NGÂN
HÀNG QUỐC GIA
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
170-KH
|
Hà
Nội, ngày 07 tháng 05 năm 1958
|
CHỈ THỊ
VỀ VIỆC CHO VAY THANH TOÁN TRONG KHU VỰC KINH TẾ QUỐC DOANH
VÀ HỢP TÁC XÃ
Tổ chức thanh toán không dùng
tiền mặt về các giao dịch hàng hóa và cho vay thanh toán là hai mặt của công
tác thanh toán của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam đối với các tổ chức kinh tế
trong khu vực quốc doanh và hợp tác xã. Trong thời gian thanh toán, lúc hàng
hóa đang vận chuyển trên đường, các xí nghiệp sẽ thiếu vốn, Ngân hàng sẽ cho
vay thanh toán để giúp các xí nghiệp giải quyết khó khăn, làm cho sản xuất và
kinh doanh của các xí nghiệp được liên tục bảo đảm, không vì vốn đọng trong
hàng hóa đang vận chuyển trên đường mà bị gián đoạn.
Chấp hành nghị định số 144-TTg
ngày 9/4/1957 của Thủ tướng Chính phủ, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam đã ban hành
ngày 7/5/1957 chỉ thị số 168-KH quy định các nguyên tắc và hình thức thanh toán
không dùng tiền mặt qua Ngân hàng về các giao dịch hàng hóa giữa các tổ chức
kinh tế. Nay Ngân hàng Quốc gia Việt Nam ban hành chỉ thị này quy định các hình
thức cho vay thanh toán cần thiết cho các tổ chức kinh tế trong khu vực kinh tế
quốc doanh và hợp tác xã.
I. MỤC ĐÍCH
CHO VAY THANH TOÁN.
Ngân hàng Quốc gia Việt Nam cho
vay thanh toán đối với các xí nghiệp quốc doanh và hợp tác xã mua bán, nhằm các
mục đích:
a) Giải quyết nhu cầu vốn
cho các tổ chức kinh tế, đảm bảo thanh toán tiền hàng được kịp thời, để hoạt động
kinh doanh của họ không bị gián đoạn vì thiếu vốn trong thời gian thanh toán.
b) Thông qua công tác cho
vay thanh toán, Ngân hàng Quốc gia tổ chức thực hiện các thanh toán không dùng
tiền mặt, theo dõi, tiến lên kiểm soát tình hình mua bán, tình hình vận động
hàng hóa của tổ chức kinh tế.
c) Nhờ Ngân hàng Quốc
gia cho vay thanh toán, Nhà nước không phải cấp cho xí nghiệp vốn lưu động
trong qúa trình thanh toán. Điều đó tiết kiệm được vốn cấp phát của Nhà nước,
thúc đẩy các tổ chức kinh tế tăng gia tốc độ luân chuyển của hàng hóa và tiền tệ,
khắc phục được mọi hiện tượng tín dụng thương mại giữa các tổ chức kinh tế xã hội
chủ nghĩa.
Căn cứ các hình thức thanh toán
quy định trong chỉ thị số 168-KH về thanh toán không dùng tiền mặt, Ngân hàng
Quốc gia tạm thời quy định các hình thức cho vay thanh toán sau đây:
1. Cho vay về giấy tờ thanh toán
trên đường đi (hay là cho vay thanh toán trong hình thức thanh toán theo lối nhờ
thu nhận trả).
2. Cho vay để thanh toán theo
thư tín dụng.
3. Cho vay để thanh toán theo
tài khoản đặc biệt.
II. CÁC HÌNH
THỨC CHO VAY THANH TOÁN.
A. CHO VAY
VỀ GIẤY TỜ THANH TOÁN TRÊN ĐƯỜNG ĐI (HAY CHO VAY THEO LỐI THANH TOÁN NHỜ THU NHẬN
TRẢ).
Loại thanh toán giữa hai địa
phương khác nhau:
Hình thức cho vay về giấy tờ
thanh toán về hàng hóa trên đường đi chỉ áp dụng cho những đơn vị bán hàng
trong cách thanh toán theo lối nhờ thu nhận trả tiền giữa hai địa phương.
Đơn vị bán sau khi đã gửi hàng
hóa cho đơn vị mua, hàng hóa còn đang trên đường đi và đơn vị mua chưa kịp trả
tiền. Việc thanh toán giữa đôi bên sẽ làm theo lối nhờ thu nhận qua ngân hàng.
Trong trường hợp này, Ngân hàng cho đơn vị bán vay.
Để đơn giản bớt thủ tục và trong
điều kiện, không trở ngại gì đến việc luân chuyển vốn của xí nghiệp, tất cả những
số tiền nhờ thu hộ dưới 500.000 đồng Ngân hàng Quốc gia không cho vay.
a) Đối tượng cho vay.
1. Ngân hàng Quốc gia cho vay
thanh toán theo lối nhờ thu nhận trả về các giấy tờ thanh toán sau đây:
- Các giấy đòi nợ xuất trình
Ngân hàng để nhờ thu nhận trả về các thanh toán hàng hóa ở các địa phương khác
nhau.
- Các hóa đơn gộp những số tiền
nhỏ dưới mức tối thiểu đã ấn định trên về các thanh toán ở các địa phương khác
nhau.
Sau khi đã gửi hàng xong, đơn vị
bán hàng muốn vay tiền phải tới Ngân hàng xuất trình các giấy tờ trên đây cùng
với các chứng từ vận tải, giấy chứng minh phẩm chất hàng hóa (nếu có), giấy nộp
thuế (nếu có) để làm bảo đảm cho việc vay Ngân hàng.
2. Thời hạn tới Ngân hàng xuất
trình các giấy tờ trên đây ấn định là ba ngày lao động (không tính ngày nghỉ) kể
từ ngày chuyên chở hàng hóa cho đơn vị mua (không tính ngày gửi). Trường hợp
đơn vị bán ở xa Ngân hàng 50 cây số, thời hạn đó có thể dài hơn, nhưng không
qúa 5 ngày.
Qúa thời hạn kể trên, sẽ không
được ngân hàng cho vay thanh toán, các giấy tờ đó chỉ được Ngân hàng nhận để
thu hộ.
b) Mức cho vay:
Ngân hàng cho vay về giấy tờ
thanh toán trên đường đi căn cứ vào hóa đơn bán hàng hoặc giấy đòi nợ. Ngân
hàng không cho vay toàn bộ số tiền gửi trên hóa đơn hay giấy đòi nợ, mà chỉ cho
vay các khoản sau đây:
- Giá thành hàng hóa theo kế hoạch.
- Chí phí vận tải (nếu đơn vị
bán phải ứng trước cho đơn vị mua).
- Chi phí về đóng gói bao bì (sẽ
đòi ở người mua).
- Tiền thuế (trong trường hợp phải
nộp tiền thuế hàng hóa ngay trước khi xuất kho giao hàng chuyển đi).
Như vậy khi cho vay, Ngân hàng sẽ
trừ bớt phần lợi nhuận thực tế, nếu lúc đó chưa tính được chính xác thì Ngân
hàng sẽ trừ bớt phần lợi nhuận theo kế hoạch.
Mỗi lần xin vay, đơn vị bán hàng
phải kê khai rõ ràng các khoản kể trên. Ví dụ:
- Giá thành kế hoạch
|
1.000.000đ
|
- Chi phí vận tải
|
100.000đ
|
- Chí phí đóng gói
|
100.000đ
|
- Thuế hàng hóa
|
300.000đ
|
- Lợi nhuận
|
200.000đ
|
Cộng
hóa đơn:
|
1.700.000đ
|
Ngân hàng trừ phần lợi nhuận
(200.000đ) và chỉ cho vay 1.500.000đ.
Nếu đơn vị mua cử người đến nhận
hàng rồi tự chuyên chở về và đóng luôn thuế hàng hóa, thì Ngân hàng trừ thêm phần
chi phí vận tải và thuế hàng hóa (100.000 + 300.000) và chỉ còn cho vay giá
thành và chi phí đóng gói: 1.100.00.
Về lợi nhuận, thường thường các
xí nghiệp cuối mỗi quý nộp cho Nhà nước một lần, cho nên trong qúy này có thể lấy
tỷ lệ lợi nhuận quý trước làm tỷ lệ khấu trừ trong quý này. Để tiện cho Ngân
hàng tính toán số tiền cho vay, cuối mỗi quý các xí nghiệp cần báo cáo cho Ngân
hàng biết tỷ lệ lợi nhuận nộp cho Nhà nước.
c) Thời hạn cho vay:
1) Thời hạn cho vay về các thanh
toán giữa hai địa phương khác nhau căn cứ vào thời gian cần thiết phương hướng
khác căn cứ vào thời gian cần thiết cho việc thanh toán theo lối nhờ thu nhận
giữa hai địa phương đó, nghĩa là:
- Thời gian hai lần bưu điện giữa
Ngân hàng phục vụ đơn vị bán và ngân hàng phục vụ đơn vị mua đi và về tuỳ xa gần
: x ngày.
- Thời gian cần thiết để đơn vị
mua chấp nhận và trả tiền: 5 hay 7 ngày.
- Thời gian làm thủ tục thanh
toán trong hai ngân hàng: 2 ngày.
Nếu số tiền nhờ Ngân hàng thu hộ
được chuyển bằng điện tín, thời gian luân chuyển giấy tờ căn cứ vào thời gian của
một lần chạy giấy tờ theo đường bưu điện cộng thêm thời gian của giấy tờ chạy
theo điện tín. Thí dụ: Từ Hà Nội đi Nam Định, thời gian của một lần chạy giấy của
giấy tờ chạy theo điện tín là 1 ngày, cộng là: 2 + 1 = 3 ngày.
Thời gian cho vay được tính từ
sau ngày đơn vị bán giao nộp đầy đủ vào Ngân hàng.
Thí dụ: đơn vị bán xuất trình
Ngân hàng hóa đơn hay giấy đòi nợ vào ngày 1 tháng 9, nếu thời hạn cho vay là
16 ngày, việc thu hồi nợ sẽ làm vào ngày 17 tháng 9 là thời hạn cuối cùng
(không tính ngày 1 tháng 9).
2) Mặc dù thời hạn cho vay ấn định
theo thời gian cần thiết để thanh toán, nhưng nếu đơn vị thanh toán được sớm
thì số tiền cho vay cũng phải hoàn trả lại sớm, chứ không nhất định theo ngày
tháng ghi trên khế ước. Trong trường hợp này, Ngân hàng có thể tiến hàng thu hồi
vốn trước khi hết hạn.
Trường hợp từ chối nhận hoặc
thiếu phương tiện trả:
Trường hợp đơn vị mua từ chối chấp
nhận một phần vì đơn vị bán tính sai trong hóa đơn hay giấy đòi nợ, ngân hàng sẽ
tự động thu hồi một phần số tiền vay tương đương với số tiền tính sai mặc dù
chưa đến hạn trả nợ.
Trường hợp nợ đã hết hạn, nhưng
Ngân hàng phục vụ đơn vị bán cũng chưa nhận được giấy tờ gì về việc đơn vị mua
thiếu phương tiện để trả hay từ chối chấp nhận, thì Ngân hàng bên bán sẽ chờ đến
khi nhận được giấy báo của Ngân hàng bên mua về lý do chưa trả mới tiến hành
thu hồi số tiền đã cho vay.
Trường hợp nợ đến hạn, nếu được
Ngân hàng bên mua báo cho biết rằng đơn vị mua chưa trả được, hoặc trả một phần
do nguyên nhân từ chối chấp nhận hoặc thiếu phương tiện, Ngân hàng bên bán sẽ tự
động thu hồi toàn bộ số tiền cho vay trong tài khoản thanh toán của đơn vị bán.
Nếu tài khoản thanh toán hết tiền, Ngân hàng chuyển số tiền đó qua tài khoản “nợ
qúa hạn”.
d) Cách thức cho vay và thủ tục
giấy tờ:
a) Đối với những tổ chức
kinh tế bán hàng ít, 5, 7 ngày mới bán một chuyến hàng, Ngân hàng cho vay theo
từng chứng từ chấp nhận. Đơn vị bán sau khi đã gửi hàng đi, mang hóa đơn và giấy
đòi nợ tới Ngân hàng nhờ thu hộ và xin vay tiền. Khi đơn vị mua hàng trả tiền,
Ngân hàng thu nợ về. Lần sau muốn vay, đơn vị bán phải làm đơn xin vay lại. Đó
là cách cho vay thanh toán từng lần đối với những tổ chức kinh tế bán hàng
không thường xuyên đều đặn. Mỗi một giấy xin vay là một kỳ hạn nợ.
2) Đối với những tổ chức kinh tế
bán hàng nhiều (chủ yếu là những đơn vị thương nghiệp) có những chuyến chở sản
phẩm thường xuyên đều đặn, Ngân hàng có thể cho vay theo tài khoản định kỳ có
điều chỉnh.
Theo cách cho vay này, đơn vị
bán hàng lần đầu tiên phải làm đơn xin vay kèm với hóa đơn và giấy đòi nợ gửi
ngân hàng giữ tài khoản của mình. Ngân hàng xét và mở cho đơn vị bán một “Tài
khoản cho vay về giấy tờ thanh toán trên đường đi”. Trên tài khoản này Ngân
hàng cho vay liên tục và không bắt buộc đơn vị bán phải làm giấy nhận nợ có thời
hạn riêng cho từng trường hợp.
Thời hạn cho vay được ghi ngay
trong giấy nhờ, thu hộ của đơn vị bán, và giấy nhờ đòi nợ được dùng làm đảm bảo
cho tài khoản cho vay về giấy tờ thanh toán trên đường đi.
Trong phương pháp cho vay thanh
toán theo tài khoản, định kỳ có điều chỉnh, Ngân hàng mở hai tài khoản:
- Một tài khoản trong bản cân đối
(tài khoản cho vay về giấy tờ thanh toán trên đường đi) để kế toán theo dõi
tình hình các số tiền vay và trả nợ.
- Và một tài khoản ngoài bảng
cân đối để kế toán theo dõi tình hình các giấy tờ đòi nợ nhờ Ngân hàng thu hộ
dùng làm bảo đảm.
Số dư chênh lệch giữa hai tài
khoản trên làm căn cứ để Ngân hàng cho vay và thu hồi nợ.
Việc điều chỉnh đó làm như sau:
Lấy tổng số nợ trong tài khoản
cho vay về giấy tờ thanh toán trên đường đi so với số dư đảm bảo của các giấy
đòi nợ trong tài khoản ngoài bản cân đối. Nếu số tiền đảm bảo của các giấy đòi
nợ trong tài khoản ngoài bảng cân đối (không kể lợi nhuận) nhiều hơn số nợ
trong tài khoản cho vay về giấy tờ thanh toán trên đường đi, đơn vị bán hàng có
quyền vay không được nhiều hơn tổng số tiền ghi trên các giấy tờ dùng làm đảm bảo
(giấy nhờ thu). Ngân hàng cho vay và ghi số tiền vay thêm vào tài khoản cho vay
và ghi số tiền vay về giấy tờ thanh toán trên đường đi, rồi chuyển số tiền vay
đó qua tài khoản thanh toán của đơn vị bán.
Nếu số tiền đảm bảo của các giấy
đòi nợ trong tài khoản ngoài bảng cân đối ít hơn số nợ trong tài khoản cho vay
về giấy tờ thanh toán trên đường đi, đơn vị bán bắt buộc phải trả một phần số
tiền vay bằng số tiền chênh lệch. Ngân hàng sẽ tự động trích số tiền trả đó
trong tài khoản thanh toán của đơn vị bán.
Trường hợp tài khoản thanh toán
của đơn vị bán không có tiền, Ngân hàng chuyển số nợ qua tài khoản “nợ qúa hạn”.
3. Nếu đơn vị bán có những nợ nần
bên ngoài cần phải thu hồi một cách bắt buộc. Ngân hàng cứ cho vay thêm
trong phạm vi số thừa đảm bảo, mặc dù đơn vị bán không nhận tiền vay. Ngân hàng
sẽ dùng số tiền vay đó để trả những số nợ khác của đơn vị bán theo trật tự trước
sau như đã quy định trong chỉ thị số 168-KH ngày 7/5/1958 của Ngân hàng Quốc
gia Việt Nam.
Việc điều chỉnh tài khoản cho
vay về giấy tờ thanh toán trên đường đi làm theo định kỳ: một tuần lễ một lần
vào ngày thứ mấy do sự thỏa thuận của đơn vị bán và Ngân hàng.
Loại thanh toán trong một địa
phương.
Trường hợp đơn vị bán hàng
cho đơn vị mua cùng ở một địa phương, trong lúc chưa đòi được tiền bán hàng, xẩy
ra thiếu vốn hoạt động, Ngân hàng có thể cho vay. Đối tượng mức cho vay, các thủ
tục giấy tờ và các điều khoản khác, thi hành đúng như hình thức cho vay giấy tờ
thanh toán trên đường đi giữa hai địa phương khác nhau đã nói ở trên.
Về thời hạn cho vay thì tính từ
ngày gửi giấy tờ nhờ thu hộ để xin vay tiền đến ngày thu hồi được nợ tiền bán
hàng, cụ thể là:
- Thời gian cần làm việc ở hai
ngân hàng
- Thời gian chấp nhận
- Thời gian chuẩn bị trả tiền
|
2 ngày
2 ngày
2 ngày
|
|
6 ngày
|
B. CHO VAY
THANH TOÁN THEO THƯ TÍN DỤNG.
a) Đối tượng:
1. Ngân hàng quốc gia chỉ cho
vay thanh toán theo thư tín dụng đối với đơn vị mua hàng khác địa phương với
đơn vị bán.
Ngân hàng cho đơn vị mua vay để
thanh toán theo thư tín dụng trong hai trường hợp sau đây:
- Khi đơn vị mua phải thanh toán
với đơn vị bán về việc mua hàng hóa từng lần, bên bán chưa có quan hệ thường
xuyên với bên mua, hoặc bên bán thiếu tín nhiệm bên mua, đều phải dùng hình thức
thư tín dụng.
Những hàng hóa mua đó phải là những
hàng hóa trực tiếp cần thiết cho hoạt động kinh doanh chính của xí nghiệp. Ngân
hàng quốc gia không cho vay để thanh toán theo thư tín dụng đối với việc mua vật
liệu kiến thiết cơ bản.
Khi đơn vị mua phải thanh toán bằng
thư tín dụng như đã quy định trước trong hợp đồng giao dịch hàng hóa giữa hai
bên.
2. Đơn vị mua muốn xin vay để
thanh toán theo thư tín dụng về các việc mua hàng hóa từng lần, phải xuất trình
Ngân hàng quốc gia giấy báo của đơn vị bán cho biết hàng hóa đã sẵn sàng để
chuyên chở. Nếu xin vay để thanh toán theo thư tín dụng do hợp đồng quy định
trước, phải xuất trình Ngân hàng bản sao hợp đồng.
3. Trường hợp đơn vị mua có nợ
qúa hạn với Ngân hàng hay với đơn vị bán, nói chung không được Ngân hàng cho
vay để thanh toán theo thư tín dụng. Song, để giúp đỡ các tổ chức kinh tế giải
quyết các khó khăn tạm thời và thủ tiêu tình trạng nợ nần lẫn nhau, Ngân hàng
quốc gia có thể cho vay theo lệ ngoại trong các trường hợp sau đây:
1) Đơn vị mua dữ trữ thành phẩm
qúa mức tiêu chuẩn vì nguyên nhân:
- Thiếu phương tiện vận tải (hoặc
đường vận tải bị nghẽn như bão lụt…) cho nên số thành phẩm đó chưa có điều kiện
giao cho một đơn vị khác.
- Những khách hàng của đơn vị
này (đơn vị này mua để bán lại cho người khác) không thanh toán sòng phẳng nên
đơn vị này phải đình chỉ không chuyên chở hàng nữa, vì thế mà xẩy ra thiếu vốn
phải có nợ qúa hạn ở Ngân hàng.
2) Đơn vị mua có mức quy định về
dữ trữ vật tư theo mua và cần được vay theo thư tín dụng để mua các vật tư đó.
Nhưng nếu những khó khăn đó có
tính chất lâu dài, ngân hàng không cho vay để thanh toán theo thư tín dụng.
b) Mức cho vay:
Số tiền cho vay là số tiền của
thư tín dụng. Số tiền cho vay không bao giờ được nhiều hơn số tiền ghi trong
thư tín dụng. Sau khi đã sử dụng xong thư tín dụng, nếu hai bên mua và bán muốn
tiếp tục sử dụng thư tín dụng lần thứ hai, chứ không được tiếp vốn thêm vào thư
tín dụng lần thứ nhất.
c) Thời hạn cho vay:
1) Thời hạn cho vay để
thanh toán theo thư tín dụng là thời hạn có giá trị của thư tín dụng cộng với
thời gian gửi thư tín dụng giữa Ngân hàng phục vụ đơn vị bán và Ngân hàng phục
vụ đơn vị mua.
Thời gian có giá trị của thứ
tín dụng
|
30 ngày
|
Thời gian của hai lần chạy giấy
tờ theo đường bưu điện
|
x ngày
|
|
30 + x ngày
|
(Nếu gửi bằng điện báo, chỉ tính
một lần bưu điện từ ngân hàng bên bán Ngân hàng đến mua).
Trường hợp đặc biệt, thời hạn có
giá trị của thư tín dụng có thể dài hơn, những không qúa 45 ngày.
2) Đơn vị bán có thể gửi một lần
là hết tất cả số hàng hóa theo hợp đồng hay giấy đặt hàng cho đơn vị mua và nhận
một lần toàn bộ số tiền ghi trong thư tín dụng hoặc nếu cần, có thể chuyển giao
hàng làm hai lần thì nhận tiền theo thư tín dụng làm hai lần, trước khi hết thời
hạn có giá trị của thư tín dụng.
Vì vậy, đơn vị mua nhận được
hàng hóa chừng nào, phải trích trong tài khoản thanh toán trả lại ngay vốn cho
Ngân hàng chừng ấy, không được chờ đợi hết thời hạn thư tín dụng mới trả.
3) Việc điều chỉnh và thu hồi nợ
thư tín dụng quy định như sau:
- Mỗi lần được Ngân hàng phục vụ
đơn vị bản gửi giấy báo là đã trả tiền cho đơn vị bán rồi, Ngân hàng phục vụ
đơn vị mua sẽ căn cứ vào đó mà thu hồi dần số tiền đã cho vay, không phải đợi hết
thời hạn có giá trị của thư tín dụng mới thu hồi toàn bộ.
- Nếu đến hết hạn của thư tín mà
số tiền thư tín dụng không sử dụng hết, Ngân hàng cũng thu hồi nốt số tiền còn
lại để kết toán số nợ.
- Ngân hàng thu hồi nợ bằng cách
căn cứ số tiền ghi trong giấy báo thanh toán mà tự động trích trong tài khoản
thanh toán của đơn vị mua. Trường hợp tài khoản thanh toán của đơn vị mua không
có đủ số dư, Ngân hàng sẽ chuyển số nợ vào tài khoản “nợ qúa hạn” đợi khi tài
khoản thanh toán có tiền, Ngân hàng sẽ trích trả cho hết số nợ qúa hạn đó, đồng
thời đơn vị vay sẽ phải chịu một tỷ lệ tiền phạt nói ở mục III về lợi suất
cho vay thanh toán.
d) Thủ tục cho vay.
Đơn vị mua muốn xin vay tiền để
thanh toán theo thư tín dụng phải xuất trình Ngân hàng giữ tài khoản của mình
các giấy tờ sau đây:
- Đơn xin vay tiền trong đó ghi
rõ tên, địa chỉ, số tiền vay, mục đích vay tiền.
- Giấy nhận nợ về số tiền vay.
- Giấy báo của đơn vị bán hàng về
việc hàng hóa đã sẵn sàng để chuyển chở. Nếu đơn vị mua xin vay để thanh toán
các việc mua hàng từng lần, thì cần xuất trình bản sao hợp đồng quy định trước.
Ngân hàng xét, nếu thủ tục, nội
dung các giấy tờ xin vay được đầy đủ và đơn vị mua không có nợ qúa hạn, thì cho
vay.
Sau khi đơn vị mua trả hết nợ,
Ngân hàng xóa bỏ giấy nhận nợ và gửi lại cho đơn vị mua lần sau, muốn vay đơn vị
mua phải làm thủ tục lại và viết đơn xin vay khác.
C. CHO VAY
THANH TOÁN THEO TÀI KHOẢN ĐẶC BIỆT.
a) Đối tượng.
Ngân hàng quốc gia chỉ cho đơn vị
mua hàng vay để thanh toán theo tài khoản đặc biệt trong trường hợp Chính phủ
hay Ban Tổng giám đốc Ngân hàng quốc gia quyết định việc thanh toán phải làm
theo hình thức tài khoản đặc biệt. Hiện nay, hình thức này chỉ áp dụng rộng rãi
cho các xí nghiệp thương nghiệp thu mua nông lâm thổ hải sản trực tiếp của nông
dân hoặc thông qua hợp tác xã mua bán.
Ngoài ra, một số xí nghiệp đến
mua hàng ở địa phương khác, tự chuyển vận hàng về, cần tiền để chi phí về vận tải
bốc vác (về sau gộp vào giá mua), Ngân hàng cũng có thể cho vay tiền mua
hàng và tiền bốc vác vận tải.
Đối với các đơn vị mua có nợ qúa
hạn với Ngân hàng hay với các đơn vị bán, hoặc xin vay để mua vật kiến thiết cơ
bản, Ngân hàng quốc gia không cho vay để thanh toán theo tài khoản đặc biệt.
b) Mức cho vay:
Số tiền cho vay là số tiền
xin mở tài khoản đặc biệt. Trường hợp đơn vị mua cần thiết phải tiếp vốn thêm
vào tài khoản đặc biệt, Ngân hàng quốc gia cũng có thể cho vay thêm.
c) Thời hạn cho vay:
1) Khi tài khoản đặc biệt chuyển
theo thư thường, thời hạn cho vay ấn định là 30 ngày cộng với số ngày của hai lần
hành trình bưu điện tới Ngân hàng phục vụ đơn vị mua tới Ngân hàng phục vụ đơn
vị bán và ngược lại. Khi tài khoản đặc biệt được chuyển bằng điện báo, thời hạn
cho vay ấn định là 30 ngày cộng với số ngày của một lần hành trình Bưu điện từ
Ngân hàng phục vụ đơn vị bán.
2) Ngân hàng phục vụ đơn vị bán
cứ 10 ngày một lần phải gửi tới ngân hàng phục vụ đơn vị mua bản sao kê tài khoản
đặc biệt để chuyển giao cho đơn vị mua. Ngân hàng phục vụ đơn vị mua căn cứ vào
các số tiền đã sử dụng ghi trong bản kê mà tự động thu hồi vốn lại từ tài khoản
thanh toán của đơn vị mua.
Nếu trực tiếp mua của nông dân,
sẽ căn cứ báo cáo tuần kỳ 10 ngày của đơn vị mua, mà Ngân hàng tự động thu hồi
phần vốn đã sử dụng.
Nếu tài khoản thanh toán của đơn
vị mua không có tiền trả. Ngân hàng chuyển số nợ qua tài khoản “nợ qúa hạn” đợi
khi tài khoản thanh toán của đơn vị mua có tiền sẽ trích để trả.
Qúa kỳ hạn cho vay, Ngân hàng phục
vụ đơn vị mua thu hồi cả số tiền chưa dùng đến trên tài khoản đặc biệt, căn cứ
bản sao kê cuối cùng tài khoản đặc biệt của Ngân hàng phục vụ đơn vị bán gửi tới.
d) Thủ tục cho vay:
Đơn vị mua hàng muốn xin
vay để thanh toán theo tài khoản đặc biệt phải xuất trình Ngân hàng giữ tài khoản
của mình các giấy tờ sau đây:
- Đơn xin vay trong đó ghi rõ
tên và địa chỉ của đơn vị vay, số tiền xin vay, mục đích vay tiền.
- Giấy nhận nợ về số tiền vay.
Ngân hàng xét, nếu thủ tục, nội
dung các giấy tờ xin vay được đầy đủ và đơn vị mua không có nợ qúa hạn, thì cho
vay.
Sau khi đơn vị mua trả hết nợ,
Ngân hàng xóa bỏ giấy nhận nợ và gửi trả lại cho đơn vị mua. Lần sau, muốn vay,
đơn vị mua phải làm thủ tục lại và viết đơn xin vay khác.
III. LỢI SUẤT
CHO VAY THANH TOÁN.
1. Đối với các khoản cho vay
thanh toán, không phân biệt theo hình thức nào, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam sẽ
thu một tỷ lệ lãi là 0,3% mỗi tháng trên số tiền đã cho vay.
2. Trong trường hợp tài khoản
thanh toán hết tiền, Ngân hàng chuyển số tiền nợ qua tài khoản “nợ qúa hạn” và
phạt thêm 50% trên số tiền lãi đối với những ngày đã qúa hạn.
IV. NHIỆM VỤ
KIỂM SOÁT CỦA NGÂN HÀNG QUỐC GIA VIỆT NAM TRONG CÔNG TÁC CHO VAY.
Để đảm bảo chắc chắn các số
tiền cho vay và giúp đỡ các xí nghiệp thực hiện hạch toán kinh tế, Ngân hàng Quốc
gia có nhiệm vụ:
1. Kiểm soát đơn vị bán về
việc chấp hành đúng đắn các thể lệ thanh toán.
Nếu trường hợp đơn vị bán chưa gửi
hàng đi mà bảo là đã gửi đi rồi, tiền hàng có ít mà viết nhiều, giá hàng xấu viết
giá hàng tốt để được vay nhiều… Ngân hàng sẽ căn cứ vào tình hình thực tế (như
mức tiền nhiều hay ít, số lần vi phạm lỗi nhiều hay ít) mà xử lý cho thích hợp,
cụ thể là:
- Thực hiện kiểm soát hàng hóa tại
chỗ (khi thấy cần thiết).
- Đình chỉ cho vay thanh toán
trong một thời gian nhất định.
- Phạt bằng 1% số tiền của các
giấy đòi nợ chưa có hàng hóa gửi đi.
Nếu việc lạm dụng có tính chất hệ
thống và phạm vào hình luật (giả mạo giấy tờ), Ngân hàng bắt buộc phải đình chỉ
việc cho vay, đình chỉ việc nhận các giấy đòi nợ để thu hộ, đồng thời chuyển hồ
sơ lên Bộ sở quan để có biện pháp xử lý thích đáng.
Việc đình chỉ cho vay ở chi điểm
do chi nhánh Ngân hàng quyết định. Việc đình chỉ cho vay ở Chi nhánh do Ngân
hàng Trung ương quyết định. Riêng đối với các xí nghiệp quốc doanh thuộc Bộ
công nghiệp thì việc thi hành kỷ luật do Ngân hàng Trung ương xét và quyết định.
Khi đơn vị có nợ Ngân hàng tích
cực thi hành các biện pháp để thủ tiêu các sai lầm thiếu sót nói trên, Ngân
hàng có thể tiếp tục cho vay lại, nhưng việc phục hồi cho vay đó chỉ được thực
hiện khi nào có sự đồng ý của cấp Ngân hàng đã duyệt y việc đình chỉ trước đây.
2. Kiểm soát chặt chẽ đơn vị mua
về việc chấp hành nghiêm chỉnh kỷ luật thanh toán và kỷ luật trả. Nhất là trong
các trường hợp đơn vị mua từ chối chấp nhận, cán bộ tín dụng phải đi sâu điều
tra tìm ra nguyên nhân chính xác để tránh tình đơn vị mua lợi dụng việc từ chối
chấp nhận để chây lười trong việc trả, gây khó khăn cho việc thu hồi nợ của
Ngân hàng.
3. Kiểm soát hằng ngày tài khoản
ngoại bảng cân đối, để.
- Phát hiện ra các giấy đòi nợ
qúa hạn,
- Tìm ra những giấy đòi nợ xuất
trình hai lần về một hàng hóa.
- Tìm ra những chuyên chở hàng
hóa cho những người trả không sòng phẳng một cách có hệ thống…
Khi phát hiện ra những giấy đòi
nợ qúa hạn, mà trong một thời gian lâu không thấy Ngân hàng phục vụ đơn vị mua
trả lời, cán bộ tín dụng phải kiểm tra đơn vị bán tại chỗ xem các giấy đòi nợ
đó đã được trả chưa. Nếu đã trả rồi, phải loại ngay các giấy đòi nợ đó ra khỏi
đảm bảo, đồng thời báo cáo cho Trưởng chi nhánh Ngân hàng biết.
|
TỔNG
GIÁM ĐỐC
NGÂN HÀNG QUỐC GIA VIỆT NAM
Lê Viết Lượng
|