THỦ
TƯỚNG CHÍNH PHỦ
******
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
98/2007/QĐ-TTg
|
Hà
Nội, ngày 04 tháng 07 năm 2007
|
QUYẾT ĐỊNH
VỀ VIỆC PHÊ DUYỆT ĐỀ ÁN NÂNG CAO TÍNH CHUYỂN ĐỔI CỦA ĐỒNG TIỀN
VIỆT NAM, KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG ĐÔ LA HOÁ TRONG NỀN KINH TẾ
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ
ngày 25 tháng 12 năm 2001;
Căn cứ Mục III, phần B.6 Nghị quyết số 01/2005/NQ-CP ngày 14 tháng 01 năm 2005
của Chính phủ về một số giải pháp chủ yếu chỉ đạo thực hiện kế hoạch kinh tế -
xã hội và ngân sách nhà nước năm 2005;
Xét đề nghị của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tại tờ trình số
50/TTr-NHNN ngày 14 tháng 5 năm 2007,
QUYẾT ĐỊNH :
Điều 1.
Phê duyệt Đề án nâng cao tính chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam,
khắc phục tình trạng đô la hoá trong nền kinh tế kèm theo Quyết định này.
Điều 2.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Thương mại, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các Bộ,
ngành liên quan, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương triển
khai Đề án để thực hiện nâng cao tính chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam, khắc
phục tình trạng đô la hoá trong nền kinh tế; hướng dẫn, kiểm tra, giám sát và tổng
hợp tình hình thực hiện theo định kỳ hàng năm báo cáo Thủ tướng Chính phủ; tổ
chức sơ kết tình hình thực hiện vào cuối năm 2008 và tổng kết việc thực hiện Đề
án vào năm 2010.
Điều 3.
Quyết định này có hiệu lực thi hành sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo.
Điều 4.
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam,
các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ,
Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm
thi hành Quyết định này./.
Nơi nhận:
-Ban Bí thư Trung ương Đảng;
- Thủ tướng, các Phó Thủ tướng Chính phủ;
- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc CP;
- Văn phòng BCĐTW về phòng, chống tham nhũng;
- HĐND, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;
- Văn phòng Trung ương và các Ban của Đảng;
- Văn phòng Chủ tịch nước;
- Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội;
- Văn phòng Quốc hội;
- Toà án nhân dân tối cao;
- Viện Kiểm sát nhân dân tối cao;
- Kiểm toán Nhà nước;
- UBTW Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
- Cơ quan Trung ương của các đoàn thể;
- VPCP: BTCN, các PCN, Website Chính phủ, Ban Điều hành 112, Người phát ngôn
của Thủ tướng Chính phủ, các Vụ, Cục, đơn vị trực thuộc, Công báo;
- Lưu: Văn thư, KTTH (5b).
|
THỦ TƯỚNG
Nguyễn Tấn Dũng
|
ĐỀ ÁN
NÂNG CAO TÍNH CHUYỂN ĐỔI CỦA ĐỒNG TIỀN VIỆT NAM, KHẮC PHỤC
TÌNH TRẠNG ĐÔ LA HOÁ TRONG NỀN KINH TẾ
(Ban hành kèm theo Quyết định số 98/2007/QĐ-TTg ngày 04 tháng 7 năm 2007 của
Thủ tướng Chính phủ )
Phần 1:
TỔNG QUAN VỀ TÍNH CHUYỂN
ĐỔI CỦA ĐỒNG TIỀN VÀ HIỆN TƯỢNG ĐÔ LA HOÁ
I. TÍNH CHUYỂN ĐỔI CỦA ĐỒNG
TIỀN
1. Tính chuyển đổi của đồng
tiền
Quá trình phát triển của sản xuất
và lưu thông hàng hoá dẫn đến sự ra đời của tiền tệ. Khi hàng hoá được trao đổi
ở phạm vi quốc tế thì xuất hiện nhu cầu trao đổi các đồng tiền với nhau. Tiền tệ
có ba chức năng là: dự trữ giá trị, phương tiện thanh toán và đơn vị tính toán.
Trên thị trường quốc tế, các đồng tiền được trao đổi, mua bán với nhau tuỳ theo
nhu cầu phát sinh từ mục đích thanh toán hoặc đầu tư. Đồng tiền có tính chuyển
đổi cao được thị trường quốc tế sử dụng cả ba chức năng. Người ta sử dụng làm
phương tiện thanh toán theo tập quán quốc tế những đồng tiền mạnh có tính lịch
sử do uy tín, vị thế của nền kinh tế. Các đồng tiền đó cũng được sử dụng như
các tài sản tài chính và là đơn vị tính toán trên thị trường quốc tế. Như vậy,
đồng tiền có tính chuyển đổi cao có đặc điểm là được chấp nhận một cách rộng
rãi trong các giao dịch về thanh toán và tiền tệ ở trong nước và quốc tế. Đặc
điểm này mang yếu tố khách quan và chủ quan. Về khách quan, đó là đồng tiền mạnh,
có uy tín, được thị trường tin tưởng chấp nhận. Về chủ quan, đó là ý chí của
Nhà nước, thông qua quy định về quản lý ngoại hối cho phép dùng đồng nội tệ mua
ngoại tệ trong các giao dịch được phép, hoặc được mang ra và chuyển đổi ở thị
trường quốc tế.
2. Đánh giá tính chuyển đổi của
đồng tiền
Tính chuyển đổi của đồng tiền được
đánh giá qua tính chuyển đổi trong nước và tính chuyển đổi quốc tế. Tính chuyển
đổi trong nước của đồng tiền thể hiện qua việc được ưa thích sử dụng và dễ dàng
mua được ngoại tệ với mức giá thị trường. Điều này một mặt phụ thuộc sự ổn định
về giá trị và sự thuận tiện khi sử dụng của đồng tiền, mặt khác phụ thuộc vào
việc được phép chuyển đổi ra ngoại tệ trong các giao dịch vãng lai, giao dịch vốn
và khả năng đáp ứng ngoại tệ của hệ thống ngân hàng. Tính chuyển đổi quốc tế của
đồng tiền thể hiện ở mức độ phổ biến được sử dụng làm phương tiện trong các
giao dịch thương mại, tài chính quốc tế. Tính chuyển đổi quốc tế là cấp độ cao,
chỉ có một số ít đồng tiền mạnh như Đô la Mỹ, Bảng Anh, EURO... đạt được (còn gọi
là các đồng tiền tự do chuyển đổi). Đa số các đồng tiền còn lại có tính chuyển
đổi thấp hơn, ở mức độ chuyển đổi trong nước.
Vì thế, đánh giá tính chuyển đổi
của đồng tiền của các nước đang phát triển chủ yếu dựa vào việc đánh giá tính
chuyển đổi trong nước. Với các nước này, uy tín, vị thế của đồng nội tệ có thể
đánh giá qua chỉ số lạm phát, mức độ đô la hóa nền kinh tế, sự phát triển của
các thị trường tài chính, trình độ của hệ thống ngân hàng, mức độ thông thoáng
của chính sách quản lý ngoại hối và sự linh hoạt của tỷ giá hối đoái. Với vai
trò là các biện pháp hỗ trợ, bảo vệ đồng bản tệ và cán cân thanh toán quốc tế,
chính sách quản lý ngoại hối càng nới lỏng, mức độ tự do hoá đối với giao dịch
vãng lai, giao dịch vốn càng cao, khả năng đáp ứng ngoại tệ càng lớn thì chứng
tỏ đồng bản tệ càng mạnh và do đó tính chuyển đổi của đồng tiền càng cao.
3. Ý nghĩa của việc nâng cao
tính chuyển đổi của đồng tiền
Trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh
tế hiện nay, việc nâng cao tính chuyển đổi của đồng tiền có ý nghĩa quan trọng
đối với sự nghiệp phát triển kinh tế và quá trình hội nhập quốc tế. Với xu hướng
tự do hoá thương mại và đầu tư, đồng tiền có tính chuyển đổi cao sẽ liên kết
kinh tế trong nước với quốc tế, hỗ trợ, thúc đẩy kinh tế đối ngoại phát triển,
thu hút mạnh mẽ các nguồn vốn nước ngoài, nâng cao khả năng cạnh tranh cũng như
tạo vị thế cho quốc gia trên thị trường quốc tế. Đồng tiền có tính chuyển đổi
cao cũng sẽ làm giảm hiện tượng đô la hóa, qua đó nâng cao hiệu quả điều hành
chính sách tiền tệ và chính sách tỷ giá.
4. Các yếu tố nâng cao tính
chuyển đổi của đồng tiền
Các phân tích ở trên cho thấy
các yếu tố để nâng cao tính chuyển đổi của đồng tiền bao gồm:
- Đảm bảo tăng trưởng kinh tế bền
vững, nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ. Đây là yếu tố cơ bản,
là điều kiện khách quan tạo sức mạnh và niềm tin lâu dài vào đồng nội tệ.
- Các chính sách về tài chính -
tiền tệ phải hướng tới mục tiêu kiểm soát lạm phát và tạo vị thế cho đồng nội tệ.
- Chính sách quản lý ngoại hối
thông thoáng phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế, trong đó thực hiện
một cơ chế tỷ giá linh hoạt.
- Các thị trường tài chính (thị
trường tiền tệ, thị trường ngoại hối, thị trường vốn) phải được hình thành,
phát triển đồng bộ, hoạt động có hiệu quả.
- Hệ thống các định chế tài
chính phát triển, thực hiện các giao dịch tiền tệ một cách thuận lợi với chi
phí thấp.
II. HIỆN TƯỢNG ĐÔ LA HOÁ
1. Khái niệm
Khi ngoại tệ được sử dụng rộng
rãi trong một quốc gia để thay thế một hay nhiều chức năng của nội tệ thì nền
kinh tế đó gọi là bị đô la hóa (ĐLH).
2. Đánh giá mức độ ĐLH
Mức độ ĐLH thể hiện qua mức độ sử
dụng ngoại tệ để thay thế các chức năng của nội tệ.
- ĐLH thay thế tài sản: đánh giá
về phương diện này, người ta thường sử dụng tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ trên tổng
phương tiện thanh toán (FCD/M2). Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), khi tỷ lệ này
trên 30% là bị ĐLH trầm trọng. Một số nước trong khu vực châu Á (Thái Lan,
Trung Quốc...) được xem là có mức độ ĐLH thấp với tỷ lệ FCD/M2 chỉ từ 1 - 9%.
- ĐLH phương tiện thanh toán: là
mức độ sử dụng ngoại tệ trong thanh toán. Tuy nhiên, các thanh toán bất hợp
pháp bằng ngoại tệ rất khó đánh giá và đây là hiện tượng khá phổ biến đối với
những nền kinh tế tiền mặt như Việt Nam.
- ĐLH định giá, niêm yết giá: đó
là việc niêm yết, quảng cáo và định giá bằng ngoại tệ. ĐLH về phương diện này
thường là bất hợp pháp nên cũng khó xác định, nhưng đây lại là vấn đề cơ bản của
hiện tượng ĐLH.
3. Nguyên nhân của hiện tượng
ĐLH
Các nghiên cứu cho thấy nguyên
nhân chủ yếu của hiện tượng ĐLH là sự yếu kém của nền kinh tế, lạm phát cao dẫn
đến sự mất giá liên tục làm giảm niềm tin vào đồng nội tệ. Nguyên nhân thứ hai
là lợi ích kinh tế thấp và sự bất tiện khi sử dụng đồng nội tệ (về mệnh giá, về
hệ thống thanh toán, về khả năng chuyển đổi ra ngoại tệ...). Tuy nhiên, các
phân tích cũng đã chỉ ra nguyên nhân thứ ba không kém phần quan trọng, nó không
trực tiếp gây ra hiện tượng ĐLH nhưng lại làm trầm trọng thêm hiện tượng này,
đó là các chính sách tạo điều kiện cho ĐLH gia tăng (như huy động, cho vay, thu
thuế, thanh toán... bằng ngoại tệ).
4. Ảnh hưởng của hiện tượng
ĐLH
a) Tích cực:
Trong những điều kiện cụ thể,
ĐLH có thể phát huy những mặt tích cực như tăng cung ngoại tệ, giảm áp lực lạm
phát hoặc làm chỗ dựa cho nền kinh tế khi đồng bản tệ quá suy yếu, thể hiện qua
các nội dung:
- Thúc đẩy phát triển sản xuất
hàng hoá theo chiều sâu và thúc đẩy chu chuyển hàng hoá quốc tế: khi được định
giá bằng ngoại tệ, hàng hoá và dịch vụ trong nước phải đạt tới chất lượng và
giá cả cạnh tranh trên thị trường quốc tế, đặc biệt đối với những nền kinh tế mở.
Do không còn rủi ro tỷ giá, các nhà sản suất trong nước có thể xác định được
chính xác hiệu quả kinh doanh khi xuất khẩu hàng hoá và hội nhập nhanh chóng vào
nền kinh tế thế giới.
- Giảm chi phí sử dụng vốn: ngoại
tệ mạnh và ổn định thường có lãi suất thấp hơn nhiều so với đồng nội tệ yếu.
Trong điều kiện tỷ giá tương đối ổn định, việc sử dụng vốn ngoại tệ có thể đem
lại hiệu quả tài chính cao.
- Là phương tiện hữu hiệu để bảo
hộ người dân khi có lạm phát.
b) Tiêu cực:
Nếu lạm dụng, để kéo dài với mức
độ cao thì ĐLH sẽ gây tác hại ở thời kỳ sau, đặc biệt khi đồng nội tệ đã phục hồi
và nền kinh tế đang phát triển. Cụ thể, ĐLH làm mất chủ quyền về tiền tệ, làm
giảm vị thế độc tôn của đồng bản tệ, làm cho thị trường ngoại hối kém phát triển
do các quan hệ vay - trả bằng ngoại tệ lấn át các quan hệ mua bán ngoại tệ. Khi
đó, các ngân hàng thương mại (NHTM) khó mua được ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu
thanh toán và Ngân hàng Trung ương (NHTW) cũng khó tăng được dự trữ ngoại hối.
Qua các ảnh hưởng trên, ĐLH còn làm giảm khả năng chuyển đổi của đồng tiền, tạo
điều kiện cho buôn lậu phát triển, phá hoại sản xuất trong nước. Nhà nước không
những thất thu về thuế mà còn mất cả nguồn thu từ việc phát hành đồng nội tệ. Về
dài hạn, ĐLH có những tác động tiêu cực đối với tăng trưởng kinh tế bền vững, đặc
biệt trong giai đoạn mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế do nó làm giảm chất lượng
hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ, giảm hiệu quả của chính sách tỷ giá,
tạo ra nguy cơ đổ vỡ hệ thống ngân hàng vì NHTW không thực hiện được vai trò
“Người cho vay cuối cùng” của mình.
5. Mối quan hệ giữa tăng tính
chuyển đổi của đồng tiền và khắc phục tình trạng ĐLH trong nền kinh tế
Các nội dung trên cho thấy tăng
tính chuyển đổi của đồng tiền và hạn chế hiện tượng ĐLH có mối quan hệ chặt chẽ,
hữu cơ với nhau, trong đó vị thế của đồng nội tệ có ý nghĩa quyết định. Hai nội
dung này đều phụ thuộc vào sức mạnh của nền kinh tế và ý chí của Nhà nước. Tuy
có những đặc thù riêng nhưng có một yếu tố chung, tác động đến cả hai nội dung
trên, đó là các chính sách của Nhà nước. Chính vì vậy, với định hướng phát triển
kinh tế là trung tâm thì các chính sách vẫn phải có giải pháp để nâng dần khả
năng chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam và khắc phục tình trạng ĐLH, coi đó là một
yếu tố quan trọng góp phần thúc đẩy kinh tế tăng trưởng bền vững. Trong thực hiện,
yêu cầu đặt ra là phải có sự phối hợp hài hoà giữa các giải pháp để cùng một
lúc đạt cả hai mục tiêu trên.
Phần 2:
THỰC TRẠNG VỀ TÍNH CHUYỂN
ĐỔI CỦA ĐỒNG TIỀN VIỆT NAM VÀ TÌNH TRẠNG ĐÔ LA HOÁ Ở VIỆT NAM
Như Phần I đã chỉ ra,
việc đánh giá tính chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam (VND) sẽ chủ yếu dựa trên
việc đánh giá tính chuyển đổi ở trong nước thông qua phân tích vị thế của VND,
chính sách quản lý ngoại hối và khả năng đáp ứng ngoại tệ của hệ thống ngân
hàng. Còn việc đánh giá thực trạng ĐLH sẽ căn cứ mức độ sử dụng ngoại tệ thay
thế VND trong cả ba chức năng của tiền tệ. Do đặc thù của cơ chế quản lý và biến
động của kinh tế thế giới có ảnh hưởng đến Việt Nam, việc đánh giá tính chuyển
đổi của VND và mức độ ĐLH sẽ chia thành ba giai đoạn. Hai giai đoạn đầu chỉ
đánh giá có tính chất khái quát để tổng kết, rút kinh nghiệm. Đề án tập trung
vào giai đoạn hiện nay vì đây chính là thực trạng cần phân tích sâu, là cơ sở để
xác định mục tiêu và đề ra giải pháp.
I. GIAI ĐOẠN TRƯỚC KHI MỞ CỬA
(1988)
Việt Nam thực hiện cơ chế quản
lý tập trung bao cấp. Nhà nước nắm độc quyền về ngoại thương, ngoại hối. Quy mô
nền kinh tế nhỏ, khả năng cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ rất thấp, kinh tế đối
ngoại kém phát triển, hệ thống ngân hàng còn sơ khai. Điều lệ quản lý ngoại hối
ban hành kèm theo Nghị định số 102/CP ngày 06 tháng 7 năm 1963 của Chính phủ
nghiêm cấm các tổ chức, cá nhân sở hữu, sử dụng ngoại tệ trong nước (kể cả việc
cất trữ, mang theo người), mọi giao dịch trong nước phải thực hiện bằng VND. Việc
chuyển đổi VND sang ngoại tệ được thực hiện theo kế hoạch với cơ chế đa tỷ giá
(tỷ giá mậu dịch, tỷ giá phi mậu dịch) do Nhà nước công bố. Xuất nhập khẩu và
thanh toán quốc tế chủ yếu theo các Hiệp định song biên - đa biên, đồng tiền sử
dụng trong quan hệ thanh toán đối ngoại thường là đồng Rúp chuyển nhượng và đồng
Nhân dân tệ mậu dịch. Vì vậy, khả năng chuyển đổi của VND rất hạn chế. Về cuối
giai đoạn xuất hiện dấu hiệu của khủng hoảng kinh tế, VND suy yếu mạnh sau thất
bại của chính sách giá - lương - tiền, lạm phát tới 3 con số và liên tục có các
đợt tăng giá vàng. Trong dân cư xuất hiện việc mua vàng, ngoại tệ để tích
trữ, đầu cơ giá và sử dụng làm phương tiện thanh toán. Tuy nhiên mức độ ĐLH là
không đáng kể do độ mở của nền kinh tế còn rất nhỏ.
II. GIAI ĐOẠN BẮT ĐẦU MỞ CỬA
ĐẾN TRƯỚC KHỦNG HOÀNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ KHU VỰC (1988 - 1997)
1. Tính chuyển đổi của VND
Tính chuyển đổi của VND đã được
nâng cao đáng kể so với giai đoạn trước do vị thế của VND được phục hồi, chính
sách quản lý ngoại hối có sự nới lỏng hơn và khả năng đáp ứng ngoại tệ được cải
thiện một bước.
Việt Nam chuyển sang xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước dần xoá bỏ chế độ độc
quyền ngoại thương, đồng thời ban hành nhiều chính sách để thúc đẩy kinh tế
phát triển và mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Kinh tế tăng trưởng cao và khá ổn
định, trung bình gần 8%/năm, lạm phát được kiểm soát ở mức trên dưới 10%, kinh
tế đối ngoại phát triển mạnh ở cả xuất nhập khẩu, đầu tư và vay nợ nước ngoài.
Cùng với thắng lợi trong việc kiềm chế lạm phát, sự phát triển của hệ thống
ngân hàng hai cấp đã khôi phục dần vị thế của VND. Hình thành Trung tâm giao dịch
ngoại tệ và sau đó là Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Hệ thống thanh toán bắt
đầu phát triển, VND được hỗ trợ bởi các ngân phiếu thanh toán có mệnh giá lớn
làm cho việc sử dụng thuận tiện hơn. Trong điều kiện tỷ giá tương đối ổn định,
lạm phát đã được kiềm chế nên mức lãi suất cao làm cho VND trở nên khá hấp dẫn.
Trong giai đoạn này, Nghị định số
161-HĐBT ngày 18 tháng 10 năm 1988 của Hội đồng Bộ trưởng ban hành Điều lệ quản
lý ngoại hối của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được ban hành thay thế
Nghị định số 102/CP ngày 06 tháng 7 năm 1963 của Chính phủ về Điều lệ quản lý
ngoại hối, tiếp sau đó là một loạt các văn bản như Quyết định, Chỉ thị của Thủ
tướng Chính phủ để sửa đổi, bổ sung Nghị định 161/HĐBT theo hướng nới lỏng hơn.
- Giao dịch vãng lai: tổ chức được
mua ngoại tệ để thanh toán nhập khẩu, trả lãi khoản vay nước ngoài hoặc chuyển
lợi nhuận về nước của Nhà đầu tư nước ngoài theo tỷ giá giao dịch của Ngân
hàng. Kiều hối được khuyến khích chuyển ngoại tệ về, được gửi vào ngân hàng và
được rút ra bằng ngoại tệ. Công dân Việt Nam khi có nhu cầu về ngoại tệ để đi
công tác, học tập, lao động, du lịch chữa bệnh ở nước ngoài được Ngân hàng Nhà
nước (NHNN) xem xét cấp phép cho mua số ngoại tệ cần thiết.
- Giao dịch vốn: tổ chức kinh tế
được vay nước ngoài và mua ngoại tệ để trả nợ nước ngoài. Nhà đầu tư nước ngoài
được phép mua ngoại tệ trong một số trường hợp đặc biệt (xây dựng hạ tầng hoặc
sản xuất hàng thay thế nhập khẩu). Tuy nhiên, còn nhiều hạn chế như: nhà đầu tư
nước ngoài phải thực hiện chế độ tự cân đối ngoại tệ, việc tiếp cận ngoại tệ phải
có giấy phép của NHNN, vay nợ nước ngoài phải được sự chấp thuận của NHNN, đầu
tư trực tiếp ra nước ngoài không được vay ngoại tệ của ngân hàng.
- Khả năng đáp ứng ngoại tệ: khả
năng đáp ứng ngoại tệ của Hệ thống Ngân hàng được cải thiện hơn do xuất khẩu
tăng và nguồn vốn dài hạn nước ngoài vào nhiều qua vay nợ và đầu tư trực tiếp.
Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng bắt đầu phát huy tác dụng. Tỷ giá chính thức
vẫn do NHNN công bố nhưng linh hoạt hơn do đã áp dụng biên độ tỷ giá. Về cuối
giai đoạn, khi khu vực bị khủng hoảng, vay nợ và đầu tư nước ngoài giảm mạnh
thì cung - cầu ngoại tệ mất cân đối nghiêm trọng. Mặt khác, do cơ chế tỷ giá
còn thiếu linh hoạt, thị trường ngoại tệ kém phát triển, công cụ thị trường còn
hạn chế làm chu chuyển ngoại tệ trong nền kinh tế bị ách tắc, khó mua được ngoại
tệ nên các tổ chức kinh tế và ngân hàng cũng có xu hướng đầu cơ, găm giữ ngoại
tệ.
2. Mức độ đô la hoá
Nhìn chung mức độ ĐLH có xu hướng
giảm mạnh. Năm 1991, tỷ lệ FCD/M2 lên đến 41,2%, việc thanh toán bằng ngoại tệ
hợp pháp và bất hợp pháp tương đối nhiều, việc định giá bằng ngoại tệ và vàng
(kể cả đối với các giao dịch nhỏ) trong dân cư khá phổ biến. Nguyên nhân do ảnh
hưởng của lạm phát phi mã giai đoạn trước (đến năm 1991 lạm phát vẫn còn tới
67,5 %). Người dân ưa thích sử dụng ngoại tệ còn do lợi ích thực tế của việc sử
dụng trong cất trữ, vận chuyển, thanh toán vì mệnh giá VND quá nhỏ, hệ thống
thanh toán lại kém phát triển. Đến giai đoạn 1993 -1996, khi lạm phát chỉ ở mức
trên dưới 10%, tỷ giá biến động ít, việc nắm giữ VND đã tỏ ra có lợi hơn nên mức
độ ĐLH giảm mạnh, tỷ lệ FCD/M2 năm 1997 còn 22,9%. Đồng thời, Chính phủ cũng bắt
đầu hạn chế việc thanh toán bằng ngoại tệ, xoá bỏ các điểm bán hàng thu ngoại tệ,
tăng cường các bàn đổi ngoại tệ. Tuy nhiên, thị trường ngoại tệ tự do, yết giá
và thanh toán ngoại tệ trong dân cư vẫn chưa kiểm soát được do thói quen và các
hoạt động kinh tế ngầm, do sự bất tiện khi sử dụng VND vẫn chưa được giải quyết
cơ bản. Nhưng cũng phải nhìn nhận rằng, các hoạt động ngoại hối trái phép tồn tại
chủ yếu là do chưa được xử lý một cách kiên quyết. Nguyên nhân là thiếu chế
tài, thiếu sự phối hợp của các cơ quan quản lý. Cho đến nay, vấn đề này vẫn là
một tồn tại chưa được khắc phục.
III. GIAI ĐOẠN TỪ KHỦNG HOẢNG
TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ KHU VỰC ĐẾN NAY
Việc đánh giá khả năng chuyển đổi
của VND và mức độ ĐLH trong giai đoạn này được chia thành 2 giai đoạn nhỏ hơn,
đó là thời gian nền kinh tế chịu ảnh hưởng của khủng hoảng và thời gian phục hồi,
lấy lại đà tăng trưởng.
1. Từ 1998 đến 2001
a) Tính chuyển đổi của VND
Vị thế của VND tiếp tục được cải
thiện tuy có bị ảnh hưởng của khủng hoảng khu vực. Xét theo quy định về quản lý
ngoại hối và cơ chế tỷ giá thì khả năng chuyển đổi của VND có bước nâng cao so
với giai đoạn trước. Tuy nhiên, khả năng đáp ứng ngoại tệ trên thực tế có những
hạn chế nhất định do cơ chế tỷ giá vẫn còn thiếu linh hoạt, khó dự đoán, do chu
chuyển ngoại tệ trong nền kinh tế còn bị ách tắc.
Do khủng hoảng tài chính - tiền
tệ khu vực, mức tăng GDP của Việt Nam giảm mạnh, trung bình chỉ còn 6%/năm. Năm
1998, lạm phát lên đến 9,2% (so với mức 3,6% năm 1997), sau đó rơi vào giảm
phát mà thấp nhất vào năm 2000 (-0,6%). Trong giai đoạn này, tăng trưởng xuất
nhập khẩu cũng biến động với mức độ lớn, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) suy
giảm mạnh và vay nợ nước ngoài gặp khó khăn.
Trước tình hình đó, để chấn hưng
nền kinh tế, Nhà nước đã áp dụng một số biện pháp tích cực như đẩy mạnh tự do
hoá thương mại, cải tổ chính sách thuế, ban hành các Luật quan trọng như Luật
Doanh nghiệp, Luật Thương mại. Chính phủ đẩy mạnh cải cách hành chính nhằm tạo
mọi điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp phát triển, đồng thời thực hiện việc
đổi mới, cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước, hình thành các tập đoàn kinh tế
mạnh để nâng cao năng lực cạnh tranh sau khi ký Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ.
Hệ thống ngân hàng tiếp tục được củng cố sau khi ban hành Luật Ngân hàng Nhà nước
và Luật Các Tổ chức tín dụng. Tiến hành việc sắp xếp, cơ cấu lại các NHTM cổ phần
và chuẩn bị các phương án củng cố NHTM Nhà nước. Hình thành thị trường chứng
khoán với quy định cho các nhà đầu tư nước ngoài tham gia thị trường.
Để hạn chế tác động tiêu cực của
khủng hoảng và tiếp tục mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế, ngày 17 tháng 8 năm
1998, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 63/1998/NĐ-CP về quản lý ngoại hối
cùng với một loạt các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan đến quản lý
ngoại hối. Các chính sách mới được ban hành là một tiến bộ về cơ chế quản lý
ngoại hối theo hướng chuyên nghiệp và phù hợp hơn với thông lệ quốc tế.
- Giao dịch vãng lai: hình thành
cơ bản xu hướng tự do hoá các giao dịch vãng lai so với quy định của IMF. Chỉ
còn một số hạn chế liên quan đến thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài của doanh
nghiệp FDI, hạn chế chuyển ngoại tệ ra nước ngoài của các cá nhân.
- Giao dịch vốn: có một số nới lỏng
hơn về kiểm soát vay ngắn hạn nước ngoài và điều kiện vay nợ nước ngoài, các
doanh nghiệp được quyền tự chủ trong việc thoả thuận, ký kết hợp đồng vay vốn
nước ngoài, sau đó phải thực hiện đăng ký khoản vay với NHNN (trừ trường hợp là
doanh nghiệp nhà nước). Xoá bỏ chế độ tự cân đối ngoại tệ đối với doanh nghiệp
FDI.
- Khả năng đáp ứng ngoại tệ: do ảnh
hưởng của khủng hoảng và tình trạng đầu cơ, găm giữ ngoại tệ nên khả năng đáp ứng
ngoại tệ của hệ thống ngân hàng gặp khó khăn. Để điều hoà cung - cầu, Chính phủ
đã phải áp dụng chế độ kết hối ngoại tệ với tỷ lệ rất cao, đồng thời phải áp dụng
một số hình thức ưu tiên bán ngoại tệ, giấy phép mua ngoại tệ đối với doanh
nghiệp FDI. Trong thời gian này, tỷ giá hối đoái của VND có biến động do ảnh hưởng
của khủng hoảng.
b) Mức độ ĐLH
Sau một thời gian giữ ổn định ở
mức tương đối thấp khoảng trên 20%, tỷ lệ FCD/M2 lại có dấu hiệu tăng lên trong
giai đoạn này và đến năm 2000 - 2001 đã tăng cao trở lại đến gần 30%. Nguyên
nhân là trong suốt một thời gian dài, kinh tế Mỹ tăng trưởng cao và ổn định làm
cho đồng USD hấp dẫn hơn các ngoại tệ khác. Mặt khác, các chính sách mới ban
hành đã tạo sự tin tưởng của người dân, thu hút được một lượng lớn ngoại tệ từ
thị trường tự do vào hệ thống ngân hàng. Tâm lý ĐLH trong giai đoạn này cũng một
phần do tác động của khủng hoảng và kỳ vọng của thị trường vào sự phá giá của
VND.
2. Từ 2002 đến nay
a) Tính chuyển đổi của VND
Vị thế của VND được cải thiện mạnh
mẽ qua sự đổi mới về mệnh giá, hình thức của đồng tiền, sự phát triển của hệ thống
Tổ chức tín dụng (TCTD) với nhiều tiện ích và hệ thống thanh toán hiện đại. Điều
hành Chính sách tiền tệ đã có sự thay đổi về chất và quy định quản lý ngoại hối
tiếp tục được nới lỏng. Về cơ bản, các giao dịch vãng lai và một phần giao dịch
vốn đã tự do hoá. Khả năng đáp ứng ngoại tệ tiếp tục được cải thiện, nhìn chung
đã đáp ứng tương đối đầy đủ các giao dịch được phép.
Kinh tế phục hồi và bắt đầu lấy
lại đà tăng trưởng với tốc độ trên 7%/năm, kim ngạch xuất nhập khẩu lần đầu
tiên đạt gần 60 tỷ USD vào năm 2004. Đầu tư và vay nợ nước ngoài cũng tăng mạnh
do sự nỗ lực của Chính phủ trong việc cải thiện môi trường đầu tư. Tuy nhiên, lạm
phát đột ngột tăng cao trở lại với mức 9,5% năm 2004 do nhiều nguyên nhân, đặc
biệt là thiên tai, dịch cúm gia cầm và giá nguyên, nhiên liệu trên thế giới
tăng.
Đây là thời kỳ Nhà nước đẩy mạnh
công nghiệp hoá - hiện đại hoá và thực hiện lộ trình hội nhập quốc tế, ban hành
nhiều văn bản quy phạm pháp luật quan trọng như Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi,
Luật Cạnh tranh, xây dựng Luật Đầu tư chung để chuẩn bị cho việc gia nhập WTO.
Với sự biến đổi nhanh của nền
kinh tế, Nghị định số 63/1998/NĐ-CP cũng như các văn bản khác liên quan đến quản
lý ngoại hối đã tỏ ra bất cập cần phải bổ sung, sửa đổi. Đồng thời, để tiếp tục
hoàn thiện chính sách quản lý ngoại hối theo một định hướng dài hạn hơn, Quốc hội
đã chỉ đạo xây dựng và ban hành Pháp lệnh ngoại hối. Bên cạnh đó một số văn bản
điều chỉnh chính sách quản lý ngoại hối đã được bổ sung nhằm phát triển thị trường
ngoại hối qua việc hoàn thiện các công cụ phái sinh để tạo điều kiện tiến đến một
cơ chế tỷ giá hối đoái linh hoạt hơn.
- Giao dịch vãng lai: để thực hiện
kế hoạch gia nhập WTO, Việt Nam đã thực hiện tự do hoá giao dịch vãng lai và điều
này đã được IMF công nhận.
- Giao dịch vốn: đã bỏ quy định
về thời hạn chuyển ngoại tệ sau 01 năm đối với đầu tư chứng khoán. Giao dịch vốn
còn những hạn chế sau:
+ Doanh nghiệp nhà nước vay nước
ngoài phải có ý kiến của NHNN trước khi ký Hợp đồng vay.
+ Doanh nghiệp FDI vẫn còn danh
mục ưu tiên cân đối ngoại tệ.
+ Còn hạn chế tỷ lệ góp vốn
trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
+ Chưa có quy định về đầu tư
gián tiếp ra nước ngoài.
+ Đầu tư của nước ngoài vào thị
trường chứng khoán còn bị hạn chế về tỷ lệ mua và tỷ lệ nắm giữ.
+ Góp vốn mua cổ phần của Nhà đầu
tư nước ngoài còn bị hạn chế.
+ Còn hạn chế các hình thức vay
nước ngoài.
- Khả năng đáp ứng ngoại tệ:
quan hệ cung cầu ngoại tệ có sự cải thiện đáng kể do cơ chế tỷ giá đã có sự
thay đổi cơ bản. Tuy NHNN vẫn công bố tỷ giá bình quân thị trường ngoại tệ liên
ngân hàng nhưng biên độ đã nới rộng ra +/- 0,5%. Đồng thời đã mở rộng thời gian
của giao dịch kỳ hạn (từ 3 ngày đến 365 ngày), bỏ các trần kỳ hạn cố định để
xác định tỷ giá kỳ hạn theo mức chênh lệch lãi suất giữa hai đồng tiền. Đặc biệt,
NHNN đã cho áp dụng thí điểm giao dịch quyền chọn với mức phí theo thoả thuận.
Với những quy định hiện hành, tỷ giá đã phản ánh tương đối sát với quan hệ cung
- cầu ngoại tệ trên thị trường cũng như kỳ vọng về giá trị đối ngoại của VND.
Tuy đến nay chưa có một khiếu nại nào đối với việc không mua được ngoại tệ để
đáp ứng các giao dịch vãng lai và giao dịch vốn theo quy định nhưng thực tế khả
năng đáp ứng ngoại tệ của các NHTM không cao qua việc nhiều Dự án FDI vẫn yêu cầu
được Chính phủ đảm bảo cân đối ngoại tệ, vẫn tồn tại chế độ ưu tiên bán ngoại tệ
để nhập khẩu xăng dầu. Hơn nữa, lạm phát cao và nhập siêu gia tăng trong khi Dự
trữ ngoại hối Nhà nước còn hạn chế là những vấn đề đang và tiếp tục ảnh hưởng
tiêu cực đến tính chuyển đổi của VND.
b) Mức độ ĐLH
Tỷ lệ FCD/M2 liên tục giảm trong
những năm gần đây, đến năm 2003 còn 23,6%. Thanh toán và kinh doanh ngoại tệ vẫn
tiếp tục phát triển. Theo kết quả khảo sát năm 2002 của Đề tài nghiên cứu khoa
học ngành Ngân hàng, hoạt động của thị trường ngoại tệ tự do có quy mô từ 4 - 6
tỷ USD/năm, tương đương 1/3 kim ngạch nhập khẩu năm đó; theo nguyên Tổng Bí thư
Lê Khả Phiêu, số ngoại tệ trôi nổi ngoài thị trường tự do ước khoảng 5 tỷ USD.
ĐLH trong niêm yết, định giá bằng ngoại tệ còn phổ biến và Ban Tư tưởng - Văn
hoá Trung ương đã chỉ đạo các phương tiện thông tin đại chúng chấn chỉnh hiện tượng
này. Tuy nhiên đến năm 2004 khi lạm phát ở mức 9,5% và lãi suất USD trên thế giới
tăng, chênh lệch lãi suất giữa VND và ngoại tệ trong nước giảm thì tỷ lệ FCD/M2
đang có biểu hiện gia tăng trở lại, đạt gần 24%.
IV. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ TÍNH
CHUYỂN ĐỔI CỦA VND VÀ MỨC ĐỘ ĐÔ LA HOÁ
1. Tính chuyển đổi của VND
So sánh với các giai đoạn trước,
tính chuyển đổi trong nước của VND đã tăng rất nhiều do vị thế của VND liên tục
được nâng lên, chính sách quản lý ngoại hối đã thực hiện tự do hoá các giao dịch
vãng lai và tiếp tục tự do hoá có chọn lọc các giao dịch vốn. Khả năng đáp ứng
ngoại tệ của hệ thống ngân hàng cũng liên tục được cải thiện qua việc đổi mới
cơ chế tỷ giá và sự phát triển, hoàn thiện các công cụ phái sinh trên thị trường
ngoại tệ. Tuy nhiên, căn cứ vào trình độ phát triển của nền kinh tế, mức độ
ĐLH, trình độ của Hệ thống Ngân hàng, dịch vụ thanh toán, quy mô và hiệu quả hoạt
động của các thị trường tài chính, sự bất tiện trong sử dụng, và đặc biệt sự
gia tăng của chỉ số lạm phát thì có thể nói rằng, vị thế của VND chưa cao, chưa
được thị trường thực sự tin tưởng và ưa thích; về tính chuyển đổi quốc tế thì
VND hầu như vẫn chưa có khả năng chuyển đổi ở nước ngoài. Bên cạnh đó, chính
sách quản lý ngoại hối vẫn còn nhiều hạn chế, cơ chế tỷ giá còn thiếu linh hoạt,
thị trường ngoại tệ (nhất là thị trường ngoại tệ liên ngân hàng) còn kém phát
triển, chu chuyển ngoại tệ chưa thông suốt làm giảm khả năng đáp ứng ngoại tệ.
Các yếu tố trên đã hạn chế tính chuyển đổi của VND.
2. Mức độ ĐLH
Căn cứ mức độ sử dụng ngoại tệ để
thay thế các chức năng của VND thì mức độ ĐLH trong nền kinh tế khá trầm trọng.
Tỷ lệ FCD/M2 lúc lên cao, lúc hạ thấp, tuy nhiên, do tiết kiệm ngoại tệ được
rút ra bằng ngoại tệ tiền mặt nên không phản ánh được mức độ ĐLH thực sự. Vấn đề
gây hậu quả nhiều nhất là khối lượng ngoại tệ trôi nổi trong dân cư, không kiểm
soát được, gây ra hiện tượng thanh toán, định giá và kinh doanh ngoại tệ trái
phép. Nếu lấy lượng kiều hối chuyển về Việt Nam trong thời gian qua trừ đi số
ngoại tệ các ngân hàng huy động được của dân cư thì ước tính số ngoại tệ trôi nổi
ngoài thị trường bằng khoảng 1/3 kim ngạch nhập khẩu năm 2004.
3. Nguyên nhân của thực trạng
trên
- Tăng trưởng kinh tế còn chưa bền
vững, chưa thực sự dựa trên năng suất, chất lượng và hiệu quả. Việt Nam chưa ra
khỏi tình trạng kém phát triển và vẫn thuộc danh sách các nước nghèo.
- Hệ thống ngân hàng - tài chính
còn kém phát triển, chưa đạt trình độ tối thiểu của khu vực, các thị trường tài
chính hoạt động chưa đồng bộ và thiếu hiệu quả.
- Về chính sách :
+ Chính sách quản lý ngoại hối
còn có những quy định chặt chẽ không cần thiết, không tương xứng với trình độ
phát triển của nền kinh tế. Cơ chế tỷ giá chưa có tính thị trường cao.
+ Chu chuyển ngoại tệ trong nền
kinh tế còn bị ách tắc, nhất là việc sử dụng ngoại tệ trong chính sách tài
chính công làm cho khả năng đáp ứng ngoại tệ bị hạn chế và không phản ánh đúng
thực chất.
+ Chính sách tài chính - tiền tệ
chưa hướng tới mục tiêu kiểm soát lạm phát để tạo niềm tin lâu dài vào VND.
+ Còn có mâu thuẫn về chính sách
để thực hiện mục tiêu giảm tình trạng đô la hoá, chế tài chưa đủ mạnh.
Phần 3:
CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO
TÍNH CHUYỂN ĐỔI CỦA VND VÀ KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG ĐÔ LA HOÁ
I. MỤC TIÊU THỰC HIỆN ĐẾN NĂM
2010
Căn cứ định hướng phát triển
kinh tế của Đảng, yêu cầu của lộ trình hội nhập quốc tế trên cơ sở những yếu tố
kinh tế cơ bản tương đối ổn định như tốc độ tăng trưởng, kiểm soát tỷ giá và lạm
phát, dự trữ ngoại hối liên tục tăng, trong giai đoạn từ 2007 - 2010, chúng ta
cần đề ra mục tiêu thực hiện đầy đủ tính chuyển đổi của VND trong nước, tạo cơ
sở để nâng cao tính chuyển đổi quốc tế của VND và khắc phục việc sử dụng ngoại
tệ ở trong nước. Cụ thể như sau:
1. Nâng cao tính chuyển đổi của
VND
Thực hiện đầy đủ tính chuyển đổi
của VND ở trong nước, tạo cơ sở để nâng cao tính chuyển đổi quốc tế của VND
trong tương lai, với các mục tiêu cụ thể là:
- Tự do hoá hoàn toàn giao dịch
vãng lai, bước đầu xây dựng cơ chế để VND tham gia thanh toán xuất nhập khẩu.
- Tiếp tục tự do hoá có lựa chọn
các giao dịch vốn. Bước đầu cho VND tham gia quan hệ vay, trả nợ nước ngoài và
đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam.
2. Khắc phục từng bước tình
trạng ĐLH
Do tình trạng ĐLH chưa thể khắc
phục triệt để ngay trong thời gian ngắn, hơn nữa, trong giai đoạn này, ĐLH cũng
còn phát huy được một số mặt tích cực của nó nên sẽ khắc phục từng bước hiện tượng
ĐLH, cụ thể là:
- Nâng cao hiệu lực pháp lý của
các quy định về quản lý ngoại hối. Thu hẹp tiến tới xoá bỏ việc niêm yết, định
giá, thanh toán bằng ngoại tệ và kinh doanh ngoại tệ trái phép.
- Xoá bỏ chế độ thanh toán bằng
ngoại tệ trong nước.
- Có biện pháp thu hút số ngoại
tệ trôi nổi vào hệ thống ngân hàng.
- Xoá bỏ các chính sách gây tâm
lý đô la hoá.
II.
CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
Việc thực hiện mục tiêu nâng cao
tính chuyển đổi của VND và khắc phục từng bước tình trạng ĐLH trong nền kinh tế
nhằm tiến tới mục tiêu chung là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững. Công việc
này đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ của các cơ quan quản lý dưới sự chỉ đạo kiên
quyết của Chính phủ. Căn cứ chức năng, nhiệm vụ của các Bộ, ngành, Chính phủ chỉ
đạo một số giải pháp cần thực hiện ngay như sau:
1. Ngân hàng Nhà nước
a) Chính sách tiền tệ: thực hiện
từ năm 2007 đến năm 2010
- Chính sách tiền tệ phải đảm bảo
ổn định tương đối giá trị của đồng tiền, lấy kiểm soát lạm phát làm mục tiêu.
- Xây dựng hệ thống lãi suất chủ
đạo của NHNN để định hướng lãi suất thị trường. Chú trọng đến việc phối hợp giữa
chính sách lãi suất và chính sách tỷ giá để đảm bảo cân bằng lợi tức giữa việc
nắm giữ VND và ngoại tệ.
b) Chính sách tỷ giá: thực hiện
từ năm 2007
- Tiếp tục thực hiện cơ chế tỷ
giá linh hoạt, tương đối ổn định theo một “Rổ tiền tệ”, hướng vào mục tiêu đẩy
mạnh xuất khẩu và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Hoàn chỉnh 5 bước để tăng thêm
tính linh hoạt của tỷ giá: (i) Tự do hoá việc chuyển đổi giữa các ngoại tệ mạnh;
(ii) Tự do hoá các điểm kỳ hạn; (iii) Cho phép áp dụng nghiệp vụ quyền chọn giữa
VND với ngoại tệ; (iv) Nới rộng dần biên độ tỷ giá giao ngay; (v) Tự do hoá mức
phí trong nghiệp vụ quyền chọn giữa VND và ngoại tệ.
- Phát triển mạnh các nghiệp vụ
phái sinh trên thị trường ngoại hối phù hợp với thông lệ quốc tế. Tạo điều kiện
cho mọi tổ chức, cá nhân được tham gia thị trường ngoại tệ một cách công khai,
dễ dàng nhằm thực hiện mục tiêu là dịch vụ hoá cao độ các nghiệp vụ hối đoái,
bình thường hoá vai trò và ảnh hưởng của ngoại tệ.
c) Đổi mới về chính sách quản lý
ngoại hối theo hướng tự do hoá nhiều hơn
- Giao dịch vãng lai
+ Thực hiện tự do hoá các giao dịch
vãng lai theo Điều khoản VIII Điều lệ IMF (đã thực hiện từ năm 2006):
. Xoá bỏ hạn mức tuyệt đối
trên một số khoản chuyển tiền vãng lai của cá nhân ra nước ngoài (2007).
. Xoá bỏ hạn mức tuyệt đối
đối với việc thoái hối của người không cư trú (2007).
+ Xoá bỏ giấy phép mua, chuyển,
mang ngoại tệ của cá nhân ra nước ngoài với các mục đích học tập, du lịch, chữa
bệnh... (2007).
+ Xoá bỏ giấy phép chuyển ngoại
tệ tiền mặt ra nước ngoài của TCTD (2007).
+ Tạo điều kiện cho VND tham gia
quan hệ thanh toán xuất nhập khẩu (2007).
+ Giảm dần hạn chế mang VND ra,
vào lãnh thổ (2007).
+ Đảm bảo đáp ứng ngoại tệ đầy đủ
cho các giao dịch được phép (2007 - 2010).
- Giao dịch vốn:
+ Xoá bỏ quy định doanh nghiệp
nhà nước vay nước ngoài phải có ý kiến trước của NHNN (2007).
+ Nghiên cứu khả năng cho doanh
nghiệp Việt Nam là người cư trú vay nước ngoài bằng VND (2007).
+ Cho phép cá nhân là người cư
trú được vay trả nợ nước ngoài (2007).
+ Xoá bỏ hạn chế về ngoại hối đối
với đầu tư trực tiếp của Việt Nam ra nước ngoài (2007).
+ Đảm bảo đáp ứng ngoại tệ đầy đủ
cho các giao dịch được phép (2007 - 2010).
+ Nâng dần tỷ lệ được phép huy động
VND của ngân hàng nước ngoài áp dụng chung tương tự với cam kết của Hiệp định
thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ (2007 - 2010).
+ Đa dạng hoá các hình thức vay
nước ngoài (2007).
+ Xem xét cho các doanh nghiệp
được phép đầu tư gián tiếp ra nước ngoài khi đủ điều kiện (2007).
- Các biện pháp quản lý
việc sử dụng ngoại tệ trong nước:
+ Tăng cường thể chế pháp lý bằng
cách luật hoá các quy định về quản lý ngoại hối (đã thực hiện từ năm 2006).
+ Xoá bỏ giấy phép hoạt động kiều
hối và giấy phép lập bàn thu đổi ngoại tệ, chuyển sang kinh doanh có điều kiện
(2007).
+ Xoá bỏ chế độ thanh toán trực
tiếp bằng ngoại tệ tại Việt Nam của các đối tượng (2007).
+ Thu hẹp đối tượng được phép
vay ngoại tệ, chỉ cho vay phục vụ xuất khẩu (2007).
+ Tiếp tục thu hút ngoại tệ trôi
nổi vào hệ thống ngân hàng. Áp dụng các giải pháp kinh tế để chuyển dần quan hệ
huy động - cho vay trong nước bằng ngoại tệ của các tổ chức tín dụng sang quan
hệ mua - bán ngoại tệ. Sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ để hạ thấp dần
tỷ lệ FCD/M2 (2007 - 2010)
d) Tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước
Hạn chế sử dụng dự trữ ngoại hối
cho các nhu cầu chi của ngân sách nhà nước. Phấn đấu tăng dự trữ lên trên 18 -
20 tuần nhập khẩu (2006 - 2010).
đ) Các giải pháp bổ sung để tăng
cường sự thuận lợi khi sử dụng VND
- Phối hợp với các cơ quan quản
lý thực hiện nguyên tắc mọi giao dịch trên lãnh thổ Việt Nam đều sử dụng VND, kể
cả cửa hàng miễn thuế, trao giải thưởng, các khoản thuế, phí và lệ phí, thu của
các cơ quan ngoại giao và các người không cư trú khác (2007).
- Tăng cường các dịch vụ, tiện
ích ngân hàng sử dụng VND, đặc biệt là hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt
(2007 - 2010).
- Nghiên cứu việc đổi mới mệnh
giá của VND theo hướng tạo thuận tiện trong sử dụng (2008).
2. Bộ Tài chính
- Áp dụng các giải pháp để phát
triển thị trường vốn bằng VND (2007 - 2010).
- Tính toán lượng ngoại tệ cần
giữ lại cho Quỹ ngoại tệ tập trung để chi tiêu phù hợp với Luật Ngân sách và
xác định các nguyên tắc cơ bản trong việc bán ngoại tệ cho NHNN (Dự trữ ngoại hối
Nhà nước) (2007).
3. Bộ Thương mại
- Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước
tạo điều kiện cho VND tham gia quan hệ thanh toán xuất nhập khẩu (2007).
- Giảm và tiến tới xoá bỏ danh mục
ưu tiên bán ngoại tệ cho nhập khẩu mặt hàng thiết yếu trên cơ sở đảm bảo đáp ứng
đầy đủ nhu cầu ngoại tệ hợp pháp (2008).
4. Bộ Kế hoạch và Đầu tư
- Cho phép nhà đầu tư nước ngoài
sử dụng VND tham gia góp vốn đầu tư trực tiếp tại Việt Nam để người nước ngoài
chấp nhận VND trong thanh toán (2008).
- Giảm và tiến tới xoá bỏ các
quy định về cân đối ngoại tệ đối với doanh nghiệp FDI (2008).
5. Bộ Công an
Bộ Công an chủ trì, phối hợp với
Ngân hàng Nhà nước, cơ quan quản lý thị trường, Ủy ban nhân dân các cấp để:
- Tăng cường công tác kiểm tra,
xử lý các vi phạm về chính sách quản lý ngoại hối như niêm yết giá, định giá,
thanh toán, kinh doanh trái phép bằng ngoại tệ (2007).
- Tăng cường công tác chống buôn
lậu ở khu vực biên giới (2007).
6. Bộ Văn hoá - Thông tin
Bộ Văn hoá - Thông tin chủ trì,
phối hợp với Ngân hàng Nhà nước tổ chức cung cấp thông tin cho các cơ quan
thông tin đại chúng về chính sách của Nhà nước phục vụ cho việc nâng cao tính
chuyển đổi của VND; mở các lớp tập huấn cho các cơ quan này về các giải pháp được
Chính phủ ban hành. Chỉ đạo, tổ chức tốt công tác thông tin, tuyên truyền góp
phần tạo chuyển biến tốt về nhận thức trong việc thực hiện các giải pháp nâng
cao tính chuyển đổi của VND và khắc phục tình trạng đô la hóa (2007)./.