BỘ
THUỶ SẢN
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
1-TS/TT
|
Hà
Nội, ngày 27 tháng 2 năm 1987
|
THÔNG TƯ
CỦA BỘ THUỶ SẢN SỐ 1-TS/TT NGÀY 27-2-1987 HƯỚNG
DẪN VIỆC MUA, BÁN HÀNG THUỶ SẢN TIÊU DÙNG TRONG NƯỚC VÀ CÔNG TÁC TỔ CHỨC HẬU CẦN
DỊCH VỤ NGHỀ CÁ
Thực hiện bản quy định
tạm thời về việc bảo đảm quyền tự chủ sản xuất,
kinh doanh của các đơn vị kinh tế
cơ sở trong lĩnh vực tiêu thụ sản phẩm và dịch vụ ban hành kèm theo Quyết định
số 76-HĐBT ngày 26-6-1986 của Hội đồng Bộ trưởng. Căn cứ vào tinh thần Nghị Quyết
Đại hội Đảng lần thứ VI về đổi mới tư duy kinh tế, để tháo gỡ những vướng mắc
hiện nay trong việc thu mua giao nộp thuỷ sản chuyển hẳn sang việc mua và bán
hàng thuỷ sản theo cơ chế hạch toán kinh tế kinh doanh xã hội chủ nghĩa; Bộ hướng
dẫn việc mua, bán hàng thuỷ sản tiêu dùng trong nước và công tác tổ chức hậu cần
dịch vụ nghề cá như sau:
I.
KẾ HOẠCH MUA, BÁN THUỶ SẢN VÀ VẬT TƯ
1. Kế hoạch mua,
bán thuỷ sản và vật tư hàng hoá phải thực sự được xây dựng từ cơ sở theo hướng
dẫn của cấp trên để bảo đảm tính hiện thực, tính tích cực vững chắc; bảo đảm sự
thống nhất giữa kế hoạch của Nhà nước với kế hoạch của Bộ và của địa phương.
2. Kế hoạch mua, bán hàng thuỷ sản
giữa các tổ chức kinh doanh thuỷ sản của Nhà nước, giữa Nhà nước với người sản
xuất phải được bảo đảm bằng quỹ vật tư, hàng hoá tiền mặt một cách chủ động và
thống nhất phản ánh thông qua hợp đồng kinh tế hai chiều.
3. Có kế hoạch đầu tư thích đáng
cơ sở vật chất kỹ thuật cho các đơn vị kinh doanh thuỷ sản để làm tốt việc sản
xuất, chế biến, bảo quản, vận chuyển trong quá trình lưu thông hàng hoá.
4. Nhà nước cũng như địa phương
giao toàn bộ quỹ vật tư, hàng hoá phát tiển nghề cá cho ngành Thuỷ sản trực tiếp
quản lý, phân phối, sử dụng,
Uỷ ban kế hoạch Nhà nước cũng
như kế hoạch của Bộ chỉ phân phối trên kế hoạch còn giao cho cơ sở sản xuất,
kinh doanh trực tiếp quản lý, phân phối, sử dụng vào sản xuất và mua, bán.
5. Các tổ chức kinh doanh mua
bán thuỷ sản thực sự chủ động quản lý, phân phối vật tư, hàng hoá, tiền vốn...
và đòi hỏi cơ quan quản lý điều hành kế hoạch phải chịu trách nhiệm bảo đảm thực
hiện chỉ tiêu kế hoạch đã giao.
6. Kế hoạch điều hàng thuỷ sản về
tỉnh và Trung ương gắn liền với kế hoạch vật tư, hàng hoá. Công ty thuỷ sản
Trung ương và Công ty thuỷ sản các tỉnh được quyền quản lý những loại vật tư,
hàng hoá thiết yếu để ký hợp đồng kinh tế điều hàng thuỷ sản từ dưới lên.
7. Định mức vật tư hàng hoá mua
thuỷ sản của người sản xuất do Sở Thuỷ sản quy định dựa trên nguyên tắc định mức
kinh tế kỹ thuật sản xuất phải bảo đảm định mức về số lượng và chủng loại vật
tư hàng hoá chủ yếu để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm theo từng loại nghề.
Trong trường hợp người sản xuất không có nhu cầu vật tư theo định mức, có thể
tính chuyển đổi tương ứng với vật tư, hàng hoá khác nếu Nhà nước có và phải thể
hiện trong hợp đồng kinh tế.
8. Trước mắt vật tư, hàng hoá
còn ít, vì vậy căn cứ vào định mức và khả năng vật tư, hàng hoá có bao nhiêu
thì điều hàng về Trung ương và mua của người sản xuất bấy nhiêu sản phẩm theo
giá chỉ đạo, số thuỷ sản còn lại trong kế hoạch được cân đối bằng quỹ tiền mặt
để mua bằng giá thoả thuận.
Định mức đối lưu vật tư, hàng
hoá điều về Trung ương do Bộ quy định.
II.
GIÁ MUA, BÁN THUỶ SẢN VÀ VẬT TƯ
Để thúc đẩy sản xuất
phát triển và kinh doanh nắm được nguồn hàng thuỷ sản, việc mua bán thuỷ sản phải
theo cơ chế giá linh hoạt, phải tính đến mức độ trượt giá, và được điều chỉnh kịp
thời theo mùa vụ.
Về lâu dài thực hiện chính sách
một giá đối với một mặt hàng trên cùng một địa bàn, trong một thời điểm thì
mua, bán theo một giá, giá này là giá kinh doanh thương nghiệp, gần sát thị trường.
Nhà nước không bù lỗ. Nhưng trong điều kiện hiện nay, trước mắt thực hiện chính
sách hai giá là giá mua thuỷ sản có đối lưu vật tư, hàng hoá trong hợp đồng
kinh tế và giá thoả thuận không đối lưu vật tư, hàng hoá.
1. Giá trong hợp đồng kinh tế
hai chiều:
- Giá mua thuỷ sản phải bù đắp đủ
chi phí sản xuất, có lãi thoả đáng để tái sản xuất, phải sát giá với giá trị được
người sản xuất, người tiêu dùng chấp nhận. Giá này do Nhà nước quy định.
- Giá bán các loại vật tư nhập
khẩu dù ở nguồn Nhà nước cấp hoặc do ngành tự nhập đều bán thống nhất một giá,
giá trị được xác định trên cơ sở giá nhập (FOB) nhân với tỉ giá hàng xuất khẩu
thuỷ sản, không ăn lãi mà cũng không bù lỗ. Các loại vật tư trong nước sản xuất
thì bán theo giá Nhà nước quy định.
2. Giá thoả thuận:
Về nguyên tắc, mua được phải bán
được, không lỗ, không đội giá thị trường tự do.
Những sản phẩm mua theo giá thoả
thuận tiêu thụ tại địa phương và tiêu thụ ngoài tỉnh hoặc điều về Trung ương
thì do bên mua và bên bán thống nhất về giá cụ thể.
3. Giá bán buôn (giá giao) và
giá bán lẻ:
- ở những nơi có điều kiện thì cố
gắng thực hiện một giá bán lẻ kinh doanh thương nghiệp do cấp có thẩm quyền quy
định (giá này phải bù đắp đủ chi phí sản xuất, chi phí lưu thông và có lãi định
mức). Giá giao cho các hộ tiêu thụ là giá bán lẻ trên trừ lùi chiết khấu thương
nghiệp.
- ở những nơi có tình hình cung
cầu còn căng thẳng giá cả còn biến động mạnh thì tạm thời áp dụng hai giá:
Các mặt hàng trong hợp đồng kinh
tế hai chiều thì giao theo giá bảo đảm kinh doanh.
Các mặt hàng ngoài hợp đồng kinh
tế hai chiều thì giao theo giá thoả thuận.
III. PHƯƠNG
THỨC MUA, BÁN HÀNG THUỶ SẢN VÀ CUNG ỨNG VẬT TƯ
1. Phương thức mua
gắn liền với chính sách giá, hiện tại vẫn phải vận dụng 2 phương thức:
- Mua có đối lưu vật tư, hàng
hoá theo giá chỉ đạo Nhà nước.
- Mua thoả thuận bằng tiền.
2. Phương thức bán:
- Ngoài việc bán buôn hàng thuỷ
sản, ở những nơi chưa giao cho ngành Thuỷ sản đảm nhận khâu bán lẻ thì Công ty
Thuỷ sản cần tổ chức cửa hàng bán đối chứng, giới thiệu các mặt hàng mới sản phẩm
ngoài kế hoạch sau khi đã được Uỷ ban Nhân dân tỉnh cho phép. Nơi nào Uỷ ban
Nhân dân tỉnh đã có quyết định giao ngành Thuỷ sản trực tiếp bán lẻ thì phải cố
gắng đảm nhận và làm cho thật tốt.
Liên kết giữa ngành Thuỷ sản và
các ngành để tiêu thụ hàng thuỷ sản theo hợp đồng kinh tế.
Các địa phương phải ưu tiên bán
hàng thuỷ sản tiêu dùng trong nước về trung ương. Để hợp lý hoá sự vận chuyển của
hàng hoá, giảm khâu trung gian và phí lưu thông, Công ty thuỷ sản trung ương phấn
đấu nhận hàng tại nơi phát sinh nguồn hàng; các hộ tiêu thụ có thể đến nhận thẳng
tại cơ sở sản xuất; hoặc Công ty thuỷ sản huyện, đơn vị sản xuất có thể vận
chuyển sản phẩm đến nơi tập kết hàng của Công ty thuỷ sản cấp trên, đến nơi
tiêu thụ theo hợp đồng kinh tế. Việc phân chia phí trong những trường hợp này
phải được bàn bạc thống nhất trong hợp đồng kinh tế.
3. Quản lý và cung ứng vật tư:
- Bộ cũng như Sở Thuỷ sản quản
lý phân phối trên kế hoạch toàn bộ vật tư của ngành, của địa phương, cho các
đơn vị sản xuất, kinh doanh trực thuộc.
- Các tổ chức sản xuất, kinh
doanh trực tiếp quản lý , sử dụng điều hành quỹ vật tư của mình vào việc sản xuất,
bán vật tư, mua thuỷ sản theo hợp đồng kinh tế sao có hiệu quả nhất, bảo đảm được
kế hoạch Nhà nước giao, bảo đảm được nguyên tắc quản lý vật tư của Nhà nước.
- Các Công ty thuỷ sản có trách
nhiệm bán vật tư theo các phương thức thuận tiện nhất, lựa chọn hình thức cung ứng
tiết kiệm phí lưu thông nhất, cố gắng giao vật tư hàng hoá từ đầu nguồn về tận
cơ sở sản xuất kinh doanh.
Các đơn vị có trách nhiệm cung ứng
phải ứng trước một phần vật tư nhất là những loại vật tư thiết yếu cho người sản
xuất trên cơ sở có ký hợp đồng kinh tế kịp thời phục vụ sản xuất.
4. Một số vấn đề liên quan đến
việc mua, bán thuỷ sản và vật tư.
- Về đầu tư, tạo vốn các khoản
phải nộp ngân sách và phân phối lợi nhuận thì vận dụng những điều kiện cụ thể
trong bản quy định tạp thời về quyền tự chủ tài chính của đơn vị kinh tế cơ sở
ban hành kèm theo Quyết định số 76-HĐBT ngày 26-6-1986 của Hội đồng Bộ trưởng
vào tình hình cụ thể của địa phương, đơn vị mình.
Riêng về vốn kinh doanh, ngoài
nguồn vốn Nhà nước quy định để đáp ứng nhu cầu của người sản xuất, các Công ty
thuỷ sản được quyền huy động vốn bằng tiền mặt của các tổ chức, các cơ quan, cá
nhân với lãi suất do hai bên thoả thuận. Các nguồn tiền mặt do Công ty thuỷ sản
huy động ngoài vốn vay Ngân hàng cần mở tài khoản tiền gửi riêng, thống nhất với
Ngân hàng trong việc gửi, lĩnh để thanh toán kịp thời cho người sản xuất.
- Thực hiện tốt việc khoán thưởng
trong mua, bán thuỷ sản theo điều 10 bản quy định tạm thời kèm theo Quyết định
số 76-HĐBT về lao động và tiền lương của Hội đồng Bộ trưởng, trước mắt cần
khoán gọn từng đơn vị, từng người với đơn giá lương khoán hợp lý, tạo điều kiện
cho mỗi đơn vị, cá nhân phấn đấu hoàn thành vượt mức kế hoạch và có thu nhập
thoả đáng.
- Thực hiện chính sách mở rộng
giao lưu hàng hoá thuỷ sản, xoá bỏ tình trạng cấm chợ ngăn sông theo địa giới
hành chính. Căn cứ vào kế hoạch và hợp đồng kinh tế, Công ty thuỷ sản các cấp
được đưa hàng thuỷ sản ra ngoài huyện, ngoài tỉnh để phục vụ tiêu dùng cho toàn
xã hội và mở rộng liên doanh, liên kết với các ngành kinh tế khác lấy vật tư,
hàng hoá phục vụ cho nghề cá.
IV.
CÔNG TÁC TỔ CHỨC QUẢN LÝ
1. Công ty Thuỷ sản
huyện:
Xây dựng Công ty Thuỷ sản huyện
thành một quốc doanh hậu cần dịch vụ vững mạnh về tổ chức, có đủ sức mạnh về
kinh tế để đóng vai trò chủ đạo đối với nghề cá nhân dân trong huyện. Công ty
làm nhiệm vụ tạo nguồn vật tư, quản lý toàn bộ các nguồn vật tư do các ngành
kinh tế cung ứng cho nghề cá để cung ứng cho các hợp tác xã, tập đoàn, tổ đoàn
kết sản xuất và cá thể làm nghề cá, mua thuỷ sản; sản xuất nước đá, sửa chữa
tàu thuyền, cho người sản xuất vay vốn v.v...Nơi nào hiện nay chưa đủ điều kiện
về quản lý thì việc sửa chữa tàu thuyền, sản xuất nước đá... chưa vội sáp nhập
vào Công ty mà cần chuẩn bị để tổ chức thống nhất vào Công ty thuỷ sản huyện.
Công ty thuỷ sản huyện là đầu mối duy nhất thay mặt Nhà nước đặt quan hệ kinh tế
trực tiếp với ngư dân, ký hợp đồng kinh tế mua đại bộ phận sản phẩm do lực lượng
sản xuất của huyện mình khai thác được, cả sản phẩm tiêu dùng trong nước và sản
phẩm xuất khẩu. Trường hợp Công ty thuỷ sản huyện không có vật tư, lương thực,
tiền mặt để mua thì người sản xuất được quyền ký hợp đồng bán cho các tổ chức
kinh doanh thuỷ sản của ngành. Tổ chức chế biến, bảo quản bán buôn theo kế hoạch,
đồng thời tổ chức bán lẻ cho cán bộ công nhân viên và nhân dân trong huyện.
Công ty phải ưu tiên việc giao, bán hải sản điều về tỉnh và Trung ương theo hợp
đồng kinh tế dành một số sản phẩm để đi liên kết với các địa phương và các đơn
vị kinh tế khác đối lưu thêm vật tư hàng hoá phục vụ lại cho sản xuất và đời sống
ngư dân trong huyện. Mở rộng mạng lưới mua bán thuỷ sản và vật tư đến cơ sở sản
xuất trên bờ, dưới nước; tổ chức đại lý mua bán hàng thuỷ sản.
2. Công ty Thuỷ sản tỉnh:
Nơi nào xét thấy có đủ điều kiện
quản lý thì cần tổ chức sắp xếp lại tất cả các lực lượng đảm nhiệm công tác hậu
cần dịch vụ cho nghề cá vào một đầu mối là Công ty thuỷ sản tỉnh hoặc xí nghiệp
liên hiệp thuỷ sản. Tàu thuyền nào của quốc doanh khai thác hải sản có hiệu quả
thì tiếp tục sản xuất tàu thuyền nào sản xuất không có hiệu quả do tính năng kỹ
thuật thì chuyển sang làm hậu cần dịch vụ, tạo cho công ty khả năng hoạt động cả
ở đất liền và trên biển. Những địa phương chưa đủ điều kiện cần tích cực chuẩn
bị để tập trung sắp xếp lại vào một đầu mối.
Nhiệm vụ của Công ty thuỷ sản hoặc
xí nghiệp liên hiệp thuỷ sản tỉnh:
- Sản xuất kinh doanh hàng thuỷ
sản tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
- Tổ chức kinh doanh khai thác mọi
nguồn vật tư, quản lý chặt chẽ các nguồn vật tư đó. Có kế hoạch phân phối cho
các huyện theo kế hoạch sản xuất và điều hàng về tỉnh và Trung ương.
- Tổ chức tinh chế các mặt hàng
tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, chế biến thử mặt hàng mới, khôi phục các mặt
hàng cổ truyền đã nổi tiếng mà huyện chưa đủ khả năng làm.
- Quản lý kế hoạch điều hàng về
tỉnh và Trung ương.
- Tổ chức cung ứng hậu cần dịch
vụ kể cả hậu cần dịch vụ kỹ thuật và dịch vụ sinh hoạt cho các lực lượng của
các huyện trong tỉnh di chuyển đánh bắt ở ngư trường xa theo mùa vụ. Tổ chức
tiêu thụ sản phẩm cho các lực lượng di chuyển này sao cho có lợi nhất.
3. Đối với các công ty Trung
ương của ngành Thuỷ sản:
Trước mắt từng công ty phải tổ
chức thật tốt nhiệm vụ được giao, liên doanh liên kết chặt chẽ với nhau để có
thêm sức mạnh. Ngoài chức năng nhiệm vụ đang làm cần chú ý một số điểm sau:
a) Công ty thuỷ sản Trung ương:
Phải đặc biệt quan tâm tới nhiệm vụ khai thác, kinh doanh, quản lý tốt mọi nguồn
vật tư hàng hoá để kịp thời phục vụ có hiệu lực cho sản xuất và mua thuỷ sản.
- Phát triển công nghiệp chế biến.
- Làm hàng xuất khẩu, tinh chế từ
mặt hàng thuỷ sản như nước mắm, cá khô, ruốc cá....
- Củng cố, phát triển lực lượng
vận tải đường thuỷ để chủ động tập trung vận chuyển hàng hoá.
- Cố gắng vươn lên cùng xí nghiệp
liên hiệp hải sản Hải Phòng, quốc doanh đánh cá Chiến Thắng đảm nhiệm khâu hậu
cần dịch vụ phục vụ cho việc di chuyển đánh bắt theo thời vụ những ngư trường
chính, tạo thuận lợi cho các địa phương có lực lượng di chuyển. Sản phẩm mua
gom của tỉnh nào, huyện nào sẽ được tính vào sản lượng của tỉnh đó, huyện đó.
Giá mua và định mức đối lưu vật tư thuỷ sản tính theo giá và định mức thuộc khu
vực địa phương có ngư trường. Do việc di chuyển đánh bắt, chi phí sản xuất tăng
lên chút ít nên việc mua, bán phải được thể hiện rõ trong hợp đồng kinh tế do
hai bên thoả thuận tạo điều kiện cho bên giao hàng cũng như bên nhận hàng.
- Tranh thủ mọi nguồn vốn để tăng
cường cơ sở vật chất kỹ thuật, liên doanh liên kết với công ty thuỷ sản địa
phương để tạo nên sức mạnh của hệ thống kinh doanh hàng thuỷ sản tiêu dùng
trong nước, đặc biệt chú ý liên kết với một số địa phương có nguồn hàng chủ lực,
tập trung để tạo nên những chân hàng vững chắc.
b) Công ty xuất khẩu thuỷ sản:
- Phối hợp liên kết với Công ty
thỷ sản Trung ương tổ chức thu gom nguyên liệu xuất khẩu trong mùa vụ khia thác
tập trung.
- Ngoài sản phẩm thuỷ sản xuất
khẩu phải chế biến bảo quản làm hàng thuỷ sản tiêu dùng trong nước theo kế hoạch.
c) Công ty vật tư cá giống Trung
ương và công ty thuỷ sản các tỉnh nội địa:
- Công ty vật tư cá giống tổ chức
khâu cung ứng vật tư cho nghề nuôi cá quản lý và mua sản phẩm ở những vùng sản
xuất tập trung, vành đai thực phẩm mà công ty có đầu tư để có cá hàng hoá cung
cấp cho thành phố, trước mắt là Hà nội.
- Công ty thuỷ sản các tỉnh, các
huyện nội địa:
Ngoài nhiệm vụ cung cấp cá giống,
vật tư cho các cơ sở nuôi cá trong tỉnh có nhiệm vụ mua gom cá nuôi ở những nơi
sản xuất tập trung để có cá bán cho cán bộ công nhân viên trong tỉnh. Nếu được
Uỷ ban Nhân dân tỉnh phân công việc tổ chức tiêu thụ các hàng hải sản thì tổ chức
mạng lưới tiêu thụ đến tay người tiêu dùng.
d) Công ty cơ khí: Tổ chức sản
xuất phụ tùng, phụ kiện, khai thác vật tư để đóng mới, sửa chữa tàu thuyền phục
vụ nghề cá theo hợp đồng kinh tế, việc thu nhận thuỷ sản theo hợp đồng tập
trung vào một đầu mối là Công ty Thuỷ sản Trung ương.
e) Đối với các quốc doanh khai
thác hải sản trực thuộc Bộ:
Sắp xếp điều chỉnh lại lực lượng
tàu thuyền, công cụ khai thác, tàu thuyền nào khai thác không có hiệu quả, do
tính năng kỹ thuật không bảo đảm thì chuyển sang làm nhiệm vụ hậu cần dịch vụ.
Cần tách lực lượng đi sản xuất
khai thác với lực lượng làm hậu cần dịch vụ thành một bộ phân của xí nghiệp, có
kế hoạch và hạch toán riêng, liên kết với Công ty Thuỷ sản trung ương trong việc
tổ chức mua gom, vận chuyển nhất là mùa vụ và vận chuyển trên biển.
g) Đối với cơ quan quản lý hành
chính kinh tế ở trung ương và địa phương:
Thực hiện nguyên tắc tập trung
dân chủ trong quản lý kinh tế bảo đảm quyền làm chủ của 3 cấp trung ương, địa
phương và cơ sở, quyền tự chủ kinh doanh của các đơn vị kinh tế.
Nhà nước điều khiển và kiểm soát
các đơn vị sản xuất kinh doanh bằng kế hoạch, phát luật, chính sách kinh tế,
không can thiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh cụ thể của các đơn vị kinh tế
cơ sở.
V. TỔ CHỨC THỰC
HIỆN
Uỷ ban Nhân dân các
tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương, Giám đốc các công ty, xí nghiệp
trực thuốc trung ương, Giám đốc các Sở Thuỷ sản nghiên cứu quán triệt nội dung
của thông tư, bàn biện pháp thực hiện triển khai ngay theo tinh thần Thông tư
hướng dẫn này, tổ chức phổ biến đến tận đơn vị sản xuất, kinh doanh hàng thuỷ sản
và người sản xuất để quán triệt thi hành.
Trong quá trình triển khai cần
nghiên cứu kỹ bản báo cáo Đổi mới công tác mua bán hàng thuỷ sản tiêu dùng
trong nước tại Hội nghị Đà Nẵng tháng 1 năm 1987. Sau thời gian thực hiện có vấn
đề khó khăn, vướng mắc cần đề xuất cách giải quyết và kịp thời báo cáo về bộ để
nghiên cứu sửa đổi cho phù hợp.