ỦY
BAN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
-------
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------
|
Số:
26/CT-UB
|
TP.
Hồ Chí Minh, ngày 21 tháng 6 năm 1984
|
CHỈ THỊ
VỀ
VIỆC HƯỚNG DẪN THI HÀNH THÔNG TƯ LIÊN NGÀNH TƯ PHÁP – NỘI VỤ - KIỂM SÁT VÀ TÒA ÁN
TỐI CAO VỀ XỬ LÝ TỘI TRỐN ĐI NƯỚC NGOÀI
Ngày 25 tháng 12 năm 1982 Liên ngành
Tư pháp - Nội vụ - Viện Kiểm sát nhân dân tối cao – Tòa án nhân dân tối cao có
ban hành Thông tư liên ngành số 03/TT-LN hướng dẫn việc xử lý trốn đi nước
ngoài nhằm khắc phục tình trạng không thống nhất giữa các địa phương trong việc
xử lý tội phạm này, do thiếu quy định cụ thể và giúp cho việc giải quyết các
trường hợp trốn đi nước ngoài được kịp thời, nghiêm minh và có tác dụng giao
dục và ngăn ngừa thực sự.
Thông tư đã xác định tính chất của
hành vi trốn đi nước ngoài, và đề ra những nguyên tắc và biện pháp xử lý loại
tội phạm này.
Để giúp ủy ban Nhân dân quận, huyện
và các ngành chức năng có liên quan thi hành thông tư này đúng với mục đích yêu
cầu đề ra, và sát hợp với đặc điểm tình hình của thành phố, ủy ban Nhân dân
thàn phố hướng dẫn thi hành cụ thể như sau :
I.- TRƯỚC HẾT CẦN XÁC ĐỊNH RÕ
TÍNH CHẤT TỘI PHẠM CỦA VIỆC TRỐN ĐI NƯỚC NGOÀI VÀ NẮM VỮNG NGUYÊN TẮC XỬ LÝ :
1. Cho đến nay còn nhiều người coi
trốn đi nước ngoài là một việc bình thường không có gì nguy hại cho xã hội.
Cần phải khẳng định và làm cho mọi
người thấy rõ đây là tội phạm nghiêm trọng. Thông tư liện ngành đã xác định rõ
“tội trốn đi nước ngoài hoặc được phép ra nước ngài rồi trốn ở lại thuộc loại
tội xâm phạm an ninh quốc gia”.
Trốn đi nước ngoài có nhiều nguyên
nhân. Có người đi vì mục đích phản cách mạng, chống đối chế độ. Có người đi vì
có tội sợ bị trừng phạt, có người trốn đi do kích động, lôi kéo hoặc do đời
sống khó khăn, tình cảm gia đình (có người thân ở nước ngoài…) mặc dù không phải
do động cơ phản cách mạng, việc trốn đi nước ngoài vô hình trung phù hợp với âm
mưu phá hoại của địch và ảnh hưởng xấu về mặt chính trị.
Cho nên, dù thực hiện dưới bất cứ
động cơ nào, hành vi trốn đi nước ngoài là một hành động pháp, một tội phạm gây
tác hại nghiêm trọng đến an ninh chính trị, trật tự xã hội và phải xử lý theo
pháp luật.
2. Nguyên tắc xử lý như nêu
trong thông tư là :
Nghiêm khắc đối với bọn phạm tội
với mục đích phản cách mạng, bọn chủ mưu, cầm đầu, tổ chức, bọn cưỡng ép, dụ dỗ,
lừa phỉnh kích động người trốn đi nước ngoài, bọn tội phạm gây hậu quả nghiêm
trọng, những cán bộ lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội nhất là các cán bộ,
chiến sĩ, các ban ngành trực tiếp bảo vê pháp luật.
Những người phạm tội vì bị dụ dỗ,
bị cưỡng ép, lừa phỉnh và những người thật thà hối cải, lập công chuộc tội, thì
được xử lý khoan hồng và nếu lập công lớn, có thể được khen thưởng.
Đối với tài sản nhất là nhà của người
phạm tội bỏ trốn đi nước ngoài mới thuộc diện xử lý.
Do đó nếu chưa xác minh rõ là ngưởi
chủ nhà (người đứng tên sở hữu) bỏ trốn đi nước ngoài thì không đặt vấn đề xử
lý theo quy định trong thông tư.
II.- VIỆC XỬ LÝ HÀNH CHÁNH, TỘI
TRỐN ĐI NƯỚC NGOÀI.
Theo tinh thần của thông tư, những
người có hành vi trốn đi nước ngoài hoặc được phép đi nước ngoài rồi trốn ở
lại, tuỳ theo tính chất, mức độ của hành vi phạm tội sẽ bị truy tố ra Toà án xét
xử hoặc bị xử phạt về hành chánh, về nhân thân và tài sản.
A. XỬ LÝ VỀ NHÂN THÂN :
Thông tư có quy định việc xử lý về
nhân thân các truờng hợp phạn pháp sau đây (điểm 1,2,3,4,5 và 6):
Truy tố ra Toà án để xét xử :
- Những người có hành vi trốn đi
nước ngoài hoặc được phép ra nước ngoài rồi trốn ở lại, có chứng cứ rõ ràng về mục
đich phản cách mạng.
- Những người phạm tội không phải
vì mục đích phản cách mạng nhưng trường hợp phạm tội nghiêm trọng có những tình
tiết như :
+ Chủ mưu, cầm đầu, tổ chức trốn
đi nước ngoài.
+ Cưỡng ép, dụ dỗ, lừa phỉnh, kích
động người khác trốn đi nước ngoài.
+ Tái phạm, phạm tội gây hậu quả
nghiêm trọng.
+ Tổ chức đưa đón người trốn đi nước
ngoài để mưu lợi, dù họ có trốn đi hay không (công phạm).
+ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để
nhận tiền hoặc vật chất tạo điều kiện cho người khác trốn đi nước ngoài.
- Trốn đi nước ngoài có kèm theo
tội phạm khác như: giết người, cướp tàu thuyền, cướp tài sản, chống trả người đang
thi hành nhiệm vụ…
- Giả tạo việc tổ chức trốn đi nước
ngoài để lừa đảo, cướp của giết người, hiếp dâm…
Xử lý bằng biện pháp hành chánh (tập
trung cải tạo, cưỡng bức lao động, quản chế, bắt buộc cư trú hoặc cấm cư trú ở
một số địa phương nhất định…) những người phạm tội không gây hậu quả nghiêm
trọng và thấy không cần phải truy tố ra Toà án xét xử.
Những người trốn đi nước ngoài chỉ
vì dụ dỗ, lừa phỉnh, lầm đường, bị cưỡng ép, sau khi bị phát hiện đã thành thật
khai báo thì tuỳ trường hợp có thể được tha miễn hình phạt hoặc miễn trách hiệm
hình sự.
Giải thích và tha về địa phương để
chánh quyền và nhân dân quản lý giáo dục những người già đi theo con cái, những
trẻ em đi theo người lớn (điểm 7 của thông tư).
Căn cứ vào tinh thần thông tư và
nguyên tắc xử lý nêu trên, các trường hợp sau đây chưa nêu rõ trong thông tư sẽ
xử lý như sau :
1. Trường hợp cha mẹ, thân nhân tạo
điều kiện cho con cái, người trong gia đình trốn đi :
Theo tinh thần thông tư người tổ
chức đưa đón hoặc giúp đỡ tạo điều kiện cho người khác trốn đi nước ngoài dù họ
có trốn đi hay không trốn cũng coi như đồng phạm.
Như vậy cha mẹ, thân nhân có giúp
đỡ, tạo điều kiện cho con cái, người thân trong gia đình trốn đi dù họ có thực
hiện với động cơ, mục đích nào có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Do đó, trường hợp có bằng chứng rõ
ràng cha mẹ hoặc người trong gia đình tham gia vào hành động phạm pháp có những
tình tiết nghiêm trọng phải truy tố theo quy định trong thông tư, đối với những
trường hợp khác trước mắt không xử lý về hình sự nhưng xuyên qua tổ dân phố,
hoặc đoàn thể phường, xã, Ủy ban nhân dân phường, xã có hình thức thích hợp
giáo dục, giải thích cho họ thấy sai và có nhận thức đúng về tính chất của hành
vi phạm pháp của họ.
2. Cán bộ công nhân viên chức bỏ
công tác trốn đi nước ngoài.
Ngoài tội trốn đi nước ngoài, họ
còn phạm tội đào nhiệm (nếu không có phạm tội gì khác nữa).
Nếu xét không cần truy tố ra tòa
án, thì thi hành kỷ luật hành chánh và áp dụng biện pháp xử lý theo điều 6 của thông
tư cho thích hợp tuỳ theo mức độ phạm tội.
Cơ quan đơn vị cũ không được thu
nhận họ trở lại làm việc trừ trường hợp đặc biệt vận dụng chính sách hoặc có yêu
cầu về chuyên môn, kỹ thuật và trong trường hợp này phải được sự ccấp thuận của
Ủy ban Nhân dân thành phố.
3. Những người đi nước ngoài không
theo thủ tục xuất cảnh bình thường nhưng không đi được :
Do tính chất đặc biệt của trường
hợp này, trong khi chờ chủ trương giải quyết của Hội đồng Bộ trưởng, chúng ta không
đặt vấn đề đưa ra xử lý về nhân thân loại đối tượng này, các quận huyện nên cho
đăng ký hộ khẩu ở thành phố, cho họ làm ăn sinh sống bình thường trừ những phần
tử phức tạp phải điều chỉnh dân cư thì buộc họ cư trú ở một nới khác trong phạm
vi thành phố.
4. Người bị lừa gạt trong vụ trốn
đi nước ngoài :
Ở thành phố lẻ tẻ các nơi có nhiều
người muốn đi nước ngoài, lầm đóng tiền, vàng cho bọn lợi dụng giả danh người
tổ chức vượt biên, nay tố cáo bọn lừa đảo. Về mặt hình sự kẻ lừa đảo phải bị
truy tố về tội này. Người bị lừa đảo có khi chỉ là nạn nhân của bọn xấu (trước
chưa có ý định trốn). Do đó nói chung đối với họ, ta không truy cứu trách nhiệm
hình sự trừ trường hợp có động cơ phản cách mạng hoặc phạm tội khác ; chỉ cần
giáo dục, giải thích.
Tiền, vàng của người bị lừa đảo đã
đưa cho người lừa đảo thì tùy mức độ phạm tội của từng trường hợp cụ thể mà tịch
thu toàn bộ; một phần hoặc trả lại cho họ.
5. Trong việc áp dụng các biện pháp
hành chánh xử lý nhân thân người vi phạm quy định ở điều 6 của thông tư cần
nhận thức đây là những người có liên quan trong vụ án mà không cần thiết phải
tuy tố, chỉ cần xử phạt về hành chánh, cho nên việc áp dụng biện pháp “tập trung
cải tạo” nếu xét cần thiết, phải bảo đảm đúng tiêu chuẩn, đúng thủ tục hồ sơ,
xét duyệt quy định trong Nghị quyết số 49/NQ-TVQH ngày 20-6-1961 của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội, thông tư số 121/CP ngày 9-8-1981 và quyết định số 154/CP ngày
1-10-1973 của Hội đồng Chánh phủ.
- Về việc áp dụng biện pháp “bắt
buộc cư trú” cho những người trốn đi nước ngoài gốc ở thành phố bị các tỉnh bắt
và trả tự do vế thành phố, tuỳ trường hợp cụ thể có thể xét không cho ở chỗ cũ,
bắt buộc họ cư trú ở một nơi khác thuộc các huyện ngoại thành hoặc cấm cư trú ở
một số khu vực trong thành phố theo quy định của Ủy ban Nhân dân thành phố.
- Việc áp dụng hình thức “cưỡng bức
lao động đối với người trong độ tuổi lao động mà không chịu lao động” phải bảo
đảm đúng đối tượng, tiêu chuẩn và thẩm quyền theo quy định hiện hành của Nhà
nước và của Ủy ban Nhân dân thành phố.
- Đối với những trẻ chưa thành niên
nhưng đã 16 tuổi. Theo thông tư hướng dẫn, trẻ em đi theo người lớn thì được
tha về điạ phương.
Nhưng có trường hợp trẻ em trên 16
tuổi, có ý thức rõ ràng về hành vi của mình, theo luật hình sự phải chịu trách
nhiệm hình sự về những tội không nghiêm trọng, do đó phải đưa ra xử phạt về
hành chánh.
Tuy vậy, số trẻ em này chưa đủ 18
tuổi (tuổi lao động) nên không thể áp dụng hình thức tập trung cải tạo hoặc bắt
buộc lao động mà cần thực hiện các biện pháp giáo dưỡng như: đưa vào trường công
nông nghiệp, trường giáo dục thiếu niên chậm tiến hoặc cải tạo ở điạ phương có
sự bão lãnh của gia đình.
B. XỬ LÝ TÀI SẢN :
Việc xử lý tài sản của người trốn
đi nước ngoài là vấn đề hết sức phức tạp nhất là đối với nhà cửa.
Điều 8 của Thông tư liên ngành xác
định rõ: “cần phân biệt và hết sức thận trọng trong việc xử lý tài sản của người
trốn đi nước ngoài”.
Thận trọng trong việc xử lý là phải
phân biệt những tài sản là tang vật có liên quan đến vụ phạm pháp có giá trị là
chứng cứ của vụ án với những tài sản, vật dùng riêng của người phạm pháp không
có liên quan, để thu giữ và giải quyết đúng pháp luật.
Hướng xử lý tài sản quy định trong
điểm 8 của thông tư này là :
- Tịch thu những phương tiện, vật
dụng dùng để trốn đi như xe, tàu thuyền, vũ khí, chất nổ, dụng cụ đi biển…
- Nếu tài sản do chúng chiếm đoạt
của cơ quan, đơn vị, hợp tác xã… thì trả lại cho các nơi đó.
- Nhà ở, đồ dùng riêng của người
trốn thoát, nếu không có thân nhân quản lý hợp pháp và xác đinh rõ là vắng chủ thì
Nhà nước giao cho cơ quan có thẩm quyền quản lý để sử dụng vào việc công ích.
- Đối với nhà ở đồ dùng của người
trốn đi bắt lại thì tuỳ mức độ nguy hiểm của trường hợp phạm tội mà xét trả lại
hoặc tịch thu một phần, để cho họ có chỗ ở và phương tiện tiếp tục làm ăn sinh
sống khi được tha về.
- Xử lý theo thể lệ hiện hành của
Nhà nuớc đối với vàng, bạc, kim khí quý, ngoại tệ, tiền ngân hàng Nhà nước…
Căn cứ theo quy định trên, tài sản
nhà ở liên quan đến người đi nước ngoài trong một số trường hợp cụ thể của thành
phố sẽ xử lý như sau :
a) Đối với nhà của người trốn đi
nước ngoài và trốn thoát :
1- Nhà của người trốn đi nước ngoài,
sau khi đã xác minh đúng là chủ đã trốn đi nước ngoài và không có thân nhân
quản lý hợp pháp (cha, mẹ, vợ, chồng, con) nhà đó thì Ủy ban Nhân dân thành phố
sẽ ra quyết định quản lý và giao cho cơ quan nhà đất thành phố quản lý, lập
phương án sử dụng trình Hội đồng phân phối nhà của thành phố.
2- Nhà của người trốn đi còn cha,
mẹ, con, vợ hoặc chồng hợp pháp ở lại thành phố, trước đây đã ở trong nhà ấy
nhưng không có sự ủy quyền hợp pháp của người bỏ trốn. Trong trường hợp này, Nhà
nước quản lý nhà và những người còn ở lại nêu trên được tiếp tục ở và không được
mua bán, chuyển nhượng vì nhà này thuộc diện Nhà nước quản lý.
Những thân nhân không phải là cha,
mẹ, vợ, chồng con của người trốn đi mà trước đây cũng ở chung với chủ nhà nay
còn ở lại nếu họ không có nơi nào khác để ở thì sẽ được xếp một diện tích hợp
lý cho ở trong nhà cũ hoặc một nơi khác nếu thấy cần thiết.
3- Nhà của người trốn đi nước ngoài
đã để cho con cái ở hoặc cho thuê từ trước (nhà vẫn do cha mẹ đứng tên sở hữu)
: Nếu hai vợ chồng chủ nhà đều trốn đi nước ngoài, nhà thuộc diện Nhà nước quản
lý ví vắng chủ. Người con được tiếp tục ở nhưng theo chế độ thuê nhà của Nhà
nước, và có thể được bố trí ở một nơi khác nếu cần thiết.
Nếu là nhà cho thuê thì người thuê
được xét cho tiếp tục thuê theo chế độ thuê nhà của Nhà nước.
4- Nhà để cho con ở hoặc cho thuê
nhưng người con hoặc người thuê nhà trốn đi nước ngoài :
Trong trường hợp này, người sở hữu
còn lại, Nhà nước không quản lý mà giao trả lại nhà cho chủ, nếu nhà không thuộc
diện cải tạo và chủ nhà không bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong vụ trốn
này.
5- Nhà thuộc diện cộng đồng sở hữu
(của 2 vợ chồng hoặc của nhiều người) hoặc là nhà di sản chưa chia mà trong số
đồng sở hữu, đồng thừa kế có một hay nhiều người bỏ trốn đi nước ngoài:
Nhà nước quản lý phần của số người
đi vắng. Những người còn lại nếu đang ở nhà đó thì được tiếp tục ở, nếu muốn
bán, chuyển nhượng thì chỉ được quyền bán, chuyển nhượng phần nhà thuộc phần
mình được hưởng theo quy định về phần chia nhà và mua bán nhà.
6- Nhà của người trốn đi đã cho,
bán, chuyển nhượng cho người khác trước khi bỏ trốn :
Nếu việc mua bán, chuyển nhượng một
cách bình thường, hợp pháp, thủ tục hoàn tất, thì không thành vấn đề phải xử
lý, vì đây không còn là tài sản của người trốn đi.
Nói chung, nếu việc mua bán, chuyển
nhượng chưa xong, chưa hoàn tất thủ tục thì nhà này vẫn coi là nhà của người
chủ cũ và thuộc diện phải xử lý.
Nếu mua bán trước ngày ban hành Nghị
định 02/CP ngày 4.1.1979 của Hội đồng chánh phủ có chứng nhận của chánh quyền,
và qua xác minh đã có thực tế mua bán, bên bán đã nhận tiền, bên mua đã đến ở
từ đó đến nay hoặc nếu việc mua bán xảy ra sau ngày ban hành Nghị định 02/CP và
đã được cơ quan có thẩm quyền cho phép (Ủy ban Nhân dân quận, huyện, Sở Quản lý
nhà đất) nhưng chưa làm thủ tục trước bạ sang tên, nếu có lý do chính đáng, Ủy
ban Nhân dân thành phố căn cứ ý kiến đề xuất của Sở Quản lý nhà đất sẽ xem xét
giải quyết cho tiếp tục làm thủ tục hay không.
7- Nhà có người khác đến ở trước
ngày chủ nhà bỏ trốn đi không lâu :
Nhà này coi là nhà vắng chủ, Nhà
nước quản lý. Cơ quan quản lý nhà sẽ xét hoàn cảnh của người đến ở để đề nghị Ủy
ban Nhân dân quận huyện hoặc thành phố cho tiếp tục ở hay không cho. Nếu có ý
gian dối muốn chiếm nhà, làm chuyện đã rồi thì sẽ bị xử lý theo quy định hiện hành
về quản lý nhà của Nhà nước.
b) Đối với nhà ở, đồ dùng của người
trốn đi nước ngoài bị bắt lại :
Trường hợp người trốn đi nước ngoài
bị bắt lại, nhưng không bị truy tố ra toà án mà chỉ đưa ra xử phạt về hành
chánh thì tuỳ theo tính chất, mức độ của hành vi phạm pháp mà có thể xét trả
lại cho họ nhà của họ hoặc tịch thu một phần để cho họ có chỗ ở và phương tiện
sinh sống khi được tha về.
Những người là thân nhân đi theo
và được tha về địa phương thì Ủy ban Nhân dân quận huyện xét bố trí cho họ một chỗ
ở tạm, xét trả lại cho họ một số tư liệu sinh hoạt để cho họ có điều kiện sinh
sống.
- Những người được xử lý khoan hồng
được cho ở lại thành phố tha về địa phương quản lý giáo dục thì được xét trả
lại nhà ở, đồ dùng trong nhà.
- Trường hợp người trốn đi bị các
tỉnh bắt và được tha về thành phố, nếu nhà cửa của họ chưa phân phối cho ai sử
dụng thì xét trả lại toàn bộ hoặc một phần như quy định trong thông tư.
Nếu nhà của người trốn đi nước ngoài
đã được cơ quan có thẩm quyền quản lý và phân phối cho cán bộ công nhân viên
hoặc cơ quan sử dụng thì tạm thời sắp xếp cho người được tha về địa phương cũ
một chỗ khác. Nếu có một nhà khác để bố trí cho người được phân phối nhà, thì
mới đặt vấn đề trả lại nhà cũ cho đương sự. Nếu nhà cũ của người trốn đi thuộc
diện Nhà nước quản lý hoặc xử lý theo chính sách theo quyết định số 111/CP ngày
14.4.1977 của Hội đồng Chính phủ thì bố trí cho họ một diện tích khác ở theo
tiêu chuẩn chung.
Truờng hợp người đi nước ngoài khôn
theo thủ tục bình thường nêu ở điểm 3 mục A xử lý nhân thân, không đi được, trở
về thành phố thì xét trả lại nhà cũ nếu có điều kiện hoặc thu xếp cho họ một
chỗ ở nơi nhà khác.
c) Trường hợp nhà của người đi vắng
(nghi là vượt biên) :
Nếu chưa xác định rõ là vắng chủ
(người đứng tên sở hữu nhà trốn đi nước ngoài) thì không đặt vấn đề xử lý.
Trường hợp có nghi vấn là trốn đi
nước ngoài và nhà đó không còn thân nhân của người đi vắng ở thì Ủy ban Nhân dân
phường xã tiến hành lập biên bản, niêm phong và bảo quản để xác minh lại, báo
cáo kịp thời lên Ủy ban Nhân dân thành phố chờ quyết định. Cấp phường xã, quận
huyện không được tự tiện phân phối sử dụng.
Nếu người đi vắng trở về có lý do
chính đáng, được xác nhận thì trả lại nhà và đầy đủ tài sản trong nhà cho chủ.
Trường hợp nhà đã bị quản lý sử dụng
rồi thì vẫn phải trả lại cho chủ khi đã rõ là xử lý sai lầm. Trong trường hợp
nhà đã dùng cho nhu cầu công ích việc trả lại khó khăn thì có thể thương lượng
với chủ nhà để đổi cho họ một nhà khác tương tự. Người được trả nhà được trọn
quyền sở hữu.
d) Trường hợp nhà chưa được xử lý
đã bị cán bộ công nhân viên chiếm dụng :
Thông tư hướng dẫn quy định rõ: “Nghiêm
cấm việc lợi dụng danh nghĩa Nhà nước hoặc vì tư lợi mà tự tiện chiếm đoạt hoặc
sử dụng trái phép” đối với nhà ở và dồ dùng của người trốn đi.
Nhà của người bỏ trốn phải được Nhà
nước xử lý và quản lý theo thủ tục quy định.
Việc chiếm dụng của bất cứ cá nhân;
tổ chức hay cơ quan Nhà nước mà không do sự phân phối của Ủy ban Nhân dân thành
phố đều là hành động xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa. Nhà phải được thu hồi,
người chiếm dụng trái phép sẽ bị trục xuất nếu không giao nhà lại cho cơ quan
quản lý nhà. Nếu không chấp hành lệnh trục xuất thì đề nghị Viện kiểm sát truy
cứu về trách nhiệm hình sự.
e) Đối với tài vật mà người trốn
đi nước ngoài mang theo mình: vàng, bạc, kim cương, ngoại tệ và tiền Ngân hàng Việt
Nam :
Nói chung đây là của cải phục vụ
cho hành động phạm pháp. Tuy nhiên người trốn đi nước ngoài có nhiều động cơ, có
hoàn cảnh khác nhau nên khi giải quyết tài sản cho họ, cần thỏa đáng hợp tình,
hợp lý để cho họ có điều kiện làm ăn sinh sống khi được tha về.
Trường hợp họ không bị truy tố ra
toà án, thì tuỳ theo từng trường hợp cụ thể, Ủy ban Nhân dân thành phố sẽ quyết
định trả lại số của cải mang theo hoặc tịch thu một phần. Vàng, bạc, kim cương,
ngoại tệ thu giữ nhất thiết phải chuyển cho cơ quan ngân hàng tạm giữ theo quy
định hiện hành về quản lý vàng, bạc…
- Đối với tài vật riêng của người
trốn đi bị bắt lại như quần áo, tư trang, đồng hồ, vật kỷ niệm, thuốc chữa bệnh
thông thường… tiền Việt Nam thì trả lại cho họ khi thấy không có gì quá đáng.
Cấm lợi dụng tình thế để tước đoạt tài vật này.
f) Đối với máy móc, thiết bị, vật
tư trong nhà của người trốn đi thì xử lý như đối với nhà (trả lại hoặc tịch thu
một phần tuỳ từng trường hợp).
Nếu nhà bị chiếm đoạt trái phép,
những tư liệu này phải được thu hồi cùng với nhà.
III.- THỦ TỤC VÀ THẨM QUYỀN XỬ
LÝ HÀNH CHÁNH
Căn cứ vào các văn bản pháp quy hiện
hành về vấn đề này, thủ tục và thẩm quyền quản lý theo quy định như sau :
1/ Khi bắt giũ người trốn đi nước
ngoài, Công an thành phố và quận huyện khẩn trương tiến hành phân loại và tha
ngay những người đi theo (người già, phụ nữ, trẻ em) đồng thời báo cho Ủy ban
Nhân dân phường xã biết để quản lý giáo dục, mặt khác lập hồ sơ xử lý đối với
các chính phạm chuyển qua Viện kiểm sát để truy tố những trường hợp phạm pháp
nghiêm trọng hoặc chuyển đến Ủy ban Nhân dân thành phố, quận huyện nếu chỉ cần
xử lý về hành chính.
2/ Đối với tài vật của người bị bắt
mang theo mình mà Công an thu giữ cần có biên bản rõ ràng và xử lý cùng với nhân
thân. Công an trả lại đồ vật riêng thuộc diện trả lại cho người được tha về và
báo cáo cho Viện kiểm sát nhân dân, Ủy ban Nhân dân quận huyện, thành phố số
còn lại theo đúng quy định hiện hành về quản lý tang tài vật.
Đối với nhà cửa, Ủy ban Nhân dân
phường xã khi phát hiện có người trốn đi nước ngoài thì tiến hành lập biên bản,
niêm phong và bảo quản (trường hợp nhà không còn thân nhân người bỏ trốn ở) báo
cáo kịp thời lên Ủy ban Nhân dân quận huyện.
Ủy ban Nhân dân quận huyện cho điều
tra xác minh việc trốn đi nước ngoài và ra quyết định kiểm kê tài sản trong
nhà, lập biên bản và tạm giữ, bảo quản, đồng thời báo cáo Ủy ban Nhân dân thành
phố và Sở Quản lý nhà đất công trình công cộng.
Ủy ban Nhân dân quận huyện được giao
trách nhiệm xét trả lại cho người được tha về, người đi nước ngaòi không theo
thủ tục bình thường, trả lại những tư tiệu sinh hhoạt trong nhà và sắp xếp chỗ
ở tạm cho những người này, chờ quyết định xử lý chính thức của thành phố. Quận
huyện không được phân phối sử dụng nhà dù tạm thời.
Ủy ban Nhân dân thành phố căn cứ
đề nghị của quận huyện và kiến nghị của Sở Quản lý nhà đất – công trình công cộng
quyết định chính thức việc quản lý nhà, phân phối sử dụng hoặc trả lại nhà cho
những người được tha về.
Trường hợp không có điều kiện trả
lại nhà cũ và cần bố trí nhà khác, Sở Quản lý nhà đất – công trình công cộng
cùng với Ủy ban Nhân dân quận huyện nghiên cứu và kiến nghị với Ủy ban Nhân dân
thành phố cách giải quyết thích hợp.
IV.- PHẠM VI ÁP DỤNG CỦA
THÔNG TƯ
Thông tư liên ngành và chỉ thị này
là căn cứ để xử lý những trường hợp trốn đi nước ngoài xảy ra từ sau ngày ban
hành thông tư.
Đối với những trường hợp xảy ra từ
trước được phát hiện nhưng chưa xử lý thì xử lý theo thông tư liên ngành và chỉ
thị này.
Đối với những trường hợp đã xảy ra
từ trước ngày ban hành thông tư và đã được xử lý thì không đặt vấn đề xử lý lại
trừ trường hợp đặc biệt quá bất hợp lý có khiếu nại và có chủ trương của Chánh
phủ và Ủy ban Nhân dân thành phố.
Trên đây là một số điểm hướng dẫn
thêm về việc xử lý tội trốn đi nước ngoài ở thành phố nằm bảo đảm thi hành thông
tư với đặc điểm tình hình của thành phố.
Những hướng dẫn trên đây của Ủy ban
Nhân dân thành phố liên quan đến việc xử lý người trốn đi nước ngoài trái với
tinh thần chỉ thị này nay đều bãi bỏ.
Trong quá trình thực hiện có gì khó
khăn, các ngành, các cấp cần phản ánh kịp thời cho Ủy ban Nhân dân thành phố.
Tình hình người trốn đi nước ngoài
ở thành phố còn diễn biến phức tạp, trong khi nhiều người còn coi thường tình
trạng này, vô tình khuyến khích hành động phạm pháp nằm trong ăm mưu phá hoại
của địch. Ủy ban Nhân dân thành phố lư ý các ngành các cấp về tính chất nghiêm
trọng của vấn đề và nhiệm vụ chung của mọi người, của cơ quan Nhà nước, đoàn
thể trong việc đấu tranh ngăn chặn phòng ngừa hành động trốn đi nước ngoài, làm
thất bại âm mưu phá hoại của địch.
|
TM.
ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH
Lê Quang Chánh
|