BỘ
THƯƠNG MẠI
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
0781/TM-XNK
|
Hà
Nội, ngày 02 tháng 4 năm 2003
|
TỜ TRÌNH
VỀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU CHÈ NĂM 2003 TRƯỚC
TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC CHIẾN TRANH I-RẮC
Kính
gửi: Thủ tướng Chính phủ
Nhiều năm qua, ngành chè đã đạt được
bước tiến phát triển cả về sản xuất và xuất khẩu. Diện tích và năng suất chè
không ngừng tăng lên, kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng mạnh. Việc giải quyết đầu
ra cho cây chè bằng con đường phát triển xuất khẩu đã có ý nghĩa quan trọng
trong việc giải quyết việc làm cho hàng triệu người trung du, miền núi.
Tuy nhiên, trước tình hình chiến
tranh xảy ra tại i-Rắc hoạt động xuất khẩu chè cũng sẽ không tránh khỏi những
tác động, bởi hàng năm Việt Nam đã xuất khẩu vào thị trường này một số lượng
đáng kể. Với nội dung đó, Bộ Thương mại xin báo cáo Thủ tướng Chính phủ tình
hình xuất khẩu chè thời gian và kiến nghị một số biện pháp nhằm giữ vững
và đẩy mạnh xuất khẩu chè trong thời gian tới.
I. TÌNH HÌNH XUẤT
KHẨU CHÈ 2002
Năm 2002, các doanh nghiệp trong cả
nước xuất khẩu được 74.812 tấn chè với kim ngạch 82,525 triệu usd. So với
năm 2001, tăng 9,7% về lượng, 5,35 % về giá trị. Chè Việt Nam được xuất khẩu
sang 60 quốc gia và khu vực trên thế giới trong đó có 9 nước nhập khẩu lớn nhất
là i-Rắc, Đài loan, Pakistan, ấn Độ, Nga, Nhật Bản, Đức, Ba Lan, và Mỹ. Tỷ trọng
của 9 nước này trong tổng kim ngạch xuất khẩu chè là 89%. Xuất khẩu vào I-Rắc
14.368 tấn chiếm tỷ trọng 80,8% (trong đó có khoảng 10.000 tấn các nước mua của
Việt Nam để tái xuất đi I-Rắc, tổng cộng xuất khẩu đi I-Rắc cả 2 kênh là khoảng
25.000 tấn).
Tham gia xuất khẩu chè có 165 doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Đáng chú ý là sự tham gia của các doanh
nghiệp đầu tư nước ngoài (hiện có 12 doanh nghiệp). Do có đầu tư giống mới cùng
với công nghệ chế biến hiện đại nên giá xuất khẩu cao, kinh doanh có lãi.
II. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT
RA TRONG TIÊU THỤ VÀ XUẤT KHẨU CHÈ NĂM 2003:
1. Tình hình sản xuất chè:
Hiện nay, nước ta mới bước vào vụ chè
năm 2003, Theo dự báo của Hiệp hội chè Việt Nam. diện tích trồng chè năm nay dự
kiến khoảng 112.000 triệu ha, với sản lượng chè khô khoảng gần 95-100.000 tấn,
tăng 3,7% về diện tích, 7.5% về sản lượng so với năm 2002. so với năm 1997, chỉ
chưa đầy 6 năm, diện tích chè cả nước đã tăng thêm được 34.000ha, sản lượng
tăng thêm được hơn 40.000 tấn. Với kết quả đó, ngành chè đã phấn đấu vượt định
hướng phát triển về diện tích trồng chè cho năm 2010 đã được Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt tại Quyết định số 43/1999/QĐ-TTg ngày 10/03/1999 về định hướng phát
triển chè thời kỳ 2005-2010 (định hướng đến năm 2010 tổng diện tích trồng chè
là 104.000 ha). Điều này đặt ra thách thức lớn cho vấn đề tiêu thụ mà đặc biệt
là xuất khẩu.
2. Những khó khăn trong xuất khẩu
chè năm 2003
Quý I/2003, cả nước xuất khẩu được
10.900 tấn chè, kim ngạch 9,3 triệu USD. So với cùng kỳ năm 2002, tăng 9% về lượng
nhưng do giá giảm 5,4% nên kim ngạch chỉ tăng 3%, nhiều thị trường được giữ vững
và có tăng trưởng như Nga, Ba lan, Nhật Bản, Mỹ.
Cuối năm 2002, Tổng công ty chè Việt
Nam đã ký hợp đồng xuất khẩu sang I-Rắc cho năm 2003 là 15.000 tấn nhưng chưa
có giấy phép của Liên hiệp Quốc nên chưa mở được L/C. Công ty Chè Phú Đa (liên
doanh giữa TCT chè VN và I-Rắc) ký hợp đồng xuất khẩu 3.000 tấn đã mở L/C.
Trước tình hình chiến sự xảy ra tại
I-Rắc, số lượng đã ký hợp đồng trên khó có khả năng thực hiện được. và ngay cả
sau chiến tranh, nếu chè Việt Nam có vào được I-Rắc thì cũng khó có số lượng lớn
và giá bán như các năm trước (các năm trước giá bán thường cao hơn giá thế giới
15-20%). Tình hình đó sẽ tác động đến giá mua chè nguyên liệu và khả năng xuất
khẩu.
3. Mục tiêu xuất khẩu:
Chiều 27/3/2003, Bộ trưởng Bộ Thương
mại đã họp với các doanh nghiệp xuất khẩu chè và Hiệp hội chè Việt Nam để
bàn các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu chè trong điều kiện xuất khẩu chè vào I-Rắc
không thể thực hiện được theo cách trước đây. Trên cơ sở thảo luận của Hội nghị,
Bộ Thương mại xin báo cáo và kiến nghị Thủ tướng Chính phủ như sau:
Mục tiêu phấn đấu của ngành chè là xuất
khẩu 75.000 tấn trong năm 2003. Muốn vậy, ngoài số lượng đã xuất khẩu vào thị
trường ngoài I-Rắc năm 2002 cần tìm thị trường thay thế để xuất khẩu được
15.000 tấn trong điều kiện xuất khẩu chè vào I-Rắc gặp khó khăn, giữ giá mua
chè nguyên liệu không thấp hơn nhiều so với giá mua của năm 2002 (bảo đảm giá
bình quân 1800-2.000 đồng/kg)
Để thực hiện mục tiêu này, các doanh
nghiệp xuất khẩu chè tìm cách tăng mức xuất khẩu vào các thị trường ngoài thị
trường I-Rắc. Đối với những thị trường đã xuất khẩu được trong năm 2002, ngoài
việc duy trì mức xuất khẩu của năm 2002, các doanh nghiệp cần phấn đấu tăng
thêm 15-20% ở mỗi thị trường, bảo đảm xuất khẩu thêm 10.000 tấn. Công ty chè
Phú Đa (liên doanh giữa Việt Nam-I-Rấc) tìm mọi cách xuất khẩu vào I-Rắc thêm
2.000 tấn để đạt 8.000 ( như đã xuất khẩu năm 2001)
Cố gắng khôi phục lại một số thị trường
đã xuất khẩu trước đây, năng động tìm thị trường mới mà trọng tâm là vùng Trung
Đông- châu Phi, châu Mỹ. đối với những thị trường truyền thống có kim ngạch lớn
Nhật Bản, Đài loan, doanh nghiệp xuất khẩu phải tăng cường tìm hiểu thị hiếu
tiêu dùng, phương thức mua bán... để đưa thêm nhiều loại chè có chất lượng và
tiêu thụ. Những thị trường có thu nhập cần nhập khẩu nhưng kim ngạch nhập khẩu
bị giảm hoặc mức tiêu thụ còn thấp thì tìm nguyên nhân khắc phục, tạo khả năng.
Ngoài ra, các doanh nghiệp làm chè phải
phấn đấu tăng cường đầu tư thâm canh, đổi mới thiết bị, đa dạng hoá sản phẩm, hợp
lý hoá sản xuất để giảm chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng và sức cạnh
tranh.
Hiệp Hội chè thảo luận với các doanh
nghiệp để có định hướng cho từng doanh nghiệp phát triển vào từng thị trường
phù hợp với từng loại chè.
III. KIẾN NGHỊ MỘT
SỐ BIỆN PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH TIÊU THỤ VÀ XUẤT KHẨU CHÈ NĂM 2003.
Để thực hiện mục tiêu trên, ngoài việc
đưa mặt hàng chè vào danh mục mặt hàng được hưởng tín dụng hỗ trợ xuất khẩu
theo Quyết định số 0271/2003/QĐ-BTM ngày 13/03/2003 của Bộ trưởng Bộ Thương mại,
Bộ Thương mại kiến nghị Thủ tướng Chính phủ:
1. Đưa mặt hàng chè vào chương
trình xúc tiến thương mại trọng điểm để hỗ trợ doanh nghiệp mở rộng thị trường
tạo chỗ đứng lâu dài cho chè Việt Nam
Trong khi Bộ Thương mại chưa tập hợp
đầy đủ để trình Thủ tướng Chính phủ chương trình tổng thể xúc tiến thương mại
quốc gia của các Bộ, ngành và Hiệp hội... trong cả nước, Bộ Thương mại đề nghị
Thủ tướng Chính phủ xem xét cho phép đưa mặt hàng chè vào chương trình xúc tiến
thương mại trọng điểm. Phê duyệt hoặc uỷ quyền cho Bộ Thương mại xem xét, phê
duyệt chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia đối với ngành chè để
ngành chè được thực hiện ngay các chương trình theo những nội dung sau:
Đơn
vị chủ trì
|
Tên
Đề án
|
Quy
mô (triệu đồng)
|
Đề
nghị hỗ trợ (triệu đồng)
|
Hiệp hội Chè Việt Nam
|
1. Xây dựng mạng lưới thương mại điện
tử phục vụ XK
2. Hội thi chất lượng chè XK, an
toàn thực phẩm năm 2003.
3. Hội chợ triển lãm và khảo sát thị
trường nước ngoài
|
481
300
1.788
|
255
150
894
|
Tổng công ty chè VN
|
1. Điều tra tổng thể thị trường chè
tại Nga
2. Quảng bá thương hiệu chè VN
3. Hội chợ hàng thực phẩm Sibêri
4. Hội chợ thực phẩm MatxcơVăn
phòng Chính phủ
5. Tham gia Festival QT về chè
6. Mua thông tin phục vụ XK
|
392
14.172
250
303
1.564
102
|
196
9.920
125
151
782
51
|
Tổng số
19.352
12.524
Khoản tiền lần này lấy từ ngân sách
hàng năm dành cho hoạt động xúc tiến thương mại. Việc đưa chè vào chương trình
xúc tiến thương mại trọng điểm không những tạo điều kiện tìm thị trường giải
quyết khó khăn trước mắt mà còn tạo lập chỗ đứng của thương hiệu chè Việt Nam
trên thị trường các nước.
2. Bù lãi suất vay vốn mua nguyên
vật liệu cho các doanh nghiệp xuất khẩu chè ký hợp đồng với nông dân mua 10.000
tấn chè nguyên liệu với thời gian vay tối đa từ 6 đến 9 tháng
Việc tìm thị trường thay thế thị trường
I-rắc phải được triển khai rất khẩn trương. Tuy nhiên, khác với việc bán
chè sang I-Rắc tiêu thụ thị trường khác không lớn, khối lượng từng hợp đồng
nhỏ. Trong khi đó, phải mua chè cho nông dân. Vì vậy, đề nghị Thủ tướng Chính
phủ cho các doanh nghiệp có hợp đồng mua chè với nông dân được bù lãi suất vay
vốn mua nguyên vật liệu. Mức cho vay tương đương với số chè đã xuất khẩu sang
i-rắc năm 2002 trong thời gian từ 6 đến 9 tháng.
3. Cho phép Công ty chè Phú Đa được
tham gia vay vốn tín dụng hỗ trợ xuất khẩu tại Quỹ hỗ trợ phát triển
Theo quy định tại Điều 3 Của Quy chế
tín dụng hỗ trợ xuất khẩu ban hành kèm theo Quyết định số 133/2001/QĐ-TTg ngày
10 tháng 9 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ thì Công ty liên doanh không thuộc
đối tượng được hưởng hỗ trợ xuất khẩu tuy nhiên để tạo cho công ty có thể tìm
phương thức xuất khẩu vào thị trường Iraq đề nghị Thủ tướng Chính phủ đặc cách
Công ty chè Phú Đa được tham gia vay vốn tín dụng hỗ trợ xuất khẩu tại Quỹ Hỗ
trợ phát triển.
Trên đây là Tờ trình của Bộ Thương mại
về một số biện pháp cụ thể để đẩy mạnh xuất khẩu chè năm 2003 trước tác động của
cuộc chiến tranh I rắc. Kính trình Thủ tướng Chính phủ xem xét và cho ý kiến chỉ
đạo gấp để các doanh nghiệp chủ động triển khai, mua hết nguyên liệu cho nông
dân (theo phản ánh của một số doanh nghiệp chè do tình hình xuất khẩu và Irắc
khó khăn, các doanh nghiệp không dám mua nhiều có hiện tượng người trồng chè
không quan tâm đến việc thâm canh chăm sóc chè).
|
BỘ
TRƯỞNG BỘ THƯƠNG MẠI
Trương Đình Tuyển
|