NGÂN
HÀNG NHÀ NƯỚC
******
|
VIỆT
NAM
DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
137-TD/NT
|
Hà
Nội, ngày 28 tháng 05 năm 1961
|
THÔNG TƯ
VỀ BIỆN PHÁP CHO VAY ĐỐI VỚI CÁC TRƯỜNG HỌC, ĐỘI VĂN CÔNG,
CƠ QUAN, CÔNG TRƯỜNG THAM GIA SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
I. MỤC ĐÍCH CHO VAY:
Để giúp đỡ khuyến khích các trường
học, đội văn công, cơ quan, công trường tham gia sản xuất nông nghiệp, nhằm tận
dụng những điều kiện sản xuất của các tổ chức này như đất đai, nhân lực vào mục
đích tăng gia của cải vật chất cho xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, Ngân
hàng Nhà nước tạm thời quy định một số biện pháp cho vay như sau:
II. ĐIỀU KIỆN
CHO VAY VỐN:
1. Các trường học, đội văn công,
cơ quan, công trường phải đảm bảo sản xuất có hiệu quả, theo đúng phương hướng
kế hoạch của Nhà nước, chủ yếu là sản xuất lương thực, cây công nghiệp ngắn
ngày, chăn nuôi, thả cá.
2. Các cơ sở sản xuất của các tổ
chức này phải có tính chất tồn tại lâu dài và phải thành lập ở một số cơ sở một
"Ban sản xuất" quản lý những công việc thường xuyên của sản xuất.
3. Các cơ sở sản xuất đảm bảo sử
dụng tiền vay đúng theo mục đích đã định trước trong kế hoạch vay vốn, không được
chi tiêu lẫn lộn vốn sản xuất vào việc chi phí cho các nghiệp vụ khác của trường
học, đội văn công, cơ quan, công trường.
4. Các cơ sở sản xuất đảm bảo
hoàn trả lại Ngân hàng số tiền nợ theo thời gian đã thỏa thuận giữa hai bên, có
thể trả gọn một lần hoặc trả góp làm nhiều lần, nhưng chậm nhất đến cuối hạn phải
thanh toán xong đầy đủ.
5. Đối với các cơ sở sản xuất mới
bắt tay vào sản xuất không có vốn riêng, hoặc có rất ít và đã đem sử dụng ngay
vào sản xuất bước đầu thì Ngân hàng cũng có thể xét tình hình thực tế và những
điều kiện đảm bảo về hiệu quả kinh tế để tiến hành cho vay, nhưng sau đó cơ sở
sản xuất phải cố gắng tạo cho mình một nguồn vốn tự có nhất định nào đó để tiến
tới không phải vay thêm Ngân hàng khi mở rộng sản xuất về sau.
6. Theo sự hướng dẫn của Ngân hàng
các cơ sở sản xuất xin vay sẽ xin mở tài khoản riêng về "lao động sản xuất"
để gửi những số vốn tích lũy được trong quá trình sản xuất, tiền góp của đoàn
viên, cán bộ, học sinh tham gia sản xuất v.v… đồng thời lập các sổ thu chi ghi
chép những khoản chi phí sản xuất, thu nhập và phân phối hoa lợi, vay trả nợ
Ngân hàng.
III. THỦ TỤC
VAY VỐN:
1. Khi định vay vốn, trước mỗi
quý Ban sản xuất cần đến bàn bạc với Ngân hàng địa phương hoặc mời cán bộ Ngân
hàng đến tại chỗ sản xuất để cùng nhau thảo luận và lập kế hoạch cần thiết, ví
dụ:
- Về kế hoạch trồng trọt nên quy
định sẽ sản xuất thứ gì, diện tích canh tác bao nhiêu, cần bao nhiêu giống, bao
nhiêu phân, bao nhiêu dụng cụ sản xuất v.v…
- Về kế hoạch tài vụ, nên tính
toán xem trong các vật liệu cần thiết cho sản xuất đã sẵn có những thứ gì, có
thể mượn được những thứ gì, cần sắm thêm những thứ gì và hết bao nhiêu tiền,
còn thiếu bao nhiêu phải vay Ngân hàng?
- Về kế hoạch thu nhập và phân
phối nên dự trù sẽ thu hoạch ước lượng về mỗi sản phẩm là bao nhiêu, sẽ giữ lại
làm giống bao nhiêu, số sản phẩm còn lại để bán tính ra tiền sẽ được bao nhiêu
và trong số tiền đó sẽ trích bỏ vào quỹ sản xuất, chia cho công lao động và trả
nợ Ngân hàng mỗi việc hết bao nhiêu?
Về chăn nuôi cũng làm kế hoạch
như lề lối đối với trồng trọt.
2. Cơ sở sản xuất sẽ ủy nhiệm
cho đồng chí Trưởng ban sản xuất đứng vay, chịu trách nhiệm theo dõi đôn đốc việc
thực hiện kế hoạch sử dụng vốn, trả nợ. Đơn xin vay phải được đồng chí Thủ trưởng
chứng thực và cam kết chịu liên đới trách nhiệm về kết quả sản xuất và sự thực
hiện những điều Ban sản xuất đã giao ước với Ngân hàng.
3. Cuối mỗi tháng cơ sở sản xuất
báo cáo cho cấp trên trực tiếp của đơn vị đồng gửi Ngân hàng địa phương về tình
hình thực hiện kế hoạch sản xuất, kết quả sử dụng vốn chương trình sản xuất
tháng sau v.v…
IV. THỂ THỨC
VAY VỐN:
1. Sau khi nhất trí với cơ sở sản
xuất về kế hoạch sản xuất, tính toán nhu cầu vốn cần giúp đỡ thì Ngân hàng địa
phương đảm bảo cho vay đủ số vốn cần thiết còn thiếu.
Tiền sẽ giao dần dần theo mức độ
thực hiện kế hoạch.
2. Đối tượng cho vay:
- Giống, phân và các chi phí
khác về trồng trọt;
- Dụng cụ sản xuất, trâu bò cày
nếu có cơ sở giữ nuôi;
- Gia súc chăn nuôi.
3. Mức độ cho vay: Mức độ
cho vay là chi phí sản xuất và chi phí cơ bản trừ đi vốn tự có, thiếu bao nhiêu
cho vay bấy nhiêu, không quy định tỷ lệ.
4. Thời hạn cho vay:
- Áp dụng hình thức cho vay ngắn
hạn đối với các khoản cho vay về chi phí sản xuất như giống, dụng cụ trồng trọt,
phân bón v.v…
- Đối với các khoản cho vay mua
gia súc thì tùy theo tính chất chăn nuôi mà định thời hạn (chăn nuôi cho lớn và
vỗ cho béo thì cho vay ngắn hạn, chăn nuôi để sinh sản cho vay dài hạn).
5. Lợi suất cho vay:
Trong khi chờ đợi Chính phủ ban hành biểu lợi suất mới tạm thời quy định:
- 0,4% 1 tháng đối với các khoản
cho vay ngắn hạn.
- 2% 1 năm đối với các khoản cho
vay hài dạn.
6. Cách trả nợ:
Đầu vụ thu hoạch, sau khi giữ lại
một số sản phẩm cần thiết để làm giống tái sản xuất, còn lại bán được bao nhiêu
thì trước tiên cơ sở sản xuất dùng để trả nợ Ngân hàng theo mức quy định và thời
gian trả nợ đã thỏa thuận với Ngân hàng rồi mới chia cho công lao động.
Trường hợp bị thiên tai, mất mùa
nếu thu hoạch kém, kinh doanh bị lỗ thì cơ sở sản xuất có thể đề nghị gia thêm
hạn nợ, giảm hay miễn lãi đối với số nợ còn thiếu để Ngân hàng địa phương
nghiên cứu giải quyết thích đáng. Và nếu xét cần vay thêm vốn để sản xuất lại
thì cơ sở sản xuất vẫn có thể đề nghị với Ngân hàng tiếp tục giúp đỡ.
Trường hợp thiếu năng lực trả nợ
vì khuyết điểm chủ quan của cơ sở sản xuất thì Ngân hàng địa phương được quyền
tự động trích tài khoản riêng về "lao động sản xuất" của cơ sở sản xuất
để thu hồi vốn cho vay.
Biện pháp này thay thế cho Thông
tư số 473-TD/NT, ngày 12-12-1960 quy định thể thức cho vay trường học, cơ quan,
công trường.
|
TỔNG
GIÁM ĐỐC NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC
Lê Viết Lượng
|