần phải chú ý đến các vấn đề sau đây:
1- Trong phạm tội có tổ chức và những trường hợp
đồng phạm khác đều phải có từ 2 người trở lên cố ý cùng tham gia phạm tội và có
sự nhất trí của những người cùng thực hiện tội phạm. Nếu cùng thực hiện tội phạm
mà không có sự nhất trí thì không phải là đồng phạm (thí dụ: nhiều người cùng
vào hôi của ở một nhà bị cháy, nhưng không có bàn bạc trước hoặc xúi giục nhau
phạm tội).
2- Nói chung, trong các trường hợp đồng phạm những
người phạm tội thường có bàn bạc trước và sự phân công thực hiện tội phạm,
nhưng không phải bắt cứ trường hợp nào có bàn bạc trước và có phân công thực hiện
tội phạm đều là phạm tội có tổ chức, vì phạm tội có tổ chức phải có sự câu kết
chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm. Vì vậy, nếu việc thực hiện tội
phạm giản đơn, không đòi hỏi phải có sự tính toán và chuẩn bị kỹ càng, chu đáo
thì không phải là phạm tội có tổ chức. Thí dụ: Hai thanh niên muốn có tiều
tiêu, nên rủ nhau đi ăn cắp xe đạp, khi gặp người để xe sơ hở đã phân công một
người canh gác và một người lấy xe…
3- Phạm tội có tổ chức phải có sự câu kết chặt
chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm. Trong thực tế, sự câu kết này có
thể thể hiện dưới các dạng sau đây:
a) Những người đồng phạm đã tham gia một tổ chức
phạm tội như: đảng phái, hội, đoàn phản động, băng, ổ trộm, cướp… có những tên
chỉ huy, cầm đầu. Tuy nhiên, cũng có khi tổ chức phạm tội không có những tên chỉ
huy, cầm đầu mà chỉ là sự tập hợp những tên chuyên phạm tội đã thống nhất cùng
nhau hoạt động phạm tội. Thí dụ: sau khi đã hết hạn tù, một số tên chuyên trộm
cắp đã tập hợp nhau lại và thống nhất cùng nhau tiếp tục hoạt động phạm tội.
b) Những người đồng phạm đã cùng nhau phạm tội
nhiều lần theo một kế hoạch đã thống nhất trước. Thí dụ: một số nhân viên nhà
nước đã thông đồng với nhau tham ô nhiều lần; một số tên chuyên cùng nhau đi trộm
cắp; một số tên hoạt động đầu cơ, buôn lậu có tổ chức đường dây để nắm nguồn
hàng, vận chuyển, thông tin về giá cả…
c) Những người đồng phạm chỉ thực hiện tội phạm
một lần, nhưng đã tổ chức thực hiện tội phạm theo một kế hoạch được tính toán kỹ
càng, chu đáo, có chuẩn bị phương tiện hoạt động và có khi còn chuẩn bị cả kế
hoạch che giấu tội phạm. Thí dụ: Trong các trường hợp trộm cắp, cướp tài sản của
công dân mà có phân công điều tra trước về nơi ở, quy luật sinh hoạt của gia
đình chủ nhà, phân công chuẩn bị phương tiện và hoạt động của mỗi người đồng phạm;
tham ô mà có bàn bạc trước về kế hoạch sửa chữa chứng từ sổ sách, hủy chứng từ,
tài liệu hoặc làm giả giấy tờ; giết người mà có bàn bạc hoặc phân công điều tra
sinh hoạt của nạn nhân, chuẩn bị phương tiện và kế hoạch che giấu tội phạm v.v…
4- Đối với những trường hợp pháp luật quy định
phạm tội có tổ chức là tình tiết tăng nặng định khung hình phạt theo cao hơn
(xem các điều 94, 95, 96, 97, 99, 101, 112, 115, 129, 132, 134,
148, 149, 151, 152, 154, 155, 157, 166, 172, 201, 212, 226, 227, 245 Bộ luật
hình sự) thì hành vi của người phạm tội phải được xét xử theo khung đó và
không viện dẫn thêm điểm a khoản 1 điều 39 Bộ luật hình sự,
tức là phải căn cứ vào vai trò trách nhiệm và nhân thân của mỗi người phạm tội.
Nếu có nhiều tình tiết giảm nhẹ theo quy định của khoản 3 điều
38 Bộ luật hình sự thì đối với người phạm tội có tổ chức, Tòa án vẫn có thể
quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng hoặc
chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn, nhưng phải nêu rõ lý do
trong bản án.
5- Nếu xác định là phạm tội có tổ chức, nhưng
không phải là trường hợp Bộ luật hình sự quy định là tình tiết nặng định khung
hình phạt cao hơn thì Tòa án áp dụng điểm a khoản 1 điều 39 Bộ
luật hình sự và quyết định mức hình phạt nghiêm khắc hơn những trường hợp
bình thường, nhưng không được vượt quá mức cao nhất của khung hình phạt được áp
dụng. Thí dụ: đối với tội cưỡng đoạt tài sản của công dân (điều
153 Bộ luật hình sự) nếu là phạm tội có tổ chức, nhưng không có tình tiết
quy định ở khoản 2 (như chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn, gây hậu quả nghiêm
trọng khác, tái phạm nguy hiểm) thì vẫn áp dụng khoản 1 điều
153, quyết định mức án nghiêm khắc hơn những trường hợp phạm tội không có tổ
chức, nhưng hình phạt cao nhất không được vượt quá 3 năm tù.
6- Ngoài các trường hợp phạm tội có tổ chức như
đã nêu trên đây, Bộ luật hình sự còn quy định những trường hợp tổ chức thực hiện
tội phạm thành những tội danh riêng biệt. Đó là những trường hợp được quy định ở
điều 88 (tổ chức người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước
ngoài trái phép), điều 145 (tội tổ chức tảo hôn), điều 200 (tội tổ chức đánh bạc), điều 203
(tội tổ chức dùng chất ma túy). Trong những trường hợp này người phạm tội là
người đứng ra tổ chức người khác thực hiện tội phạm, đồng thời cũng có thể là
người cùng thực hiện tội phạm đó. Thí dụ: người đứng ra rủ rê, tổ chức người
khác trốn đi nước ngoài để lấy tiền, vàng…và bản thân người đó cùng với họ trốn
đi nước ngoài. Bộ luật hình sự đã quy định những trường hợp này thành những tội
riêng biệt với hình phạt riêng, nên không vận dụng thêm tình tiết tăng nặng là
phạm tội có tổ chức theo điểm a khoản 1 điều 39 Bộ luật hình sự
nữa.
II- THI HÀNH ÁN TREO
(điều 44 BLHS) (*)
Trong Nghị quyết số 02-HĐTP ngày 5-1-1986 (mục
VII) Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn là trong trường hợp
đặc biệt người được hưởng án treo đã bị tạm giam lâu thì Tòa án nhân dân có thể
miễn cho họ thời gian thử thách của án treo, nhưng sau đó tại công văn số
108-HĐNN ngày 19-6-1987, Hội đồng Nhà nước đã giải thích là trong bất cứ trường
hợp án treo nào cũng không được miễn thời gian thử thách. Vì vậy trong khi Hội
đồng thẩm phán chưa họp được, Ủy ban thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ra
Thông tư số 01-NCPL ngày 6-4-1988 hướng dẫn bổ sung về án treo.
Căn cứ vào sự giải thích của Hội đồng Nhà nước
và điều 226 của Bộ luật tố tụng hình sự đã được Quốc hội
thông qua, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn bổ sung về án
treo như sau:
1- Thời gian thử thách của án treo.
Theo điều 44 Bộ luật hình sự,
thời gian thử thách của án treo là từ 1 năm đến 5 năm và thời gian thử thách là
bắt buộc, dù người được hưởng án treo đã bị tạm giam lâu. Thông thường thì thời
gian thử thách phải bằng hoặc dài hơn mức hình phạt đã tuyên, nhưng trong bất cứ
trường hợp nào cũng không được dưới 1 năm hoặc quá 5 năm. Nếu Tòa án tuyên thời
gian thử thách dưới 1 năm hoặc trên 5 năm là trái pháp luật.
2- Cách tính thời gian thử thách
Thông tư số 01-NCPL ngày 6-4-1988 có hướng dẫn
là thời gian thử thách được tính từ ngày tuyên án treo đầu tiên, tức là tùy trường
hợp có thể là ngày tuyên án sơ thẩm, phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm. Cach tính
này nhằm giải quyết cho người bị kết án đỡ bị thiệt thòi vì việc xử phúc thẩm
hoặc giám đốc thẩm thường chậm.
Nay điều 226 quy định “Những
bản án và quyết định được thi hành là những bản án và quyết định đã có hiệu lực
pháp luật”. Do đó, từ nay thống nhất tính thời gian thử thách của án treo từ
ngày bản án có hiệu lực pháp luật. Bản án có hiệu lực pháp luật là những bản
án được quy định tại khoản 1 điều 226 Bộ luật tố tụng hình sự.
Trong khi vận dụng điểm b khoản 1 điều 226, cần chú ý là đối
với các trường hợp bản án và quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị
thì thời gian thử thách của án treo tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Thí dụ: một
người bị Tòa án cấp sơ thẩm phạt 1 năm tù nhưng cho hưởng án treo với thời gian
thử thách là 18 tháng. Bản án không bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Sau 10 ngày kể
từ ngày tuyên án sơ thẩm, bị cáo phạm tội mới. Như vậy là bị cáo phạm tội trong
thời gian thử thách của án treo. Ngược lại nếu bản án sơ thẩm đó bị kháng cáo
hoặc kháng nghị, thì không được coi bị cáo phạm tội mới trong thời gian thử
thách của án treo và do đó, khi phạt tù bị cáo về tội mới không buộc bị cáo phải
chấp hành hình phạt tù đã được hưởng án treo và tổng hợp hình phạt đó với hình
phạt tù về tội mới, nhưng cần phạt nặng hơn các trường hợp bình thường, và
trong bản án phải nêu rõ tình tiết nặng là phạm tội nhiều lần. Trong truờng hợp
này bị cáo phải đồng thời chấp hành hai hình phạt.
3- Tổng hợp hình phạt khi người được hưởng án
treo phạm tội mới trong thời gian thử thách.
a) Khoản 5 điều 44 Bộ luật hình
sự quy định: “Nếu trong thời gian thử thách, người bị án treo phạm tội mới
và bị phạt tù thì Tòa án quyết định buộc phải chấp hành hình phạt của bản án trước
và tổng hợp hình phạt của bản án mới theo quy định của khoản 2
điều 42”. “Khi xét xử một người đang chấp hành bản án mà lại phạm tội mới,
Tòa án quyết định hình phạt đối với tội mới, sau đó cộng với hình phạt chưa chấp
hành của bản án trước rồi quyết định hình phạt chung. Hình phạt chung không được
vượt mức cao nhất mà luật quy định cho loại hình phạt đã tuyên”. Vì vậy, những
trường hợp, Tòa án đã tổng hợp hình phạt của hai bản án (hình phạt tù được hưởng
án treo và hình phạt tù mới), nhưng chỉ bắt chấp hành hình phạt chung là hình
phạt của bản án mới trong khi hình phạt chung đó không vượt mức cao nhất mà luật
quy định cho loại hình phạt đã tuyên là trái pháp luật và làm cho án treo mất hết
ý nghĩa của nó. Vì vậy, phải cộng toàn bộ các hình phạt của hai bản án và quyết
định hình phạt chung theo tinh thần của khoản 5 điều 44 và khoản 2 điều 42 Bộ luật hình sự. Nếu bị cáo đã bị tạm giam thì
thời gian tạm giam về tội cũ cũng như thời gian tạm giam về tội mới được trừ
vào thời gian phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án.
Nếu hết thời gian thử thách của án treo mới phát
hiện được tội phạm xảy ra trong thời gian thử thách, mà tội này bị phạt tù
giam, thì là phạm tội trong thời gian thử thách, và tổng hợp hình phạt như đã
nói trên. Nếu người bị án đã được Tòa án cấp giấy chứng nhận đương nhiên xóa án
đối với tội cũ được hưởng án treo thì giấy chứng nhận này không còn giá trị nữa.
b) Nói chung người được hưởng án treo mà phạm tội
mới trong thời gian thử thách thì Tòa án nên phat tù giam đối với tội mới và
không cho hưởng án treo một lần nữa, vì việc phạm tội mới chứng tỏ họ đã không
chịu cải tạo tốt. Tuy nhiên, Thông tư số 01-NCPL ngày 6-4-1988 có hướng dẫn là
riêng đối với trường hợp người đã được hưởng án treo mà phạm tội mới vì vô ý,
nhưng là tội ít nghiêm trọng, có những tình tiết giảm nhẹ quy định ở điều 38 Bộ luật hình sự như gây thiệt hại… thì Tòa án có thể
phạt cải tạo không giam giữ hoặc cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội, nếu điều
luật được áp dụng có quy định hình phạt đó.
Sự hướng dẫn nói trên không thật chính xác nên cần
sữa lại là: Nếu người được hưởng án treo đã phạm tội mới, nhưng là tội ít
nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, thì có thể không phạt tù giam mà
phạt cải tạo không giam giữ (hoặc cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội đối với
quân nhân). Khoản 3 của điều 38 còn quy định là: “Khi có
nhiều tình tiết giảm nhẹ, Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp
nhất mà điều luật đã quy định hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ
hơn. Vì vậy, trong trường hợp luật đã quy định chỉ có hình phạt tù thì Tòa án
có thể phạt cải tạo không giam giữ (hoặc cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội
đối với quân nhân) hay cảnh cáo… Trong trường hợp này, người bị kết án phải chấp
hành đồng thời hai bản án.
c) Người bị phạt tù được hưởng án treo chỉ phải
chấp hành hình phạt tù nếu họ phạm tội mới trong thời gian thử thách. Do đó, nếu
họ đã bị phạt tù về một tội và đựơc hưởng án treo, nhưng trong thời gian thử
thách đối với tội này lại bị xét xử về tội phạm đã thực hiện trước khi bị xét xử
và được hưởng án treo thì tùy trường hợp mà Tòa án phạt tù họ hoặc cho họ hưởng
án treo một lần nữa. Nếu Tòa án phạt tù họ thì họ phải chấp hành đồng thời hai
bản án, trừ trường hợp bản án đã cho bị cáo hưởng án treo sai lầm nghiêm trọng
tới mức phải bị sửa chữa, hủy bỏ theo thủ tục giám đốc thẩm. Nếu Tòa án cho họ
hưởng án treo một lần nữa, thì Tòa án quyết định hình phạt tù, ấn định thời
gian thử thách của án treo, rồi tổng hợp các hình phạt của hai bản án bằng
cách: Tổng hợp các hình phạt tù thành một hình phạt chung, rồi ấn định thời
gian thử thách chung tính từ ngày bắt đầu thời gian thử thách của án treo của bản
án trước và thời gian thử thách chung không vượt quá 5 năm. Trong trường hợp việc
phạm tội của họ có nhiều tình tiết giảm nhẹ, Tòa án cũng có thể quyết định phạt
họ cải tạo không giam giữ (hoặc cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội đối với
quân nhân) hay cảnh cáo như trong trường hợp đã nêu ở điểm b trên đây và có
nghĩa là người bị kết án phải chấp hành đồng thời hai bản án.
Sự hướng dẫn trên đây về án treo thay thế cho phần
hướng dẫn về án treo trong Nghị quyết số 02-HĐTP ngày 5-1-1986 của Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao và Thông tư số 01-NCPL ngày 6-4-1988 của Tòa án
nhân dân tối cao.
III- TỔNG HỢP CÁC HÌNH PHẠT
TÙ GIAM (điều 41 BLHS)
Trong thời gian qua, đối với trường hợp bị cáo
phạm nhiều tội, một số Tòa án do chưa nắm vững quy định của Bộ luật hình sự,
nên đã quyết định hình phạt chung không phù hợp với những tội phạm mà bị cáo đã
thực hiện. Đặc biệt là có trường hợp hình phạt chung hoàn toàn không hợp lý.
Thí dụ: một bị cáo bị phạt 8 năm tù về một tội và bị phạt 3 năm tù về một tội
khác, khi tổng hợp các hình phạt Tòa án đã quyết định thu hút toàn bộ hình phạt
nhẹ hơn vào hình phạt nặng hơn, nên hình phạt chung cho cả hai tội chỉ còn có 8
năm tù, cho nên hình phạt chung này không tương ứng với toàn bộ các tội phạm mà
bị cáo đã thực hiện.
Điều 41 Bộ luật hình sự đã
quy định là “Khi xét xử một lần người phạm nhiều tội, Tòa án quyết định hình phạt
đối với mỗi tội, sau đó quyết định hình phạt chung. Hình phạt chung không được
vượt quá mức cao nhất của khung hình phạt mà luật quy định đối với tội nặng nhất
đã phạm và trong phạm vi loại hình phạt đã tuyên”. Căn cứ vào các điều 41, 42 và 43 Bộ luật hình sự, Nghị quyết số 02-HĐTP ngày
5-1-1986 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn về việc tổng
hợp hình phạt trong trường hợp bị cáo phạm nhiều tội và tổng hợp hình phạt của
nhiều bản án.
Để uốn nắn những lệch lạc của một số Tòa án
trong việc tổng hợp hình phạt đối với bị cáo phạm nhiều tội, Tòa án nhân dân tối
cao đã có Thông tư số 02-TT/TATC ngày 2-8-1988 hướng dẫn thêm về việc tổng hợp
hình phạt trong những trường hợp nói trên. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao hoàn toàn thống nhất với nội dung Thông tư đó, và hướng dẫn thêm về quyết định
hình phạt chung khi xét xử một lần bị cáo phạm nhiều tội và bị phạt tù giam như
sau:
1- Về nguyên tắc phải cộng các hình phạt mà Tòa
án đã tuyên đối với các tội phạm của bị cáo thành hình phạt chung, nếu hình phạt
chung không vượt quá mức cao nhất của khung hình phạt được áp dụng đối với tội
nặng nhất. Thí dụ: bị cáo phạm tội cướp tài sản của công dân bị phạt 8 năm tù
theo khoản 1 điều 151 Bộ luật hình sự (với khung hình phạt
là từ 3 năm đến 12 năm tù). Đồng thời y còn phạm tội trộm cắp tài sản xã hội chủ
nghĩa bị phạt 3 năm tù theo khoản 1 điều 132 Bộ luật hình sự (với
khung hình phạt là từ 6 tháng đến 5 năm tù). Trong trường hợp này thì hình phạt
chung phải là 8 năm tù cộng với 3 năm tù thành 11 năm tù, mà không thể dưới 11
năm tù.
2- Nếu cộng tất cả các hình phạt đã tuyên đối với
các tội phạm mà vượt mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội nặng nhất,
thì hình phạt chung phải là mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội nặng
nhất mà không thể thấp hơn hoặc cao hơn. Thí dụ: bị cáo bị phạt 10 năm tù về tội
cướp tài sản của công dân theo khoản 1 điều 151 Bộ luật hình sự
(với khung hình phạt là từ 3 năm tù đến 12 năm tù). Đồng thời y còn bị phạt
3 năm tù về tội hiếp dâm theo khoản 1 điều 112 Bộ luật hình sự (với
khung hình phạt là từ 1 đến 5 năm tù). Trong trường hợp nay, không thể cộng tất
cả hình phạt của 2 tội là 10 năm tù và 3 năm tù thành 13 năm tù, vì như vậy thì
hình phạt chung đó vượt quá mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội nặng
nhất là 12 năm tù. Do đó, hình phạt chung chỉ là 12 năm tù.
3- Trong trường hợp các tội của bị cáo đều bị xử
phạt theo khung hình phạt có mức cao nhất giống nhau (như: tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản xã hội chủ nghĩa theo khoản 1 điều 134 Bộ luật hình sự và
tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài xã hội chủ nghĩa theo khoản
1 điều 135 Bộ luật hình sự đều có khung hình phạt chung đó, việc quyết định
hình phạt chung cũng theo các hướng dẫn ở các điểm 1 và 2 nói trên.
Về quyết định hình phạt chung trong trường hợp bị
cáo đang phải chấp hành một bản án mà lại phạm tội mới, hoặc tổng hợp hình phạt
khác loại thì các Tòa án vẫn thực hiện theo sự hướng dẫn về tổng hợp hình phạt
trong Nghị quyết số 02-HĐTP ngày 5-1-1986 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao.
Sự hướng dẫn này của Hội đồng thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao thay thế cho Thông tư số 02-TT/TATC ngày 2-8-1988 và công văn
số 612/NCPL ngày 14-9-1979 của Tòa án nhân dân tối cao về tổng hợp hình phạt.