BỘ
NGOẠI THƯƠNG-BỘ TÀI CHÍNH
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
9-TC/NT
|
Hà
Nội , ngày 04 tháng 2 năm 1987
|
THÔNG TƯ LIÊN BỘ
CỦA BỘ TÀI CHÍNH-NGOẠI THƯƠNG SỐ 9-TC/NT NGÀY 4-2-1987 HƯỚNG
DẪN THI HÀNH CHẾ ĐỘ THƯỞNG KHUYẾN KHÍCH SẢN XUẤT VÀ GIAO HÀNG XUẤT KHẨU BẰNG TIỀN
VIỆT NAM
Hội đồng Bộ trưởng
đã ra Quyết định số 117-HĐBT ngày 15-6-1985 về chính sách, biện pháp đẩy mạnh
xuất khẩu và tăng cường quản lý xuất nhập khẩu, trong đó điều 14 quy định chế độ
thưởng bằng tiền Việt nam cho các hợp tác xã, tổ hợp, tập đoàn sản xuất hoàn thành
chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước về sản xuất và giao hàng xuất khẩu.
Liên bộ Tài chính-Ngoại thương
hướng dẫn thi hành điều 14 của Quyết định số 117-HĐBT như sau:
I.
MỤC ĐÍCH CỦA CHẾ ĐỘ THƯỞNG
Việc quy định chế độ
thưởng khuyến khích sản xuất và giao hàng xuất khẩu bằng tiền Việt Nam nhằm động
viên các hợp tác xã, tổ hợp và tập đoàn sản xuất (sau đây gọi tắt là các cơ sở
sản xuất tập thể) phấn đấu hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch sản xuất
và giao hàng xuất khẩu, tăng thu nhập cho người lao động, tạo thêm điều kiện vật
chất cho các cơ sở sản xuất tập thể mở rộng sản xuất, tăng khối lượng và chất
lượng hàng xuất khẩu.
II.
ĐỐI TƯỢNG VÀ ĐIỀU KIỆN ĐƯỢC THƯỞNG
A. Đối tượng được
thưởng là:
- Tổ hợp sản xuất,
- Tập đoàn sản xuất,
- Hợp tác xã sản xuất, đã hoàn
thành đầy đủ hợp đồng giao hàng xuất khẩu ký với các Liên hiệp Công ty xuất nhập
khẩu địa phương, Công ty chuyên doanh địa phương (Công ty mây tre, Công ty mỹ
nghệ...). Sau đây gọi chung là liên hiệp công ty xuất nhập khẩu địa phương, đối
với những hàng xuất khẩu mà Liên hiệp Công ty xuất nhập khẩu địa phương giao
cho Tổng Công ty xuất nhập khẩu Trung ương theo giá chỉ đạo của Nhà nước để
Trung ương xuất khẩu thu ngoại tệ về cho quỹ ngoại tệ tập trung của Nhà nước.
B. Điều kiện được thưởng:
- Các cơ sở sản xuất tập thể phải
hoàn thành đầy đủ hợp đồng với Liên hiệp Công ty xuất nhập khẩu địa phương về
phần hàng giao cho Trung ương xuất khẩu. Mức ký trên hợp đồng không được thấp
hơn chỉ tiêu kế hoạch về giao hàng xuất khẩu cho Trung ương do Uỷ ban Nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương giao cho cơ sở sản xuất tập thể (chỉ tiêu
mặt hàng xuất khẩu giao cho Trung ương do Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố giao
cho các cơ sở sản xuất tập thể trực thuộc không được thấp hơn chỉ tiêu kế hoạch
Trung ương giao cho các tỉnh, thành phố).
Hoàn thành hợp đồng có nghĩa là
các cơ sở sản xuất tập thể phải thực hiện đúng các điều khoản ghi trong hợp đồng,
chủ yếu là các điều khoản về;
- Số lượng và giá trị hàng hoá,
- Chủng loại, quy cách, phẩm chất
hàng hoá,
- Thời hạn giao hàng.
Việc điều chỉnh giảm số lượng hoặc
trị giá hàng hoá ghi trong hợp đồng ký giữa cơ sở sản xuất tập thể với Liên hiệp
Công ty xuất nhập khẩu địa phương chỉ có giá trị sau khi chỉ tiêu kế hoạch Nhà
nước giao cho Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố đã được điều chỉnh giảm. Thời hạn
điều chỉnh hợp đồng giữa các bên ký kết là 15 ngày kể từ ngày điều chỉnh kế hoạch
Nhà nước. Thời điểm điều chỉnh cuối cùng là ngày 30-9 hàng năm.
Nếu trong năm, vì điều kiện
khách quan Nhà nước không cung cấp đủ vật tư nguyên liệu (có văn bản xác nhận của
Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước) để cơ sở sản xuất tập thể làm hàng xuất khẩu giao cho
Trung ương thì cơ sở sản xuất tập thể được giảm tương ứng nghĩa vụ giao nộp
hàng xuất khẩu cho Trung ương.
Giá giao hàng xuất khẩu cho
Trung ương là gía chỉ đạo của Nhà nước, không xét thưởng trong những trường hợp
giao theo giá thoả thuận.
III.
MỨC THƯỞNG.
Căn cứ vào quyết định
số 177-HĐBT, các cơ sở sản xuất tập thể hoàn thành toàn diện chỉ tiêu kế hoạch
Nhà nước về sản xuất và giao hàng xuất khẩu thì được thưởng bằng tiền Việt nam
bằng 4%-5% giá trị hợp đồng (trừ giá trị vật tư Nhà nước cung ứng cho sản xuất).
Tỷ lệ thưởng cụ thể áp dụng cho
từng nhóm mặt hàng như sau:
a) Nông, lâm súc sản 5%
b) Hàng khác 4%.
Giá trị vật tư do Nhà nước cung ứng
được loại trừ khi tính thưởng là giá trị nguyên nhiên vật liệu được tổ chức xuất
nhập khẩu cung ứng cho các cơ sở sản xuất tập thể để sản xuất hàng hoá giao cho
Trung ương xuất khẩu.
Những căn cứ xác định khối lượng
giá trị vật tư, nguyên liệu Nhà nước cung ứng:
- Định mức kinh tế kỹ thuật về
tiêu hao nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu để sản xuất ra hàng xuất khẩu giao
cho Trung ương do cấp có thẩm quyền quy định.
- Khối lượng vật tư, nguyên liệu
do Nhà nước cung ứng.
- Giá vật tư, nguyên liệu do các
tổ chức xuất nhập khẩu bán cho các cơ sở sản xuất tập thể.
IV.
TỔ CHỨC VÀ QUẢN LÝ QUỸ TIỀN THƯỞNG
1. Lập và quản lý
quỹ thưởng. Để có nguồn tiền Việt Nam thưởng cho các cơ sở sản xuất tập thể
hoàn thành hợp đồng giao hàng xuất khẩu cho Trung ương, hàng năm khi lập kế hoạch
tài vụ, các tổ chức kinh doanh xuất nhập khẩu Trung ương được dự trù mức tiền
thưởng như sau:
- Đối với hàng nông lâm súc sản:
3% trên giá mua cơ sở.
- Đối với hàng hoá khác: 2% trên
giá mua cơ sở.
Các tổ chức kinh doanh xuất nhập
khẩu trung ương căn cứ vào các tỷ lệ trên lập tờ khai thu bù chênh lệch ngoại
thương khi hàng hoá được xuất khẩu và trích lập quỹ tiền thưởng khuyến khích xuất
khẩu bằng tiền Việt Nam.
Khi chuyển sang thực hiện việc
khoán tỷ giá cho các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu, thì các Tổng Công ty xuất
nhập khẩu trung ương được trích, theo các tỷ lệ quy định trên để thành lập quỹ
tiền thưởng khuyến khích xuất khẩu bằng tiền Việt Nam từ trong số tiền Việt Nam
mà Ngân hàng kết hối cho Tổng Công ty xuất nhập khẩu Trung ương theo tỷ giá
nhóm mặt hàng đã được Hội đồng tỷ giá xét duyệt.
Số tiền thưởng khuyến khích xuất
khẩu bằng tiền Việt Nam của các Tổng Công ty xuất nhập khẩu trung ương được ghi
vào 1 tài khoản ở Ngân hàng Ngoại thương và sử dụng theo điểm 2 dưới đây.
2. Cách thưởng, trình tự xét thưởng.
- Việc thưởng cần tiến hành ngay
sau khi cơ sở sản xuất tập thể hoàn thành hợp đồng và không quá ngày 30-6 của
năm sau năm kế hoạch.
- Sau khi các cơ sở sản xuất tập
thể hoàn thành hợp đồng giao hàng xuất khẩu cho Trung ương, các Liên hiệp Công
ty xuất nhập khẩu địa phương có trách nhiệm lập hồ sơ xét thưởng cho các cơ sở tập
thể có đủ điều kiện được thưởng.
- Các cơ sở sản xuất tập thể có
quyền khiếu nại với Bộ Ngoại thương khi thấy mình có đủ điều kiện được hưởng tiền
thưởng khuyến khích xuất khẩu bằng tiền Việt Nam mà không được thưởng.
Khi có khiếu nại, Bộ Ngoại
thương sẽ tiến hành kiểm tra. Nếu xác định được nguyên nhân cơ sở sản xuất
không được thưởng là do Liên hiệp Công ty xuất nhập khẩu địa phương không làm
thủ tục đề nghị xét thưởng thì Liên Bộ sẽ yêu cầu Liên hiệp Công ty xuất nhập
khẩu địa phương phải trích quỹ khen thưởng của mình để trả cho cơ sở sản xuất tập
thể đó với số tiền bằng số tiền mà họ được thưởng theo quy định trong Thông tư
này.
Hồ sơ xét thưởng cho các cơ sở sản
xuất gồm:
- Bản tính trị giá vật tư Nhà nước
cung ứng (mẫu số 1),
- Bản tính thưởng (mẫu số 2),
- Bản sao hợp đồng giữa cơ sở sản
xuất tập thể với Liên hiệp công ty xuất nhập khẩu địa phương,
- Bản tổng hợp tình hình giao chỉ
tiêu cho các cơ sở sản xuất tập thể (mẫu số 3).
Sau khi lập xong hồ sơ, xét thưởng,
Liên hiệp công ty xuất nhập khẩu địa phương chuyển hồ sơ cho tổ chức kinh doanh
xuất nhập khẩu Trung ương liên quan.
Khi nhận được hồ sơ xét thưởng,
các tổ chức kinh doanh xuất nhập khẩu Trung ương có trách nhiệm kiểm tra lại
các tài liệu đó, sau đó chuyển toàn bộ hồ sơ lên Bộ chủ quản, Bộ chủ quản xem
xét và ra quyết định thưởng cho các cơ sở sản xuất tập thể theo mẫu số 4 (lập 3
bản). Bộ chủ quản xét duyệt xong chuyển trả toàn bộ hồ sơ cho tổ chức kinh
doanh xuất nhập khẩu Trung ương (gồm toàn bộ hồ sơ do Liên hiệp công ty xuất nhập
khẩu địa phương gửi và quyết định thưởng).
Căn cứ vào kết quả xét duyệt của
Bộ chủ quản, các tổ chức kinh doanh xuất nhập khẩu Trung ương chuyển quyết định
thưởng của Bộ cho Liên hiệp công ty xuất nhập khẩu địa phương biết đồng thời gửi
quyết định thưởng của Bộ và trích tiền thưởng chuyển thẳng cho cơ sở sản xuất tập
thể được hưởng.
3. Báo cáo và quyết toán quỹ tiền
thưởng.
Các tổ chức kinh doanh xuất nhập
khẩu Trung ương phải mở sổ sách theo dõi tình hình trích lập và sử dụng quỹ tiền
thưởng khuyến khích xuất khẩu và báo cáo tình hình này trong các quyết toán
quý, năm của mình.
Cuối năm, nếu vì lý do khách
quan chưa kịp chi thưởng cho các cơ sở sản xuất tập thể thì các tổ chức kinh
doanh xuất nhập khẩu Trung ương phải dự tính khoản chi thưởng. Quỹ tiền thưởng
khuyến khích xuất khẩu sau khi đã chi thưởng và trừ khoản dự tính chi thưởng mà
vẫn còn thừa thì tổ chức kinh doanh xuất nhập khẩu Trung ương phải nộp vào Ngân
sách Nhà nước chậm nhất là ngày 31-12 hàng năm. Sau đó các tổ chức kinh doanh
xuất nhập khẩu Trung ương phải quyết toán việc sử dụng các khoản dự chi với Bộ
Tài chính và phải được thể hiện trong báo cáo quyết toán quý, năm của đơn vị.
4. Sử dụng tiền thưởng. Các cơ sở
sản xuất tập thể được phân phối tiền thưởng vào các quỹ như sau:
- 30% quỹ tích luỹ,
- 70% quỹ công ích (tong đó dành
80% để khen thưởng cho cá nhân).
5. Tổ chức thực hiện.
Để phát huy tác dụng kích thích
của chế độ thưởng đối với việc sản xuất hàng xuất khẩu trong khu vực tập thể,
Liên Bộ yêu cầu các ngành các cấp làm tốt những việc sau đây:
- Các Bộ, Tổng cục ở Trung ương,
Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố tổ chức phổ biến thông tư này đến các cơ sở sản
xuất tập thể trực tiếp làm hàng xuất khẩu, làm cho các cơ sở này quán triệt mục
đích, nội dung của chế độ, nhận rõ nghĩa vụ và quyền lợi của mình trong việc sản
xuất và giao hàng xuất khẩu.
- Các Liên hiệp xuất nhập khẩu địa
phương, các tổ chức kinh doanh xuất nhập khẩu Trung ương cần nắm vững và chấp
hành đúng các điều hướng dẫn trong thông tư này.
- Hàng năm, khi xét duyệt hoàn
thành kế hoạch của các tổ chức kinh doanh xuất nhập khẩu Trung ương, cơ quan quản
lý cấp trên cần kiểm tra việc quản lý và sử dụng quỹ thưởng khuyến khích xuất
khẩu bằng tiền Việt Nam này.
Các khoản thưởng sai chế độ cần
được xuất toán và trừ vào số tiền thưởng của năm sau.
- Bộ Tài chính có trách nhiệm kiểm
tra định kỳ hoặc đột xuất tình hình thi hành chế độ thưởng này. Trong việc kiểm
tra Bộ Tài chính có thể mời Bộ chủ quản (của những cơ sở được kiểm tra) cùng
tham gia kiểm tra.
Thông tư này được thi hành để
thưởng cho các cơ sở sản xuất tập thể thực hiện nghĩa vụ giao hàng xuất khẩu
cho Trung ương kể từ ngày 1-1-1986. Riêng đối với những cơ sở sản xuất tập thể
thuộc ngành Hải sản thực hiện nghĩa vụ giao hàng cho Trung ương áp dụng chế độ
quy định riêng. Các Liên hiệp công ty xuất nhập khẩu địa phương có thể vận dụng
chế độ trên để thưởng cho các cơ sở sản xuất tập thể đã hoàn thành hợp đồng
giao hàng xuất khẩu cho Liên hiệp để thực hiện kim ngạch xuất khẩu của tỉnh,
nhưng mức thưởng không vượt quá mức thưởng đã quy định trong thông tư hướng dẫn
này.
Hoàng
Trọng Đại
(Đã
ký)
|
Ngô
Thiết Thạch
(Đã
ký)
|