ỦY BAN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số:
2658/KH-GDĐT-PC
|
Thành phố Hồ Chí
Minh, ngày 26 tháng 8 năm 2015
|
KẾ HOẠCH
TỔ CHỨC LẤY Ý KIẾN NHÂN DÂN ĐỐI VỚI DỰ THẢO BỘ LUẬT HÌNH SỰ (SỬA ĐỔI)
TRONG TOÀN NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Thực hiện Nghị quyết số
972/NQ-UBTVQH13 ngày 13 tháng 7 năm 2015 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc
tổ chức lấy ý kiến Nhân dân đối với dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi);
Thực hiện Quyết định số
1076/QĐ-TTg ngày 14 tháng 7 năm 2015 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch
của Chính phủ về việc tổ chức lấy ý kiến Nhân dân đối với dự thảo Bộ luật Hình
sự (sửa đổi);
Thực hiện Quyết định số
4575/QĐ-UBND-PCNC ngày 07 tháng 8 năm 2015 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí
Minh về việc nghiêm túc thực hiện nhiệm vụ tổ chức lấy ý kiến Nhân dân đối với
dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi);
Thực hiện Công văn số 03-CV/ĐU
ngày 17 tháng 8 năm 2015 cùa Đảng ủy Sở Giáo dục và Đào tạo về thực hiện tổ chức
lấy ý kiến Nhân dân đối với dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi).
Sở Giáo dục và Đào tạo xây dựng Kế
hoạch tổ chức lấy ý kiến Nhân dân đối với dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi)
trong toàn ngành Giáo dục và Đào tạo với các nội dung như sau:
I. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU
1. Mục đích
-
Triển khai có hiệu quả Nghị quyết số 972/NQ-UBTVQH13 ngày 13 tháng 7 năm 2015 của
Ủy ban thường vụ Quốc hội về việc tổ chức lấy ý kiến Nhân dân đối với dự thảo Bộ
luật Hình sự (sửa đổi); Quyết định số 1076/QĐ-TTg ngày 14 tháng 7 năm 2015 của
Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch của Chính phủ về việc tổ chức lấy ý kiến
Nhân dân đối với dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi); Quyết định số
4575/QĐ-UBND-PCNC ngày 07 tháng 8 năm 2015 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí
Minh; Công văn số 03-CV/ĐU ngày 17 tháng 8 năm 2015 cùa Đảng ủy Sở Giáo dục và
Đào tạo
-
Phát huy quyền làm chủ, huy động trí tuệ của Nhân dân, tạo sự đồng thuận của
Nhân dân trong việc góp ý Bộ luật Hình sự (sửa đổi);
- Nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các trường, các đơn vị trực
thuộc và đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong toàn
ngành đối với việc góp ý Bộ luật Hình sự (sửa đổi).
2. Yêu cầu
-
Bám sát nội dung Nghị quyết số 972/NQ-UBTVQH13 ; Quyết định số 1076/QĐ-TTg ; Quyết
định số 4575/QĐ-UBND-PCNC ngày 07 tháng 8 năm 2015 của Ủy ban nhân dân Thành phố
Hồ Chí Minh và Công văn số 03-CV/ĐU ngày 17 tháng 8 năm 2015 cùa Đảng ủy Sở
Giáo dục và Đào tạo
-
Xác định cụ thể nội dung công việc, thời hạn hoàn thành và trách nhiệm của các
trường, các đơn vị trực thuộc trong việc triển khai lấy ý kiến Nhân dân đối với
dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi);
- Các trường, các đơn vị trực thuộc có trách nhiệm tuyên truyền, vận
động cán bộ, nhân dân tham gia đóng góp ý kiến và phản ánh trung thực, kịp thời
ý kiến đóng góp;
-
Bảo đảm sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, sự chỉ đạo chặt chẽ của lãnh đạo
Phòng, đề cao trách nhiệm của người đứng đầu trong việc lấy ý kiến Nhân dân về
dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi);
-
Việc tổ chức lấy ý kiến Nhân dân về dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi) phải được
coi là một nhiệm vụ trọng tâm cần được ưu tiên tập trung chỉ đạo thực hiện.
II. NỘI DUNG, HÌNH THỨC, ĐỐI TƯỢNG, THỜI
GIAN LẤY Ý KIẾN
1. Nội dung lấy ý kiến
-
Nội dung lấy ý kiến Nhân dân về dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi) bao gồm toàn
bộ dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi), trọng tâm là những vấn đề được xác định
trong Phụ lục I kèm theo Kế hoạch;
- Các trường, các đơn vị trực thuộc tổ chức lấy ý kiến về các nội
dung được xác định; đồng thời căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
mình, tập trung lấy ý kiến về những nội dung liên quan trực tiếp đến phạm vi,
lĩnh vực hoạt động của trường, đơn vị mình và những vấn đề mà trường, đơn vị,
ngành quan tâm hoặc về những nội dung liên quan trực tiếp đến đặc thù phát triển
kinh tế - xã hội, phong tục, tập quán ở địa phương và những vấn đề mà địa
phương quan tâm.
2. Hình thức lấy ý kiến
- Dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi) được đăng tải toàn văn trên Báo
Nhân dân, Báo Đại biểu Nhân dân, Cổng thông tin điện tử của Quốc hội, Bộ Tư
pháp, Cổng thông tin điện tử Chính phủ, Cổng thông tin điện tử của Ủy ban nhân
dân Thành phố; Các trường, các đơn vị trực thuộc đăng tải dự thảo Bộ luật Hình
sự (sửa đổi) trên Trang thông tin điện tử của trường, đơn vị mình để phục vụ
cho việc lấy ý kiến của cơ quan, đơn vị.
-
Dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi) được lấy ý kiến thông qua các hình thức:
+ Góp ý trực tiếp hoặc bằng văn bản;
+ Tổ chức hội nghị, hội thảo, tọa
đàm;
+ Thông qua Cổng thông tin điện tử
của Bộ Tư pháp; Cổng thông tin điện tử của Ủy ban nhân dân Thành phố, quận -
huyện,…; thông qua Hội nghị phổ biến, hướng dẫn góp ý dự thảo Bộ luật Hình sự
(sửa đổi); qua các phương tiện thông tin đại chúng;
+ Các hình thức phù hợp khác.
3. Đối tượng lấy ý kiến
Toàn thể cán bộ, công chức, viên
chức, người lao động và học sinh - sinh viên trong toàn ngành Giáo dục và Đào tạo
Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Thời gian lấy ý kiến
- Thời gian lấy ý kiến Nhân dân về dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi)
bắt đầu từ ngày 24 tháng 8 năm 2015 và kết thúc vào ngày 14 tháng 9 năm
2015.
- Các cơ sở giáo dục tổ chức lấy
ý kiến cán bộ, giáo viên, nhân viên và học sinh - sinh viên trong đơn vị, sau
đó gửi về Phòng Pháp chế - Sở Giáo dục và Đào tạo trước ngày 15 tháng 9 năm
2015 theo địa chỉ: số 66 - 68, Lê Thánh Tôn, Phường Bến Nghé, Quận I, Thành phố
Hồ Chí Minh hoặc qua hộp thư điện tử: phongpc.sotphcm@moet.edu.vn.
- Sau thời hạn trên, tổ chức, cá nhân tiếp tục đóng góp ý kiến đối với
dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi) thì gửi trực tiếp đến Bộ Tư pháp trước ngày
18 tháng 9 năm 2015 theo địa chỉ: 60 Trần Phú, Ba Đình, Hà Nội hoặc qua hộp thư
điện tử: boluatdansu@moj.gov.vn.
5.
Chế độ báo cáo
- Hiệu trưởng các trường và Thủ trưởng các đơn vị trực thuộc thực hiện
báo cáo việc xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện và gửi báo cáo về quá trình
tổ chức thực hiện việc lấy ý kiến vào dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi).
- Báo cáo kết quả lấy ý kiến đối với dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi)
của các trường và các đơn vị trực thuộc phải dựa trên Đề cương báo cáo theo Phụ
lục II của Kế hoạch và gửi về Phòng Pháp chế trước ngày 15 tháng 9 năm 2015.
III. PHÂN CÔNG TRÁCH NHIỆM THỰC
HIỆN
1. Phòng Pháp chế
-
Hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc các trường, các đơn vị trực thuộc về việc tổ chức lấy
ý kiến dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi);
- Tham mưu Lãnh đạo triển khai tổ chức phổ biến nội dung, cách thức lấy
ý kiến về dự thảo Bộ Luật Hình sự (sửa đổi) trong toàn ngành;
-
Tập hợp, tổng hợp kết quả lấy ý kiến về dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi) theo
báo cáo kết quả lấy ý kiến của các trường, các đơn vị trực thuộc; ý kiến của
các tổ chức, cá nhân gửi trực tiếp và qua đường bưu điện; qua Trang thông tin
điện tử; báo cáo kết quả lấy ý kiến trình Ủy ban nhân dân Thành phố.
2. Công đoàn ngành, Văn phòng
Sở, Phòng công tác HSSV, Phòng ban chuyên môn: Phối
hợp Phòng Pháp chế kiểm tra, đôn đốc việc tổ chức lấy ý kiến theo quy định.
3. Thủ trưởng các đơn vị: Phòng GD và ĐT quận -
huyện, Cao đẳng, TCCN, THPT, Trung tâm GDTX và các đơn vị trực thuộc
- Phổ biến nội dung, cách thức lấy
ý kiến về dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi) trong cơ quan, đơn thuộc thẩm quyền
quản lý;
- Tổ chức lấy ý kiến đóng góp về
dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi) của cán bộ, công chức, viên chức và người lao
động trong đơn vị mình theo hình thức thích hợp;
- Xây dựng báo cáo kết quả lấy ý
kiến về dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi) và gửi đến Bộ phận Pháp chế của đơn vị
để tổng hợp (theo Đề cương và Mẫu báo cáo theo phụ lục II gửi kèm).
Trên đây là Kế hoạch tổ chức lấy
ý kiến đối với dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi) trong toàn ngành Giáo dục và
Đào tạo của Sở Giáo dục và Đào tạo. Trong quá trình thực hiện, nếu có khó khăn,
vướng mắc, đề nghị các đơn vị kịp thời báo cáo để hướng dẫn kịp thời./.
Nơi nhận:
- Giám đốc “để báo cáo”;
- Phòng, ban cơ quan Sở;
- Sở Tư pháp;
- Phòng GĐ và ĐT quận, huyện;
- Trường cao đẳng, TCCN;
- Trường THPT; Trung tâm GDTX;
- Lưu: VP, PC.
|
KT.GIÁM ĐỐC
PHÓ GIÁM ĐỐC
Bùi Thị Diễm Thu
|
PHỤ LỤC I
CÁC VẤN ĐỀ TRỌNG
TÂM XIN Ý KIẾN NHÂN DÂN VỀ DỰ THẢO BỘ LUẬT HÌNH SỰ (SỬA ĐỔI)
1. Vấn đề trách
nhiệm hình sự của pháp nhân và loại tội pháp nhân chịu trách nhiệm hình sự
a) Về trách nhiệm hình sự của pháp
nhân
Theo quy định của Bộ luật Hình sự
(BLHS) hiện hành, việc truy cứu trách nhiệm hình sự (TNHS) chỉ đặt ra đối
với cá nhân (con người cụ thể).
Dự thảo BLHS (sửa đổi) lần này bổ
sung TNHS của pháp nhân (các điều 2, 3, 6, 8 và các điều thuộc Chương XI. Những
quy định đối với pháp nhân phạm tội).
Về vấn đề này có hai loại ý kiến:
- Loại ý kiến thứ nhất cho rằng,
cho đến thời điểm này, việc quy định TNHS của pháp nhân trong BLHS là cần thiết, vì:
Thứ nhất,
tình hình vi phạm pháp luật do pháp nhân thực hiện diễn ra phức tạp và ngày
càng nghiêm trọng, nhất là các hành vi gây ô nhiễm môi trường, buôn lậu, trốn
thuế, sản xuất, vận chuyển, buôn bán hàng giả, hàng cấm,
trốn đóng bảo hiểm cho người lao động...gây ảnh hưởng
nghiêm trọng đến môi trường sống an lành của người dân và gây
mất trật tự, an
toàn xã hội.
Thứ hai,
mặc dù chúng ta đã có chế tài xử phạt vi phạm hành chính và có quy định trong pháp luật dân sự, kinh tế để người
dân, cơ quan, tổ chức kiện đòi bồi
thường thiệt hại đối với pháp nhân có hành vi vi phạm, nhưng trên thực tế, các quy định này còn bất cập, kém hiệu quả. Điều này dẫn đến trên thực tế có tình trạng pháp
nhân coi thường pháp luật, ngang nhiên vi phạm. Mặt khác, mức phạt tiền trong Luật Xử lý vi phạm hành chính còn thấp,
chưa đủ sức răn đe. Mức tối đa áp dụng đối với pháp nhân
không vượt quá 2 tỷ đồng. Với mức phạt này, nhiều pháp nhân, nhất là các pháp
nhân là các tập đoàn lớn hoặc các công ty đa quốc gia có thể chấp nhận nộp phạt
để tiếp tục vi phạm. Hơn nữa, dưới khía cạnh bảo vệ người
dân (đối tượng bị gây thiệt hại do hành vi vi phạm của pháp nhân gây ra), thủ tục kiện đòi bồi thường thiệt hại của người dân đối với pháp nhân phức tạp, nên người
dân khó có điều kiện để bảo vệ quyền lợi của mình như: Quy
định về nghĩa vụ chứng minh thiệt hại (nguyên nhân, mức độ
thiệt hại) thuộc về bản thân bị hại, hay
quy định buộc người bị hại phải nộp một khoản tiền án phí dân sự. Khoản tiền này trong một số trường
hợp cũng là không nhỏ đối với người dân.
Thứ ba, việc quy định xử lý hình sự đối với pháp nhân là xu thế chung trên thế
giới. Hiện nay trên thế giới có 119
nước quy định TNHS đối với pháp nhân. Hiệp hội các nước Đông Nam Á là 5 nước, một nước đang xem xét quy định. Trong xu thế đó, nếu ta
không quy định TNHS của pháp nhân trong BLHS thì sẽ tạo ra sự bất bình đẳng
trong việc xử lý pháp nhân vi phạm. Cụ thể: các pháp nhân Việt Nam ra nước ngoài làm ăn mà vi phạm có thể bị truy cứu TNHS, bị phạt
rất nặng, trong khi đó, doanh nghiệp nước ngoài vào đầu tư, làm ăn tại Việt Nam
dù vi phạm đến mức nào, theo quy định hiện nay cũng chỉ bị phạt cao nhất
là 2 tỷ đồng.
Thứ tư, theo truyền thống lập pháp của ta, đối với các
vi phạm nhỏ, mức độ nguy hiểm thấp thì chúng ta xử phạt vi phạm hành chính. Đối
với các vi phạm có mức độ nguy hiểm cao thì chúng ta coi là tội phạm và áp dụng
chế tài hình sự để xử lý. Tuy nhiên, đối với hành vi luôn có mức độ nguy hiểm
cao như: phạm tội có tổ chức xuyên quốc gia, tham nhũng, rửa tiền, buôn bán người, tài trợ
khủng bố là nghĩa vụ quốc tế bắt buộc của nước ta với tư cách là quốc gia thành
viên Công ước chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, Công ước chống tham
nhũng, thành viên Nhóm Châu Á - Thái Bình Dương về phòng, chống rửa tiền (APG) thì luôn xác định là tội phạm mà không bị xử phạt hành chính. Do đó,
nếu không quy định TNHS của pháp nhân, thì không thể xử lý được các pháp nhân
khi thực hiện một trong các hành vi nêu trên.
Thứ năm, để giảm thiểu tác động tiêu cực khi áp dụng hình phạt tước giấy phép vĩnh viễn hoặc đình chỉ vĩnh viễn hoạt động của
pháp nhân, dự thảo BLHS quy định đối với pháp nhân phạm tội chủ yếu áp dụng hình
phạt tiền. Việc áp dụng hình phạt tước giấy phép hoạt động của pháp nhân chỉ đặt
ra trong hai trường hợp: (i) Pháp nhân phạm tội gây hậu quả
hoặc đe dọa gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng đến tính mạng của nhiều người, đến
môi trường và trật tự, an toàn xã hội và hậu quả gây ra không có khả năng khắc
phục trên thực tế; và (ii) Pháp nhân
sử dụng giấy phép hoặc đăng ký kinh doanh làm vỏ bọc để thực hiện một trong các
tội phạm quy định tại Điều 76 của Bộ luật này.
- Loại ý kiến thứ hai cho rằng,
không nên quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân tại thời điểm này vì:
Thứ nhất,
hiện nay chúng ta đã có các chế tài xử phạt vi phạm hành chính, hoặc cơ chế kiện
đòi bồi thường thiệt hại trong tố tụng dân sự, kinh tế để xử lý các pháp nhân
vi phạm;
Thứ hai,
theo quan niệm truyền thống lập pháp hình sự của ta thì Bộ luật hình sự chỉ
truy cứu TNHS đối với cá nhân có hành vi phạm tội; việc quy định TNHS của pháp
nhân trong Bộ luật hình sự sẽ không phù hợp với quan niệm truyền thống về khoa học luật hình sự Việt Nam của ta là chỉ truy cứu TNHS đối với cá nhân.
Thứ ba,
ngoài hình phạt tiền, việc áp dụng hình phạt tước giấy phép hoạt động đối với
pháp nhân trong một số trường hợp có thể ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao
động.
b) Loại tội mà pháp nhân phải chịu TNHS
Điều 76 của dự thảo BLHS (sửa đổi)
quy định pháp nhân phải chịu trách nhiệm hình sự về 32 tội danh, cụ thể là:
- Điều 149 (tội mua bán người); Điều 150 (tội mua bán
trẻ em);
- Điều 190 (tội
buôn lậu); Điều 191 (tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới);
Điều 192 (tội sản xuất, buôn bán hàng cấm); Điều 193 (tội tàng trữ, vận chuyển
hàng cấm); Điều 194 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả); Điều 195 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả là
lương thực, thực phẩm); Điều 196 (tội sản xuất,
buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh);
Điều 197 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi,
phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi); Điều 204 (tội trốn thuế);
Điều 207 (tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ); Điều 213 (tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc
che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán); Điều 214 (tội sử dụng thông tin
nội bộ để mua bán chứng khoán); Điều 215 (tội thao túng giá thị trường chứng
khoán); Điều 220 (tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất
nghiệp cho người lao động); Điều 221 (tội vi phạm quy định về cạnh tranh); Điều
223 (tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan); Điều 224 (tội xâm phạm quyền
sở hữu công nghiệp);
- Điều 231 (tội gây ô nhiễm môi trường);
Điều 232 (tội vi phạm quy định về xử lý chất thải nguy hại); Điều 236 (tội đưa
chất thải vào lãnh thổ Việt Nam); Điều 239 (tội huỷ hoại nguồn lợi thuỷ sản);
Điều 240 (tội huỷ hoại rừng); Điều 241 (tội vi phạm các quy định về bảo vệ động
vật thuộc danh mục loài nguy cấp, quý hiếm được ưu tiên bảo vệ);
- Điều 307 (tội vi phạm quy định về
an toàn lao động, vệ sinh lao động, về an toàn ở những nơi đông người); Điều
313 (tội tài trợ khủng bố); Điều 328 (tội sản xuất, kinh doanh thực phẩm không
đảm bảo an toàn); Điều 336 (tội rửa tiền);
- Điều 367 (tội nhận hối lộ); Điều
377 (tội đưa hối lộ);
- Điều 393 (tội không chấp hành án).
Về vấn đề này, có
hai loại ý kiến:
- Loại ý kiến thứ nhất đồng
tình với quy định của dự thảo Bộ luật và cho rằng, việc quy định diện các loại
tội mà pháp nhân phải chịu TNHS phải
tương đối bao quát đủ để xử lý các hành vi vi phạm nghiêm trọng của pháp nhân
gây thiệt hại cho kinh tế, môi trường và tính mạng, sức khỏe của con người.
Trên tinh thần đó, đồng tình với quy định của dự thảo Bộ luật.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị
đây là vấn đề mới, nên trước mắt, chỉ nên tập trung xử lý hình
sự các hành vi do pháp nhân thực hiện xảy ra tương đối phổ
biến và thật sự gây bức xúc trong nhân dân. Cụ thể là 15 tội, gồm: buôn lậu (Điều 190); trốn thuế (Điều 204); cố ý công bố thông tin
sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán (Điều 213); sử dụng
thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán (Điều 214); thao túng giá thị trường chứng
khoán (Điều 215); trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp
cho người lao động (Điều 221); gây ô nhiễm môi trường (Điều 231); vi phạm quy định
về quản lý chất thải nguy hại (Điều 232); đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam
(Điều 236); huỷ hoại nguồn lợi thuỷ sản (Điều 239); huỷ hoại rừng (Điều 240);
tài trợ khủng bố (Điều 313); rửa tiền (Điều 336); nhận hối lộ (Điều 367); đưa hối
lộ (Điều 377).
2.
Về phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên và các biện pháp
thay thế xử lý hình sự áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội.
a) Phạm vi chịu
trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên
Điều 12 BLHS hiện hành quy định: “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu
trách nhiệm hình sự về các tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt
nghiêm trọng”.
Dự thảo Bộ luật lần này (Điều 12) kế
thừa quy định của BLHS hiện hành nhưng chỉ rõ hơn những tội
phạm cụ thể mà người chưa thành niên từ đủ 14 đến dưới 16
tuổi phải chịu TNHS. Cụ thể là:
“Người từ đủ 14 tuổi trở lên,
nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu
trách nhiệm hình sự về tội giết người, tội hiếp dâm, tội hiếp dâm trẻ em, tội
cưỡng dâm trẻ em, tội cướp tài sản, tội cướp giật tài sản và tội rất
nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều sau
đây:
a) Điều 133 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác); Điều 142 (tội
cưỡng dâm);
b) Điều 168 (tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản); Điều 169 (tội
cưỡng đoạt tài sản); Điều 172 (tội trộm cắp tài sản); Điều 177 (tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng
tài sản);
c) Điều 249 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội tàng trữ, trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội
vận chuyển trái phép chất ma túy);
Điều 252 (tội mua bán trái phép chất ma túy); Điều 253 (tội chiếm đoạt chất ma túy);
d) Điều 275 (tội đua xe trái phép);
đ) Điều 294
(tội sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng cho công cụ,
thiết bị, phần mềm dùng để tấn
công mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử);
Điều 295 (tội phát tán vi rút, chương trình tin học có
tính năng gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện
điện tử); Điều 296 (tội cản trở
hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện
tử); Điều 298 (tội truy cập bất hợp
pháp vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác); Điều 299 (tội sử dụng mạng máy tính, mạng
viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản); Điều 300 (tội truy cập trái phép tài khoản ngân hàng của tổ chức, cá nhân chiếm đoạn tài sản); Điều
304 (tội thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa thông tin về tài khoản ngân hàng); Điều 305 (sản xuất
mua bán, tàng trữ, lưu hành thẻ ngân hàng giả để thực hiện hành vi chiếm đoạt
tài sản;
e) Điều 311 (tội chiếm đoạt vũ
khí quân dụng); Điều 316 (tội phá hủy công trình, phương tiện quan trọng về an
ninh quốc gia)”.
Về vấn đề này, hiện có hai loại ý kiến:
- Loại ý kiến thứ
nhất đồng tình với quy định tại Điều 12 của dự thảo BLHS (sửa đổi) vì:
Thứ nhất, theo quy định hiện hành thì diện các tội phạm mà trẻ em
phải chịu trách nhiệm hình sự là khá rộng và quan trọng hơn là quy định này không rõ ràng, minh bạch, nên bản thân các em không thể hoặc khó có thể biết được
chính xác khi nào thì hành vi bị coi là tội phạm. Điều này dẫn
đến công tác phòng ngừa không đạt hiệu quả.
Thứ hai, thực tế cho thấy, số trường hợp trẻ em từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi tự
mình thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng
là không nhiều và chủ yếu tập trung vào một số tội thuộc nhóm các tội xâm phạm
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người, các tội xâm phạm sở hữu.
Còn lại phần lớn các trường hợp khác các em tham gia thực hiện tội phạm là do bị
người lớn xúi giục, lôi kéo, mua chuộc, đe dọa,...., bản thân các em không nhận thức được một cách đầy đủ về tính chất, mức độ nguy
hiểm của loại tội phạm mà mình đã thực hiện (ví dụ: các
tội xâm phạm an ninh quốc gia, các tội phạm về kinh tế, môi trường, các tội phá
hoại hòa bình, chống loài người, tội phạm chiến tranh, ...). Vì vậy, việc xử lý
hình sự đối với các em trong những trường hợp này có phần quá nghiêm khắc và ít
có tác dụng giáo dục, phòng ngừa,
giúp các em nhận ra và sửa chữa lỗi lầm của bản thân.
Do đó, BLHS cần khoanh lại một số tội mà người chưa thành niên ở độ tuổi này hay thực
hiện và quy định rõ những tội danh cụ thể thuộc một số
nhóm tội phạm mà người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi phải chịu TNHS. như: các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm,
danh dự của con người; các tội xâm phạm sở hữu; các tội phạm về ma túy và các tội
phạm xâm phạm trật tự, an toàn công cộng.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị giữ nguyên quy định hiện
hành (Điều 12): “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi
phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội
đặc biệt nghiêm trọng”, vì nếu
quy định như dự thảo BLHS thì dễ dẫn đến bỏ lọt tội phạm.
b) Các biện pháp
thay thế xử lý hình sự áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội
BLHS hiện hành không quy định
các biện pháp thay thế xử lý hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội mà
chỉ quy định miễn TNHS đối với người
chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây hại không lớn,
có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình, cơ quan, tổ chức nhận giám sát,
giáo dục (khoản 2 Điều 69).
Dự thảo BLHS (sửa đổi) đã bổ sung các
biện pháp thay thế xử lý hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội cụ thể
là Khiển trách (Điều 91), Hòa giải tại cộng đồng (Điều 92), Giám sát, giáo dục
tại gia đình hoặc giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức (Điều 93).
Về vấn đề này có hai loại ý kiến:
- Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, việc bổ sung quy định về biện pháp
thay thế xử lý hình sự như trong dự thảo BLHS (sửa đổi) là cần thiết để tiếp tục thực hiện chủ trương nhân đạo hóa,
tăng tính hướng thiện trong chính sách xử lý hình sự theo
tinh thần Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp, nhất là đối với đối tượng cần bảo vệ đặc biệt là người chưa thành niên
theo hướng hạn chế khả năng đưa người chưa thành niên vào vòng quay tố tụng. Việc bổ sung các quy định này nhằm khắc phục bất cập của quy định hiện
hành, góp phần nâng cao hiệu quả giáo
dục tại cộng đồng đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị
giữ nguyên như quy định hiện hành (tại khoản 2 Điều 69), đồng thời cụ thể hóa
các điều kiện để được miễn trách nhiệm
hình sự đối với người chưa thành niên, giúp các cơ quan tố tụng có cơ sở pháp
lý đầy đủ, rõ ràng để áp dụng trên thực tế.
3. Việc bỏ hình
phạt tử hình ở một số tội; quy định không áp dụng hình phạt tử hình, không thi
hành án tử hình trong một số trường hợp; quy định không giảm án đối với người bị
kết án tử hình nhưng được ân giảm xuống tù chung thân.
a) Về
bỏ hình phạt tử hình đối với một số tội phạm
BLHS hiện hành quy định hình phạt tử
hình đối với 22 tội danh.
Dự thảo BLHS (sửa đối) dự kiến bỏ
hình phạt tử hình đối với 07 tội danh, cụ thể là các tội: cướp tài sản; phá huỷ
công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia; chống mệnh lệnh; đầu
hàng địch; phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược; chống loài người, tội
phạm chiến tranh (các Điều 164, 314, 404, 410, 433, 434 và Điều 435), đồng thời,
dự kiến bỏ hình phạt tử hình đối với hành vi phạm tội vận chuyển, tàng trữ trái
phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy quy định tại Điều 194 của BLHS hiện hành.
Về vấn đề này hiện có hai loại ý kiến:
- Loại ý kiến thứ nhất tán
thành phương án bỏ hình phạt tử hình đối với 07 tội danh cũng như như hành vi
phạm tội vận chuyển, tàng trữ trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy trong dự thảo
BLHS (sửa đổi) và đề nghị nếu có quy định hình phạt chung
thân không giảm án thì nên rà soát để bỏ thêm hình phạt tử hình đối với một số
tội phạm nữa, vì:
Thứ nhất,
điều này là nhằm tiếp tục thực hiện
chủ trương giảm áp dụng hình phạt tử hình theo tinh thần Nghị quyết 49 của Bộ
Chính trị về cải cách tư pháp.
Thứ hai,
đối với tội phá huỷ công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia (Điều
231 BLHS hiện hành): từ BLHS năm 1985 đến BLHS năm 1999, tội phạm này đã có sự
chuyển đổi về khách thể xâm hại từ an ninh quốc gia sang trật tự, an toàn xã hội,
và do vậy, tầm quan trọng và yêu cầu bảo vệ khách thể đối với tội này cũng đã
có sự thay đổi không còn ở mức cao như trước đây. Hơn nữa, đối tượng xâm hại của
tội này là tài sản dưới dạng các công trình, phương tiện có tầm quan trọng về
an ninh quốc gia, trước đây đều thuộc sở hữu Nhà nước nên có chính sách xử lý
nghiêm khắc hơn, nhưng nay thuộc nhiều sở hữu của các thành phần kinh tế khác
nhau mà về nguyên tắc, phải được bảo vệ như nhau theo tinh thần của Hiến pháp
năm 2013. Do vậy, hình phạt tù chung thân đối với tội phạm này là đủ nghiêm khắc.
Ngoài ra, thực tiễn cũng cho thấy, trong khoảng 10 năm trở lại đây, các Tòa án
không áp dụng hình phạt tử hình đối với những người phạm tội này. Mặt khác, việc
bỏ tử hình đối với tội danh này không bó tay chúng ta trong việc xử lý tội phạm,
bởi lẽ, trong một số trường hợp nhất định, người thực hiện hành vi phá hủy công
trình, phương tiện có tầm quan trọng về an ninh quốc gia có thể bị xử lý về các
tội phạm tương ứng trong BLHS, ví dụ: tội phá hoại cơ sở vật chất - kỹ thuật của
nước CHXHCN Việt Nam (Điều 85); tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân
(Điều 84) hoặc tội khủng bố (Điều 230a) là những tội có quy định hình phạt tử
hình.
Thứ ba, đối
với tội phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược (Điều 341 BLHS hiện hành),
tội chống loài người (Điều 342 BLHS hiện hành) và tội phạm chiến tranh (Điều
343 BLHS hiện hành): Thực tiễn thi hành BLHS cho thấy, tuy các tội danh này có
quy định hình phạt tử hình nhưng trên thực tế từ năm 1985 đến nay chưa có trường
hợp nào phạm các tội này và bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Đây là những tội
chủ yếu mang tính phòng ngừa. Hơn nữa, xu hướng quốc tế cũng đã bỏ hình phạt tử
hình đối với các tội phạm này. Liên bang Nga cũng chỉ giữ lại hình phạt tử hình
đối với tội diệt chủng - một trong số tám tội danh thuộc nhóm
các tội phá hoại hòa bình và an ninh loài người. Trong điều
kiện chúng ta đang thực hiện chủ trương của Đảng về giảm hình phạt tử hình thì
việc bỏ hình phạt tử hình đối với các tội danh này là cần thiết. Trường hợp cần
thiết có thể xử lý về một số tội danh khác có quy định hình phạt tử hình, ví dụ
như: các tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội giết người, ... Do vậy, việc bỏ
hình phạt tử hình đối với 03 tội này sẽ không ảnh hưởng nhiều đến thực tiễn đấu
tranh phòng, chống tội phạm mà lại góp phần làm giảm bớt số lượng tội danh có
quy định hình phạt tử hình trong BLHS.
Thứ tư, đối
với tội cướp tài sản (Điều 133 BLHS hiện hành): Bản chất của tội này là tước đoạt
quyền sở hữu của người khác bằng vũ lực hoặc bằng các hành động khác tấn công nạn
nhân làm cho họ không thể chống cự được. Vì vậy, trong khi thực hiện hành vi cướp
tài sản, người phạm tội có thể gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe của nạn
nhân. Tuy nhiên, mục đích của người phạm tội này là chiếm đoạt tài sản của người
khác chứ không phải là xâm phạm tính mạng, sức khỏe. Việc gây thương tích hoặc
làm chết người khi thực hiện hành vi cướp không nằm trong ý định chủ quan của
người phạm tội cướp. Hơn nữa, không phải mọi trường hợp phạm tội cướp tài sản đều
gây chết người, do vậy, việc áp dụng hình phạt tù chung thân đối với tội phạm
này là đủ nghiêm khắc cũng tương tự như trường hợp cố ý gây thương tích dẫn đến
chết nhiều người quy định tại khoản 4 Điều 104 của BLHS. Nếu chứng minh được
người phạm tội còn có ý định tước đoạt sinh mạng của nạn nhân thì có thể xử lý
về tội giết người mà hình phạt cao nhất là tử hình.
- Loại ý kiến thứ hai không đồng
tình với việc bỏ hình phạt tử hình đối với các tội: phá huỷ công trình, phương
tiện quan trọng về an ninh quốc gia; phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược;
chống loài người; tội phạm chiến tranh; cướp tài sản, vận
chuyển trái phép chất ma túy. Việc duy trì hình phạt tử hình đối với các tội
này là để bảo đảm sự răn đe, phòng ngừa chung.
b) Về quy định
không thi hành án tử hình đối với người bị kết án tử hình về một số tội phạm, nhưng sau khi bị kết án
đã khắc phục về cơ bản hậu quả do hành vi phạm tội gây ra, tích cực hợp tác với
các cơ quan chức năng trong việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc lập công lớn (Điểm
c khoản 3 Điều 39 dự thảo)
BLHS hiện hành không quy định vấn đề
này.
Dự thảo BLHS (sửa đổi) bổ sung quy định
không thi hành án tử hình đối với người bị kết án tử hình
về các tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh; tội
tham ô tài sản mà sau khi bị kết án đã chủ động khắc phục cơ bản hậu quả của tội
phạm do mình gây ra, hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện,
điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn.
Về vấn đề này có
hai loại ý kiến:
- Loại ý kiến
thứ nhất tán thành với quy định này vì:
Thứ nhất, đây là quy định nhằm hạn chế hình phạt tử hình trên thực tế, góp phần
thực hiện chủ trương của Nghị quyết 49 về giảm hình phạt tử hình.
Thứ hai, mục đích chính của quy định này là nhằm tạo cho người bị kết án tử
hình cơ hội cuối cùng để được sống nhưng phải có sự nỗ lực,
tích cực bằng những hành động cụ thể để khắc phục cơ bản hậu
quả do hành vi phạm tội gây ra, hợp tác tích cực trong việc phát hiện, khám phá
tội phạm hoặc có sự lập công lớn. Người được áp dụng quy định này vẫn phải chịu
án tù chung thân.
Thứ ba, quy định này không chỉ cho phép người bị kết án có cơ hội giữ lại mạng
sống mà còn giúp các cơ quan chức năng thu hồi lại được các tài sản bị chiếm đoạt,
bị thất thoát, lãng phí (đây là vấn đề nhức nhối hiện nay).
Thứ tư, diện đối tượng áp dụng quy định này cũng rất hẹp, chủ yếu tập trung vào
đối tượng bị kết án tử hình về một số tội mang tính kinh tế, như: sản xuất,
buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, tham ô. Quy định không áp dụng đối với
các tội xâm phạm an ninh quốc gia, xâm phạm tính mạng con người và xâm phạm trật
tự, an toàn công cộng (ví dụ: các tội ma túy, khủng bố) thì không áp dụng quy định
này.
Thứ năm, đây cũng là kinh nghiệm của Trung Quốc nhằm đấu tranh có hiệu quả đối
với tội phạm tham nhũng.
- Loại ý kiến
thứ hai không đồng tình với quy định này vì cho rằng, điều
này ở khía cạnh nào đó sẽ dễ dẫn đến cách hiểu là dùng tiền
để thoát án tử hình.
c) Về vấn đề
giảm án đối với người bị kết án tử hình được ân giảm (khoản 3 Điều 63)
BLHS hiện hành
không quy định chế định này.
Khoản 3 Điều 63 của
dự thảo BLHS (sửa đổi) quy định:
PA 1. Không áp
dụng quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này đối với trường hợp người bị kết án tử hình được ân giảm.
PA 2. Đối với người bị kết án tử hình được ân giảm hoặc
người bị kết án tử hình thuộc trường hợp quy định tại điểm c khoản 3 Điều 39 Bộ
luật này thì thời gian đã chấp hành hình phạt để được xét giảm lần đầu là 20
năm và phải bảo đảm thời hạn thực tế chấp hành hình phạt là 25 năm.
Về vấn đề này hiện có hai loại ý kiến:
- Loại ý kiến thứ nhất tán
thành với phương án 1 quy định tại khoản 3 Điều 63 của dự thảo BLHS (sửa đổi),
vì cho rằng, xét từ góc độ quyền sống của con người được quy định lần đầu tiên
trong Hiến pháp 2013 thì việc áp dụng tù chung thân không giảm án là giải pháp
có ý nghĩa lớn vì đã tạo cho người đã bị kết án tử hình một cơ hội để tiếp tục
được sống, được lao động, gặp gỡ người thân, đồng thời cũng tạo cơ hội để khắc
phục sai lầm có thể xảy ra trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đối với
người bị kết án tử hình. Những điều này sẽ không thực hiện được nếu án tử hình
được thi hành. Quy định này cũng góp phần giảm hình phạt tử hình trên thực tế,
đồng thời, đây là một bước quá độ để tiến tới việc loại bỏ hoàn toàn hình phạt
tử hình.
- Loại ý kiến thứ hai đồng
tình với phương án 2 của khoản 3 Điều 63 dự thảo BLHS (sửa đổi)và đề nghị bổ
sung quy định đối với người bị kết án tử hình được ân giảm hoặc người bị kết
án tử hình thuộc trường hợp quy định tại điểm c khoản 3 Điều 39 Bộ luật này thì
thời gian đã chấp hành hình phạt để được xét giảm lần đầu là 20 năm và phải bảo
đảm thời hạn thực tế chấp hành hình phạt là 25 năm.
d) Về quy định không áp dụng và
không thi hành án tử hình đối với người bị kết án từ 75 tuổi trở lên
BLHS hiện hành không quy định vấn đề
này.
Dự thảo BLHS (sửa đổi) bổ sung quy định
không áp dụng và không thi hành án tử hình đối với người bị kết án từ 75 tuổi
trở lên (Khoản 2, điểm b Khoản 3 Điều 39)
Về vấn đề này có hai loại ý kiến:
- Loại ý kiến thứ nhất đồng
tình với quy định này vì cho rằng, đây là một hướng góp phần giảm hình phạt tử
hình trên thực tế, đồng thời nó mang ý nghĩa nhân đạo sâu sắc, là một đặc ân của
Nhà nước đối với đối tượng người bị kết án đã đến tuổi thượng thọ, được hướng
chế độ ưu đãi của Nhà nước.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị
không nên bổ sung quy định này vì thực tế tuổi thọ trung bình nước ta đã được
nâng cao hơn trước. Mặt khác, người 75 tuổi vẫn có thể là người chỉ huy các
băng nhóm tội phạm.
4. Về chuyển đổi
hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ thành hình phạt tù có thời hạn
(Điều 35 và Điều 36 dự thảo).
BLHS hiện hành không quy định chế định
này.
Dự thảo BLHS (sửa đổi) quy định về cơ
chế chuyển đổi hình phạt tiền, cải tạo không giam giữ thành hình phạt tù, cụ thể
như sau:
- Về chuyển đổi hình phạt tiền thành
hình phạt tù có thời hạn, khoản 4 Điều 35 dự thảo quy định:
“PA 1. Khi
tuyên hình phạt tiền là hình phạt chính, Tòa án tuyên nếu trong thời hạn 06
tháng kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người bị kết án không chấp hành
thì hình phạt tiền được chuyển đổi thành hình phạt tù, đồng thời ấn định mức
phạt tù mà người đó phải chấp hành theo nguyên tắc sau:
a) Nếu khung hình phạt áp dụng không
có quy định hình phạt tù thì mức phạt tù cao nhất không quá 03 năm tù;
b) Nếu khung hình phạt được áp dụng
có quy định hình phạt tù lựa chọn với phạt tiền thì mức phạt tù cao nhất không
quá mức cao nhất của hình phạt tù tại khung hình phạt tương ứng;
c) Trường hợp người bị kết án đã chấp
hành một phần hình phạt tiền thì căn cứ vào phần hình phạt còn lại phải chấp
hành, Tòa án quyết định chuyển đổi thành mức hình phạt tù tương ứng.
Không áp dụng quy định tại khoản này
đối với pháp nhân, người bị kết án là người chưa thành niên, phụ nữ có thai hoặc
đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người già yếu, người khuyết tật nặng.
PA 2.
Không quy định khoản này”.
- Về chuyển hình phạt cải tạo không
giam giữ thành hình phạt tù có thời hạn, Khoản 5 Điều 36 dự thảo quy định:
“5. Khi tuyên hình phạt cải tạo
không giam giữ, Tòa án tuyên trong bản án trường hợp người bị kết án không thực
hiện các nghĩa vụ thì hình phạt này được chuyển thành hình phạt tù theo nguyên
tắc 03 ngày cải tạo không giam giữ bằng 01 ngày tù.
Không áp dụng quy định này đối với
người bị kết án là người chưa thành niên, phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới
36 tháng tuổi, người già yếu, người khuyết tật nặng.”
Về vấn đề này có hai loại ý kiến:
- Loại ý kiến thứ nhất tán
thành việc bổ sung cơ chế chuyển đối từ
hình phạt tiền hoặc hình phạt cải tạo không giam giữ sang hình phạt tù có thời
hạn, vì:
Thứ nhất, một trong những định hướng lớn
sửa đổi BLHS lần này là giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình
phạt cải tạo không giam giữ đối với một số tội phạm theo tinh thần Nghị quyết
49 của Đảng về cải cách tư pháp. Theo đó, dự thảo đã bổ sung hình phạt tiền, cải
tạo không giam giữ vào nhiều điều luật. Tuy nhiên, kết quả tổng kết thực tiễn
hơn 14 năm thi hành BLHS cho thấy, hình phạt tiền và hình phạt cải tạo không
giam giữ tính khả thi không cao, hiệu quả kém, vì thế đã phần nào làm giảm tính
nghiêm minh của pháp luật. Do đó, cần thiết bổ sung cơ chế chuyển phạt tiền,
hình phạt cải tạo không giam giữ thành hình phạt tù có thời hạn trong trường hợp
người bị kết án không chấp hành án để bảo đảm tăng tính răn đe,
phòng ngừa của hình phạt này. Nếu để xử lý về tội không chấp hành án thì quá
lâu và còn làm nặng thêm tình trạng của người bị kết án (đồng thời phải chấp
hành hai bản án) Việc chuyển đổi này cũng là kinh nghiệm của nhiều nước trên thế
giới.
Thứ hai,
việc quy định chuyển đổi hình phạt là nhằm bảo đảm tính khả thi của hình phạt tiền
và hình phạt cải tạo không giam giữ trên thực tế. Khi chuyển đổi thì người bị kết án phạt tiền, cải
tạo không giam giữ chỉ phải chấp hành hình phạt tù (hình phạt tiền, cải tạo không giam giữ được quy đổi). Nếu không quy định
trường hợp này, người bị kết án không chịu chấp hành án có thể bị truy tố về tội
không chấp hành án. Điều này xảy ra tình trạng cùng một
lúc người bị kết án phải đồng thời chấp hành hai loại hình phạt chính khác nhau.
- Loại ý kiến thứ hai không
tán thành với quy định việc chuyển hình phạt tiền, cải tạo không giam giữ
thành hình phạt tù vì cho rằng, không nên cùng một lúc áp dụng hai loại hình phạt
khác nhau. Nếu người bị kết án không chấp hành hình phạt sẽ bị truy tố về tội
không chấp hành án; việc chuyển đổi này sẽ làm xấu hơn tình trạng của bị cáo
(là đang từ không tước tự do là phạt tiền và cải tạo không giam giữ bị chuyển
thành hình phạt tù).
5.
Về hình phạt Trục xuất
Bộ
luật hình sự hiện hành quy định hình phạt Trục xuất vừa là hình phạt chính, vừa
là hình phạt bổ sung (Điều 28 và Điều 32 BLHS 1999). Dự thảo BLHS (Điều
32) quy định hình phạt này áp dụng theo hai phương án: Phương án thứ nhất: giữ
nguyên như BLHS hiện hành (vừa là hình phạt chính vừa là hình phạt bổ
sung); Phương án hai chỉ là hình phạt bổ sung.
Về vấn đề này hiện có hai loại ý kiến:
- Loại ý kiến thứ nhất cho rằng,
nên giữ như quy định hiện hành, theo đó, hình phạt trục xuất vừa có thể áp dụng
là hình phạt chính, có thể là hình phạt bổ sung để bảo đảm sự linh hoạt cho Tòa
án trong việc cân nhắc áp dụng hình phạt trục xuất trong từng trường hợp phạm tội
cụ thể và từng đối tượng phạm tội cụ thể.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị
chỉ nên áp dụng hình phạt này với tư cách là hình phạt bổ sung vì cho rằng, người
phạm tội (dù là công dân Việt Nam hay người nước ngoài) khi bị đưa ra xét xử tại
Tòa án Việt Nam theo pháp luật hình sự Việt Nam thì cần phải bình đẳng, trong
đó bao hàm cả sự bình đẳng về việc áp dụng loại, mức hình phạt và nghĩa vụ chấp
hành hình phạt. Sẽ bất công nếu công dân Việt Nam phạm một tội cụ thể trên lãnh
thổ Việt Nam thì phải chịu cả hình phạt chính lẫn hình phạt bổ sung và các
nghĩa vụ dân sự khác, trong khi đó, nếu đối tượng phạm tội là người nước ngoài
(cũng phạm tội đó) lại có thể chỉ bị áp dụng hình phạt trục xuất (với ý nghĩa
là hình phạt chính) mà không phải chịu thêm một nghĩa vụ nào khác. Trong khi
đó, thực tiễn cho thấy, khi công dân Việt Nam phạm tội ở nước ngoài thì thông
thường phải chấp hành xong hình phạt và các nghĩa vụ thì mới bị trục xuất.
6. Về việc thay thế tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý
kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng bằng những tội danh cụ thể trong các lĩnh vực
kinh tế
BLHS hiện hành quy định tội cố ý làm
trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng (Điều
165).
Dự thảo BLHS (sửa đổi) dự kiến cụ thể
hóa hành vi phạm tội có tính chất cố ý làm trái trong các lĩnh vực kinh tế và
quy định thành các tội danh cụ thể trong từng lĩnh vực để thay thế cho tội danh
này.
Về vấn đề này có hai loại ý kiến:
- Loại ý kiến thứ nhất đồng tình
với đề xuất như trong dự thảo BLHS (sửa đổi) vì:
Thứ nhất, để tăng cường tính minh bạch của BLHS, nhất là trong khi Việt Nam đang
trong quá trình chuyển đối cơ chế quản lý kinh tế từ cơ chế tập trung sang cơ
chế thị trường và hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, nhiều chính sách kinh
tế vừa làm vừa thử nghiệm thì việc duy trì một tội phạm với dấu hiệu cấu thành
là “cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả
nghiêm trọng” được coi như là một “trở ngại”, làm nản lòng các nhà đầu tư,
nhà quản lý. Do đó, dự thảo BLHS (sửa đổi) dự kiến chuyển dấu hiệu tội phạm của
tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm
trọng (từ cấu thành tội phạm chung) bằng cách rà soát, quy định trong các cấu
thành tội phạm cụ thể.
Thứ hai,
dự thảo BLHS (sửa đổi) không đặt vấn đề bãi bỏ tội cố ý làm trái các quy định của
Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng mà chỉ cụ thể hóa hành vi
phạm tội này thành các tội danh cụ thể trong từng lĩnh vực để bảo đảm tính công khai, minh bạch của BLHS, tránh sự tùy tiện trong
việc áp dụng BLHS để xử lý tội phạm, qua đó góp phần bảo vệ quyền con người,
quyền công dân theo tinh thần Hiến pháp mới năm 2013. Theo đó, tội cố ý
làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng
được cụ thể hóa trong 45 tội danh xâm phạm trật tự quản lý kinh tế thuộc 3 nhóm
lĩnh vực: 1) sản xuất, kinh doanh, thương mại; 2) thuế, tài chính, ngân hàng,
chứng khoán, bảo hiểm; 3) lĩnh vực kinh tế khác. Bên cạnh đó, BLHS cũng có một
số điều khoản mang tính chất ”cố ý làm trái” trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
Ngoài ra, trong chương các tội phạm về chức vụ cũng đã quy định một số tội danh
liên quan đến hành vi “cố ý làm trái” của người có chức vụ, quyền hạn như: tội
lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ; tội lạm quyền trong khi
thi hành công vụ.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị
cân nhắc chưa nên bỏ tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế
gây hậu quả nghiêm trọng, vì nếu chúng ta không lường hết được các trường hợp xảy
ra, thì có thể dẫn đến tình trạng bỏ lọt tội phạm.
7. Về việc bổ
sung trường hợp xử lý hình sự đối với người trộm cắp tài sản có giá trị dưới 2
triệu đồng
BLHS hiện hành quy định trường hợp trộm
cắp tài sản dưới 2 triệu đồng mà gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt vi
phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản
chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì vẫn bị xử lý hình sự.
Ngoài 03 trường hợp trên, dự thảo BLHS (sửa đổi) bổ sung thêm trường hợp thứ
tư là tuy tài sản
bị chiếm đoạt có giá trị dưới 2 triệu đồng nhưng đó lại là “phương tiện kiếm sống chính của người bị hại
và gia đình họ hoặc có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại
và gia đình họ” thì vẫn bị xử lý hình sự (Điểm d khoản 1
Điều 172).
Về vấn đề này có hai loại ý kiến:
- Loại ý kiến thứ nhất nhất
trí với việc bổ sung quy định này để giải quyết những bức xúc của người dân
trong thời gian vừa qua đối với những trường hợp trộm cắp tài sản có giá trị
không đến 2 triệu đồng nhưng gây ảnh hưởng lớn đến trật tự, an toàn xã hội, ảnh
hưởng nghiêm trọng đến đời sống mưu sinh hàng ngày của người dân.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị
giữ nguyên như quy định hiện hành.
8. Về việc bãi bỏ
một số tội phạm và bổ sung một số tội phạm mới
Trên cơ sở kết quả tổng kết thực tiễn
thi hành BLHS và ý kiến đề xuất của các Bộ, ngành, cơ quan, tổ chức hữu quan, dự
thảo BLHS (sửa đổi) dự kiến bãi bỏ một số tội danh và bổ sung một số tội danh mới,
cụ thể như sau:
a) Các tội danh dự kiến bãi bỏ:
Dự thảo BLHS (sửa đổi)
dự kiến bãi bỏ 05 tội danh sau đây:
- Tội hoạt động phỉ (Điều 83
BLHS hiện hành);
-
Tội tảo hôn (Điều 147 BLHS hiện
hành);
-
Tội kinh doanh trái phép (Điều 159 BLHS hiện hành);
- Tội báo cáo sai
trong quản lý kinh tế (Điều 167 BLHS hiện hành);
- Tội không chấp
hành các quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc đưa
vào cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh, quy chế hành chính (Điều 269
BLHS hiện hành).
Về vấn đề này, cơ bản các ý kiến đều
thống nhất. Tuy nhiên còn một vài tội còn có hai loại ý kiến khác nhau:
- Loại ý kiến
thứ nhất đồng tình với việc bỏ các tội danh này, vì
cho rằng, đây là những tội danh không còn phù hợp với tình
hình phát triển kinh tế - xã hội hiện nay. Hơn nữa, trên thực tế hầu như các
Tòa án chưa xét xử hoặc xét xử rất ít về các tội phạm này.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị
cân nhắc việc bỏ tội kinh doanh trái phép, tội hoạt động phỉ vì có nguy cơ bỏ lọt
tội phạm và việc giữ lại các tội này còn có ý nghĩa răn đe, phòng ngừa tội phạm.
b) Về
việc bổ sung các tội danh mới
Nhằm bảo đảm phù
hợp với Hiến pháp, đặc biệt là tạo ra cơ chế hữu hiệu để bảo vệ chế độ, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước và tổ chức, góp phần bảo
vệ trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển kinh tế thị trường
định hướng XHCN, bảo đảm mọi người được sống trong một môi trường an toàn, lành
mạnh; đồng bộ với các luật, bộ luật đã được ban hành cũng như các luật, dự luật
đang được sửa đổi, bổ sung, ban hành mới như Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi),
các luật về quyền con người, quyền công dân; đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình mới; đồng
thời thực hiện các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên, dự thảo BLHS (sửa đổi) dự kiến bổ sung 37 tội danh mới sau đây:
- Tội khiêu dâm
trẻ em (Điều 146); tội mua bán, chiếm đoạt mô, tạng, các bộ phận cơ thể người
(Điều 153);
- Tội đăng ký con
nuôi, nhận cha, mẹ, con trái pháp luật (Điều 184); tội đăng ký hộ tịch trái
pháp luật (Điều 185); tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại (Điều
189);
- Tội vi phạm quy
định về sử dụng điện (Điều 201); tội làm giả tài liệu trong hồ sơ chào bán,
niêm yết chứng khoán (Điều 216); tội trục lợi trong kinh doanh bảo hiểm (Điều
217); tội gian lận bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp (Điều 218);
- Tội gian lận bảo
hiểm y tế (Điều 219); tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất
nghiệp cho người lao động (Điều 220); tội vi phạm quy định về cạnh tranh (Điều
221); tội vi phạm quy định về hoạt động bán đấu giá tài sản (Điều 222); tội vi
phạm quy định về an toàn vận hành công trình thủy lợi, hồ chứa, liên hồ chứa,
đê điều và công trình phòng, chống thiên tai (Điều 234); tội vi phạm quy định về
bảo vệ bờ, bãi sông, các công trình về tài nguyên nước (Điều 235);
- Tội tàng trữ
trái phép cây giống cây thuốc phiện, cây côca, cây cần sa hoặc cây giống các loại
cây khác có chứa chất ma túy (Điều 245); tội vận chuyển trái phép cây giống cây
thuốc phiện, cây côca, cây cần sa hoặc cây giống các loại cây khác có chứa chất
ma túy (Điều 246); tội mua bán trái phép cây giống cây thuốc phiện, cây côca,
cây cần sa hoặc cây giống các loại cây khác có chứa chất ma túy (Điều 247); tội
chiếm đoạt cây giống cây thuốc phiện, cây côca, cây cần sa hoặc cây giống các
loại cây khác có chứa chất ma túy (Điều 248);
- Tội rải đinh hoặc
vật sắc, nhọn trên đường bộ (Điều 270); tội sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng
cho công cụ, thiết bị, phần mềm đùng để tấn công mạng máy tính, mạng viễn
thông, phương tiện điện tử (Điều 294); tội truy cập trái phép tài khoản ngân
hàng của tổ chức, cá nhân chiếm đoạt tài sản (Điều 300); tội cố ý xâm phạm, tấn
công vào trạm trung chuyển Internet quốc gia, hệ thống cơ sở dữ liệu tên miền
và hệ thống máy chủ tên miền quốc gia (Điều 301); tội sử dụng trái phép tần số
vô tuyến điện dành riêng cho mục đích cấp cứu, an toàn, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn,
quốc phòng, an ninh (Điều 302); tội cố ý gây nhiễu có hại (Điều 303); tội thu
thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa về tài khoản ngân hàng (Điều
304); tội sản xuất mua bán, tàng trữ, lưu hành thẻ ngân hàng giải để thực hiện
hành vi chiếm đoạt tài sản (Điều 305); tội thiết lập, quản trị, điều hành
website để kinh doanh trái phép tiền điện tử, dịch vụ, hàng hóa trên mạng máy
tính (Điều 306); tội cưỡng bức lao động (Điều 309); tội bắt cóc con tin (Điều
314); tội cướp biển (Điều 315);
- Tội vi phạm quy
định về giam giữ (Điều 401); tội không tôn trọng tòa án (Điều 404); tội ra mệnh
lệnh trái pháp luật (Điều 406);
- Tội thiếu trách
nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ công tác quân sự gây hậu quả nghiêm trọng (Điều
409); tội vắng mặt trái phép (Điều 416); tội chiếm đoạt hoặc hủy hoại di vật của
tử sỹ (Điều 433).
Loại ý kiến thứ nhất đồng tình với việc bổ sung các tội danh này và cho rằng, việc bổ sung
này là tương đối bao quát các lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm thực hiện chủ
trương cải cách tư pháp của Đảng, góp phần bảo vệ quyền con người, quyền công
dân, nhất là quyền về an sinh xã hội, quyền sống trong môi trường an toàn, lành
mạnh và giữ gìn trật tự an toàn xã hội.
Loại ý kiến thứ hai đề nghị
cân nhắc kỹ việc bổ sung một số tội danh, ví dụ như: tội rải đinh hoặc vật sắc, nhọn trên đường bộ; tội trục lợi
trong kinh doanh bảo hiểm.
PHỤ LỤC II
ĐỀ CƯƠNG BÁO CÁO KẾT QUẢ ĐÓNG GÓP Ý KIẾN
CỦA NHÂN DÂN ĐỐI VỚI DỰ THẢO BỘ LUẬT HÌNH SỰ (SỬA ĐỔI)
A. NỘI DUNG
CHÍNH CỦA BÁO CÁO
Báo cáo kết quả lấy ý kiến của Nhân
dân về dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi) gồm các nội dung chính được trình bày
theo bố cục sau:
I. Quá trình tổ chức lấy ý kiến đối
với dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi)
- Công tác tổ chức lấy ý kiến;
- Các hình thức tổ chức lấy ý kiến;
- Số lượt người tham gia ý kiến.
II. Đánh giá chung đối với dự thảo
Bộ luật Hình sự (sửa đổi)
Nhận xét chung về ưu điểm, nhược điểm
của toàn bộ dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi), gồm:
- Sự phù hợp của dự thảo Bộ luật Hình
sự với các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng;
- Sự phù hợp của dự thảo Bộ luật Hình
sự với Hiến pháp;
- Việc giải quyết những vấn đề bất cập,
tồn tại của thực tiễn đặt ra trong quá trình tổng kết việc thi hành Bộ luật
Hình sự;
- Phù hợp các điều ước quốc tế mà Việt
Nam là thành viên;
- Về tính dự báo và ổn định lâu dài của
dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi).
III. Ý kiến cụ thể về nội dung của
dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi)
Tham gia ý kiến vào toàn bộ dự thảo Bộ
luật Hình sự (sửa đổi), bao gồm:
1. Những sửa đổi, bổ sung của dự thảo
Bộ luật Hình sự (sửa đổi) thuộc phần chung (ý kiến cụ thể về nội dung cụ thể cần
sửa đổi, đề xuất phương án sửa đổi và lý do của việc sửa đổi);
2. Những sửa đổi, bổ sung của dự thảo
Bộ luật Hình sự (sửa đổi) thuộc phần các tội phạm cụ thể (ý kiến cụ thể về nội
dung cụ thể cần sửa đổi, đề xuất phương án sửa đổi và lý do của việc sửa đổi);
3. Những sửa đổi, bổ sung về bố cục
và kết cấu, vị trí của các chương, điều, khoản của dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa
đổi) (nêu ý kiến cụ thể và đề xuất phương án sửa đổi);
4. Về ngôn ngữ diễn đạt và kỹ thuật
xây dựng của các quy định của dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi).
IV. THAM GIA GÓP Ý KIẾN VỀ NHỮNG VẤN
ĐỀ TRỌNG TÂM ĐƯỢC XÁC ĐỊNH TẠI PHỤ LỤC I CỦA KẾ HOẠCH NÀY (Trong đó tổng hợp cụ thể số người tán thành, không tán thành đối với từng
phương án cụ thể; lý do của việc tán thành hay không tán thành) (nếu có)
1. Vấn đề trách nhiệm hình sự của
pháp nhân và loại tội pháp nhân chịu trách nhiệm hình sự.
2. Về phạm vi chịu trách nhiệm hình sự
của người chưa thành niên và các biện pháp thay thế xử lý hình sự áp dụng đối với
người chưa thành niên phạm tội.
3. Về hình phạt trục xuất.
4. Việc bỏ hình phạt tử hình ở một số
tội; quy định không áp dụng hình phạt tử hình, không thi hành án tử hình trong
một số trường hợp; quy định không giảm án đối với người bị kết án tử hình nhưng
được ân giảm xuống tù chung thân.
5. Về chuyển đổi hình phạt tiền, hình
phạt cải tạo không giam giữ thành hình phạt tù có thời hạn.
6. Về việc thay thế dấu hiệu tội phạm
của tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả
nghiêm trọng trong cấu thành của các tội phạm cụ thể.
7. Về việc xử lý hình sự đối với trường
hợp trộm cắp tài sản duoci71 2 triệu đồng.
8. Về việc bãi bỏ một số tội phạm và
bổ sung một số tội phạm mới nhằm bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ,
thúc đẩy nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện chủ
trương hội nhập quốc tế.
B. YÊU CẦU TRÌNH
BÀY ĐỐI VỚI NỘI DUNG BÁO CÁO
- Báo cáo phải tập hợp và phản ánh đầy
đủ, khách quan, trung thực các ý kiến đóng góp của các cơ quan, tổ chức, cá
nhân.
- Đối với mỗi nội dung của dự thảo được
góp ý thì cần chú thích cụ thể từng đối tượng góp ý, như là ý kiến của chuyên
gia, nhà khoa học, ý kiến của cử tri, ý kiến của cơ quan chuyên môn...