NGÂN
HÀNG QUỐC GIA
******
|
VIỆT
NAM
DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
88-VP/TH
|
Hà
Nội, ngày 17 tháng 03 năm 1959
|
THÔNG TƯ
HƯỚNG DẪN THI HÀNH NGHỊ ĐỊNH CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ SỐ
047-TTG NGÀY 14-02-1959 ẤN ĐỊNH MỨC LỢI SUẤT TIỀN GỬI CỦA TƯ NHÂN, TIỀN GỬI TIẾT
KIỆM, LỢI SUẤT TÍNH VÀO SỐ DƯ TÀI KHOẢN THANH TOÁN, LỢI SUẤT CHO VAY NGẮN HẠN CỦA
NGÂN HÀNG QUỐC GIA VIỆT NAM
TỔNG GIÁM ĐỐC NGÂN
HÀNG QUỐC GIA VIỆT NAM
Kính gửi:
|
- Các vị Bộ trưởng các Bộ
- Các ông Chủ tịch Ủy ban Hành chính các tỉnh, thành, khu tự trị
|
Ngày 14-02-59, Thủ tướng Chính
phủ đã ban hành Nghị định số 047-TTg ấn định biểu lợi suất mới về tiền gửi tư
nhân, tiền tiết kiệm lao động và tiền cho vay ngắn hạn của Ngân hàng quốc gia
Việt Nam
(đã đăng Công báo số 7 ngày 25-02-1959).
Nay Ngân hàng quốc gia Việt Nam
ra thông tư này để giải thích những điểm cụ thể cần được chú ý trong khi thi
hành.
I. Ý NGHĨA CỦA VIỆC THAY ĐỔI LỢI SUẤT LẦN NÀY
Biểu lợi suất tiền gửi tư nhân,
tiền tiết kiệm lao động và cho vay của Ngân hàng ban hành trong thời kỳ khôi phục
kinh tế và trong năm 1958 là năm đầu của kế hoạch dài hạn xây dựng kinh tế quốc
dân đã có tác dụng đáng kể. Do chính sách huy động tiền nhàn rỗi trong xã hội,
Ngân hàng đã tích lũy một số vốn tín dụng ngày càng tăng, số vốn đó đã giúp Nhà
nước giải quyết đúng đắn nhu cầu vốn tín dụng ngắn hạn của các ngành kinh tế quốc
dân, góp phần ổn định vật giá và tiền tệ, cải thiện sinh hoạt nhân dân.
Năm nay và nhất là từ sau hội nghị
Trung ương Đảng lần thứ 14 và khóa họp thứ 9 của Quốc hội, nhiệm vụ trung tâm đựơc
đề ra là phát triển và cải tạo kinh tế. Tình hình đó đòi hỏi Nhà nước phải có rất
nhiều vốn để giúp đỡ các ngành kinh tế ngày càng phát triển. Mặt khác, chế độ hạch
toán kinh tế ở các xí nghiệp công và tư chịu sự quản lý của Nhà nước cũng đòi hỏi
phải đấu tranh giảm bớt giá thành, tăng thêm tích lũy, làm cơ sở ổn định thêm một
bước vật giá và tiền tệ, có lợi cho quốc kế dân sinh. Phong trào hợp tác hóa
đang phát triển, phong trào cải tiến quản lý xí nghiệp cũng đang trên đà tiến
triển rộng rãi.
Dựa trên những cơ sở kinh tế và
chính trị thuận lợi nói trên Chính phủ quyết định hạ lợi suất tiền gửi tư nhân,
tiền gửi tiết kiệm và tiền cho vay của Ngân hàng, có phân biệt tỷ lệ lợi suất để
thúc đẩy việc cải tiến quản lý sản xuất, thúc đẩy thi hành chế độ hạch toán
kinh tế, đặng nhanh chóng tăng cường lực lượng kinh tế xã hội chủ nghĩa góp phần
vào nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa, nhằm mục đích hoàn thành vượt mức kế hoạch
3 năm của Nhà nước.
II. BIỂU LỢI
SUẤT MỚI
Biểu lợi suất này áp dụng thống
nhất giữa thành thị và nông thôn, và có mấy điểm cần chú ý:
1. Về tiền gửi
tư nhân.
- Có 3 kỳ hạn, coi như gửi gọn lấy
gọn theo từng kỳ hạn. Chưa đến kỳ hạn mà rút ra thì tính theo lợi suất của kỳ hạn
đã qua. Ví dụ: gửi kỳ hạn 6 tháng, đến 5 tháng rút ra thì tính lợi suất 0,2% một
tháng (tức là lợi suất kỳ hạn 3 tháng). Gửi dưới 3 tháng hoặc rút ra trước 3
tháng đối với tiền gửi có kỳ hạn trên 3 tháng thì coi như gửi không kỳ hạn, lợi
suất 0,1%, lợi tức tiền gửi không kỳ hạn. Nếu gửi không đầy một tháng mà đã rút
ra thì không được tính lãi.
- Thể lệ lợi
suất mới này áp dụng cho tiền gửi tư nhân không có hình thức gửi lẻ lấy gọn,
hình thức này trong thời kỳ cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các nhà công
thương nghiệp tư bản tư doanh không có tác dụng, hướng tiến lên là họ sẽ dần dần
đi vào hình thức tư bản Nhà nước thì lúc đó tính chất tiền gửi tư nhân sẽ là
tính chất tiền gửi thanh toán, sẽ áp dụng lợi suất tiền gửi như đối với quốc
doanh, nghĩa là 0,1% một tháng. Hiện nay định cho họ 0,1% và tiền gửi không kỳ
hạn 0,1% là hợp lý.
2. Về tiền gửi
tiết kiệm.
Nghị định của Thủ tướng phủ ấn định
mức lợi suất chỉ đạo Ngân hàng quốc gia bổ sung thêm về cụ thể như sau:
- Kỳ hạn 6 tháng
(là đối với gửi gọn trả gọn)
0,5% một tháng.
- Kỳ hạn 3 tháng
(là đối với gửi gọn trả gọn)
0,4% một tháng.
- Không kỳ hạn
(là đối với gửi gọn trả gọn)
0,3% một tháng.
Tức là không có kỳ hạn 12 tháng.
Sau khi hết kỳ hạn 6 tháng nếu người gửi muốn tiếp tục gửi thì tính một kỳ hạn
6 tháng nữa như là một món tiền gửi mới. Chưa đến hạn mà đã rút ra thì tính lãi
theo nguyên tắc áp dụng cho tiền gửi tư nhân.
Còn về tiền tiết kiệm gửi lẻ
lấy gọn thì tính lợi suất như sau: Có 2 kỳ hạn:
1. Trên 6 tháng
2. Dưới 6 tháng
|
0,4% một tháng
0,3% một tháng với điều kiện
là phải gửi tối thiểu là 30 ngày ở Ngân hàng.
|
Hình thức này đối với Nhà nước
không có lợi bằng hình thức có kỳ hạn, cho nên mức lãi thấp hơn một bậc. Không
có kỳ hạn 3 tháng mà chỉ đặt kỳ hạn dưới 6 tháng, coi như tiền gửi không kỳ hạn,
vừa được hợp lý, vừa đơn giản cho kế toán. Nếu gửi kỳ hạn trên 6 tháng mà muốn
rút ra trước kỳ hạn 6 tháng thì chỉ có thể hưởng mức lợi tức của kỳ hạn dưới 6
tháng (tức là 0,3%) và coi như là gửi không kỳ hạn.
Tiết kiệm không kỳ hạn có thưởng.
Hình thức này vẫn duy trì và lấy
tiền lãi giành cho hình thức tiết kiệm không kỳ hạn mà thưởng cho những người
trúng số.
Cách tính lãi tiền gửi tiết kiệm.
Để đơn giản cho khách hàng cũng như
cho công việc của kế toán, trong việc tính toán, Ngân hàng quốc gia Việt Nam
quyết định đối với các khoản tiền gửi và tiền tiết kiệm có kỳ hạn cũ áp dụng
theo lợi suất cũ cho đến hết kỳ hạn hợp đồng. Còn đối với các tiền gửi tư nhân
và tiết kiệm không kỳ hạn cũ hay gửi lẻ trả gọn theo thể thức mới nói trên thì
áp dụng lợi suất mới đối với những số tiền gửi sau ngày 15-02-1959,
số tiền đã gửi trước ngày 15-02-1959
thì tính theo lợi suất cũ.
Đối với tiền gửi tư nhân hay là
tiền tiết kiệm không kỳ hạn thì chỉ tính lãi mỗi năm một lần vào cuối ngày 31
tháng 12.
Đối với hợp
tác xã tín dụng.
Áp dụng đối với các hợp tác xã
tín dụng có tiền gửi vào Ngân hàng hoàn toàn như đối với nhân dân gửi tiền vào
Ngân hàng. Tuy nhiên để khuyến khích tích cực tính của Hợp tác xã tín dụng
trong việc huy động vốn để tự túc về vốn cho vay, quy định cho hợp tác xã tín dụng
được hưởng mức lợi tức ưu đãi 0,2% về tiền gửi không kỳ hạn vào Ngân hàng (tài
khoản thanh toán). Đây là nói trường hợp Hợp tác xã tín dụng không có nợ Ngân hàng
và Hợp tác xã có một khoảng vốn lưu động nhất định. Còn đối với các hình thức
tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn thì cần thiết Hợp tác xã tín dụng phải có vốn đến
một mức vững chắc mới được gửi, để khỏi ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của
Hợp tác xã tín dụng và lòng tín nhiệm của nhân dân.
3. Về lợi suất
cho vay ngắn hạn.
a) Về cho vay ngắn hạn đối với
các tổ chức quốc doanh nông nghiệp:
Quốc doanh nông nghiệp nói ở đây
không chỉ nói nông trường quốc doanh trực thuộc Bộ Nông lâm mà còn bao gồm các
nông binh được Nhà nước cấp vốn lưu động, các xí nghiệp nông nghiệp địa phương
(thuộc trồng trọt và chăn nuôi). Các đối tượng này khi vay Ngân hàng đều được
áp dụng lợi suất 0,3% một tháng và theo đúng thể lệ và biện pháp đã được ban
hành.
b) Về cho vay đối với quốc doanh
công nghiệp, ngư nghiệp, lâm nghiệp, vận tải, bưu điện:
Ngân hàng phân biệt các loại xí
nghiệp quốc doanh và các loại cho vay để áp dụng đúng biểu lợi suất:
- Đối với xí nghiệp công nghiệp
quốc doanh, mức lợi suất 0,4% một tháng áp dụng trong những trường hợp: cho vay
dự trữ vật tư trên mức tiêu chuẩn, cho vay nhu cầu tạm thời, cho vay sửa chữa lớn.
- Đối với xí nghiệp vận tải quốc
doanh, thì mức lợi xuất 0,4% một tháng áp dụng khi: cho vay dự trữ vật tư trên
mức tiêu chuẩn theo kế hoạch và theo nhu cầu tạm thời, cho vay để trả các giấy
đòi nợ về nhiên liệu và vật liệu nhờn (cho đường sắt vay), cho vay về chi phí
kinh doanh theo thời vụ, theo kế hoạch (đường thủy và ô tô), cho vay sửa chữa lớn.
- Đối với bưu điện: Hiện nay
chưa ban hành thể lệ cho vay đối với bưu điện Ngân hàng sẽ nghiên cứu và quy định
sau.
- Đối với xí nghiệp lâm nghiệp,
ngư nghiệp: Cần phải kể cả các xí nghiệp địa phương, cả đơn vị bộ đội được Nhà
nước cấp vốn lưu động, vốn tiêu chuẩn sản xuất về ngư, diêm và lâm nghiệp. Tất
cả đều được hưởng lợi suất 0,4% một tháng.
Trường hợp khi cho các xí nghiệp
quốc doanh nói trên (trừ xí nghiệp thương nghiệp quốc doanh) vay trong định mức
vốn lưu động thì Ngân hàng áp dụng mức lợi suất 0,2% một tháng như đã quy định
trong Nghị định số 047-TTg của Thủ tướng phủ (khoảng thứ 7 trong mục D về lợi
suất cho vay ngắn hạn) và trong biện pháp tạm thời cho vay trong định mức vốn
lưu động đối với các xí nghiệp quốc doanh ban hành theo Nghị định số 31-VP/NgĐ
ngày 26-02-1959 của Ngân hàng quốc gia Việt Nam.
- Cho vay thanh toán đối với các
xí nghiệp quốc doanh (kể cả xí nghiệp quốc doanh thương nghiệp và hợp tác xã
mua bán) thì áp dụng lợi suất 0,2% một tháng.
c) Cho vay đối với tổ chức quốc
doanh thương nghiệp và hợp tác xã mua bán:
Đối với mậu dịch quốc doanh và hợp
tác xã mua bán trong những trường hợp cho vay luân chuyển hàng hóa và dự trữ
hàng hóa, cho vay nhu cầu tạm thời, cho vay sửa chữa lớn đều áp dụng mức lợi suất
0,5% một tháng. Nhưng khi Ngân hàng cho vay thu mua thóc và các loại nông, lâm,
thổ, hải sản khác của nhân dân thì lại áp dụng mức lợi suất 0,3% một tháng.
Ở đây là cho vay đối với Mậu dịch
quốc doanh và Hợp tác xã mua bán. Còn mức lợi suất cho vay đối với các tổ hợp
tác tiểu thương lao động trong giai đoạn tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa thì
đã quy định riêng trong chỉ thị số 145-VP/FC ngày 29-10-1958 của Ngân hàng
(đăng Công báo số 40 ngày 26-11-1958) và khi cho vay, Ngân hàng sẽ chú ý phân
biệt các tổ chức của Nhà nước với tổ chức của nhân dân như tổ hợp tác loại thấp,
loại vừa và loại cao để áp dụng mức lợi suất thích đáng.
d) Cho vay đối với hợp tác xã
tín dụng:
Đối với hợp tác xã tín dụng, trước
đây Ngân hàng áp dụng mức lợi suất 0,6% một tháng, nay sụt xuống 0,4% một
tháng. Nhưng để chiếu cố tới hoạt động của hợp tác xã đảm bảo kinh doanh có lãi
thì đối với các khoản nợ vay trước lúc ban hành chế độ mới Ngân hàng chủ trương
trích 1/3 tổng số lãi thu được về những món nợ hợp tác xã tín dụng vay theo lợi
suất trước đây để làm hoa hồng cho hợp tác xã tín dụng và khi Hợp tác xã tín dụng
đem cho vay thì được áp dụng lợi suất cao hơn một chút tức là tứ 0,6% - 0,8%
nhưng không áp dụng chế độ tăng lãi phạt đối với nợ quá hạn như Ngân hàng đối với
các đơn vị quốc doanh.
e) Cho vay đối với các hợp tác
xã sản xuất nông nghiệp.
Mức lợi suất mới là 0,4% một
tháng chỉ áp dụng cho hợp tác xã nông nghiệp cao cấp (hoàn toàn xã hội chủ
nghĩa) còn hợp tác xã nông nghiệp hình thức thấp do hợp tác xã tín dụng cho
vay, mức lợi suất cũng do hợp tác xã tín dụng quy định theo sự hướng dẫn của
Ngân hàng nhưng không quá 0,6% một tháng. Ngoài các hợp tác xã sản xuất nông
nghiệp thì các tập đoàn xã hội chủ nghĩa (bao gồm các tập đoàn miền Nam,
các tập đoàn do Cục khai khoáng tổ chức) cũng được hưởng mức lợi suất 0,4% như
trong Nghị định vừa ban hành.
g) Cho vay đối với hợp tác xã thủ
công nghiệp.
Trong biểu lợi suất của Thủ tướng
phủ ban hành chỉ quy định có một mức lợi suất 0,5% một tháng cho hợp tác xã chủ
công nghiệp. Để thực hiện nguyên tắc ưu tiên, ưu đãi, chiếu cố, khuyến khích
nhân tố xã hội chủ nghĩa phát triển, góp phần thúc đẩy phong trào hợp tác hóa
thợ thủ công và vận tải, đồng thời chiếu cố đến tình hình từng vùng, cần phân
hóa ra các loại tổ chức và mức lợi suất khác nhau, xuất phát từ mức 0,5% đã quy
định. Sau đây là nội dung cụ thể:
- Về tiểu thủ công.
Hợp tác xã sản xuất thủ
công nghiệp hoàn toàn xã hội chủ nghĩa 0,5% 1 tháng
Hợp tác xã sản xuất (bán xã hội
chủ nghĩa) Hợp tác xã cung tiêu sản xuất và tổ sản xuất hợp tác 0,6% 1 tháng
Tổ cung tiêu sản xuất 0,8% 1
tháng.
Các mức lợi suất trên áp dụng thống
nhất cho tất cả các loại vay: sửa chữa lớn, vốn phương tiện cơ bản.
- Về vận tải
Hợp tác xã vận tải cao cấp 0,5%
1 tháng
Hợp tác xã vận tải sơ cấp 0,6% 1
tháng
Tổ vận tải 0,8% 1 tháng.
Các mức lợi suất trên áp dụng thống
nhất cho tất cả các loại vay: sửa chữa lớn, phát triển thêm phương tiện, chi
phí kinh doanh.
- Về ngư, diêm nghiệp.
Đối với các hợp tác xã cao
cấp ngư, diêm nghiệp và các tập đoàn xã hội chủ nghĩa sản xuất ngư, diêm nghiệp
cũng được hưởng lợi suất 0,5% áp dụng cho các Hợp tác xã thủ công nghiệp. Đối với
những hợp tác xã cấp thấp và tập đoàn bán xã hội chủ nghĩa về sản xuất ngư,
diêm nghiệp do Hợp tác xã tín dụng cho vay thì mức lợi suất sẽ do Hợp tác xã
tín dụng quy định theo sự hướng dẫn của Ngân hàng nhưng không quá 0,7% một
tháng.
h) Nợ quá hạn.
Các đơn vị vay nợ và được áp dụng
theo Nghị định vừa rồi thì hễ một khi đến hạn, Ngân hàng cho vay có quyền trích
tài khoản các đơn vị vay khấu trừ vào số nợ còn lại đúng theo ngày ghi trong khế
ước. Nếu không đủ thì ghi vào tài khoản nợ quá hạn và tăng lên 50% số lãi theo
từng loại cho vay và đối với từng đối tượng. Một khi tài khoản lại có tiền thì
tiếp tục trích khấu hao cho đến khi hết số dư nợ.
Thời gian áp dụng biểu lợi suất
mới:
Đối với tiền gửi tư nhân và tiền
gửi tiết kiệm, biểu lợi suất này áp dụng kể từ ngày 15-02-1959.
Riêng đối với biểu lợi suất cho vay sẽ áp dụng kể từ ngày 01-04-1959.
Đối với các món vay cũ về trước vẫn áp dụng theo mức lợi suất đã ghi trong khế
ước, kể cả những món nợ quá hạn chưa thanh toán xong vẫn phải chịu trả theo mức
lợi suất cũ, không được hưởng mức lợi suất mới. Nợ của hợp tác xã tín dụng vay
thì áp dụng theo như đã quy định ở mục d trong thông tư này.
|
TỔNG
GIÁM ĐỐC
NGÂN HÀNG QUỐC GIA VIỆT NAM
Lê Viết Lượng
|