NGÂN
HÀNG NHÀ NƯỚC
VIỆT NAM
******
|
VIỆT
NAM
DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
68-QĐ
|
Hà
Nội, ngày 22 tháng 02 năm 1961
|
QUYẾT ĐỊNH
BAN HÀNH THỂ LỆ VÀ BIỆN PHÁP TẠM THỜI CHO VAY NGẮN HẠN ĐỐI VỚI
CÁC TỔ CHỨC CUNG TIÊU
TỔNG GIÁM ĐỐC NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
Căn cứ Sắc lệnh số 15-SL ngày
06 tháng 5 năm 1951 thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam;
Thi hành Thông tư số 215-TTg ngày 22-9-1960 của Thủ tướng Chính phủ về việc
chuyển các tổ chức cung tiêu thành xí nghiệp kinh doanh theo chế độ hạch toán
kinh tế và giao trách nhiệm cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nghiên cứu và ban
hành thể lệ cho vay;
Căn cứ Công văn số 264/TN ngày 4 tháng 2 năm 1961 của Thủ tướng Chính phủ đồng
ý về nội dung bản thể lệ và biện pháp tạm thời cho vay đối với các tổ chức cung
tiêu.
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. –
Ban hành Thể lệ và biện pháp tạm thời cho vay ngắn hạn đối
với các tổ chức cung tiêu.
Điều 2. –
Thể lệ và biện pháp cho vay này được áp dụng kể từ ngày
ban hành.
Điều 3. –
Các ông Chánh văn phòng, Giám đốc Vụ, Cục ở Ngân hàng
trung ương và các ông Trưởng Chi nhánh Ngân hàng toàn quốc chịu trách nhiệm thi
hành quyết định này.
|
TỔNG
GIÁM ĐỐC NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
Lê Viết Lượng
|
THỂ LỆ VÀ BIỆN PHÁP TẠM THỜI CHO VAY NGẮN HẠN CỦA NGÂN HÀNG NHÀ
NƯỚC VIỆT NAM
ĐỐI VỚI CÁC TỔ CHỨC CUNG TIÊU
Chương 1:
ĐIỀU KHOẢN CHUNG
Mục A - MỤC
ĐÍCH CHO VAY
Điều 1. –
Ngân hàng Nhà nước cho các tổ chức cung tiêu vay nhằm mục
đích:
1. Giúp cho các các tổ chức
cung tiêu thanh toán kịp thời tiền mua hàng cho các đơn vị bán, thực hiện kế hoạch
dự trữ bảo đảm cung cấp hàng hoá cho các xí nghiệp, công trình xây dựng;
2. Thông qua công tác cho
vay ngắn hạn, Ngân hàng làm nhiệm vụ kiểm soát bằng đồng tiền hoạt động của các
tổ chức cung tiêu, thúc đẩy các tổ chức này tăng nhanh tốc độ luân chuyển vốn,
sử dụng vốn hợp lý, giảm bớt phí tổn lưu thông, củng cố chế độ hạch toán kinh tế.
Mục B - ĐIỀU
KIỆN CHO VAY
Điều 2. –
Ngân hàng Nhà nước cho các tổ chức cung tiêu vay vốn ngắn
hạn theo các điều kiện sau đây:
1. Các tổ chức cung tiêu
được vay vốn phải là những xí nghiệp đã thi hành chế độ hạch toán kinh tế,
nghĩa là phải có tư cách pháp nhân, được quyền ký hợp đồng giao dịch, có quyền
được trực tiếp vay Ngân hàng, đã được xét định vốn và được Nhà nước cấp vốn
riêng, v.v…
2. Các tổ chức cung tiêu
phải chấp hành nghiêm chỉnh các nguyên tắc cho vay ngắn hạn, tức là phải trả số
tiền vay đúng kỳ hạn, chỉ được dùng số tiền vay vào những mục đích nhất định
ghi trong kế hoạch và theo mức thực hiện kế hoạch, số tiền vay phải đảm bảo sử
dụng vào việc mua vật tư.
3. Trước mỗi kỳ kế hoạch,
tổ chức cung tiêu phải gửi đến Ngân hàng các bảng kế hoạch cung cấp vật tư, kế
hoạch tài vụ, kế hoạch vay vốn và sau kỳ kế hoạch thì gửi đến cho Ngân hàng các
báo cáo về tình hình thực hiện các kế hoạch ấy và các tài liệu báo cáo kế toán
khác.
Mục C - ĐỐI
TƯỢNG CHO VAY
Điều 3. –
Ngân hàng Nhà nước chi cho các tổ chức cung tiêu vay về
vốn hàng hoá, bao gồm hàng hoá trên đường, hàng đang gia công, hàng gửi nơi
khác giữ hộ, hàng hoá trong kho, kể cả những hàng hoá không qua kho trong trường
hợp việc luân chuyển hàng không qua kho nay có sự tham gia thanh toán của tổ chức
cung tiêu. Hàng hoá thuộc đối tượng cho vay nói ở đây gồm có nguyên vật liệu,
phụ tùng sửa chữa, thiết bị lẻ dùng vào sản xuất cũng như hàng thiết bị lẻ dùng
vào xây dựng cơ bản.
Điều 4. –
Ngoài các hàng hoá nói trên, những loại vật tư sau đây
không thuộc đối tượng cho vay ngắn hạn của Ngân hàng Nhà nước:
1. Hàng thiết bị toàn bộ,
bao gồm tiền chi phí vận chuyển hàng thiết bị toàn bộ;
2. Hàng sưu tập trong nước;
3. Vật tư ứ đọng;
Đó là những loại vật tư không
thuộc phạm vi kinh doanh của tổ chức cung tiêu.
4. Nguyên vật liệu (không
thuộc phần hàng hoá);
5. Nhiên liệu;
6. Bao bì;
7. Vật rẻ tiền mau hỏng;
8. Phí đợi phân bổ.
Đó là những khoản vốn định mức
không phải hàng hoá đã được Nhà nước cấp vốn tự có cả 100%.
9. Hàng nhập về lỡ kế hoạch
hoặc sớm quá hoặc muộn quá mà trong năm kế hoạch không sử dụng đến, hoặc vượt mức
dự trù cần thiết cho quý I năm sau. Đối với những loại hàng này, Ngân hàng Nhà
nước sẽ cùng với Bộ Tài chính và Bộ hoặc ngành chủ quản quyết định cho chuyển
sang loại vật tư ứ đọng hay thuộc loại đối tượng cho vay đặc biệt nói ở dưới
đây.
Mục D - LOẠI
CHO VAY
Điều 5. –
Căn cứ vào tính chất và đặc điểm kinh doanh hiện nay của
các tổ chức cung tiêu, và dựa theo nội dung kinh tế khác nhau của việc sử dụng
vốn, Ngân hàng Nhà nước tạm thời quy định các loại cho vay sau đây:
1. Cho vay để trả tiền
hàng hoá không qua kho, gọi tắt là “loại cho vay hàng không qua kho”;
2. Cho vay luân chuyển
hàng hoá qua kho, gọi tắt là “loại cho vay hàng qua kho”;
3. Loại cho vay đặc biệt
thuộc phần vốn của Tài chính chuyển sang Ngân hàng cho vay.
Ngoài các loại cho vay chính
trên đây có liên quan đến nghiệp vụ kinh doanh cơ bản của các tổ chức cung
tiêu, Ngân hàng Nhà nước còn cho vay:
- Về nhu cầu tạm thời;
- Cho vay thanh toán;
- Cho vay vốn sửa chữa lớn: như
đối với các tổ chức Mậu dịch quốc doanh.
Chương 2:
NỘI DUNG CÁC LOẠI CHO
VAY
Mục A – CHO
VAY HÀNG KHÔNG QUA KHO
Điều 6. –
Ngân hàng Nhà nước cho các tổ chức cung tiêu vay để trả
các khoản tiền hàng không qua kho, căn cứ vào các giấy tờ thanh toán của đơn vị
bán hàng, hoặc căn cứ vào giấy tờ xin vay và thanh toán của tổ chức cung tiêu.
Để phân biệt với loại cho vay hàng qua kho, trên các giấy tờ thanh toán này phải
chú thích thêm khoản “Thanh toán hàng không qua kho”.
Điều 7. –
Mức tiền cho vay mỗi lần bằng trị giá hàng hoá đã chuyên
chở thẳng cho các đơn vị mua hàng và được ghi trên các giấy tờ thanh toán. Số
tiền vay phải được chuyển trả thẳng cho đơn vị bán hàng.
Điều 8. –
Sau khi được vay về khoản hàng không qua kho, tổ chức
cung tiêu phải làm ngay giấy đòi nợ đơn vị mua hàng.
- Đối với những loại hàng chuyển
thẳng đến đơn vị mua hàng, nếu quá hạn 3 ngày mà tổ chức cung tiêu vẫn không
làm giấy tờ thanh toán, thì Ngân hàng bắt buộc phải thu hồi nợ về từ tài khoản
tiền gửi, nếu tài khoản tiền gửi không đủ tiền thì sẽ phải chuyển qua nợ quá hạn;
- Đối với những loại hàng trung
chuyển, thì tuỳ theo tình hình giao nhận cụ thể ở ga hay cảng, Ngân hàng và tổ
chức cung tiêu sẽ thoả thuận với nhau về thời hạn cần thiết phải làm xong giấy
tờ thanh toán. Nếu để quá thời hạn ấy, Ngân hàng sẽ tiến hành thu hồi nợ như
trường hợp trên.
Điều 9. -
Thời hạn cho vay về khoản hàng không qua kho được ấn định
tuỳ theo:
- Thời gian làm giấy tờ đòi nợ
đơn vị mua hàng, nếu làm giấy tờ đòi nợ ngay khi vay vốn thì không tính thời
gian này nữa;
- Thời gian cần thiết để làm các
thủ tục thanh toán và luân chuyển giấy tờ trong việc thanh toán giữa 2 địa
phương hay trong cùng một thành phố.
Mặc dù thời hạn cho vay được ấn
định theo thời gian cần thiết để thanh toán, nhưng Ngân hàng có thể thu nợ trước
hạn nếu:
- Đơn vị mua hàng thanh toán được
sớm,
- Hoặc khi đơn vị mua hàng từ chối
chấp nhận trả.
Trường hợp nợ đến hạn, nhưng
Ngân hàng chưa nhận được giấy báo của Ngân hàng bên mua, thì có thể cho gia hạn
cho đến khi nào nhận được giấy báo của Ngân hàng bên mua cho biết về lý do
không trả mới tiến hành thu hồi số tiền đã cho vay.
Điều 10. –
Tổ chức cung tiêu chỉ được dùng số tiền thanh toán của
đơn vị mua hàng để trả nợ về khoản đã vay về hàng không qua kho, và khi tiến
hành thu nợ, Ngân hàng chỉ thu số tiền trị giá hàng hoá theo giá vốn, còn số tiền
thủ tục phí thu thêm sẽ được ghi vào tài khoản tiền gửi của tổ chức cung tiêu.
Mục B – CHO
VAY HÀNG QUA KHO
Điều 11. –
Ngân hàng Nhà nước cho các tổ chức cung tiêu vay để trả
tiền mua hàng căn cứ vào các giấy tờ thanh toán của đơn vị bán hàng, hoặc căn cứ
vào giấy tờ xin vay và thanh toán của tổ chức cung tiêu. Trên các giấy tờ thanh
toán thuộc loại vay này phải có khoản chú thích “thanh toán hàng qua kho”. Số
tiền vay sẽ được ghi thẳng cho đơn vị bán hàng.
Điều 12. –
Tất cả các khoản tiền bán hàng theo giá vốn phải được
dùng vào trả nợ về khoản cho vay hàng qua kho. Số tiền chênh lệch thu thêm
trong số tiền bán hàng sẽ được chuyển vào tài khoản tiền gửi thanh toán để tổ
chức cung tiêu sử dụng. Để giúp Ngân hàng có căn cứ phân tích được các khoản
thu hồi nợ và thu tiền gửi, trên các giấy tờ đòi nợ người mua hàng, tổ chức
cung tiêu phải chú thích rõ các phần thuộc giá vốn hàng hoá bán ra và khoản thu
thêm.
Tiền bán hàng nói ở đây là khoản
thu về việc bán hàng thuộc vốn kinh doanh của tổ chức cung tiêu, còn các khoản
thu tiền bán hàng không thuộc vốn kinh doanh của tổ chức cung tiêu như tiền bán
các vật tư ứ đọng, bán các nguyên vật liệu hoặc tài sản khác, thì Ngân hàng ghi
thẳng vào tài khoản tiền gửi thanh toán của tổ chức cung tiêu.
Điều 13. –
Để việc luân chuyển vốn được nhanh, trong các trường hợp
bán hàng theo hình thức thanh toán nhờ thu nhận trả, tổ chức cung tiêu có thể đề
nghị Ngân hàng cho vay về “giấy tờ thanh toán trên đường đi” để trả bớt khoản
đã vay về hàng qua kho. Khi giấy đòi nợ được đơn vị mua hàng chuyển tiền trả,
Ngân hàng sẽ thu nợ về khoản cho vay thanh toán và ghi số thu thêm vào tài khoản
tiền gửi của tổ chức cung tiêu.
Điều 14. –
Hàng tháng Ngân hàng sẽ tính toán điều chỉnh “nợ về hàng
qua kho” một lần vào khoảng thời gian từ ngày đầu tháng đến ngày 10 tháng sau.
Để Ngân hàng có tài liệu tính toán điều chỉnh nợ chính xác, các tổ chức cung
tiêu phải gửi đến Ngân hàng các báo biểu kế toán hàng tháng và tình hình dự trữ
vật tư cuối tháng. Nếu sắp đến kỳ điều chỉnh nợ mà chưa làm xong các báo biểu kế
toán, thì tổ chức cung tiêu có thể báo cáo trước cho Ngân hàng những chi tiêu về
tình hình thực hiện luân chuyển hàng hoá qua kho, và hàng hoá không qua kho,
tình hình tồn kho vật tư cuối tháng.
Khi điều chỉnh nợ, Ngân hàng sẽ
kiểm tra:
1. Việc trả nợ thực tế với
giá vốn hàng bán ra thực tế. Nếu việc trả nợ trong tháng trước ít hơn số tiền
hàng bán ra tính theo giá vốn thì Ngân hàng sẽ thu nợ thêm, nếu ngược lại nhiều
hơn, thì Ngân hàng cũng có thể cho vay thêm.
2. Số dư nợ về hàng qua
kho với số hàng hoá đảm bảo. Khi tính toán hàng hoá đảm bảo có chú ý cả khoản
hàng hoá đã xuất bán nhưng chưa kịp làm giấy tờ thanh toán, và loại trừ các khoản
sau đây:
- Hàng hoá ứ đọng đã được (hoặc
chưa được) Bộ Tài chính cấp vốn riêng.
- Hàng chưa trả tiền cho người
bán.
- Hàng hoá vượt mức kế hoạch dự
trữ (phần vượt kế hoạch dự trữ này sẽ được vay về vốn nhu cầu tạm thời nếu như
việc dự trữ vượt kế hoạch đó là do hoàn cảnh khách quan gây nên).
- Vốn tự có trong hàng hoá (tính
theo định mức duyệt cấp vốn hàng năm).
Sau khi tính toán nếu thấy nợ
không đủ đảm bảo thì Ngân hàng sẽ thu hồi khoản nợ thiếu đảm bảo, ngược lại nếu
gặp trường hợp có thừa đảm bảo thì Ngân hàng xét có thể cho vay thêm để trả cho
người có nợ.
Điều 15. – Qua các kỳ điều
chỉnh nợ hàng tháng, nếu tổ chức cung tiêu phải chịu nợ quá hạn vì không đủ tiền
trả các khoản nộp thêm về tiền bán hàng, về tiền nợ thiếu đảm bảo, thì Ngân
hàng bắt buộc phải hạn chế việc cho vay để mua hàng cho đến khi thanh toán hết
nợ quá hạn.
Nếu tình trạng nợ quá hạn xảy ra
liên tiếp trong các tháng của quý kế hoạch thì Ngân hàng sẽ báo cho Bộ hoặc Cục
chủ quản biết và nếu cần thì đình chỉ cho vay hoặc vẫn tiếp tục cho vay nhưng
phải có sự đảm bảo của Bộ hoặc Cục chủ quản.
Mục C – CHO
VAY ĐẶC BIỆT
Điều 16. –
Ngân hàng Nhà nước cho tổ chức cung tiêu vay vốn đặc biệt
trong các trường hợp:
1. Khi các tổ chức cung
tiêu dự trữ một số hàng hoá cũ chậm tiêu thụ, nhưng chưa đủ tiêu chuẩn liệt vào
loại hàng ứ đọng nên không được Nhà nước cấp vốn riêng;
2. Hoặc tổ chức cung tiêu
phải nhận một số hàng phải mua không đúng kế hoạch (về sớm hay về muộn) quá
niên độ kế hoạch hoặc vượt mức dự trữ cần thiết cho quý I năm sau và những hàng
đó cũng không thể coi là hàng ứ đọng được.
Điều 17. –
Nguồn vốn cho vay đặc biệt không phải là khoản vốn huy động
ngắn hạn của Ngân hàng, mà do vốn của Bộ Tài chính chuyển sang, vì thế khi tổ
chức cung tiêu sử dụng đến các loại hàng thuộc đối tượng cho vay đặc biệt, thì
Ngân hàng sẽ thu hồi vốn để trả lại cho Bộ Tài chính.
Để giúp cho Ngân hàng có thể
theo dõi việc sử dụng các khoản cho vay đặc biệt, tổ chức cung tiêu phải có sổ
sách ghi chép riêng về các loại hàng hoá thuộc đối tượng cho vay đặc biệt và
thường xuyên có báo cáo riêng về tình hình dự trữ các loại hàng hoá này cho
Ngân hàng.
Chương 3:
LỢI SUẤT CHO VAY
Điều 18. –
Lợi suất cho vay được ấn định riêng theo từng loại cho
vay:
1. Cho vay hàng không qua
kho theo lợi suất áp dụng đối với các khoản cho vay thanh toán (hiện nay là
0,2% một tháng).
2. Cho vay hàng qua kho
theo như lợi suất cho vay dự trữ vật tư trên định mức trong các xí nghiệp công
nghiệp quốc doanh (hiện nay là 0,4% một tháng).
3. Cho vay đặc biệt áp dụng
định mức lợi suất 0,1% một tháng.
Chương 4:
ĐIỀU KHOẢN CHUNG
Điều 19. -
Thể lệ và biện pháp cho vay ngắn hạn đối với các tổ chức
cung tiêu này đã được Thủ tướng Chính phủ đồng ý và ông Tổng giám đốc Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam ban hành theo Quyết định số 68/QT ngày 22 tháng 2 năm 1961.