ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH VĨNH PHÚC
-------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số:
2971/QĐ-UBND
|
Vĩnh Phúc, ngày 29 tháng 12 năm 2023
|
QUYẾT
ĐỊNH
PHÊ DUYỆT ĐỀ ÁN CƠ CẤU
LẠI NỀN KINH TẾ GẮN VỚI ĐỔI MỚI MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG TỈNH VĨNH PHÚC GIAI ĐOẠN
2021 - 2030
ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH VĨNH PHÚC
Căn cứ Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015;
Căn cứ Nghị quyết số 54/NQ-CP ngày
12/4/2022 của Chính phủ
về ban hành Chương trình hành động của Chính
phủ thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch cơ cấu
lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025;
Căn cứ Chương trình hành
động số 10-CTr/TU của BCH Đảng bộ tỉnh Vĩnh phúc thực hiện Nghị
quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII của Đảng;
Căn cứ ý kiến thống nhất của Ban cán sự Đảng
UBND tỉnh;
Theo đề nghị của Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư tại văn bản
số 2950/SKHĐT-THQH ngày 03/10/2023.
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Ban hành kèm theo Quyết định này Đề án cơ cấu lại nền kinh tế gắn với
đổi mới mô hình tăng trưởng tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2021-2025, định hướng đến
năm 2030 (Có Đề án
sao gửi kèm theo)
Điều 2. Giao Sở Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các sở, ban, ngành và
UBND các huyện, thành phố có liên quan tham mưu tổ chức thực hiện Đề án đúng
quy định.
Điều 3. Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày ký.
Chánh
Văn phòng UBND tỉnh, Thủ trưởng các sở,
ban, ngành; Chủ tịch UBND các huyện,
thành phố; các tổ chức, cá
nhân có liên quan chịu trách nhiệm thi hành
Quyết định này./.
|
TM. ỦY BAN
NHÂN DÂN
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH
Vũ Việt Văn
|
ĐỀ
ÁN
CƠ CẤU LẠI NỀN KINH TẾ
GẮN VỚI ĐỔI MỚI MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG TỈNH VĨNH PHÚC GIAI ĐOẠN 2021 - 2030
(Kèm theo Quyết định số:
2971/QĐ-UBND ngày 29 tháng 12 năm 2023 của Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc)
Phần mở đầu
1. Sự cần thiết và căn cứ xây dựng Đề án Cơ cấu lại nền kinh
tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn
2021-2030
Cơ
cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng
trưởng là chủ trương lớn của Đảng và
Nhà nước được thực hiện ngay trong giai đoạn 2011-2020 nhằm đáp
ứng yêu cầu của đất nước trong thời kỳ mới.
Thực hiện nhiệm vụ được nêu tại Nghị quyết số
135/2020/QH14 ngày 17 tháng 11 năm 2020 của Quốc hội về Kỳ
họp thứ 10, Quốc hội khóa XIV, tiếp tục thực hiện Nghị
quyết số 05-NQ/TW ngày 01 tháng 11 năm 2016 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa XII về một số chủ
trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mô
hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng
trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Ngày
12/11/2021, Quốc hội ra Nghị quyết số 31/2021/QH15 về kế hoạch cơ
cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025. Trong bối cảnh như vậy, việc xây
dựng Đề án Cơ cấu lại nền kinh tế gắn với
đổi mới mô hình tăng trưởng của tỉnh Vĩnh Phúc là cần thiết nhằm triển khai Nghị quyết số 31, đồng thời tạo điều kiện nhằm
thay đổi cơ bản cơ cấu kinh tế của tỉnh theo hướng tăng trưởng bền vững và
hiệu quả trong giai đoạn 2021-2030.
2. Mục tiêu, yêu cầu của Đề án
Tập trung phân tích, đánh giá khách quan, trung thực
về những kết quả đạt được, những hạn chế, yếu kém trong quá trình cơ
cấu lại nền kinh tế của tỉnh giai đoạn 2011-2020, từ đó đề ra quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và các giải pháp có tính khoa học, sát với thực tiễn nhằm cơ
cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng của tỉnh trong giai đoạn 2021-2030; Tạo nên những
thay đổi rõ nét trong mô hình tăng trưởng theo hướng
dựa vào tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả, nâng cao tính tự chủ
và khả năng thích ứng của nền kinh tế trước những biến động bên
ngoài, thiên tai, dịch bệnh; tạo lập được nền tảng khoa học công nghệ
gắn với nguồn nhân lực và cơ sở hạ tầng, hướng tới đưa nền kinh tế
của tiỉnh phát triển dựa vào đổi mới sáng tạo và phát triển bền
vững.
3. Phương pháp nghiên cứu
Phương
pháp nghiên cứu tại bàn: Thực hiện các
nội dung nghiên cứu tổng quan, (chính
sách, bài học quốc tế, bài học trong nước đã
nghiên cứu, hiện trạng phát triển, số liệu
thống kê thứ cấp...).
Phần thứ nhất
KẾT QUẢ CƠ CẤU LẠI NỀN KINH TẾ VÀ ĐÁNH
GIÁ MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG TỈNH VĨNH PHÚC GIAI ĐOẠN 2011-2020
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÁI CƠ CẤU KINH TẾ, MÔ HÌNH
TĂNG TRƯỞNG VÀ KHUNG ĐÁNH GIÁ CHO TỈNH VĨNH PHÚC
1. Quan niệm về tái cơ cấu kinh tế và mô hình
tăng trưởng
1.1. Tái cơ cấu nền kinh tế
Tái cơ cấu nền kinh tế thường được hiểu là
sự tạo ra các động lực,
các thức vận hành mới để giải quyết các vấn đề bất cập
trong các bộ phận cấu thành của nền kinh tế của mô hình tăng trưởng
hiện có nhằm tăng hiệu quả sử dụng nguồn lực
cho tăng trưởng. Mặc dù chưa có một
khái niệm chính thống và đầy đủ nhưng phần lớn các nghiên cứu đều cho thấy
những nội hàm chủ yếu của tái cơ cấu
kinh tế bao gồm:
-
Tái cơ cấu theo ngành kinh tế, theo
sản phẩm: Đây là kết quả của biến động thị trường, nền
kinh tế bắt buộc phải chuyển đổi sang các ngành, sản phẩm
mà một quốc gia có khả năng cạnh
tranh tốt trên thị trường. Một ví dụ
điển hình là khi các nguồn nhiên liệu
hóa thạch ngày càng cạn kiệt, nhu cầu
của thị trường đối với năng lượng sạch gia tăng, việc chuyển đổi sang các
ngành năng lượng thay thế khác như điện mặt
trời, điện gió trở lên phổ biến. Bên
cạnh việc thúc đẩy do yếu tố thị trường, yếu
tố thúc đẩy quan trọng khác là ý chí và quyết tâm chuyển đổi của các bên có liên quan,
trong đó có Chính phủ và doanh nghiệp.
-
Tái cơ cấu theo vùng/lãnh thổ: Đây
là việc hình thành nên các trung tâm kinh tế
và tạo ra sự dịch chuyển dân cư từ vùng
nông thôn ra thành thị. Việc hình thành các vùng kinh tế trọng điểm ở Việt Nam và các đặc khu kinh tế trên
thế giới là bằng chứng cho sự thay đổi cơ
cấu theo vùng/lãnh thổ, là kết quả
của sự chuyển dịch tự nhiên với các đặc
điểm địa lý thuận lợi hoặc mang theo ý chí lãnh đạo.
-
Tái cơ cấu theo hình thức sở hữu: đối
với các nước phát triển, hình
thức sở hữu chủ yếu là sở hữu tư nhân
do tính linh hoạt và hiệu quả của nó.
Đối với Việt Nam, việc chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa
tập trung sang nền kinh tế thị trường thì việc
cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là
việc thực hiện tái cơ cấu. Khuyến khích
để tăng dần vai trò của khu vực ngoài
nhà nước để tăng tính hiệu quả của thị
trường là cần thiết để đạt mục tiêu tăng trưởng trong dài hạn.
-
Tái cơ cấu một số bộ phận/khu vực của nền kinh tế: Đây
là trường hợp đặc biệt, thực hiện tái cơ cấu
với một số bộ phận hoặc khu vực quan trọng của nền kinh tế nhưng lại kém
hiệu quả, chưa thể hiện được vai trò của mình.
Ví dụ điển hình của Việt Nam là tái
cơ cấu đầu tư công hoặc tái cấu trúc hệ thống các tổ chức
tín dụng.
-
Tái cơ cấu theo chuỗi giá trị: Chuỗi
giá trị thể hiện chu trình sản xuất và
tiêu thu một sản phẩm, các công đoạn sản
xuất này có thể được thực hiện tại nhiều quốc gia khác
nhau, tại các nước phát triển, họ tập trung vào các công đoạn có giá
trị cao, đòi hỏi vốn đầu tư lớn và
trình độ kỹ thuật cao, trong khi tại các nước
đang phát triển, chủ yếu là các khâu có giá trị gia tăng thấp, chủ yếu là lắp ráp do nguồn lao động rẻ và dồi dào. Việc
tái cơ cấu thể hiện ở chỗ các quốc
gia dần tham gia vào các công đoạn cốt lõi hơn
trong chuỗi giá trị.
-
Tái cơ cấu trong bối cảnh cách mạnh công
nghiệp 4.0: Quá trình tái cơ cấu này
diễn ra dựa trên nền tảng công nghệ số. Nền kinh tế sẽ được dịch chuyển theo hướng số hóa, tức là ngày càng nhiều các hoạt
động kinh tế được diễn ra dựa trên nền tảng công
nghệ số. Quá trình tái cơ cấu này
không nhất thiết kéo theo tái cơ cấu về ngành,
vùng hay sở hữu nhưng sẽ nâng cao năng suất
lao động với tốc độ rất nhanh và tạo ra các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ có chất lượng cao hơn nhưng giá rẻ hơn. Việc thực hiện
tái cơ cấu trong bối cảnh kinh tế số có thể tạo ra những phương thức mới, phá bỏ những nguyên
tắc truyền thống.
1.2. Mô hình tăng trưởng
Mô hình tăng trưởng kinh tế là sự
thể hiện một cách khái quát nhất việc kết hợp và phát
triển các yếu tố đầu vào
(nguồn lực tăng trưởng),thực thi phương thức tăng trưởng
kinh tế (thể chế, chính sách, quản trị) nhằm đạt được
các mục tiêu tăng trưởng (đầu ra). Theo cách tiếp cận hệ thống này, mô hình
tăng trưởng kinh tế bao gồm ba nội dung cơ bản gồm (i) nguồn lực
của tăng trưởng, (ii) phương thức tăng trưởng và (iii) mục
tiêu tăng trưởng.
Hình 1: Khung khổ phân tích mô hình tăng trưởng kinh tế
Nguồn: Tài liệu văn kiện Đại hội đảng XIII
Trước hết là các nguồn lực của tăng trưởng (đầu vào).
Ba nguồn lực cơ bản của tăng trưởng là (i) lao động, (ii) vốn (tiền) và (iii) các yếu tố khác
(nhân tố năng suất tổng hợp - TFP). Trong bối cảnh hiện nay khi các
nguồn lực về lao động và vốn ngày
càng có vai trò thấp hơn so với các nhân tố
khác như công nghệ, vốn xã hội, nguồn
lực tự nhiên (vị thế địa lý kinh tế
hay các nguồn tài nguyên, v.v.), trong từng điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia, các yếu tố
đầu vào này có thể thay đổi. Ngay trong nội hàm của mỗi yếu tố, các thành phần của nó cũng
có sự biến đổi. Ví dụ như trong yếu tố lao
động thì số lượng lao động có thể không
quan trọng bằng chất lượng đội ngũ lao động hay sự kết hợp giữa các
thành viên trong đội ngũ (organization capital).
Phương
thức tăng trưởng được hiểu là cách thức
mà nền kinh tế sử dụng một cách có hiệu
quả nhất các yếu tố đầu vào để đạt
được các mục tiêu tăng trưởng của mình.
Phương thức tăng trưởng bao gồm các yếu tố
thuộc về môi trường vĩ mô như thể chế
kinh tế, các chiến lược và chính sách phát triển kinh tế của nhà nước. Chính phủ có thể hỗ trợ trực tiếp hơn các doanh
nghiệp xây dựng năng lực cạnh tranh một cách
bền vững thông qua các chính sách về đào
tạo nguồn nhân lực hay trợ giúp
nghiên cứu phát triển (R&D).
Mục tiêu tăng trưởng (đầu ra) bao gồm các mục tiêu ngắn hạn và trung hạn
như tốc độ tăng trưởng, cơ cấu tăng trưởng (ngành, sản
phẩm, thị trường, lãnh thổ, v.v.) và hiệu quả tăng trưởng. Các mục tiêu này có thể thay đổi phụ thuộc vào chiến lược phát
triển của mỗi quốc gia cũng như điều kiện và bối cảnh kinh tế toàn cầu.
Đổi mới mô hình tăng trưởng là quá trình thay đổi cơ bản nội
hàm của các yếu tố cấu thành mô hình tăng trưởng.
Đổi mới mô hình tăng trưởng có
thể là sự cải thiện các yếu tố đầu vào như nâng cao chất lượng nguồn lực, áp
dụng công nghệ mới hoặc cải cách thể chế, chế độ sở hữu hoặc đặt mục tiêu về phát
triển bền vững ưu tiên. Việc thay đổi mạnh
mẽ bất cứ một yếu tố nào trong mô hình đều kéo theo
sự thay đổi của các yếu tố khác. Ví dụ nếu quyết định hướng đến mục tiêu tăng trưởng
xanh thì cần có sự thay đổi về phương
thức tăng trưởng với hệ thống các chính sách xanh, tiếp đó
là sự thay đổi các yếu tố đầu vào từ nguyên liệu sản xuất, công nghệ, phương thức quản lý theo hướng xanh hóa.
Tái cơ cấu kinh tế tạo ra sự đổi mới mô
hình tăng trưởng và ngược
lại. Tầm quan trọng và vai trò của
tái cơ cấu kinh tế và đổi mô
hình tăng trưởng phụ thuộc vào điều kiện và
hoàn cảnh và mục tiêu của
quá trình phát triển. Thông thường,
sau mỗi cuộc khủng hoảng thì tái cơ cấu kinh tế là
yêu cầu cấp bách. Trong bối cảnh ấy, đổi mới
mô hình tăng trưởng là một trong
những phương thức thực hiện và xác lập những định hướng
chiến lược cho tái cơ cấu kinh tế. Mặc dù vậy, trong nhiều trường hợp khác, nền kinh tế có
thể vẫn thực hiện tái cơ cấu mà không
thay đổi mô hình tăng trưởng. Ví dụ như tái cơ cấu đầu tư công hoặc nhà nước tập trung đầu tư vào những khu vực kém thuận lợi, tạo ra sự thay đổi cơ
cấu kinh tế theo vùng lãnh thổ mà không có sự thay đổi đáng kể trong mô hình tăng trưởng.
Các
mô hình tăng trưởng qua các thời kỳ:
-
Mô hình tăng trưởng Solow: Là nền
tảng của lý thuyết tăng trưởng, còn được gọi là “mô hình kinh tế ngoại sinh”, mô
hình kinh tế phụ thuộc vào các yếu tố là
vốn, lao động và hiệu quả lao động. Đầu tư
tăng lên thì sản phẩm biên sẽ giảm
dần. Đầu tư chừng nào còn lớn hơn khấu hao thì có
thể tiếp tục tăng, nhưng đến điểm dừng cân bằng
trong dài hạn thì việc tăng đầu tư không
còn thúc đẩy tăng trưởng nhanh nữa mà hiệu
quả của vốn sẽ giảm xuống sản phẩm cận biên giảm dần.
Trong bối cảnh lao động sẽ không biến động lớn, sản lượng
đầu ra chỉ còn phụ thuộc vào đầu tư và
hiệu quả lao động (bao gồm công nghệ, sức
khỏe, giáo dục và tay nghề của người
lao động). Các yếu tố thúc đẩy tăng
trưởng đều xuất phát từ yếu tố ngoại sinh, mà ngoại sinh thì bị hạn chế, tăng trưởng sẽ theo xu
hướng giảm dần.
-
Mô hình tăng trưởng nội sinh: mô hình này ra đời sau mô hình tăng trưởng Solow với cách
giải thích cho rằng thay đổi công nghệ có thể giúp thay đổi quá
trình lợi suất sinh lợi giảm dần khi vốn tăng lên trong mô
hình tăng trưởng của Solow. Đối với một nền kinh tế tri thức, lợi
nhuận biên sẽ không đổi thay vì
giảm dần. Sự khác biệt giữa các quốc gia sẽ phụ thuộc vào sự đầu tư khác nhau
vào vốn con người và vốn tri thức.
-
Mô hình tăng trưởng dựa trên hiệu quả
phân bổ nguồn lực: Từ những năm 2000 trở lại đây, cụm từ phân bổ nguồn lực hiệu quả được đề cập đến
trong nhiều nghiên cứu về mô hình tăng trưởng. Phân bổ nguồn lực hiệu quả là việc chuyển đổi từ khu vực có sản phẩm cận biên
thấp sang khu vực có sản phẩm cận cao hơn.
Theo mô hình này, sự khác biệt trong
tăng trưởng giữa các quốc gia đánh giá bằng sự khác biệt về năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) nhưng không nhằm đo lường khác
biệt về công nghệ mà để
đo lường sự khác biệt năng suất do hiệu quả áp dụng.
-
Mô hình tăng trưởng dựa trên khoa học
và đổi mới sáng tạo: đây là sự tổng kết từ nhiều nghiên cứu về đổi mới sáng
tạo, nghiên cứu và phát triển. Mô hình này nhấn mạnh đến một nền sản xuất có
sự đổi mới sáng tạo không ngừng để tối đa hóa lợi nhuận. Việc thay đổi phương
thức thực hiện không ngừng tạo ra sự tăng trưởng nhanh và
lâu dài.
Điểm khác biệt giữa các mô hình là việc xác định vai trò, tầm quan
trọng của các yếu tố đầu vào và phương thức tăng trưởng. Đối với mỗi quốc gia, việc lựa chọn yếu tố nào
phụ thuộc vào lợi thế cạnh tranh, ý
chí lãnh đạo, nhu cầu của thị trường sẽ tạo ra những mô
hình tăng trưởng khác biệt và phù hợp riêng.
2. Cơ cấu lại nền kinh tế cả nước giai đoạn
2016-2020
Cơ cấu lại nền kinh tế tỉnh Vĩnh Phúc
được thực hiện trong bối cảnh cả nước thực hiện tái
cơ cấu nền kinh tế giai đoạn 2016-2020. Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Khóa XII ban hành Nghị quyết số 05-NQ/TW ngày
01 tháng 11 năm 2016 về một số chủ trương, chính
sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất
lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Thực
hiện chủ trương của Đảng, Quốc hội đã ban hành Nghị
quyết số 24/2016/QH14 ngày 08 tháng 11 năm 2016 về Kế
hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020. Triển khai Nghị
quyết 05 và Nghị quyết 24, Chính phủ đã ban hành Nghị
quyết số 27/NQ-CP ngày 21 tháng 02 năm 2017 về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện hai Nghị
quyết nêu trên.
Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020 đề ra 22 mục tiêu
cụ thể về cơ cấu lại nền kinh tế đến năm 2020 tập trung vào
5 nhóm nhiệm vụ: (1) Cơ cấu lại ba trọng tâm gồm cơ cấu lại đầu tư công, DNNN và các TCTD; (2) Cơ cấu lại ngân sách nhà nước (NSNN) và khu vực công; (3) Phát triển mạnh khu vực kinh tế tư nhân
trong nước và thu hút hợp lý đầu tư trực tiếp nước ngoài; (4) Hiện đại hóa
công tác quy hoạch, cơ cấu ngành và vùng kinh tế theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu
quả, gắn với đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế; (5) Hình thành đồng bộ và phát triển các loại
thị trường, gồm thị trường tài chính, thị trường quyền sử
dụng đất, thị trường lao động và thị trường khoa học công
nghệ. Sau 5 năm thực hiện Kế hoạch, có 18/22 mục tiêu được hoàn thành.[1]
Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020 của cả nước đã
đi vào thực chất hơn và có nhiều chuyển biến
rõ nét. Với quyết tâm và hành động cụ
thể của Chính phủ, các cấp, các
ngành được nâng cao nhận thức và chủ động tích cực trong việc thực hiện Kế hoạch.
Do
đó, hành động thực hiện Kế hoạch trở nên quyết liệt hơn từ Trung ương tới địa phương. Các bộ,
ngành, địa phương đã tích cực vào
cuộc, bám sát và triển khai các nhiệm vụ, các mục tiêu hầu hết đã
được hoàn thành, cơ cấu lại nền kinh tế góp
phần quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu kép vừa giữ ổn định kinh tế vĩ mô, vừa kiểm soát
lạm phát, vừa thúc đẩy
tăng trưởng GDP, tạo thêm các dư địa để giải quyết tốt hơn
các nhiệm vụ bảo đảm an sinh xã hội,
tạo việc làm và nâng cao đời sống của người dân.
Nhiều chính sách, giải pháp cụ thể, thiết thực được thực thi nhằm đẩy mạnh vai trò của khu vực kinh tế tư nhân, xây dựng hệ sinh thái
khởi nghiệp và khởi nghiệp sáng tạo. Cơ cấu thu hút FDI được điều chỉnh hợp lý
hơn với tỷ trọng thu hút phát triển công
nghiệp ngày càng tăng, trong đó công nghiệp
chế biến, chế tạo trở thành ngành thu hút đầu tư FDI lớn
nhất trong các ngành kinh tế.
Các
quy định, pháp luật về đầu tư công
được sửa đổi, hoàn thiện, lần đầu thực hiện
Kế hoạch đầu tư công trung hạn, số lượng dự án giảm và tập trung cho các dự án
quan trọng quốc gia, các dự án hạ tầng thiết yếu, các công trình lớn có tính
kết nối, lan tỏa, thúc đẩy cơ cấu lại nền
kinh tế. Hiệu quả đầu tư toàn xã hội tăng với chỉ số ICOR
ước khoảng 6,1 giai đoạn 2016-2019, so với 6,3 giai đoạn 2011-2015.[2]
Cổ phần hóa, thoái vốn trong DNNN được đẩy mạnh hơn
và được thực hiện một cách công khai, minh bạch, từ đó nguồn vốn khu vực DNNN được thu hẹp,
tập trung vào những lĩnh vực then chốt. Cơ cấu lại NSNN đã
đạt được những kết quả đáng ghi nhận, cơ cấu
thu NSNN thay đổi tích cực, tăng tỷ trọng thu
nội địa trong khi giảm tỷ trọng chi thường
xuyên và tăng tỷ trọng chi đầu
tư, triển khai các biện pháp nâng cao
sự chủ động của các địa phương. Bội
chi ngân sách và tỷ trọng nợ công trên GDP giảm dần qua các năm, bảo đảm an toàn nợ công, giảm áp
lực trả nợ lên NSNN và đảm bảo an toàn
tài chính quốc gia.
Đối với nhiệm vụ về hiện đại hóa công tác quy hoạch,
cơ cấu lại ngành và vùng kinh tế theo hướng nâng
cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, gắn với đẩy mạnh hội nhập
kinh tế quốc tế, cơ cấu lại ngành công nghiệp đã dịch chuyển theo hướng tích cực, tăng tỷ trọng ngành
công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP từ 21,5% năm 2016 lên
24% năm 2020 với sự dịch chuyển sang các ngành thâm dụng công nghệ.
Công
nghiệp năng lượng tái tạo được quan tâm
đầu tư; nhiều dự án điện gió, điện mặt trời được khởi công xây dựng và đi
vào hoạt động.
Đối với ngành nông nghiệp, chuyển dịch sang các
ngành có giá trị gia tăng cao hơn và có thị
trường xuất khẩu đa dạng hơn, năng suất lao động nông nghiệp
tăng nhanh, bình quân giai đoạn 2016-2020 tăng 6,8%/năm, đóng
góp của khoa học và công nghệ đạt trên
30% giá trị gia tăng của sản xuất nông nghiệp.
Cơ
cấu lại khu vực dịch vụ theo hướng nâng cao chất lượng dịch vụ, tập trung đầu tư cơ sở vật chất và phát triển đa dạng các sản phẩm, ứng dụng rộng rãi
các hình thức dịch vụ hiện đại, như thương mại và thanh
toán điện tử; ngân hàng điện tử, giáo
dục đào tạo trực tuyến, các loại hình vận tải mới…
Các
giải pháp cơ cấu lại nền kinh tế đã
được triển khai trên cả nước, tạo điều kiện
cho các địa phương cơ cấu lại nền kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng trong giai đoạn
2016-2020.
3. Khung đánh giá tái cơ cấu và mô hình tăng
trưởng cho Vĩnh Phúc
Dựa trên cơ sở lý thuyết và
thực tiễn dữ liệu của tỉnh Vĩnh Phúc, xây dựng
khung đánh giá mô hình tăng trưởng như sau:
Hình 2: Khung đánh giá mô hình tăng
trưởng tỉnh Vĩnh Phúc
Nguồn: Tổng hợp
Các
yếu tố đầu vào của tỉnh bao gồm vốn
đầu tư, lao động và TFP. Phương thức tăng trưởng được coi
là yếu tố đầu vào, là thành phần tạo
nên TFP. Kết quả đầu ra bao gồm tăng trưởng, cơ cấu ngành,
thu ngân sách và sự cải thiện về chất lượng cuộc sống của người dân.
Căn
cứ đánh giá tái cơ cấu nền kinh tế
của tỉnh bao gồm:
(i)
Việc thực hiện tái cơ cấu theo chủ
trương chính sách của Đảng và Nhà nước
thông qua:
-
Chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội giai đoạn 2011-2020
-
Quyết định số 339/QĐ-TTg ngày 19/2/2013 của Thủ tướng chính phủ về Phê duyệt đề án tổng thể tái cơ cấu
kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng
nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh giai đoạn 2013-2020.
-
Nghị quyết số 05-NQ/TW ngày 1/11/2016 của Hội nghị lần thứ tư BCH TW Đảng khóa XII về Một
số chủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mô
hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng
trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế.
-
Nghị quyết số 24/2016/QH14 ngày 08/11/2016 của Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế
giai đoạn 2016-2020.
-
Nghị quyết số 31/2021/QH15 ngày 12/11/2021 về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025;
-
Nghị quyết số 54/NQ-CP , ngày 12/4/2022 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết của Quốc
hội về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021 2025;
-
Quyết định số 255/QĐ-TTg ngày 25/02/2021 của Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt Kế hoạch cơ cấu lại ngành nông nghiệp giai đoạn 2021 2025.
Tại Vĩnh Phúc, các văn bản thể hiện rõ quyết tâm tái cơ cấu giai đoạn 2016-2020 bao gồm:
-
Nghị quyết số 20/NQ-HĐND ngày 14/12/2020 về chính sách hỗ trợ tiếp tục thực hiện cơ cấu lại
ngành nông nghiệp, nâng cao thu nhập
cho nông dân tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn
2021-2025;
-
Nghị quyết số 89/2019/NQ-HĐND ngày 11/12/2019 về việc ban hành chính sách hỗ trợ đổi mới công
nghệ và phát triển thị trường công
nghệ trên địa bàn tỉnh
Vĩnh Phúc giai đoạn 2020-2025;
-
Nghị quyết số 08/2020/NQ-HĐND ngày 14/12/2020 về việc ban hành kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2021-2025) tỉnh Vĩnh Phúc.
Nội dung đánh giá tái cơ cấu của Vĩnh Phúc
bao gồm:
-
Tái cơ cấu theo ngành
-
Tái cơ cấu theo hình thức sở hữu
II. MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ CỦA VĨNH PHÚC
1. Đánh giá kết quả tăng trưởng kinh tế giai
đoạn 2011-2020
1.1. Về tăng trưởng kinh tế
Quy
mô kinh tế tỉnh Vĩnh Phúc tiếp tục mở
rộng với xu hướng tăng trưởng ổn định, duy trì mức tăng
trưởng cao hơn so với mức tăng trưởng chung của cả nước. Tổng sản phẩm trên
địa bàn năm 2020 theo giá hiện hành đạt 124.012 tỷ đồng, cao gấp 2,9 lần GRDP năm 2010 (42.686 tỷ đồng) theo
giá hiện hành, và cao gấp 1,58 lần so
với quy mô của nền kinh tế năm 2015 (đạt 78.644 tỷ đồng),
đạt mục tiêu kế hoạch giai đoạn 2016 – 2020 đặt ra (gấp 1,5-2 lần). Đây là thành tích thể hiện
sự nỗ lực rất đáng ghi nhận của toàn tỉnh trong 10 năm qua. Năm 2021 đạt 137.368 tỷ đồng và năm 2022 đạt 153.019 tỷ đồng.
Việc mở rộng quy mô nền kinh tế tạo đà cho tăng
trưởng kinh tế của tỉnh đạt khá, mặc dù
có sự suy giảm vào năm 2012 (-3,28%) và đặc
biệt trong năm 2020, đại dịch Covid-19 đã xuất hiện và
bùng phát trên phạm vi toàn cầu, ảnh hưởng
nặng nề đến tất cả các lĩnh vực, dẫn đến tình trạng suy thoái kinh tế thế giới nghiêm trọng nhất kể từ sau đại khủng hoảng 1929-1933, trong khi đặc thù
của tỉnh với tỷ trọng khu vực vốn đầu tư nước ngoài cao,
đã và đang hội nhập sâu rộng, có độ mở lớn, nhưng tính tự chủ và khả năng chống chịu còn hạn chế, nên kinh tế của tỉnh đã chịu ảnh hưởng rất mạnh bởi đại
dịch, do đó tăng trưởng năm 2020 chỉ đạt 2,85%.
Theo
đó, tốc độ tăng trưởng GRDP của tỉnh bình quân 10
năm 2011-2020 đạt 6,55%/năm, trong đó giai đoạn 2011-2025 đạt 6,1%/năm và giai đoạn 2016-2020
tăng 7,01%/năm.
Hình 3: Tăng trưởng GRDP giai đoạn 2011-2020 Vĩnh Phúc và cả nước
Nguồn: Cục
Thống kê tỉnh Vĩnh Phúc
Bảng
1: Tốc độ tăng trưởng GRDP thời kỳ 2011-2020 của Vĩnh Phúc
và các địa phương vùng ĐBSH
Đơn vị: %
Địa phương
|
2011-2015
|
2016-2020
|
2011-2020
|
Hà Nội
|
6,9
|
6,7
|
6,8
|
Vĩnh Phúc
|
6,1
|
7,0
|
6,63
|
Bắc Ninh
|
17,0
|
8,1
|
12,4
|
Quảng Ninh
|
7,1
|
10,7
|
8,9
|
Hải Dương
|
7,7
|
7,6
|
7,6
|
Hải Phòng
|
7,1
|
13,9
|
10,4
|
Hưng Yên
|
7,5
|
8,3
|
7,9
|
Thái Bình
|
6,7
|
8,7
|
7,7
|
Hà Nam
|
10,4
|
10,8
|
10,6
|
Nam Định
|
6,1
|
7,2
|
6,6
|
Ninh Bình
|
7,0
|
8,9
|
7,9
|
Vùng ĐBSH
|
7,7
|
8,3
|
8,0
|
Cả
nước
|
6.12
|
6,14
|
6,19
|
Cùng
với tốc độ tăng trưởng kinh tế, mức gia tăng quy mô
của nền kinh tế Vĩnh Phúc cũng có những bước
tiến vững chắc (mức gia tăng GRDP trên 1% tăng trưởng tăng
lên theo các năm), đây chính là cơ sở cho việc đảm bảo
điều kiện cần cho cải thiện mức sống dân cư trên địa bàn
Tỉnh.
Mức tăng GRDP trên 1 đơn vị phần trăm tăng trưởng
của Tỉnh được thể hiện ở bảng số liệu sau:
Bảng 2: Mức tăng GRDP trên
1 đơn vị phần trăm tăng trưởng của Tỉnh
Năm
|
2011
|
2012
|
2013
|
2014
|
2015
|
2016
|
2017
|
2018
|
2019
|
2020
|
Mức tăng
GRDP trên 1 đơn vị % tăng trưởng
|
426.86
|
474.35
|
458.77
|
509.09
|
539.65
|
574.00
|
622.56
|
669.13
|
723.69
|
783.01
|
Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Vĩnh Phúc và tính toán của nhóm
nghiên cứu
Bảng
3: Kết quả chỉ tiêu tăng trưởng
kinh tế của các Tỉnh Vùng
Thủ Đô
|
GRDP (giá so sánh), tỷ
đồng
|
GRDP (giá hiện hành),
tỷ đồng
|
Tốc độ tăng trưởng
kinh tế (%)
|
Thứ hạng về tốc độ
tăng trưởng
|
Thái Nguyên
|
68.778
|
120.192
|
9.21
|
4
|
TP Hà Nội
|
660.900
|
968.436
|
7.63
|
8
|
Vĩnh Phúc
|
78.233
|
118.958
|
8.1
|
6
|
Bắc Ninh
|
120.747
|
199.673
|
1.1
|
10
|
Hải Dương
|
81.829
|
127.939
|
8.7
|
5
|
Hưng Yên
|
54.635
|
92.854
|
9.57
|
3
|
Hà Nam
|
35.139
|
53.772
|
10.6
|
2
|
Hòa Bình
|
29.956
|
50.993
|
6.75
|
9
|
Phú Thọ
|
44.094
|
63.038
|
7.8
|
7
|
Bắc Giang
|
70.996
|
105.517
|
16.4
|
1
|
Nguồn: Niên
giám thống kê các tỉnh,
thành phố (năm 2019)
Từ kết quả trên có thể thấy, tốc độ tăng
trưởng của tỉnh Vĩnh Phúc còn tương đối thấp trong vùng
ĐBSH. Về quy mô kinh tế, tỉnh Vĩnh Phúc
đứng thứ 6/11 tỉnh vùng ĐBSH, có khoảng cách
rất lớn với TP. Hà Nội (chỉ bằng 1/8 lần),
Hải Phòng, Quảng Ninh và Bắc Ninh
(chỉ bằng ½ lần). Trong khi đó, tăng trưởng của tỉnh thuộc nhóm đứng cuối vùng, chỉ cao hơn so với TP. Hà Nội.
GRDP
bình quân đầu người của tỉnh đến năm 2020 đạt 105,5 triệu
đồng (tương ứng là 4.552 USD/người), tăng gấp 2,5 lần so
với năm 2010 (đạt 42,1 triệu đồng/người) và gấp 1,5 lần so
với năm 2015 (72,1 triệu đồng/người) GRDP bình quân đầu
người của tỉnh Vĩnh Phúc tương đối cao so với các tỉnh trong vùng ĐBSH, đứng vị trí thứ 5/11 tỉnh/thành phố.
Hình 4: Tăng trưởng GRDP và GRDP bình quân đầu người các tỉnh vùng
ĐBSH (%)
Nguồn: Tổng hợp và
tính toán theo NGTK tỉnh
-
Khoảng cách về GRDP bình quân
đầu người giữa tỉnh Vĩnh Phúc và các tỉnh
đứng đầu vùng ĐBSH ngày càng doãng rộng. Bắt đầu thời kỳ
2011-2020, GRDP bình quân đầu người của tỉnh Vĩnh Phúc
tương đương với các tỉnh Bắc Ninh, Quảng
Ninh, Hà Nội, thậm chí cao hơn Hải Phòng
nhưng khoảng cách chênh lệch ngày
càng lớn, đến năm 2021, GRDP bình quân đầu
người của tỉnh Vĩnh Phúc chỉ xấp xỉ 2/3 GRDP bình
quân đầu người của tỉnh Quảng Ninh và Bắc
Ninh.
Hình 5: GRDP bình quân đầu người giai đoạn 2010-2021 (%)
Nguồn: Tổng hợp từ NGTK
địa phương
Chia theo khu vực kinh tế
*
Tăng trưởng khu vực NLTS thấp do chịu tác động tiêu cực của dịch bệnh.
Tăng
trưởng của khu vực này có dấu hiệu không
ổn định trong cả giai đoạn 2011 – 2020 và đặc
biệt chịu ảnh hưởng tiêu cực của dịch bệnh trong năm 2019.
Tốc độ tăng trưởng trung bình giai đoạn 2016-2020 đạt
1,96%/năm, thấp hơn so với giai đoạn 2011-2015 là 3,18%/năm và không đạt được mục tiêu kế hoạch đề ra là 3,5-4%/năm.
*
Tăng trưởng khu vực công nghiệp và
xây dựng đạt kết quả tích cực, đóng
góp chủ yếu vào tăng trưởng kinh tế.
Khu
vực công nghiệp và dịch vụ tiếp tục xu hướng đạt kết quả tăng trưởng cao trong giai đoạn
2011-2020, mức tăng trưởng bình quân ước đạt 10,41%/năm,
giai đoạn 2016 – 2020 đạt 10,35%/năm cao hơn mức
10,15%/năm của giai đoạn 2011-2015. Kết quả tăng trưởng của khu vực CN&XD
vượt xa mục tiêu kế hoạch đề ra là 7-7,5%/năm. Nhóm
ngành này cũng đóng góp lớn nhất vào tăng trưởng kinh tế của tỉnh, thể hiện ở bảng số liệu sau:
*
Khu vực dịch vụ đóng vai trò then chốt
thứ hai trong tăng trưởng kinh tế của tỉnh nhưng tăng trưởng chậm chạp và
không đạt mục tiêu kế hoạch đề ra.
Tăng
trưởng của khu vực dịch vụ giai đoạn 2011-2020 đạt
6,63%/năm; giai đoạn 2016-2020 chỉ đạt 6,56%/năm, thấp hơn so với mức tăng
trưởng 6,67%/năm giai đoạn 2011-2015, và thấp hơn nhiều so
với mục tiêu kế hoạch đề ra là 10,5-11%/năm.
Bảng 4: Điểm phần trăm đóng
góp vào tăng trưởng kinh tế Tỉnh
Năm
|
NN, LN, TS
|
CN, XD
|
DV
|
2011
|
0,53%
|
16,27%
|
1,62%
|
2012
|
-0,26%
|
2,46%
|
2,96%
|
2013
|
0,75%
|
5,45%
|
1,31%
|
2014
|
0,45%
|
3,70%
|
2,10%
|
2015
|
0,33%
|
2,77%
|
2,06%
|
2016
|
0,24%
|
4,53%
|
2,26%
|
2017
|
0,28%
|
6,64%
|
2,66%
|
2018
|
0,32%
|
10,00%
|
2,42%
|
2019
|
-0,21%
|
7,03%
|
2,66%
|
2020
|
0,27%
|
2,98%
|
0,33%
|
Nguồn: Cục Thống kê Tỉnh Vĩnh Phúc
1.2. Về thu nhập
GRDP
bình quân đầu người tiếp tục tăng trưởng, vượt mức bình
quân chung của cả nước. Tính đến 2020, GRDP
bình quân đầu người trên địa bàn
Tỉnh đạt 105,5 triệu đồng/người (giá hiện hành)
(tương đương 4.552 USD), cao hơn so với trung bình cả nước (3.521 USD). Tuy nhiên, kết quả này
thấp hơn so với kế hoạch đặt ra năm 2030 (4.800-5.000 USD). Kết
quả này là do, 2020 do ảnh hưởng chung của đại dịch
Covid-19 nên kết quả GRDP của Tỉnh đạt kết quả không
như mong đợi.
Hình 6: GRDP bình quân đầu người Tỉnh Vĩnh Phúc, 2011 – 2020
Nguồn: Niên
giám Thống kê tỉnh Vĩnh
Phúc
Thu
nhập bình quân đầu người ngày
một cải thiện. Thu nhập bình quân đầu người
của Tỉnh Vĩnh Phúc có xu hướng tăng nhanh, từ 1.232 triệu
đồng năm 2010, tăng lên đến 4.290 triệu đồng vào
năm 2020. Từ vị trí thứ 8/11 tỉnh vùng
đồng bằng sông Hồng với mức thu nhập bình
quân 1 người 1 tháng đạt 2.860 triệu đồng vào
năm 2016, Vĩnh Phúc đã vươn lên đứng thứ 5/11 tỉnh vào năm
2020, vượt mức trung bình của cả nước.
Hình 7. Thu nhập bình quân 1 người 1
tháng, 2010 – 2020
Đơn vị: Triệu
đồng
Nguồn: Tổng
cục Thống kê, Điều tra khảo sát
mức sống Hộ gia đình Việt
Nam
Bảng
5: Thu nhập bình quân người/
tháng các tỉnh vùng
đồng bằng sông Hồng
Tỉnh
|
2016
|
2018
|
2020
|
Cả nước
|
3.097
|
3.874
|
4.230
|
Đồng bằng sông Hồng
|
3.891
|
4.775
|
5.005
|
Hà Nội
|
4874
|
5900
|
5981
|
Vĩnh Phúc
|
2860
|
3696
|
4290
|
Bắc Ninh
|
4308
|
5441
|
5439
|
Hải Dương
|
3169
|
3691
|
4388
|
Hải Phòng
|
4375
|
5114
|
5199
|
Hưng Yên
|
2895
|
3838
|
4043
|
Thái Bình
|
2812
|
3546
|
4209
|
Hà Nam
|
2826
|
3604
|
4029
|
Nam Định
|
3013
|
3382
|
4096
|
Ninh Bình
|
2913
|
3771
|
3904
|
Quảng Ninh
|
3746
|
4774
|
4539
|
Nguồn: Tổng
cục Thống kê, Điều tra khảo sát
mức sống Hộ gia đình Việt
Nam
Mặc dù GRDP bình quân đầu người của tỉnh cao hơn
nhiều so với mức trung bình của cả nước nhưng tốc độ tăng
đang có xu hướng chậm lại và nếu chỉ
xem xét thu nhập bình quân của người
dân tại địa phương thì lại thấp hơn
so với mặt bằng chung của cả nước và thấp hơn nhiều so với
mức thu nhập bình quân của vùng Đồng
bằng sông Hồng. Điều này cho thấy mặc
dù quy mô GRDP của tỉnh tăng lên nhưng thu nhập của người dân lại không tăng trưởng tương xứng với sự mở rộng này. Hiện nay, bài
toán thu hẹp khoảng cách giữa thu nhập bình
quân đầu người và GRDP bình quân đầu người,
đồng thời thu hẹp khoảng cách về thu nhập bình quân
đầu người so với các địa phương khác
đang là thách thức lớn đối với Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh trong
thời gian tới.
Thu
nhập của Vĩnh Phúc tăng nhanh so với
các tỉnh khác nhưng vẫn trong nhóm
thu nhập thấp của vùng. Năm 2020, thu nhập
của Vĩnh Phúc vẫn thuộc nhóm thấp khi
chỉ đứng thứ 6/11 tỉnh, thành trong vùng ĐBSH; cao hơn khoảng
10% so với mức thu nhập trung bình của cả nước, bằng 85%
mức bình quân chung các tỉnh trong vùng, và bằng khoảng 70% thu nhập bình quân của người dân
Hà Nội (Hà Nội là địa
phương có thu nhập bình quân cao nhất
vùng ĐBSH, đạt 6,2 triệu đồng/người/tháng).
Hình 8: Thu nhập bình quân đầu
người/tháng các tỉnh vùng
ĐBSH năm 2020 (triệu đồng/người/tháng)
Nguồn: TCTK
Trong giai đoạn 2016-2020, chỉ số bất bình
đẳng thu nhập tại Vĩnh Phúc đã được cải thiện đáng kể. Chênh lệch thu nhập/người/tháng giữa nhóm thu nhập cao nhất và nhóm có thu nhập thấp nhất đã được co hẹp, từ 6,56 lần vào
năm 2016 đã giảm xuống chỉ còn 4,12 lần vào
năm 2020. Khi so sánh với các địa phương khác
trong vùng Đồng bằng sông Hồng, Vĩnh Phúc
thuộc nhóm có mức độ bất bình đẳng thu nhập tương đối thấp, khi mức độ chênh lệch
thu nhập giữa nhóm có thu nhập cao nhất và nhóm có
thu nhập thấp nhất tại Vĩnh Phúc trong năm 2020 chỉ cao hơn Hải Phòng, Hải Dương và Thái
Bình. Trong năm 2021, xu hướng thu nhập của các nhóm bị ảnh hưởng một phần do tác động của đại dịch
COVID-19. Chênh lệch giữa 2 nhóm thu nhập cao nhất và thấp nhất tại Vĩnh Phúc năm
2021 đã tăng lên 4,78 lần (đi ngược lại xu hướng giảm của giai
đoạn 2016-2020), chủ yếu do thu nhập của nhóm có thu nhập
cao nhất vẫn tăng lên khoảng 7,7%, trong khi thu nhập của
nhóm có thu nhập thấp nhất lại giảm 7,17% so với năm 2020.
GRDP bình quân đầu người của tỉnh Vĩnh Phúc
có sự chênh lệch rất
lớn với thu nhập bình quân đầu người của
tỉnh. Năm 2020, GRDP bình quân đầu
người của tỉnh Vĩnh Phúc là 105,5 triệu đồng/người, nhưng
thu nhập bình quân của tỉnh chỉ là 51,48 triệu đồng/người, chỉ bằng 49% GRDP bình quân đầu
người. Đây là một hạn chế trong tăng trưởng kinh tế của
tỉnh Vĩnh Phúc khi đầu ra được tạo ra không thẩm thấu lại cho người dân Vĩnh Phúc. Mặc dù
sự chênh lệch giữa mức thu nhập bình
quân đầu người và GRDP bình quân đầu người
của tỉnh đã thu hẹp lại trong giai đoạn 2016-2020, từ 44%
năm 2016 nhưng vẫn thấp so với mức chênh lệch bình
quân vùng là 66%. Đây là hiện tượng khá phổ
biến tại các tỉnh có thu hút vốn FDI
lớn như Quảng Ninh, Bắc Ninh, Hải Phòng nhưng vẫn có
một số tỉnh tận dụng khá tốt nguồn vốn FDI
nhằm nâng cao mức sống của người dân trên địa bàn như TP. Hà Nội, tỷ lệ này là 60%, Hải Dương là 77%. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng chênh lệch
này. Đầu tiên là yếu tố thuế, thuế
sản phẩm chiếm tỷ trong cao trong GRDP, giai đoạn 2016-2020 bình quân
chiếm 28%/năm, cao nhất cả nước. Bên cạnh đó,
doanh nghiệp tại Vĩnh Phúc vẫn chủ yếu là
các doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa, còn thiếu các doanh nghiệp
lớn, việc thuê và sử dụng lao động tại địa phương ở trình
độ giản đơn, làm việc chủ yếu trong các
doanh nghiệp công nghiệp gia công, lắp ráp không đòi hỏi trình độ
lao động cao nên mức thu nhập của người lao động chiếm
trong giá trị sản phẩm không cao. Các doanh nghiệp có quy mô lớn sử dụng nhiều lao động tại tỉnh
lại chủ yếu là các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài, thuê lao động phổ thông, làm gia
công cho nên mức thu nhập trả cho lao động thấp. Trong khi đó,
lợi nhuận thu được của các nhà đầu tư nước
ngoài lại lớn, thặng dư của nhà sản
xuất chuyển về công ty mẹ ở nước ngoài là không nhỏ, chiếm trên 13% GRDP nên làm doãng rộng khoảng
chênh lệch giữa giá trị gia tăng được
tạo ra và tổng thu nhập chi trả cho người dân địa phương. Thị trường lao động còn thiếu sự cạnh
tranh, chưa phát triển hoàn thiện có
thể dẫn đến tiếng nói của người lao động còn
mờ nhạt, phải chấp nhận mức lương thấp hơn so với năng lực của mình.
1.3. Về thu/chi ngân sách
Tăng trưởng kinh tế tốt đang tạo ra nguồn
thu dồi dào cho ngân sách địa phương. Quy mô ngân sách tăng mạnh so với giai đoạn trước.
Tổng thu ngân sách trên địa bàn tỉnh
Vĩnh Phúc đạt 293.699 tỷ đồng trong giai đoạn 2016-2020;
tốc độ tăng thu ngân sách bình quân 9,3%/năm, trong đó năm 2020 đạt 70.340 tỷ đồng, gấp 1,4 lần so với năm 2016 (tăng trưởng ngân
sách cả nước bình quân giai đoạn này
là 4,8%/năm và bình quân của vùng là 8,4%/năm). Quy mô thu
ngân sách tăng gấp 2,2 lần so với giai đoạn 2011-2015. Nguồn thu
tăng tạo thêm nhiều dư địa sử dụng nguồn ngân sách
cho các hoạt động của địa phương.
Cơ cấu nguồn thu có sự thay đổi đáng kể khi ngày
càng có nhiều hơn nguồn bổ sung từ ngân sách
cấp trên. Cơ cấu nguồn thu
có sự thay đổi đáng kể khi tỷ lệ thu
cân đối của địa phương giảm dần qua các năm từ 66% trong năm 2016 xuống còn 48% trong năm 2020. Trong khi đó,
hỗ trợ từ ngân sách cấp trên có xu hướng tăng từ 14% trong năm 2016 lên 20% trong năm 2020. Giai đoạn 2016-2020, tổng số thu bổ sung từ nguồn ngân sách cấp trên đạt trên 46,79 nghìn tỷ đồng, tỉnh Vĩnh Phúc là tỉnh duy nhất trong vùng
ĐBSH có tỷ lệ thu bổ sung từ ngân sách địa
phương tăng nhanh trong giai đoạn này cho thấy sự hỗ trợ và
quan tâm hơn từ Trung ương đến hoạt động của tỉnh (các tỉnh khác như Thái Bình, Nam Định và Ninh
Bình đều có tỷ lệ nguồn thu hỗ trợ từ ngân
sách cao, chiếm từ 30-50% nhưng xu hướng chung là giảm xuống, trong khi nguồn thu trên địa bàn
tăng lên nhanh). Từ năm 2018, Vĩnh Phúc có vay ngân sách
nhà nước, tuy nhiên tỉ trọng rất nhỏ chỉ
khoảng 0,1-0,4%.
Quy mô thu cân đối NSNN (thu NSĐP) mở rộng
so với giai đoạn trước nhưng tăng trưởng còn thiếu ổn định. Trong giai đoạn 2016-2020, thu
NSĐP đạt 163.222 tỷ đồng, gấp 1,7 lần giai đoạn 2011-2015, tốc độ tăng trưởng bình
quân đạt 5%/năm. Thu NSĐP có dấu hiệu tăng
chậm lại trong năm 2020 do ảnh hưởng của dịch bệnh, đạt 33.561 tỷ đồng, cao hơn
3% so với năm 2016. Năm 2021, thu NSĐP đạt 33.393 tỷ đồng, giảm 0,5% so với năm
2020 cho thấy hoạt động thu ngân sách của địa phương đang
phục hồi trở lại, trong đó chủ yếu do thu nội địa tăng 4%
so với cùng kỳ đạt 28.246 tỷ VND. Tỷ lệ huy động từ GRDP vào
ngân sách của tỉnh đạt 27% năm 2020, chỉ thấp hơn Hải Phòng,
Ninh Bình và Hà Nội trong vùng ĐBSH. Giai đoạn
2016-2019, tỷ lệ huy động này liên tục xếp vị trí đầu trong 11 tỉnh/thành thuộc ĐBSH. Tỉnh Vĩnh Phúc
có tỷ trọng thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm tới 25,8%
GRDP, tỷ lệ này cao nhất trong vùng ĐBSH và quy mô
thuế chỉ thấp hơn so với TP Hà Nội. Tuy vậy,
tỷ lệ huy động có xu hướng giảm từ 37,6% trong năm 2016,
xuống còn 27,2% trong năm 2020 (chỉ còn xếp thứ 3/11 tỉnh/thành phố trong vùng trong
năm 2020 sau Ninh Bình và Hà Nội) và tiếp
tục giảm xuống còn 24,5% trong năm 2021.
Cơ cấu thu NSĐP có sự biến động đáng kể, trong đó
nguồn thu nội địa có xu hướng giảm. Thu nội địa giai đoạn 2016-2020 đạt
140.933 tỷ đồng, chiếm 86% thu cân đối ngân sách, gấp 1,8 lần thu nội địa giai đoạn 2011-2015. Tỷ trọng thu nội địa trong
thu NSĐP có dấu hiệu giảm dần qua từng năm từ mức 90%
trong năm 2016 xuống còn 83% trong năm 2020, mặc dù
có xu hướng giảm nhưng đây vẫn là tỷ lệ tương đối cao so với các tỉnh trong vùng,
đứng thứ 5/11 tỉnh). Trong tổng thu nội địa, hơn 76% là
nguồn thu từ doanh nghiệp và cá nhân sản
xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Tổng thu từ nguồn này
giai đoạn 2016-2020 đạt trên 117 nghìn tỷ
đồng. Đây là tỉnh có đóng góp từ
nguồn hoạt động sản xuất kinh doanh rất lớn vào nguồn thu
nội địa của địa phương, mặc dù giảm mạnh từ mức 90,6% năm
2015 xuống còn 72,8% năm 2021 nhưng đây vẫn là tỷ lệ cao nhất trong toàn bộ vùng ĐBSH và rất cao so với mức 51,4% của cả nước. Bên cạnh
nguồn thu chính, các khoản thu một lần như các khoản thu từ nhà đất tăng nhanh từ tỷ trọng chiếm 4%
trong năm 2016 lên 13% trong năm 2020 và tiếp tục tăng lên
15% trong năm 2021, đây là khoản thu không bền
vững. Một nguồn thu khác khá lớn trong thu cân đối là thu từ hải quan. Tỷ trọng thu từ hải quan
tăng 4,2 điểm phần trăm từ 9,9% trên thu cân đối ngân
sách địa phương trong năm 2016 lên 14,1% trong năm 2020,
chủ yếu đến từ nguồn thu thuế giá trị gia
tăng hàng nhập khẩu, chủ yếu là các mặt
hàng ô tô, linh kiện lắp ráp ô tô, xe máy, linh kiện điện tử,… đạt trên 20,6 nghìn tỷ đồng giai đoạn
2016-2020. Nguồn thu từ hải quan vẫn đạt trên 4,6 nghìn tỷ
đồng trong năm 2021, chỉ giảm 1,3% trong năm chịu tác động
tiêu cực của COVID-19 cho thấy hoạt động sản xuất phục vụ
xuất khẩu ít chịu ảnh hưởng.
Nguồn thu của tỉnh còn thiếu đa dạng và rủi ro. Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh vẫn tập trung
chủ yếu vào một số ngành công nghiệp thuộc khu vực có vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI), đặc biệt là công nghiệp sản xuất, lắp
ráp ô tô, xe máy. Giai đoạn 2016 2020, thu từ khu vực FDI chiếm khoảng gần 80% tổng thu nội địa trên địa bàn tỉnh (trong đó số
thu của 02 công ty Toyota và Honda chiếm trên 90% tổng số thu ở lĩnh
vực đầu tư nước ngoài). Tổng thu từ các lĩnh vực
khác chỉ chiếm tỷ trọng khoảng 20% tổng thu nội địa (trong đó thu từ
các doanh nghiệp ngoài quốc doanh khoảng 4,7%, thu từ doanh nghiệp nhà
nước khoảng 1% , các khoản thu từ đất chiến khoảng 4-6%, lệ phí
trước bạ 1,2%, thu thuế bảo vệ môi trường 1,4%...). Nguồn
thu phụ thuộc vào hoạt động xuất nhập khẩu có xu hướng gặp khó khăn khi Việt Nam tiếp tục lộ trình
thực hiện các cam kết giảm thuế trong các
hiệp định thương mại tự do. Năm 2017, khi thuế nhập
khẩu xe ô tô từ khu vực ASEAN giảm từ 40% xuống còn 30%, các doanh
nghiệp sản xuất ô tô chuyển từ lắp ráp trong nước sang nhập khẩu một
số dòng xe để hưởng ưu đãi thuế, dẫn tới thu ngân sách từ khu vực
FDI giảm hơn 8.000 tỷ so với dự toán đầu năm. Năm 2020, do ảnh
hưởng của COVID-19, hai doanh nghiệp Toyota và Honda buộc phải tạm dừng hoạt
động trong tháng 3 và tháng 4 để phòng chống dịch dẫn đến nguồn thu thuế sụt giảm.
Bên
cạnh đó, việc gián đoạn chuỗi cung ứng trên toàn cầu do các biến động về kinh tế, chính trị và tình trạng thiếu hụt chip bán dẫn ảnh hưởng đến khả năng
sản xuất và cung ứng sản phẩm của Honda, công ty
này phải giảm sản lượng một số mẫu xe tay ga sản xuất trong nước
trong năm 2022 và có thể kéo dài sang các năm tiếp theo. Xu thế chuyển đổi từ xe xăng sang xe điện cũng là một yếu tố dự kiến làm ảnh hưởng đến sản lượng sản
xuất của các công ty Honda và Toyota trong khi hai doanh nghiệp này chưa cho thấy khả năng cạnh tranh trong dòng
xe điện. Cùng với sự tham gia của các
hãng xe nội địa và việc Việt Nam thực hiện
lộ trình cắt giảm thuế quan trong khu vực ASEAN và
tham gia các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới sẽ là
thách thức lớn đối với các doanh nghiệp
trong lĩnh vực công nghiệp ô tô, xe máy và dự kiến có thể ảnh hưởng lớn đến nguồn thu của tỉnh
Vĩnh Phúc trong tương lai.
Nhờ có nguồn thu tăng, tỉnh Vĩnh Phúc duy trì thặng dư ngân sách và đảm bảo chi ngân
sách địa phương. Tổng chi cân
đối ngân sách của địa phương trong giai đoạn
2016-2020 đạt 101.690 tỷ đồng, gấp 1,9 lần quy mô chi ngân sách giai đoạn 2011-2015, tăng trưởng bình quân đạt 7,7%/năm.
Xu hướng chi ngân sách ngày càng mở rộng, năm 2020, chi cân
đối ngân sách nhà nước tỉnh Vĩnh Phúc
là 20.882,8 tỷ đồng, tăng gấp 1,3 lần so với quy mô chi
cân đối ngân sách của tỉnh năm 2015.
Trong
đó, năm 2020, chi đầu tư phát triển
đạt 10.530 tỷ đồng, chiếm 50,4% tổng chi cân đối ngân
sách, tăng trưởng bình quân đạt 5,2%/năm. Tỷ
trọng chi đầu tư phát triển từ năm 2017-2021 duy trì
ổn định trong khoảng 49-50% chi cân đối ngân
sách. So sánh với vùng ĐBSH, Vĩnh Phúc là một
trong những tỉnh có tỉ trọng chi đầu tư lớn nhất, chỉ sau
Quảng Ninh. Trong giai đoạn này, Vĩnh Phúc đã tập trung hoàn
thành hệ thống hạ tầng kỹ thuật với các tuyến
đường khung đô thị và giao thông quan trọng cùng với hạ tầng xã hội
với nhiều dự án tiêu biểu như: Bệnh viện Sản Nhi, Bệnh
viện đa khoa tỉnh giai đoạn I, Chợ Vĩnh Yên,…
Các
khoản chi thường xuyên chiếm khoảng
50% chi cân đối ngân sách, tỷ trọng
ngày giảm từ mức 54,8% của năm 2019 và tăng bình
quân đạt 4,1%/năm giai đoạn 2015-2020. Trong các khoản chi thường xuyên, các khoản chi lớn nhất là
cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo, mức chi cho hoạt động này đạt trên
3.250 tỷ đồng năm 2020, tăng trưởng bình quân đạt 8,2%/năm giai đoạn 2016-2020, tỷ trọng chi cho hoạt động này
có xu hướng tăng nhanh, từ mức 25,9% chi thường xuyên năm
2015 lên 31,5% năm 2020. Tiếp đó là chi hoạt
động của các cơ quan quản lý Nhà nước,
Đảng, đoàn thể, tăng bình quân 4,5%/năm, chiếm khoảng 19-20% chi thường xuyên. Tiếp đó
chi sự nghiệp đảm bảo xã hội tăng trưởng bình
quân đạt 5,2%/năm, chiếm khoảng 11,4% chi thường xuyên và
có xu hướng ngày càng mở rộng. Chi cho sự
nghiệp kinh tế và chi sự nghiệp đảm bảo an ninh quốc phòng
chiếm tương ứng 11,3% chi thường xuyên, trong đó chi đảm bảo an ninh quốc phòng tăng nhanh, bình quân tăng 8%/năm.
Vĩnh
Phúc duy trì được mức thặng dư ngân sách tương đối lớn, bình quân giai đoạn 2016-2020 đạt 16% GRDP
của tỉnh,. Năm 2020, thu ngân sách nhà nước của Vĩnh Phúc
là 32.593 tỷ đồng, tỉnh tự cân đối được ngân
sách và có điều tiết về Trung ương và là một
các tỉnh, thành có tỷ lệ điều tiết về
ngân sách Trung ương lớn nhất, lên đến
47%, đứng thứ 2 ở miền Bắc sau thành phố Hà Nội và đứng thứ 5 cả nước sau TP. Hồ Chí
Minh, Hà Nội, Bình Dương và Đồng Nai.
Cơ
cấu chi ngân sách nhà nước của tỉnh
chuyển dịch theo hướng hiệu quả hơn khi tăng tỷ trọng chi đầu tư phát
triển, giảm tỷ trọng chi thường xuyên. Tuy vậy,
tốc độ tăng thu ngân sách còn thiếu ổn định do nguồn thu
tập trung chủ yếu vào một số ngành công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nhất là công nghiệp sản xuất, lắp ráp ô tô và
xe máy khiến cho nguồn thu ngân sách dù lớn
nhưng khá rủi ro. Các khoản thu một
lần có xu hướng tăng dần cho thấy sự thiếu bền vững trong
cơ cấu nguồn thu.
2. Đánh giá cơ cấu kinh tế
2.1. Cơ cấu ngành
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng
tỷ trọng ngành công nghiệp xây
dựng, trong đó chủ yếu
là ngành công nghiệp, cụ thể:
Tỷ trọng giá trị gia tăng ngành CN-XD tăng
thêm 5,4 điểm % trong giai đoạn 2016-2020, đến năm 2020, ngành
này chiếm tỷ trọng 45,5% và tiếp tục tăng lên
48% năm 2021.
Trong
khi tỷ trọng ngành NLTS và DV có xu hướng giảm. Ngành NLTS có tỷ trọng thấp, giảm từ
7,4% năm 2015 xuống còn 6,1% năm 2020, đến năm 2021 còn
5,9%. Tỷ trọng ngành dịch vụ đến năm 2020 là
22,6%, tăng 0,28 điểm % so với năm 2015, do ảnh hưởng của dịch
COVID-19, tỷ trọng của ngành này giảm nhẹ trong năm 2020 và
chưa hồi phục trong năm 2021, giảm còn 21,4%.
2.2. Cơ cấu ngành nông nghiệp
Chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành
nông nghiệp tiếp tục được đẩy mạnh theo hướng tích
cực. UBND tỉnh Vĩnh Phúc
ra Quyết định số 3216/QĐ-UBND ngày 10/11/2015 phê duyệt Đề án tái cơ cấu ngành Nông nghiệp gắn với chuyển đổi lao động nông thôn tỉnh Vĩnh
Phúc đến năm 2020 và định hướng đến
năm 2030. Các giải pháp tập trung
nhằm cải thiện chất lượng sản phẩm nông nghiệp và đảm bảo tăng trưởng của ngành. Đến năm 2020, quy mô
giá trị gia tăng ngành NLTS đạt trên
7,5 nghìn tỷ đồng (giá hiện hành), đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 1,9%/năm. Đến năm
2020, giá trị sản xuất của ngành NLTS đạt trên 10,4 nghìn tỷ đồng, trong đó, 92%
là ngành nông nghiệp, còn lại là lâm
nghiệp (1%) và thủy sản (7%).
Sản xuất nông nghiệp có sự
chuyển đổi tích cực về cơ cấu với sự tăng lên của tỷ trọng giá trị sản xuất ngành chăn
nuôi từ 52% năm 2015 lên 55,7% năm 2020, trong khi tỷ trọng ngành trồng trọt giảm xuống từ 41,7% xuống
còn 38,6%. Đây là xu hướng tích cực
khi giá trị vật nuôi lớn hơn và
ít chịu ảnh hưởng của yếu tố thời tiết so với giá trị cây trồng.
Cơ cấu chăn nuôi chuyển từ gia súc lớn sang bò
sữa, gia cầm và lợn,
sản xuất tập trung và sử dụng giống vật nuôi
có sản lượng cao hơn. Ngành
chăn nuôi phát triển mạnh về số lượng và chất
lượng, đặc biệt chăn nuôi lợn, bò sữa
và gia cầm đã trở thành thế mạnh của tỉnh, góp phần quan trọng trong chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Các tiến bộ kỹ thuật trong chăn nuôi được áp dụng rộng rãi, nhiều giống gia súc, gia cầm có năng suất, chất lượng tốt được đưa vào
sản xuất, đã nâng cao năng suất, chất lượng,
hạ giá thành sản xuất, tăng giá trị
gia tăng. Giá trị sản xuất chăn nuôi tăng bình quân
3,3%/năm giai đoạn 2016-2020, cao so với mức tăng của ngành
trồng trọt là 0,4%/năm. Hoạt động chăn nuôi
chủ yếu được thực hiện tại các trang trại
tập trung, số lượng trang trại chăn nuôi đã tăng từ 628
trang trại năm 2015 lên 690 trang trại năm 2020, chiếm 95%
tổng số trang trại của tỉnh.[3]
Trên
địa bàn tỉnh đã hình thành một số vùng sản xuất hàng hóa tập trung lớn như: Chăn nuôi lợn ở Lập Thạch, Yên
Lạc; chăn nuôi gia cầm ở Tam Dương, Tam Đảo;
chăn nuôi bò sữa tại Vĩnh Tường, Lập Thạch, Tam Đảo... Nhiều
trang trại đã áp dụng công nghệ cao trong chăn nuôi và liên kết theo
chuỗi từ sản xuất đến chế biến và
tiêu thụ sản phẩm, trong đó đã xây dựng được
3 mô hình chuỗi liên kết thịt lợn với
sản lượng gần 1.000 tấn/năm, thịt gà an toàn 81 tấn/năm và trứng gà sạch
khoảng 2,9 triệu quả/năm. Đàn lợn tăng lên trên 636
nghìn con năm 2018 trước khi giảm mạnh về 383,9 nghìn con
trong năm 2019 do chịu thiệt hại từ dịch tả lợn châu Phi,
đàn đang dần hồi phục về số lượng và có sự
thay đổi về chất lượng với các giống lợn ngoại, lợn lai
ngoại làm tăng trọng lượng lợn hơi xuất chuồng bình
quân tăng từ 80,5 kg/con (năm 2015) lên 93,5 kg/con (năm
2020). Đàn bò duy trì trên 100 nghìn con trong giai đoạn
2016-2020, trong đó tỷ lệ bò lai đạt
trên 90%, đàn bò cái lai sinh sản được lai tạo với các
giống bò ngoại chuyên thịt có năng suất, chất lượng cao như: Brahman,
Droughtmaster, Red Agus, BBB… trọng lượng bò thịt xuất
chuồng tăng từ 172,7 kg/con (năm 2015) lên 186 kg/con (năm 2020); 100%
bò sữa là bò ngoại HF, năng suất sữa/chu kỳ đạt bình
quân 5,5 tấn, khoảng 30% số bò sữa đã
đạt 6 tấn/chu kỳ.
Cơ cấu cây trồng chuyển đổi sang giống cây có năng suất và chất lượng cao hơn trong bối
cảnh diện tích gieo trồng ngày
càng giảm. Tổng diện tích
gieo trồng cây nông nghiệp của tỉnh đến năm
2020 là 94,1 nghìn ha, trong đó, 85,9 nghìn ha được sử
dụng cho cây trồng hằng năm (chiếm tỷ trọng 91,3%). Diện tích
gieo trồng nông nghiệp của tỉnh giảm hơn 11
nghìn ha trong giai đoạn 2016-2020, chủ yếu giảm trên
diện tích cây hằng năm (giảm 10,9 nghìn
ha), trong khi diện tích cây lâu năm chỉ
giảm nhẹ (giảm 102 ha, còn 8,2 nghìn ha đến năm 2020).
Diện tích trồng lúa đạt trên
53,8 nghìn ha, chiếm 62,7% diện tích đất cây
hằng năm. Mặc dù diện tích đất lúa giảm 4,6 nghìn ha trong giai đoạn 2016-2020, nhưng sản lượng lúa đạt trên
313 nghìn tấn năm 2020, năng suất lúa đạt
58,1 tấn/ha, tăng 2,3 tấn/ha so với năm 2015. Diện tích ngô giảm 6,4 nghìn ha nhưng năng suất ngô tăng
4,5 tấn/ha, đạt 47,68 nghìn tấn. Năng suất
hầu hết các loại cây trồng đều tăng
nhờ áp dụng các tiến bộ mới về giống,
kỹ thuật canh tác, trong đó năng suất lúa tăng
0,8%/năm, ngô tăng 2%/năm, nhiều giống lúa mới
có năng suất, chất lượng được đưa vào sản xuất như: RVT, TBR225, BC15, Thiên ưu 8,... Đến
hết năm 2020 tỷ lệ giống lúa chất lượng đạt trên 75% tổng diện tích gieo trồng lúa trên toàn tỉnh, tăng 38,5% so với năm
2015. Cơ giới hóa trong khâu làm đất chiếm 95%
tổng diện tích, thu hoạch lúa bằng máy đạt trên 70%. Mặc
dù diện tích giảm nhanh nhưng năng
suất cây lương thực có cải thiện, đảm
bảo nhu cầu lương thực trong tỉnh.
Trong
cơ cấu cây hằng năm, diện tích
nhóm cây rau, đậu các loại có xu hướng tăng, đến năm 2020 đạt trên 10,3 nghìn ha, tăng bình quân mỗi năm 235 ha so với năm 2015, sản lượng đạt 226 nghìn tấn, tăng bình quân 4,3%/năm, năng suất đạt 219
tấn/ha, chỉ đứng sau mía (523 tấn/ha) và cao gấp 4 lần so với bình quân cây lương thực có
hạt.
Trên
địa bàn đã hình thành một số vùng
sản xuất rau, quả an toàn thực phẩm theo quy
trình VietGAP đạt trên 1.600 ha; trong đó có 987 ha rau an toàn được cấp chứng nhận đủ điều kiện an toàn thực phẩm và
695 ha rau sản xuất theo VietGAP, sản lượng rau an toàn và
rau được cấp giấy chứng nhận khoảng 40 nghìn tấn/năm (bằng 25% tổng sản lượng rau toàn tỉnh), đã
vận hành 08 nhà sơ chế rau an toàn tại các vùng thuộc dự án QSEAP, liên kết
chuỗi với Công ty Vineco Tam Đảo.
Các
cây trồng có giá trị kinh tế cao như:
Bí đỏ, bí xanh, cà chua, su su, dưa các loại được phát triển theo hướng sản xuất hàng
hóa; một số sản phẩm có thương hiệu và
có sản phẩm xuất khẩu như: Thanh long ruột đỏ, ớt quả, chuối tiêu
hồng...; đã có nhiều doanh nghiệp, hợp tác
xã sản xuất rau, củ, quả có quy mô, chất
lượng cung cấp cho thị trường trong và ngoài tỉnh; mô
hình sản xuất rau, quả theo chuỗi từ sản xuất đến tiêu thụ đang phát triển trên địa bàn
tỉnh.
Giai
đoạn 2016- 2020 đã chuyển đổi được trên
6.300 ha đất trồng lúa kém hiệu quả sang trồng các loại rau, củ, quả cho hiệu quả
kinh tế cao hơn. Thực hiện dồn thửa, đổi ruộng với diện tích
trên 1,8 nghìn ha tạo điều kiện cho sản xuất hàng hóa tập trung. Giá trị sản xuất trên một đơn vị diện tích đất canh tác đạt trên 145 triệu đồng/ha, tăng trên 6% so
với năm 2015; thu nhập đạt khoảng 65 triệu đồng/ha đất canh tác,
tăng 7,5% so với năm 2015.
Tuy vậy, tăng trưởng ngành
NLTS vẫn thấp so với bình quân cả nước và của vùng
ĐBSH. Bình quân tăng trưởng giá trị gia
tăng ngành NLTS của vùng ĐBSH là 2,2%/năm và cả nước là 2,9%/năm, cao hơn so với tăng trưởng ngành
NLTS của tỉnh Vĩnh Phúc (1,9%/năm). Mặc dù
tỷ trọng VA của ngành chỉ còn 6,1% đến năm 2020 nhưng vẫn cao hơn so với bình quân của
vùng ĐBSH (5,8%).
Đáng
chú ý là trong năm 2019, quy mô giá trị gia tăng của ngành
NLTS giảm 2,8% so với năm 2018 do chịu ảnh hưởng của dịch bệnh.
Quỹ đất sản xuất nông nghiệp có xu hướng
giảm do chuyển đổi mục đích sử dụng dẫn đến khó
khăn trong tăng trưởng sản xuất nông nghiệp,
còn thiếu các trang trại trồng trọt
quy mô lớn do đó hạn chế áp dụng cơ giới hóa và ứng dụng tiến bộ khoa học công
nghệ. Năng suất trồng trọt có cải thiện
nhưng còn khá chậm. Năng suất lúa và ngô của Vĩnh Phúc năm 2020 vẫn thấp hơn mức bình
quân chung của cả nước, năng suất lúa và ngô của Vĩnh Phúc lần lượt là 58,12 tạ/ha và 47,68 tạ/ha, so với năng suất lúa
và ngô trung bình của cả nước lần lượt là 58,8 tạ/ha và 48,4 tạ/ha.
Tuy
nhiên, tốc độ tăng năng suất lúa và ngô trong giai
đoạn 2015-2020 của tỉnh (0,8%/năm cho lúa, 2%/năm cho ngô)
đang tăng nhanh hơn so với mức bình quân chung của cả nước (0,41%/năm cho lúa và 1,56%/năm cho ngô) cho thấy năng suất ngành trồng trọt của Vĩnh Phúc
đang trong xu hướng dần bắt kịp với mức bình quân của cả nước. Quy mô sản xuất nông nghiệp của tỉnh khá thấp, đây không phải là nguồn động lực chính cho tăng trưởng kinh tế của tỉnh.
2.3. Cơ cấu ngành công nghiệp xây dựng
Ngành công nghiệp xây dựng là ngành chủ chốt trong tăng
trưởng kinh tế của tỉnh Vĩnh Phúc. Vĩnh Phúc hiện
trở thành tỉnh có giá trị sản xuất công
nghiệp lớn, là trung tâm sản xuất ô
tô, xe máy của vùng kinh tế trọng điểm Bắc
Bộ. Đến năm 2020, quy mô giá trị gia tăng ngành
CN-XD đạt trên 56,2 nghìn tỷ đồng (giá
hiện hành), tăng trưởng bình quân
giai đoạn 2016-2020 đạt 10,28%/năm[4].
Năm 2020, tỷ trọng giá trị gia tăng của ngành CN-XD
đạt 45,5% GRDP, cao hơn so với bình quân toàn vùng ĐBSH là
41,2%, đứng thứ 7/11 tỉnh trong vùng. Trong 5 năm, tỷ trọng ngành này tăng thêm 5,4 điểm %[5]. Tận dụng vị trí địa lý thuận lợi nằm liền kề với sân bay quốc tế Nội Bài và trong hàng lang kinh tế Côn
Minh Lào Cai Hà Nội Quảng Ninh Vành đai phát triển công nghiệp phía Bắc, ngành
công nghiệp được coi là nền tảng phát
triển kinh tế của tỉnh. Thực tiễn cho thấy, tỷ trọng đóng
góp của ngành CN-XD ngày càng lớn và
vượt trội so với các ngành kinh tế còn
lại. Đến nay, trên địa bàn tỉnh đã hình thành hệ thống khu công nghiệp, cụm công nghiệp với 14 KCN đã có chủ trương đầu tư, trong đó 08 KCN đã đi vào hoạt
động, 32 CCN trong đó 16/32 CCN đã đi vào hoạt động, thu hút
nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước. Các dự án đầu tư đều hoạt
động hiệu quả, góp phần quan trọng trong chuyển dịch cơ
cấu kinh tế của tỉnh.
Đóng góp chính của ngành
CN-XD là ngành công nghiệp, đặc biệt là
ngành công nghiệp chế biến, chế tạo (CNCBCT). Ngành công nghiệp chiếm tỷ trọng 89,6% và
ngành xây dựng là 10,4%. Trong đó, 96,8% VA ngành CN tập trung tại ngành chế biến, chế tạo, tỷ trọng này
giữ nguyên trong giai đoạn 2016-2020 (các
ngành điện, nước chỉ chiếm 2,65%). Tăng trưởng ngành
CNCBCT đạt bình quân giai đoạn 2016-2019 là
11,7%/năm, riêng năm 2020 do ảnh hưởng của dịch COVID-19, ngành
này chỉ tăng trưởng 4%, bình quân giai đoạn
2016-2020 đạt 10,2%/năm, đây là ngành tạo ra sự tăng
trưởng chủ yếu của toàn ngành công nghiệp trên địa bàn. Kết quả tăng trưởng này thể hiện rõ rét định hướng thu hút đầu tư vào ngành công nghiệp, đặc biệt là cụm ngành công nghiệp điện tử công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ sản xuất ô tô, xe
máy; điện tử, tin học…
Sản xuất công nghiệp của tỉnh Vĩnh Phúc có xu hướng ngày
càng đa dạng nhưng tính đa dạng còn khá thấp. Các ngành công nghiệp tập trung chủ yếu vào
ngành cơ khí, sản xuất kim loại và ngành linh kiện điện tử. Các ngành công nghiệp chủ yếu bao gồm
sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang
học (chiếm 30% VA), ngành sản xuất sản phẩm từ khoáng
phi kim loại khác (chiếm 11,3% VA), sản xuất
phương tiện vận tải khác (chiếm 11% VA), ngành sản xuất trang phục (chiếm tỷ lệ 9% VA), ngành sản
xuất sản phẩm từ cao su và plastic (chiếm tỷ lệ khoảng
4,3% VA)... Chuyển dịch trong nội bộ ngành CNCBCT cho thấy,
sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang
học tăng mạnh, chỉ từ năm 2015 đến năm 2019, tỷ trọng VA của ngành này
tăng thêm 17,4 điểm %, đây là ngành tăng rất
nhanh trong khi các ngành khác gần như không có sự thay đổi hoặc thậm chí giảm như ngành sản xuất phương tiện vận tải khác giảm 7,8 điểm %,
ngành sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 4,9 điểm %.
Doanh
thu linh kiện điện tử đến năm 2020 đạt trên 118,3
nghìn tỷ đồng, với tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 46,5%/năm, đây là mức tăng trưởng rất nhanh so
với các lĩnh vực khác. Nhóm cơ khí và sản xuất kim loại (chủ yếu là sản xuất sản phẩm ô
tô, xe máy) bắt đầu tăng trưởng chậm lại. Sản lượng ô tô,
xe máy bắt đầu giảm xuống kể từ năm 2019, bình quân giai
đoạn 2016-2020, số lượng ô tô được sản xuất
chỉ tăng 2,2%/năm, trong khi xe máy các loại giảm
3,5%/năm. Tỷ trọng giá trị sản xuất của các sản phẩm cơ khí và sản xuất kim loại này chỉ còn 45,3% đến năm 2020, giảm 27,4 điểm % so với
năm 2015 do thị trường tiêu thụ trong nước các sản phẩm này ngày càng giảm và áp lực cạnh tranh ngày càng lớn. Thay vào đó là
sự gia tăng mạnh giá trị sản xuất của ngành
điện tử, thiết bị điện, chiếm 41,2% tổng giá trị sản xuất của ngành công nghiệp, tăng thêm
29,6 điểm % so với năm 2015. Các mặt hàng
khác quy mô thấp, không đóng góp nhiều tới
sự chuyển đổi cơ cấu ngành.
Bảng 6:
Chuyển dịch cơ cấu giá trị sản xuất nhóm
ngành công nghiệp giai đoạn 2015-2020 (%, theo giá
hiện hành)
TT
|
Ngành công nghiệp
|
2015
|
2020
|
2021
|
Tăng/giảm
|
2016-2020
|
I
|
CN khai khoáng
|
0,17
|
0,35
|
0,24
|
0,18
|
II
|
Chế biến, chế tạo
|
99,04
|
98,89
|
99,03
|
-0,15
|
1
|
CB thực phẩm, đồ uống
|
2,4
|
2,44
|
2,28
|
0,04
|
2
|
Chế biến gỗ, giấy
|
2,65
|
1,58
|
1,17
|
-1,07
|
3
|
Sản xuất VLXD
|
5,44
|
3,6
|
3,14
|
-1,84
|
4
|
Dệt may, da giầy
|
2,63
|
2,69
|
2,71
|
0,06
|
5
|
Hoá chất, hoá dược, nhựa,
cao su
|
1,22
|
1,82
|
2,09
|
0,6
|
6
|
Điện tử, thiết bị điện
|
11,65
|
41,23
|
46,96
|
29,58
|
7
|
Cơ khí và sản xuất kim loại
|
72,69
|
45,28
|
40,4
|
-27,41
|
8
|
Công nghiệp khác
|
0,36
|
0,25
|
0,28
|
-0,11
|
III
|
Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng,
hơi nước và điều hòa
không khí
|
0,31
|
0,33
|
0,36
|
0,02
|
IV
|
Cung cấp nước, hoạt động quản lý
và xử lý rác thải,
nước thải
|
0,48
|
0,43
|
0,37
|
-0,05
|
|
Tổng cộng
|
100
|
100
|
100
|
|
Nguồn: Báo
cáo đề xuất KCN-CCN tỉnh Vĩnh Phúc
Tuy vậy, quy mô CN-XD của tỉnh còn khá thấp so với các
tỉnh trong vùng. Quy mô ngành CN-XD của tỉnh Vĩnh Phúc chỉ chiếm 5,7% tổng giá
trị gia tăng ngành CN-XD của vùng
ĐBSH, chỉ bằng 1/5 so với Hà Nội, 1/3 so với
Bắc Ninh và ½ so với Quảng Ninh. Tỷ trọng này có xu
hướng giảm nhẹ so với năm 2015 là 6,2% và xu hướng diễn ra ngay cả khi trước thời điểm chịu ảnh hưởng của dịch
COVID-19. Điều này là do tăng trưởng ngành CN-XD của tỉnh Vĩnh Phúc thấp hơn so với tốc độ tăng
chung của các tỉnh trong vùng ĐBSH (bình quân đạt 10,9%/năm giai đoạn 2016-2020).
Đóng góp chủ yếu vào ngành
công nghiệp của tỉnh là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
Đánh giá hai ngành công nghiệp chiếm tới 90% giá trị sản xuất của ngành công nghiệp trên địa bàn có thể thấy vai trò của
khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là chủ yếu. Đối với ngành cơ khí, sản xuất ô tô,
xe máy 100% được thực hiện bởi khu vực đầu tư nước ngoài,
không có doanh nghiệp tư nhân trong nước.
Đối với ngành sản xuất linh kiện điện tử, 99,8% doanh thu
đến từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Với hai ngành công nghiệp chủ chốt của tỉnh, khu
vực có vốn đầu tư nước ngoài có tính quyết định đến tăng trưởng của ngành. Chỉ có một số ngành có sự tham gia nhiều hơn của doanh
nghiệp trong nước như sản xuất thức ăn gia súc (doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài chỉ chiếm
53,8%) hay sản xuất giày, dép thể thao (doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài chỉ chiếm 56,3%), sản
xuất gạch ốp lát (doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài chiếm 63%). Trong bối cảnh kinh tế thế
giới có nhiều biến động khó lường,
nền kinh tế nếu dựa chủ yếu vào khu vực có vốn đầu tư nước ngoài dễ bị ảnh hưởng bởi các
tác động tiêu cực của kinh tế thế giới, đặc
biệt trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến nhanh,
phức tạp và nhiều rủi ro như hiện nay.
2.4. Cơ cấu ngành dịch vụ
Tỉnh Vĩnh Phúc là một trong hai tỉnh có tỷ trọng ngành
dịch vụ trên tổng GRDP
thấp nhất trong vùng ĐBSH. Năm 2020, tỷ trọng
giá trị gia tăng của ngành dịch vụ là
22,6%, chỉ cao hơn so với tỉnh Bắc Ninh (16,8%) và chỉ bằng ½ tỷ trọng bình quân của
ngành này của toàn vùng ĐBSH (43,7%). Quy mô ngành
dịch vụ của tỉnh đến năm 2020 đạt 27,9 nghìn tỷ đồng (giá hiện hành), chỉ
bằng ¼ quy mô ngành dịch vụ của Hải Phòng, ½ của Quảng Ninh và 1/23 của Hà Nội. So với mục tiêu Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh giai đoạn 2016-2020,
tỷ trọng này thấp so với mục tiêu 31,4% (nếu quy đổi tỷ trọng giá trị ngành dịch vụ trên tổng VA đạt 30,4% năm 2020).
Cơ cấu ngành dịch vụ chuyển dịch sang hướng tăng ngành thương mại, giáo dục và đào tạo, và ngành dịch vụ y tế trong khi
giảm tỷ trọng ở hầu hết các ngành dịch vụ còn
lại. Dịch vụ thương mại đã
phát triển theo hướng chuyên nghiệp, hiện
đại, đa dạng với nhiều siêu thị, chợ, trung tâm
thương mại, cửa hàng tự chọn... Tỷ trọng VA
ngành Bán buôn, bán lẻ hàng hóa chiếm
30% trong tổng VA ngành dịch vụ của địa phương, tỷ trọng này
có xu hướng tăng nhẹ so với năm 2015 thêm 2,17 điểm %. Tăng trưởng của ngành giai đoạn 2016-2020 bình
quân đạt 10,3%/năm[6],
là tốc độ tăng trưởng cao nhất trong các ngành dịch vụ. Hoạt động kinh doanh thương mại trên địa bàn
tỉnh phong phú và đa dạng. Hàng hoá
trên thị trường đáp ứng đủ nhu cầu cho sản
xuất và tiêu dùng. Hạ tầng thương mại được quan tâm,
nhiều trung tâm thương mại, siêu thị lớn đã đi vào khai thác. Hiện nay trên địa bàn tỉnh có 02 Trung tâm thương mại, 07 siêu thị, 81 chợ truyền thống và nhiều loại hình mua bán tự phục vụ khác. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt hơn 52,6 nghìn tỷ đồng năm 2020, đạt mức tăng trưởng bình quân 10,4%/năm, là mức tăng trưởng nhanh so với bình quân vùng ĐBSH (9,4%/năm) và cả nước (8,5%/năm). Sức mua bình quân đầu người năm
2020 của tỉnh đạt 44,9 triệu đồng/người, tăng gấp 1,6 lần so với năm 2015 cho
thấy sự cải thiện đáng kể trong thu nhập và chi
tiêu của người dân trên địa bàn, thể hiện rõ nét sự thay đổi về mức sống trong giai
đoạn 2016-2020. Tuy vậy, mức mua sắm này vẫn thấp hơn so
với bình quân chung của vùng ĐBSH.
Hình 9: Sức mua bình quân đầu
người năm 2020
Nguồn: Tính toán theo số liệu TCTK
Các ngành dịch vụ cao cấp như dịch vụ tài
chính, ngân hàng bảo hiểm, dịch vụ giáo dục và đào tạo, dịch vụ y tế có
tỷ trọng đóng góp ngày càng lớn trong các ngành dịch vụ của tỉnh. Dịch vụ giáo dục chiếm tỷ trọng 14,23% trong VA
ngành dịch vụ là ngành dịch vụ lớn
thứ hai của tỉnh, tăng thêm 2,06 điểm % so với năm 2015.
Ngành dịch vụ đứng thứ ba (không tính hoạt động của Đảng) là dịch vụ tài chính,
ngân hàng, bảo hiểm chiếm tỷ trọng 8,36%. Ngành y tế chiếm tỷ trọng 7,79%. Trong đó, tỷ trọng ngành
giáo dục, đào tạo và ngành y tế có xu hướng ngày càng tăng cho thấy lĩnh vực đầu tư cho con người được chú trọng
đồng thời thể hiện sự thay đổi về cơ cấu tiêu dùng đang dần
chuyển từ hàng hóa sang dịch vụ khi mức sống của người dân
được cải thiện. Ngành dịch vụ tài
chính, ngân hàng bảo hiểm phát triển nhanh cùng
với nhu cầu sử dụng như là ngành dịch vụ hỗ
trợ cho các ngành kinh tế khác, đặc
biệt là ngành công nghiệp, tăng trưởng giá trị gia tăng của ngành đạt bình quân đạt 7,4%/năm giai đoạn 2016-2020, đây là ngành ít chịu ảnh hưởng của COVID-19 và phát triển nhanh thứ
hai chỉ sau ngành Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô
tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác. Riêng đối với ngành y tế, tăng trưởng của ngành
này có sự biến động mạnh trong hai năm 2020-2021 do các hoạt động phục vụ phòng chống dịch bệnh và
nhu cầu sử dụng dịch vụ y tế tăng cao, đẩy tốc độ tăng trưởng bình
quân đạt 6,9%/năm giai đoạn 2016-2020, nhanh thứ ba trong các
ngành dịch vụ.
Hình 10: Cơ cấu giá trị gia tăng các
ngành dịch vụ năm 2020 (ngành
dịch vụ 100%)
Nguồn: NGTK tỉnh năm 2021
Lợi thế ngành dịch vụ vận tải kho bãi đang ngày càng rõ nét nhưng chịu ảnh hưởng nặng nề của COVID-19. Với vị trí
thuận lợi trên các trục giao thông
chính kết nối các tỉnh biên giới, trung du, miền núi phía Bắc với vùng
ĐBSH, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của sản
xuất công nghiệp trong tỉnh, ngành vận
tải kho bãi của tỉnh cũng phát triển
nhanh chóng. Tăng trưởng của ngành đạt
bình quân 9,3%/năm giai đoạn 2016-2019 và có quy mô
lớn 5/14 ngành dịch vụ, chiếm 7,6% VA ngành
DV năm 2019. Khối lượng vận tải hàng hoá và hành khách đều tăng cao. Giai đoạn 2016-2019, khối lượng luân chuyển hàng hóa tăng 9,9%/năm (theo tấn) và số lượt hành khách luân chuyển tăng 5,2%/năm (theo
người). Tuy vậy, đây là ngành chịu ảnh hưởng nặng nề bởi
COVID-19, khiến tăng trưởng của ngành thu hẹp 12,7% trong
năm 2020 và tiếp tục giảm 8,1% trong năm 2021 khiến tỷ
trọng đóng góp của ngành này giảm
thấp, còn 6,4% năm 2020 và 5,8% năm 2021.
Thương mại quốc tế của tỉnh Vĩnh Phúc
tăng trưởng nhanh nhưng nhập siêu lớn. Trên địa bàn tỉnh có khoảng trên 200 doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Kim ngạch xuất khẩu năm 2020 đạt trên 5 tỷ USD, tăng trưởng bình quân 23%/năm giai đoạn
2016-2020 và không chịu ảnh hưởng của COVID-19. Tổng kim
ngạch xuất nhập khẩu của tỉnh đạt trên 13,4 tỷ USD, tăng
gấp 2,8 lần trong giai đoạn 2015-2020, đây là mức tăng
nhanh nhất trong các tỉnh của vùng ĐBSH. Tuy vậy, tỉnh Vĩnh Phúc duy trì nhập siêu và có
xu hướng nhập siêu ngày càng tăng nhanh. Trong các tỉnh thuộc vùng ĐBSH, tỉnh Vĩnh Phúc có quy
mô nhập siêu lớn, chỉ đứng sau thành
phố Hà Nội. Quy mô xuất
nhập khẩu của Vĩnh Phúc tương đương với Hải Dương nhưng
tỉnh này duy trì xuất siêu trong suốt
giai đoạn. Nhập khẩu lớn chủ yếu là các nguyên vật liệu,
linh kiện, phụ tùng phục vụ sản xuất, thậm chí sử dụng cho các hoạt động sản xuất trong nội tỉnh
không gắn với xuất khẩu cho thấy tỉ lệ nội địa hóa
của tỉnh rất thấp.
Hoạt động du lịch, khách sạn nhà hàng đã phát triển khá
trong các năm gần đây. Hệ
thống nhà hàng, khách sạn được đầu tư, nâng cấp ngày càng hiện đại và tiện
nghi, đáp ứng nhu cầu của khách trong và ngoài nước. Nhiều công trình văn hóa kết hợp phục vụ du lịch được
đầu tư hoàn thiện. Hạ tầng du lịch đã từng bước được
đầu tư cải tạo, nâng cấp như hệ thống đường giao thông,
điện chiếu sáng, cấp, thoát nước... ở các khu, điểm du lịch, tạo
điều kiện thu hút các dự án lớn nhằm khai thác tiềm năng, lợi thế của tỉnh về phát triển du lịch
dịch vụ, bước đầu đã khẳng định
được thế mạnh về du lịch nghỉ dưỡng, hội thảo hội nghị, du lịch kết hợp với
chơi golf và du lịch văn hóa tâm linh, phát huy tốt các lợi thế về địa lý, tài nguyên du lịch, hệ thống di tích lịch sử và các giá
trị văn hóa phi vật thể. Các hoạt động quảng bá của tỉnh, của doanh nghiệp được
triển khai mạnh mẽ hơn nhằm giới thiệu du lịch
Vĩnh Phúc đến với du khách trong và ngoài nước. Số lượt khách du lịch đến tham quan tại tỉnh ngày
càng tăng, năm 2019 đạt xấp xỉ 6,1 triệu lượt khách, bình quân giai đoạn 2016-2019 đạt 16,4%/năm, năm 2020 do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19
nên số lượng khách du lịch đến tỉnh
chỉ ước đạt 4 triệu lượt khách. Doanh thu du lịch của các
cơ sở lữ hành và cơ sở lưu trú năm
2019 đạt 1.910 tỷ đồng, tăng bình quân giai đoạn
2016-2019 là 13,3%/năm, ước năm 2020 đạt 1.150 tỷ đồng. Doanh
thu du lịch tăng ổn định qua các năm, đem lại hiệu quả đáng
kể tăng nguồn thu cho ngân sách và góp phần
nâng cao mức sống cho người dân địa
phương.
Dịch vụ thông tin liên lạc trong tỉnh phát triển khá
nhanh, về cơ bản đã đáp ứng được nhu cầu
thông tin liên lạc trong quản lý, kinh doanh và đời sống xã hội. Các dịch vụ
bưu chính cơ bản được triển khai đến tận thôn, bản, 100% xã, phường có điểm
phục vụ bưu chính. Dịch vụ điện thoại di động được phủ sóng
toàn tỉnh. Tính đến năm 2019, mật độ thuê
bao trên địa bàn (bao gồm cả cố định và
di động) đạt 108 máy/100 dân, tăng 28 máy/100 dân so năm
2015. Tính đến nay có khoảng 1,1 triệu thuê bao điện thoại (tăng 929 nghìn thuê bao so với năm
2015); 190 nghìn thuê bao Internet (tăng 100 nghìn thuê bao so với năm 2015); 50 nghìn thuê bao truyền hình
trả tiền (giảm 10 nghìn so với năm 2015);
Doanh thu của các doanh nghiệp viễn thông giai đoạn 2016-2020 là 7.513 tỷ đồng, tăng trưởng bình
quân cả giai đoạn đạt 5,5%/năm (giai đoạn 2011-2015 đạt 4%). Nhìn
chung, dịch vụ thông tin truyền thông
trong tỉnh phát triển nhanh, theo kịp với
những tiến bộ về công nghệ của cả nước nhưng do trình
độ phát triển kinh tế chưa cao nên
nhu cầu sử dụng các dịch vụ trong tỉnh vẫn còn
hạn chế, thị trường dịch vụ thông tin còn ở
mức tiềm năng.
3. Đánh giá nguồn lực đầu vào của mô hình tăng
trưởng
3.1. Nguồn lực vốn
a) Tăng trưởng và
cơ cấu vốn đầu tư xã hội
Vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn tỉnh duy trì tốc độ tăng trưởng khá cao với xu
hướng chuyển dịch nhiều hơn cho đầu tư xây dựng
cơ bản. Năm 2020, quy mô vốn đầu
tư toàn tỉnh đạt 44.172 tỷ đồng (giá hiện hành); tốc độ tăng giai đoạn 2016-2020 đạt
11,1%/năm, cao hơn tốc độ tăng của cả nước là 8,2%/năm[7]
và là một trong những tỉnh có tốc độ tăng
tổng vốn đầu tư lớn của vùng Đồng bằng sông Hồng, chỉ đứng sau Hải Phòng (21,6%/năm) và Nam Định
(11,9%/năm).
Tuy
nhiên, nếu so sánh với các địa phương khác trong vùng Đồng bằng sông Hồng, có thể thấy quy mô tổng
vốn đầu tư của tỉnh Vĩnh Phúc còn tương đối hạn chế, chỉ
lớn hơn Hưng Yên, Hà Nam và Ninh Bình (đến năm 2020) và
thấp hơn rất nhiều so với các địa phương còn
lại của vùng Đồng bằng sông Hồng.
Tỷ trọng vốn/GRDP của tỉnh bình quân giai đoạn
2016-2020 ở mức 33,3% GRDP, năm 2020 đã tăng lên 35,7% GRDP. Trong đó:
+
Tỷ trọng vốn đầu tư cho xây dựng cơ
bản (XDCB) chiếm 70,2% tổng vốn đầu tư toàn tỉnh[8]; vốn đầu tư mua sắm TSCĐ không
qua XD là 23,7%[9];
tỷ lệ tương ứng của cả nước là 72,4% và 17,6%.
+
Tốc độ tăng vốn đầu tư XDCB bình quân của tỉnh giai đoạn 2016-2020 đạt 13,4%/năm, cao hơn tốc độ tăng bình
quân cả nước là 8,5%/năm và chỉ đứng sau tốc
độ tăng của thành phố Hải Phòng là 22,4%/năm.
Hình 2. Quy mô và tốc độ tăng tổng vốn đầu tư toàn xã hội
so với tăng trưởng GRDP của các tỉnh trong vùng
ĐBSH giai đoạn 2016-2020
Nguồn: NGTK tỉnh các năm.
Tỷ trọng vốn đầu tư từ khu vực nhà
nước và khu vực tư nhân
trong nước trên địa bàn
tỉnh có xu hướng giảm
dần; trong khi tăng dần tỷ trọng từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Nguồn vốn từ khu
vực nhà nước giảm từ 25,4% tổng vốn đầu tư năm 2015 xuống
22% năm 2020; vốn khu vực ngoài nhà nước giảm từ 48,7%
xuống 43,1%; trong khi vốn khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng từ 25,8% lên 34,9%, cao hơn rất nhiều so với mức bình
quân của cả vùng Đồng bằng sông Hồng là 19,2%[10]
và của cả nước là 16,5%. Nếu so với các
tỉnh trong vùng Đồng bằng sông Hồng, có thể thấy tỷ trọng vốn khu vực đầu tư trực
tiếp nước ngoài của tỉnh chỉ thấp hơn so với tỷ lệ của
tỉnh Bắc Ninh là 49,7% (đến năm 2020). Tốc độ tăng trưởng
bình quân giai đoạn 2016-2020 của vốn khu vực nhà
nước, vốn khu vực ngoài nhà nước và vốn khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài của tỉnh
lần lượt là 7,8%/năm; 8,3%/năm và 18,1%/năm[11],
cho thấy vốn đầu tư cho tăng trưởng kinh tế của tỉnh chủ yếu đến
từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
Hình 3. Tỷ
trọng vốn khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội và
tốc độ tăng trưởng vốn FDI bình quân giai đoạn 2016-2020 của các tỉnh vùng
Đồng bằng sông Hồng
Nguồn: NGTK tỉnh năm 2021.
Nguồn vốn đầu tư từ khu vực ngoài
nhà nước chủ yếu đến từ khu vực dân cư,
trong khi khu vực doanh nghiệp ngày càng hạn chế. Trong tổng nguồn vốn đầu tư từ khu vực
ngoài nhà nước, tỷ trọng vốn từ tổ chức doanh nghiệp ngày
càng giảm, phản ánh khó khăn của khu vực
doanh nghiệp tư nhân trên địa bàn tỉnh.
Tỷ trọng vốn của khu vực này đã giảm mạnh từ 37,1% vốn khu
vực ngoài nhà nước năm 2015 xuống còn 29,1% năm
2020; tốc độ tăng bình quân nguồn vốn này
giai đoạn 2016-2020 chỉ đạt 3,2%/năm, rất thấp so với mức tăng
trưởng vốn bình quân chung của tỉnh là 11,1%/năm.
Năm 2021, quy mô vốn khu vực doanh nghiệp bị thu hẹp lại, giảm
chỉ còn 11,9%, thấp hơn rất nhiều so với các tỉnh khác trong vùng Đồng bằng sông Hồng (trong đó, tỷ lệ cao nhất là tại Hà Nội với 85,8%; tiếp đến là Hải Phòng 77,1% và Quảng Ninh 68,7%).
Trong
khi đó, quy mô vốn của dân cư tăng nhanh chóng; tỷ trọng tăng từ 62,9% lên 70,9% tổng vốn khu vực
ngoài nhà nước; tốc độ tăng giai đoạn 2016-2020 đạt
11%/năm. Năm 2021, nguồn vốn khu vực dân cư tiếp tục tăng
2,75% so với năm 2020. Đây là điểm khác biệt của tỉnh Vĩnh Phúc so với các tỉnh phát triển nhanh với quy mô lớn khác trong vùng ĐBSH như Hà Nội (tỷ trọng của
khu vực dân cư chiếm 17,3% vốn khu vực ngoài nhà nước), Hải Phòng (22,9%), Quảng Ninh (31,3%), Bắc
Ninh (51,5%). Khu vực dân cư có tỷ trọng vốn lớn của tỉnh
Vĩnh Phúc chỉ cho thấy những hạn chế trong việc mở rộng
hoạt động sản xuất với quy mô lớn hơn, vốn dân cư
nhỏ lẻ, manh mún, khó trong áp dụng khoa học
kỹ thuật, không đủ để đầu tư sản xuất lớn, công nghệ cao.
Hình 4. Tỷ
trọng vốn đầu tư của tổ chức doanh nghiệp trong vốn đầu tư khu vực ngoài
nhà nước và tăng trưởng
vốn khu vực doanh nghiệp bình quân giai đoạn
2016-2020 trong vùng Đồng bằng sông
Hồng
Nguồn: NGTK tỉnh các năm.
Khu vực kinh tế nhà nước có mức độ hiệu quả sử dụng vốn
thấp nhất; hiệu quả sử dụng vốn của các khu vực kinh tế còn lại có
xu hướng giảm dần, đặc biệt là khu vực vốn FDI. Trong giai đoạn 2016-2020, ngoại
trừ khu vực nhà nước có mức độ cải
thiện nhẹ về hiệu quả sử dụng vốn (tỷ lệ vốn đầu tư so với GRDP giảm từ 74,3%
xuống 73,5%), chất lượng nguồn vốn đầu tư đều giảm dần tại khu vực ngoài
nhà nước (tăng từ 47,4% lên 50,7%) và đáng kể
tại khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (tăng từ 26,5% lên 37,7%), cao hơn nhiều so với mức bình
quân cả nước đối với khu vực ngoài nhà nước
và FDI lần lượt là 39,5% và 28,8%.
Vốn đầu tư toàn tỉnh tập trung chủ yếu cho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo và hoạt động làm
thuê trong các hộ gia đình, sản xuất sản phẩm vật chất và dịch vụ
tự tiêu dùng của hộ gia đình;
trong khi đó vốn đầu tư cho cho các dịch vụ y tế, giáo dục trên
địa bàn tỉnh còn
tương đối hạn chế; hoạt động kinh doanh bất động sản có
sự tăng trưởng nóng. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo có tỷ trọng quy mô đầu tư lớn nhất so với các ngành kinh tế khác,
đến năm 2020 chiếm 41,6% tổng quy mô vốn đầu
tư toàn tỉnh[12].
Trong giai đoạn 2016-2020, tốc độ tăng trưởng bình quân vốn
đầu tư cho ngành công nghiệp chế biến chế tạo là
26,8%/năm; của hoạt động làm thuê trong các hộ gia đình, sản xuất sản phẩm vật chất và dịch vụ tự tiêu dùng của hộ gia đình là
13,2%/năm; nhờ đó, tỷ trọng vốn đầu tư cho
ngành công nghiệp chế biến, chế tạo và hoạt động làm thuê trong các hộ gia đình, sản xuất sản phẩm vật chất và dịch vụ tự tiêu
dùng của hộ gia đình chiếm tỷ trọng ngày
càng tăng trong tổng vốn đầu tư toàn tỉnh.
-
Tổng quy mô vốn đầu tư cho 03 ngành,
gồm: hoạt động chuyên môn, khoa học và
công nghệ; giáo dục và đào tạo; y tế và hoạt động trợ giúp xã hội, trên địa bàn tỉnh còn
tương đối hạn chế, chỉ chiếm tổng tỷ trọng là 7,14% tổng vốn đầu tư toàn tỉnh năm 2015; đến cuối năm
2020 giảm xuống chỉ còn 5,3%. So với các tỉnh trong vùng Đồng bằng sông Hồng, tỷ trọng này tương đối lạc quan, chỉ thấp hơn
so với Hà Nội (14,7%); Hà Nam (9%) và Nam Định (6,2%). Tỷ trọng vốn đầu tư của từng ngành cũng có xu hướng giảm trong giai đoạn 2015-2020, ngoại trừ hoạt động y tế và
hoạt động trợ giúp xã hội. Cụ thể, tỷ trọng
này của hoạt động chuyên môn, khoa học
và công nghệ giảm từ 1,1% xuống 0,4% (tốc độ vốn đầu tư
của ngành này bình quân giảm 8,45%/năm); của hoạt động giáo
dục và đào tạo giảm từ 4,0% xuống 2,4% (tốc
độ tăng là 0,11%/năm); trong khi của y tế và hoạt động trợ giúp xã hội tăng nhẹ từ 2,1% lên
2,6% (tốc độ tăng là 16,09%/năm).
-
Quy mô vốn đầu tư cho ngành kinh doanh bất động sản chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng vốn đầu tư toàn tỉnh giai đoạn 2015-2020[13],
nhưng có tốc độ tăng trưởng quy mô vốn
đầu tư lớn nhất so với tất cả các ngành kinh tế còn
lại. Cụ thể, quy mô vốn đầu tư cho hoạt động
kinh doanh bất động sản đến năm 2019 đạt 909,3 tỷ đồng (theo giá hiện hành), cao gấp 23 lần so với năm 2015 (do tác
động của dịch bệnh Covid-19, năm 2020 chỉ đạt 680 tỷ đồng, cao
gấp 17,2 lần so với năm 2015). Tốc độ tăng trưởng bình quân của vốn đầu tư cho ngành này giai đoạn 2016-2020 là
72,85%/năm (nếu loại bỏ tác động tiêu
cực của dịch bệnh Covid-19, tốc độ tăng bình quân giai đoạn 2016-2019 đạt 113,88%/năm), chỉ thấp hơn so với tốc độ tăng của tỉnh
Thái Bình (117,2%/năm) và tỉnh Hà Nam (84,9%/năm).
Hiệu quả nguồn vốn đầu tư cho các
ngành kinh tế chưa tương xứng với quy mô vốn đầu tư cho các ngành này. Tỷ lệ vốn
đầu tư so với tổng sản phẩm của ngành công nghiệp chế
biến, chế tạo đã tăng từ 18,4% (năm 2015) lên 38,3%
(năm 2020). Tương tự, ngành kinh doanh bất
động sản của tỉnh cũng có tỷ lệ này tăng mạnh từ 3,8% lên 47,3%, cho thấy giá trị gia tăng được tạo ra của ngành là rất nhỏ, trong
khi quy mô vốn đầu tư vào ngành này tăng mạnh[14].
Thực trạng tương tự đối với hoạt động làm thuê trong các hộ
gia đình, sản xuất sản phẩm vật chất và dịch vụ tự tiêu dùng của hộ gia đình. Ngược lại, giáo dục và đào tạo;
y tế và hoạt động trợ giúp xã hội có
tỷ lệ này giảm dần trong giai đoạn 2015-2020
dù vốn đầu tư cho các ngành này vẫn
tăng trưởng dương qua từng năm. Cụ thể, tỷ lệ này của ngành
giáo dục và đào tạo giảm từ 43,5% xuống
26,4%; của ngành y tế và hoạt động
trợ giúp xã hội giảm từ 60,1% xuống 52,7%. Điều này
cho thấy hiệu quả đầu tư vào các ngành dịch
vụ này cao hơn so với các ngành khác.
b) Vốn theo hình
thức sở hữu
b.1) Đầu tư công
Kế hoạch đầu tư công trung hạn 5 năm 2016-2020 của
tỉnh Vĩnh Phúc dự kiến tổng nguồn vốn giai đoạn này
là 31.446 tỷ đồng, trong đó phân bổ theo
nguyên tắc, tiêu chí và tiền đất là
22.161 tỷ đồng, còn lại là các nguồn khác như nguồn ODA, nguồn hỗ trợ từ ngân
sách Trung ương, vốn Trái phiếu chính
phủ. Giai đoạn 2016-2020, tổng vốn đầu tư công[15]
của tỉnh đạt 27.186 tỷ đồng, đạt 86,5% tổng kế hoạch thực hiện
giai đoạn này.
Đối với nguồn vốn đầu tư khu vực nhà nước, nguồn
vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước đạt 7.917 tỷ đồng (giá
hiện hành). Tuy nhiên, tốc độ tăng vốn ngân
sách nhà nước trong giai đoạn 2015-2020 chỉ đạt 6,2%/năm, thấp
hơn nhiều so với tốc độ tăng vốn huy động khác, dẫn đến cơ
cấu của nguồn vốn này trong tổng vốn đầu tư khu vực nhà
nước giảm xuống từ 87,5% (năm 2015) còn 81,6% (năm 2020); trong
khi tỷ trọng nguồn huy động khác tăng mạnh
từ 1,2% lên 13,8%.
Đáng
chú ý, trong giai đoạn 2015-2020, nguồn vốn vay có
xu hướng giảm dần; tốc độ giảm bình quân 13,2%/năm, dẫn đến tỷ trọng nguồn vốn này giảm chỉ còn
3,5% đến năm 2020. Điều này cho thấy nguồn
vốn đầu tư khu vực nhà nước của tỉnh Vĩnh Phúc chủ động trong các nguồn vốn, ít phụ thuộc vào nguồn vốn vay cho hoạt động khu vực Nhà
nước. tỷ trọng vốn vay trong tổng vốn đầu tư công trên địa bàn tỉnh là tương đối thấp
so với các địa phương khác trong vùng Đồng bằng sông Hồng.
Bảng 7: Nguồn
vốn đầu tư công trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2015-2020
Nguồn vốn
|
Giá trị
hiện hành
(tỷ VND)
|
Cơ cấu
(%)
|
Tốc độ tăng
(%/năm)
|
2015
|
2020
|
2015
|
2020
|
2016-2020
|
Vốn ngân sách Nhà nước
|
5.213
|
7.917
|
88,3
|
82,5
|
6,2
|
Vốn vay
|
616
|
337
|
10,4
|
3,5
|
-13,2
|
Vốn huy động khác
|
73
|
1.340
|
1,2
|
14,0
|
74,7
|
Tổng vốn đầu tư công
|
5.902
|
9.595
|
100,0
|
100,0
|
7,7
|
Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Vĩnh Phúc
Công
tác quản lý đầu tư công được quan tâm chỉ đạo, giám sát chặt chẽ; quyết liệt trong điều hành, trong đó tập
trung vào công tác giải phóng mặt
bằng, thi công công trình và giải ngân nguồn vốn đầu tư công. Công tác phân bổ vốn đầu tư công
được thực hiện đúng theo các nguyên tắc
trong cơ chế giao và điều hành kế
hoạch nhà nước, trong đó tập trung ưu
tiên thanh toán nợ, công trình chuyển
tiếp, bố trí dự án mới khi đảm bảo
đầy đủ thủ tục đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư công và các văn bản hướng dẫn của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
b.2) Đầu tư tư nhân
Số lượng doanh nghiệp của tỉnh có
mức tăng trưởng khá trong giai đoạn 2016-2020 nhưng mật độ doanh nghiệp còn thấp và quy mô vốn sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp còn nhỏ. Cụ thể, đến năm 2020, tổng số doanh nghiệp đang hoạt động trên
địa bàn tỉnh đạt 6.610 doanh nghiệp; tốc độ
tăng bình quân số doanh nghiệp đạt 17,9%/năm giai đoạn
2016-2020, cao hơn nhiều mức bình quân 7%/năm của vùng
Đồng bằng sông Hồng. Tuy nhiên, mật độ doanh nghiệp bình quân trên 1.000 dân trong độ tuổi lao động của tỉnh chỉ là 14[16],
thấp hơn nhiều so với mức bình quân của vùng
là 24,3[17].
Quy
mô vốn sản xuất kinh doanh bình quân một doanh nghiệp đang hoạt động có kết quả sản xuất
kinh doanh của tỉnh có xu hướng tăng từ 44,8 tỷ đồng/doanh
nghiệp (năm 2015) lên 53,8 tỷ đồng/doanh nghiệp (năm
2020), nhưng vẫn thấp hơn so với mức bình quân của vùng
Đồng bằng sông Hồng là 65,9 tỷ đồng/doanh nghiệp và của cả nước là 67,6
tỷ đồng/doanh nghiệp; số lượng doanh nghiệp tỉnh với quy mô
vốn từ 500 tỷ đồng trở lên chỉ là
1,8% tổng số doanh nghiệp tỉnh, tỷ lệ này của
vùng Đồng bằng sông Hồng và của cả nước lần lượt là 1,4% và 1,3%. Đến 2020, số
lao động bình quân của một doanh nghiệp đang hoạt động có
kết quả sản xuất kinh doanh của tỉnh là 33,3 lao động/doanh nghiệp, của vùng Đồng bằng sông Hồng là 22,5 lao động/doanh nghiệp và của cả nước là 21,5 lao động/doanh nghiệp. Đến năm
2020, doanh nghiệp tỉnh với quy mô lao động dưới 10 người
chiếm tỷ trọng 74,9% tổng số doanh nghiệp tỉnh, gần tương đương với tỷ lệ của vùng
Đồng bằng sông Hồng và của cả nước lần lượt là 75,52% và 79,03%. Điều này
cho thấy quy mô lao động bình quân một doanh nghiệp của tỉnh lớn hơn nhiều so với mức bình quân của vùng Đồng bằng sông Hồng và
của cả nước, trong khi thấp hơn về quy mô bình quân vốn sản xuất, cho thấy phần nào sự thâm dụng lao động lớn tại các doanh nghiệp của tỉnh.
Bảng 8: Doanh
nghiệp đang hoạt động của tỉnh theo khu vực kinh tế và ngành kinh
tế
Phân theo khu vực và ngành
kinh tế
|
Số doanh
nghiệp
|
Cơ cấu
|
2015
|
2020
|
2015
|
2020
|
TỔNG SỐ
|
2.895
|
6.610
|
100%
|
100%
|
Phân theo khu vực kinh tế
|
|
|
|
|
Doanh nghiệp Nhà nước
|
16
|
10
|
0,6%
|
0,2%
|
DN 100% vốn Nhà nước
|
7
|
6
|
0,2%
|
0,1%
|
DN hơn 50% vốn Nhà nước
|
9
|
4
|
0,3%
|
0,1%
|
Doanh nghiệp ngoài Nhà nước
|
2.741
|
6.238
|
94,7%
|
94,4%
|
Tư nhân
|
237
|
170
|
8,2%
|
2,6%
|
Công ty hợp danh
|
-
|
7
|
0,0%
|
0,1%
|
Công ty TNHH
|
1.938
|
4.576
|
66,9%
|
69,2%
|
Công ty cổ phần có vốn Nhà
nước
|
3
|
12
|
0,1%
|
0,2%
|
Công ty cổ phần không có vốn
Nhà nước
|
563
|
1.473
|
19,4%
|
22,3%
|
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
|
138
|
362
|
4,8%
|
5,5%
|
DN 100% vốn nước ngoài
|
125
|
337
|
4,3%
|
5,1%
|
Doanh nghiệp liên doanh với
nước ngoài
|
13
|
25
|
0,4%
|
0,4%
|
Phân theo ngành kinh tế
|
|
|
|
|
Nông nghiệp, lâm nghiệp và
thủy sản
|
16
|
57
|
0,6%
|
0,9%
|
Khai khoáng
|
18
|
28
|
0,6%
|
0,4%
|
Công nghiệp chế biến, chế tạo
|
571
|
1.362
|
19,7%
|
20,6%
|
Sản xuất và phân phối điện,
khí đốt, nước nóng, hơi nước và
điều hòa không khí
|
11
|
35
|
0,4%
|
0,5%
|
Cung cấp nước; hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải
|
19
|
37
|
0,7%
|
0,6%
|
Xây dựng
|
619
|
1.267
|
21,4%
|
19,2%
|
Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, xe máy
và xe có động cơ khác
|
1.075
|
2.257
|
37,1%
|
34,1%
|
Vận tải, kho bãi
|
154
|
329
|
5,3%
|
5,0%
|
Dịch vụ lưu trú và ăn uống
|
88
|
225
|
3,0%
|
3,4%
|
Thông tin và truyền thông
|
7
|
25
|
0,2%
|
0,4%
|
Hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm
|
6
|
26
|
0,2%
|
0,4%
|
Hoạt động kinh doanh bất động sản
|
19
|
132
|
0,7%
|
2,0%
|
Hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ
|
193
|
498
|
6,7%
|
7,5%
|
Hoạt động hành chính và dịch
vụ hỗ trợ
|
55
|
195
|
1,9%
|
3,0%
|
Hoạt động của Đảng Cộng sản, tổ chức chính
trị - xã hội, quản lý nhà nước, an ninh, QP;
|
-
|
-
|
0,0%
|
0,0%
|
Giáo dục và đào tạo
|
15
|
76
|
0,5%
|
1,1%
|
Y tế và hoạt động trợ giúp
xã hội
|
9
|
16
|
0,3%
|
0,2%
|
Nghệ thuật, vui chơi và giải
trí
|
7
|
16
|
0,2%
|
0,2%
|
Hoạt động dịch vụ khác
|
13
|
29
|
0,4%
|
0,4%
|
Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Vĩnh Phúc
Số lượng doanh nghiệp khu vực ngoài
nhà nước chiếm tỷ trọng chủ yếu với tốc độ tăng trưởng
nhanh, tiếp tục lấn át tỷ trọng doanh nghiệp
khu vực nhà nước và FDI, tuy
nhiên quy mô doanh nghiệp của khu vực này
ngoài nhà nước (xét trên khía cạnh lao động và vốn) vẫn rất khiêm
tốn so với khu vực có vốn
đầu tư nước ngoài. Cụ thể, trong giai đoạn
2016-2020, tốc độ tăng doanh nghiệp của khu vực ngoài nhà nước đạt 17,9%/năm; của khu vực doanh nghiệp nhà nước
-9,0%/năm; của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 21,3%/năm. Nhờ đó, tỷ trọng doanh nghiệp của các
khu vực này đến 2020 lần lượt đạt 94,4%;
0,2%; 5,5%[18].
Tuy nhiên, tiềm lực sản xuất của khu vực doanh nghiệp ngoài
nhà nước của tỉnh còn rất khiêm tốn so với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
Đến năm 2020, doanh nghiệp ngoài nhà nước
với quy mô lao động trên 200 người
chỉ chiếm 19,5% tổng số lượng doanh nghiệp ngoài nhà nước;
của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là 27,9%. Về quy mô vốn, tỷ trọng doanh nghiệp ngoài
nhà nước với quy mô vốn từ 01 đến dưới 500
tỷ đồng chiếm 85,2% tổng số doanh nghiệp ngoài nhà nước;
từ 500 tỷ đồng trở lên chiếm 0,9%; đối với khu vực có
vốn đầu tư nước ngoài, tỷ trọng này lần lượt đạt 81,5% và 16,0%.
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giữ vai trò
quan trọng trong việc tạo việc làm và thu nhập cho người dân trên địa bàn
tỉnh. Đến năm 2020, số lượng lao
động bình quân đang làm việc trong 01 doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài là 391 lao động/doanh
nghiệp; trong 01 doanh nghiệp ngoài nhà nước chỉ là
12 lao động/doanh nghiệp. Tỷ trọng lao động làm việc trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
tăng đáng kể, từ mức 56% (năm 2015) lên 64% (năm 2020);
trong khi giảm dần tại khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước từ 41% xuống 35%. Đến năm 2020, thu nhập bình quân một tháng của người lao động trong khu vực doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt
9.669 nghìn đồng (cao gấp 1,62 lần so với năm 2015); trong
khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước là 7.062 nghìn
đồng (cao gấp 1,32 lần so với năm 2015); trong khu vực doanh
nghiệp nhà nước là 5.940 nghìn đồng
(thấp hơn 0,98 lần so với năm 2015).
Doanh nghiệp tập trung chủ yếu trong 06 ngành
kinh tế[19];
tuy nhiên ngành công nghiệp chế biến, chế
tạo có xu hướng phát triển mạnh mẽ hơn nhiều so với các ngành kinh tế khác với tiềm lực lao động và
nguồn vốn lớn. Tỷ trọng doanh
nghiệp của ngành công nghiệp, chế biến, chế tạo; ngành
chuyên môn, khoa học và công nghệ; ngành
dịch vụ lưu trú và ăn uống có mức tỷ trọng tăng dần trong giai đoạn 2015-2020, với tốc độ tăng bình
quân lần lượt là 19%/năm; 20,9%/năm; 20,7%/năm, cho thấy đây là những ngành đang có xu hướng mở rộng sản xuất kinh doanh trên địa bàn
tỉnh. Doanh nghiệp với quy mô từ 200 người
trở lên hầu như chỉ tập trung tại ngành công nghiệp chế biến, chế tạo (chiếm 84,8% tổng số doanh nghiệp có quy mô
lao động từ 200 người trở lên). Tỷ trọng lao
động trong các doanh nghiệp đến năm 2020 tập trung chủ yếu
trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo (76,8%). Xét
về quy mô vốn, doanh nghiệp với quy mô
vốn từ 500 tỷ đồng trở lên tập trung chủ yếu
tại ngành công nghiệp chế biến, chế tạo (58,9%).
Mặc dù tỷ
trọng doanh nghiệp trong hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ có sự tăng trưởng trong giai đoạn qua, nhưng tiềm lực về lao động và
vốn của doanh nghiệp trong ngành còn yếu. Số lượng lao động trong hoạt động chuyên
môn, khoa học và công nghệ có có xu
hướng tăng mạnh trong giai đoạn 2015-2020, với tốc độ tăng bình
quân 21,7%/năm, nhưng chỉ chiếm tỷ trọng 7,5% tổng số lao động
đến 2020. Mặt khác, nguồn lực đầu tư cho tài sản cố định và tài chính dài hạn cho hoạt động chuyên
môn, khoa học và công nghệ còn tương
đối hạn chế. Tài sản cố định trang bị cho
một lao động trong ngành này chỉ đạt 78 triệu đồng/lao
động (năm 2020), thấp hơn 4,4 lần so với ngành công nghiệp
chế biến, chế tạo và thậm chí thấp
hơn ngành dịch vụ ăn lưu trú và ăn uống
là 4,9 lần.
Doanh nghiệp có sự chuyển dịch tương đối mạnh mẽ giữa các huyện trên địa bàn tỉnh trong giai đoạn 2015-2020. Cụ thể, số
lượng doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Vĩnh Yên chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng số
doanh nghiệp toàn tỉnh và có xu hướng
tăng dần; đến năm 2020 chiếm tỷ trọng 37,4%, cao hơn so với năm 2015 là
37,1%. Trong khi đó, tỷ trọng số lượng doanh nghiệp tại thành
phố Phúc Yên có xu hướng giảm rõ rệt (từ 18,8% xuống 12,7%), trong khi tăng dần tại huyện Bình
Xuyên (từ 11,9% lên 14,7%); huyện Tam Đảo
(từ 1,6% lên 2,7%); huyện Tam Dương (từ 3,9% lên
6,5%).
Huyện Bình Xuyên và thành phố Vĩnh Yên là địa phương tập trung
nhiều doanh nghiệp có tiềm lực lớn về lao
động và nguồn vốn.
Theo đó, đến năm 2020, doanh nghiệp với quy mô lao
động từ 200 người trở lên tập trung chủ yếu
tại huyện Bình Xuyên (49,3%) và thành phố Vĩnh Yên
(26,1%). Đối với quy mô vốn từ 500 tỷ đồng
trở lên, doanh nghiệp cũng tập trung chủ yếu tại huyện Bình
Xuyên (40,2%) và thành phố Vĩnh Yên (35,9%). Tuy nhiên, tỷ trọng lao động tại thành phố Vĩnh Yên có
xu hướng giảm mạnh trong giai đoạn qua; trong khi có xu hướng dịch chuyển mạnh hơn về huyện Bình Xuyên. Cụ
thể, tỷ trọng lực lượng lao động trong doanh nghiệp tại thành phố Vĩnh Yên giảm từ 44% (năm 2015) xuống 32% (năm
2020); trong khi tỷ lệ này ở huyện Bình Xuyên tăng
từ 19% lên 37%.
Huyện Bình Xuyên và thành phố Vĩnh Yên cũng là
địa phương mà khu vực doanh nghiệp đạt tốc
độ tăng trưởng lợi nhuận khá, mặc dù có xu hướng giảm dần; thu nhập của người lao động tại 02 địa phương này
đạt khá. Cụ thể, lợi nhuận trước thuế của các
doanh nghiệp tại thành phố Vĩnh Yên
và huyện Bình Xuyên trong giai đoạn
2016-2020 lần lượt đạt 1,1%/năm và 28,5%/năm; tỷ lệ bình
quân chung toàn tỉnh đạt 5,0%/năm[20]. Đến năm 2020, thu nhập bình
quân một tháng của người lao động trên
địa bàn thành phố Phúc Yên là cao nhất, đạt 12.606 nghìn đồng/người/tháng; tiếp đến là thành phố Vĩnh Yên 9.119 triệu đồng/người/tháng; tại huyện Bình Xuyên
là 8.743 triệu đồng/người/tháng. Thấp nhất là
ở huyện Lập Trạch với mức thu nhập đạt 4.796 triệu đồng/người/tháng.
b.3) Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Số lượng các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài
duy trì tốc độ tăng trong giai đoạn qua; quy mô
vốn thực hiện thường lớn hơn tổng vốn đăng ký.
Theo đó, các dự án FDI được cấp phép
trên địa bàn tỉnh có xu hướng tăng dần trong giai đoạn 2015-2019, đặc biệt có sự tăng trưởng vượt bậc trong 04 năm liên tiếp từ
2016-2019. Tuy nhiên, số lượng dự án FDI trong năm
2020 giảm mạnh so với năm 2019 do tác động
tiêu cực của dịch bệnh COVID-19. Trong 02 năm 2019-2020,
quy mô tổng vốn thực hiện thấp hơn tổng vốn đăng ký
dự án, trong khi các năm trước đó đều cao hơn. Tính trong cả giai đoạn 2015-2020,
tổng số dự án FDI được cấp phép trên địa bàn tỉnh là 271 dự án;
tổng vốn đăng ký là 2.044 triệu USD; tổng
vốn thực hiện là 2.023 triệu USD; bình quân vốn đăng ký trên một dự án là 7,54 triệu USD/dự án, cao hơn mức bình quân của vùng Đồng bằng sông Hồng là
5,17 triệu USD/dự án, nhưng thấp hơn mức bình
quân cả nước là 11,61 triệu USD/dự án.
Các dự án FDI tập trung chủ yếu cho ngành công nghiệp
chế biến, chế tạo và ngành dịch vụ lưu trú
và ăn uống. Lũy kế các dự án FDI còn hiệu lực đến năm 2020, có tổng số 410 dự án được cấp phép, trong đó
357 dự án trong ngành công nghiệp chế biến,
chế tạo (chiếm 87%) và 49 dự án trong lĩnh vực dịch vụ lưu trú và ăn uống (chiếm 12%). Bình
quân vốn FDI đăng ký cho một dự án
trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo là 15,3 triệu USD/dự án (cao hơn mức bình quân của cả nước là 14,97 triệu USD/dự án); trong
ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống là
8,2 triệu USD/dự án, cho thấy ngành
công nghiệp chế biến, chế tạo vẫn là ngành thế mạnh tiềm năng thu hút vốn FDI trên địa bàn tỉnh.
Quy mô vốn FDI đăng ký của các quốc gia không
tỷ lệ thuận với số lượng các dự án đăng ký. Cụ thể, Hàn Quốc có số lượng dự án FDI được
cấp phép trên địa bàn tỉnh lớn nhất
(51%); tiếp đến là Nhật Bản và Trung Quốc (mỗi quốc gia 13%); sau đó là Đài Loan (10%) và Singapore
(3%). Tuy nhiên, quy mô bình quân vốn đăng ký của một dự án FDI từ Hàn Quốc
và Trung Quốc rất nhỏ lẻ, đạt lần lượt 11,3 triệu USD/dự án
và 8,0 triệu USD/dự án, thấp hơn cả mức bình
quân toàn tỉnh (14,9 triệu USD/dự án). Trong khi đó, số lượng dự án FDI được cấp phép từ Singapore chỉ chiếm 3% nhưng quy mô vốn đăng ký
chiếm 8% tổng vốn FDI trên địa bàn tỉnh, cho thấy quy mô bình quân vốn đăng ký
của mỗi dự án FDI từ Singapore là rất lớn. Cụ thể, quy mô vốn bình quân mỗi dự án FDI từ Singapore đạt 37,1 triệu USD/dự án;
tiếp đến là Đài Loan và Nhật Bản lần lượt là
25,4 và 25,2 triệu USD/dự án.
Mặc dù có sự đóng góp lớn cho sự phát
triển kinh tế - xã hội
của tỉnh[21],
nhưng hiệu quả kết nối, tạo hiệu ứng lan tỏa về công nghệ và năng suất lao động từ các
doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài đến các doanh
nghiệp địa phương vẫn chưa được như kỳ vọng. Theo đó, hoạt động sản xuất và đầu tư của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh dựa chủ yếu vào gia công lắp ráp, sử dụng lao động giá rẻ và tạo
ra ít giá trị gia tăng; tỷ lệ nội địa hóa và lan tỏa thay đổi không đáng kể, đóng góp thấp vào việc chuyển giao công nghệ.
Hộp 1. Kết nối doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài với
doanh nghiệp trong nước trên địa bàn
tỉnh còn nhiều khó
khăn
Trên
địa bàn tỉnh hiện đã có một số doanh nghiệp trong nước kết nối được với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong sản xuất kinh doanh, điển hình như Công ty TNHH Công nghệ Cosmos, Khu công nghiệp Khai Quang (Vĩnh Yên).
Thành lập từ năm 2005 với lĩnh vực hoạt động chính là chế tạo khuôn mẫu, gia công cơ khí chính xác,
đến nay, Cosmos đã trở thành nhà cung
cấp linh kiện uy tín cho nhiều doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài như Công ty Toyota Việt Nam, Honda Việt Nam. Tuy nhiên, số lượng các
doanh nghiệp trong nước có kết nối với doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh như Cosmos hiện nay chưa nhiều.
Nguyên
nhân chủ yếu là do nhiều doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài thường có
xu hướng nhập vật tư, hàng hóa đầu vào
từ nước xuất xứ của mình hoặc các nước có giá thành rẻ hơn, mà ít sử dụng nhà cung cấp tư nhân trong nước. Mặt khác, các doanh nghiệp trong nước trên
địa bàn tỉnh hiện nay vẫn chủ yếu mang quy mô
nhỏ và vừa, năng suất hạn chế, công
nghệ, kinh nghiệm, nhân lực, quản lý
còn nhiều yếu kém. Ngoài ra, nguyên nhân quan trọng khiến cho hiệu ứng lan tỏa, chuyển giao công nghệ trong thu hút đầu tư FDI chưa đạt như kỳ vọng là
do chưa có những ràng buộc pháp lý chặt chẽ bắt buộc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài chuyển giao công nghệ sau thời
gian đầu tư.
3.2. Nguồn lực lao động
a) Cơ cấu lao động theo ngành
Dân
số Vĩnh Phúc năm 2020 là 1.171,2 nghìn người (tăng 116,7 nghìn người so với năm 2015), trong
đó lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên là 634,47
nghìn người, chiếm 54,17% dân số toàn
tỉnh. Trong giai đoạn 2016-2020, tốc độ tăng lực lượng lao động
tại Vĩnh Phúc trung bình đạt 0,28%/năm, nhanh thứ 3 trong
số các tỉnh trong vùng ĐBSH, chỉ sau
Bắc Ninh và Hà Nội.
Hình 14. Quy mô lao động năm 2020 và tốc độ tăng lao động
trung bình giai đoạn 2016-2020 của Vĩnh Phúc
và các tỉnh trong vùng ĐBSH
Nguồn: TCTK
Trong giai đoạn 2016-2020, cơ cấu lao động
tại Vĩnh Phúc chuyển dịch theo hướng tăng
dần tỷ trọng lao động trong các ngành CN-XD, giảm dần tỷ trọng lao động trong các ngành NLTS. Trong
những năm qua, quá trình công nghiệp hóa
và đô thị hóa ở Vĩnh Phúc diễn ra rất nhanh. Cơ cấu kinh tế của tỉnh Vĩnh Phúc đã có sự thay đổi theo hướng tăng tỷ trọng của công nghiệp-xây
dựng và giảm tỷ trọng nông lâm thuỷ sản. Cùng với quá trình giảm
tỷ trọng trong GRDP, cơ cấu lao động chuyển dịch theo nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường.
Hình 15. Cơ cấu
lao động phân theo ngành kinh tế (%)
Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Vĩnh Phúc
Lao
động làm việc trong các ngành
NLTS tại Vĩnh Phúc đã giảm nhanh trong giai đoạn
2016-2020. Trong năm 2020, lao động làm việc trong các
ngành NLTS chiếm 23,7% tổng số lao động từ 15 tuổi trở lên
đang làm việc hàng năm trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc (tương ứng với 147,4 nghìn
lao động), giảm 14,7 điểm phần trăm tương ứng với 90,8 nghìn
lao động so với năm 2016 (tỷ trọng là 38,4%). Sau 5 năm,
NLTS đã từ nhóm ngành thâm dụng nhiều lao
động nhất tại Vĩnh Phúc trong năm 2016 thành ngành sử dụng
ít lao động nhất. Trung bình giai đoạn
2016-2020, lao động làm việc trong các ngành NLTS tại Vĩnh Phúc giảm 11,3%/năm, cao gấp 2,1 lần so
với mức bình quân chung của cả nước (giảm 5,46%/năm), và
cao hơn mức trung bình của vùng ĐBSH
(giảm 10,22%/năm). Tốc độ giảm lao động trong NLTS của Vĩnh Phúc
đứng thứ 4/11 trong vùng ĐBSH, chỉ sau Bắc
Ninh (giảm trung bình 12,87%/năm), Nam Định (giảm trung bình
12,81%/năm) và Hà Nam (giảm trung bình 12,33%/năm)[22].
Lao động trong NLTS tại Vĩnh Phúc giảm phù
hợp với thực tế cơ cấu của các ngành này trong cơ cấu kinh tế chung của tỉnh đang ngày càng giảm.
Hình 5. Quy mô lao động nông nghiệp năm 2020 và
tốc độ tăng lao động trong nông nghiệp trung bình giai đoạn 2016-2020
của Vĩnh Phúc và các tỉnh trong vùng
ĐBSH
Nguồn: TCTK
Trong
khi đó, lao động làm việc trong các
ngành CN-XD có xu hướng tăng nhanh, đều và ổn
định. Năm 2020, lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc
trong các ngành CN-XD tại Vĩnh Phúc chiếm 44,9% (tương ứng với 279,6 nghìn lao động),
tăng 11,6 điểm phần trăm (tương ứng với 279,6 nghìn lao động)
so với năm 2016 (tỷ trọng là 33,3%). CN-XD là ngành thâm dụng
nhiều lao động nhất trong năm 2020, cao hơn hẳn khi so sách với NLTS và DV, phản ánh đúng với xu thế phát triển các ngành CN, chế biến chế tạo, cũng như thành quả thu hút
FDI vào các ngành này tại Vĩnh Phúc trong những
năm gần đây. Tốc độ tăng lao động trong ngành CN-XD
tại Vĩnh Phúc trung bình đạt 7,86%/năm trong
giai đoạn 2016-2020, cao hơn 1,48 lần mức bình quân chung của cả nước (5,3%/năm), gấp 1,6 lần mức bình quân chung của vùng ĐBSH (4,89%/năm). Khi so sánh với các
địa phương khác trong vùng, tốc độ tăng lao
động làm việc trong nhóm ngành CN-XD của Vĩnh Phúc đứng thứ 2/11 địa phương, chỉ sau
Hưng Yên (tăng trung bình 9,47%/năm). Trong năm 2021, số
lao động từ 15 tuổi trở lên có việc làm trong các
ngành CN-XD tiếp tục tăng lên, đạt 293.217
lao động, tăng 13.582 lao động so với năm 2020.
Hình 6. Quy mô lao động trong nhóm các ngành CNXD năm 2020 và tốc độ tăng lao động trong CNXD trung bình giai đoạn 2016-2020 của Vĩnh Phúc và các tỉnh
trong vùng ĐBSH
Nguồn: TCTK
Đối với các ngành Dịch vụ, tỷ trọng lao động tăng lên
trong giai đoạn 2016-2020 cho thấy xu hướng ngày càng phát
triển của các ngành này tại Vĩnh Phúc.
Năm 2020, có 31,4% lao động từ 15 tuổi trở lên có việc làm trong các ngành DV, tăng 3,1 điểm phần trăm
(tăng 19,9 nghìn lao động) so với năm 2016. Các
ngành DV từ vị trí là ngành thâm dụng ít
lao động nhất trong năm 2016, trong năm 2020 đã vươn lên
thứ 2, vượt qua NLTS và sử dụng lao động
nhiều chỉ sau các ngànhh CN-XD. Trong giai đoạn 2016-2020,
lao động trong các ngành DV tại Vĩnh Phúc tăng bình
quân 2,74%/năm, cao hơn mức trung bình cả
nước (2,23%/năm), và cao hơn mức trung bình của Đồng bằng sông Hồng (2,3%/năm). So với các
tỉnh trong vùng, tốc độ tăng lao động làm
việc trong các ngành DV tại Vĩnh Phúc
đứng thứ 5/11. Trong năm 2021, số lao động có việc làm trong nhóm các ngành DV tiếp tục tăng thêm
4.416 người, lên 199.752 lao động.
Hình 7. Quy mô lao động trong nhóm các ngành dịch vụ năm
2020 và tốc độ tăng lao động trong ngành
Dịch vụ trung bình giai đoạn 2016-2020 của Vĩnh Phúc và các tỉnh
trong vùng ĐBSH
Nguồn: TCTK
b) Chất lượng lao động
Trong những năm qua, nhờ tăng cường công tác đào tạo nghề, chất lượng nguồn nhân lực của Vĩnh Phúc được cải thiện qua từng năm. Vĩnh Phúc
đã dành nhiều nguồn lực ưu tiên cho phát triển nguồn nhân lực, nhiều giải pháp phát triển nguồn nhân lực đã được triển khai đồng bộ tạo bước đột phá đáng kể
về chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh, đặc biệt là nguồn
nhân lực có kỹ năng nghề. Bên cạnh đó, mạng
lưới các cơ sở đào tạo nghề được phát triển tương đối đa dạng
về loại hình, trình độ, ngành
nghề đào tạo.
Công tác tuyển sinh, đào tạo sơ cấp, trung cấp, cao đẳng thực hiện linh
hoạt với nhiều hình thức phong phú, đa dạng đáp ứng
nhu cầu học nghề của người lao động. Đội ngũ nhà giáo phát triển cả về số
lượng và chất lượng từng bước được chuẩn hóa. Trên cơ sở đó, chất lượng của người lao động tại Vĩnh Phúc đã được
cải thiện đáng kể.
Năm
2020, tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đã qua đào
tạo tại Vĩnh Phúc đạt 28,59%, tăng 6,59 điểm
phần trăm so với năm 2016 (28,59%). Tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đã
qua đào tạo tại Vĩnh Phúc năm 2020 cao hơn tỷ
lệ chung của cả nước là 24,05%, nhưng thấp hơn so với vùng
ĐBSH là 32,62%. So sánh với các địa phương
khác trong vùng ĐBSH, trong năm 2020, tỷ lệ lao động từ 15
tuổi trở lên đã qua đào tạo của Vĩnh Phúc chỉ xếp hạng 5/11 tỉnh, thành phố, thấp hơn đáng
kể so với các địa phương dẫn đầu: thấp hơn
19,91 điểm phần trăm so với Hà Nội (48,5%), thấp hơn 10,1
điểm phần trăm khi so với Quảng Ninh (38,65%) và thấp hơn
9,93 điểm phần trăm so với Hải Phòng (34,7%). Cùng với sự
thay đổi trong cách thức thống kê số
lượng lao động có việc làm, tỷ lệ lao
động đang làm việc đã qua đào tạo tại
Vĩnh Phúc cũng có thay đổi đáng kể.
Tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên có việc làm đã
qua đào tạo tại Vĩnh Phúc năm 2021 là 34,69%, xếp thứ 4/11 tỉnh, thành phố trong vùng, sau
Hà Nội (50,3%), Quảng Ninh (41,4%), và Hải
Phòng (36%).
Hình 19: Tỷ
lệ lao động đã qua đào tạo các
tỉnh vùng ĐBSH năm 2020 (%)
Nguồn: TCTK
Như
vậy, về cơ bản, cơ cấu lao động trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đã có sự
chuyển dịch đáng kể từ Nông nghiệp là
nhóm ngành thâm dụng lao động nhưng có năng suất thấp sang các ngành Công nghiệp Xây dựng là những ngành có năng suất
cao hơn. Sự tăng trưởng nhanh và ổn định NSLĐ trong các
nhóm ngành CN-XD cho thấy các nhóm ngành này sẽ tiếp tục là nam châm hút lao động của Vĩnh Phúc
trong thời gian tới. Với đóng góp chủ yếu từ
khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, lao động làm việc trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đang tăng lên nhanh so với các
khu vực còn lại, đây là cơ hội để lao động của Vĩnh Phúc tiếp cận với môi
trường làm việc và công nghệ hiện đại theo chuẩn quốc tế.
Tỷ lệ lao động qua đào tạo giai đoạn 2016-2020 đang
tăng lên qua từng năm cho thấy chất lượng lao động tại
tỉnh đã có sự cải thiện theo thời gian; mặc dù vậy, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo của tỉnh còn
thấp hơn khi so sánh với nhiều địa phương
trong vùng và trong cả nước. Năm 2021, tỷ lệ lao động qua
đào tạo của Vĩnh Phúc đạt 34,7%, thấp
hơn so với mức bình quân của vùng Đồng
bằng sông Hồng (37%).
Cơ
cấu lao động tại Vĩnh Phúc giai đoạn
2016-2020 vừa qua cũng bộc lộ 1 số hạn chế. Về cơ cấu lao động theo ngành,
khác với xu hướng tăng tỷ trọng lao động trong nhóm ngành
DV tại 1 số địa phương, tại Vĩnh Phúc, lao động
trong nhóm các ngành Dịch vụ thời gian qua dao động không
ổn định, sau 5 năm, lao động làm việc trong
nhóm các ngành Dịch vụ còn có xu hướng
giảm đi. Mặc dù chất lượng lao động tại Vĩnh Phúc
đã có sự cải thiện theo hướng tích cực, tuy
nhiên, khi so sánh với các địa phương
khác trong vùng ĐBSH, chất lượng lao động tại Vĩnh Phúc
vẫn kém hơn mức bình quân của vùng, đồng thời kém hơn nhiều so với một số địa phương dẫn đầu, đặt ra yêu cầu
cần tiếp tục nỗ lực hơn nữa trong nâng cao chất lượng lao
động của tỉnh.
NSLĐ của Vĩnh Phúc trong giai
đoạn 2016-2020 đã có sự
gia tăng đáng kể.
NSLĐ Vĩnh Phúc năm 2020 đạt 198,55 triệu đồng/lao động
(xếp vị trí thứ 5/11 địa phương trong vùng ĐBSH),
cao gấp 1,43 lần so với NSLĐ năm 2016 (139,1 triệu đồng/lao
động). NSLĐ của Vĩnh Phúc nằm trong nhóm các địa phương có NSLĐ cao của vùng đồng bằng sông Hồng, và cao hơn mức trung bình NSLĐ cả nước (NSLĐ năm 2020 của cả
nước là 146,68 triệu đồng/lao động, chỉ bằng 74% NSLĐ của
Vĩnh Phúc).
Mặc dù NSLĐ của Vĩnh Phúc được
cải thiện theo thời gian, tuy nhiên còn thấp hơn đáng
kể khi so sánh với những địa phương trong vùng
ĐBSH. Năm 2020, NSLĐ của Vĩnh Phúc chỉ bằng
63% NSLĐ của Quảng Ninh, 74% NSLĐ của Bắc Ninh, 77% NSLĐ của Hải Phòng,
và 80% NSLĐ của Hà Nội. NSLĐ của Vĩnh Phúc
giai đoạn 2016-2020 tăng trưởng trung bình 6,95%/năm, cao
hơn mức trung bình của cả nước (6%/năm). So
sánh với các tỉnh trong vùng
ĐBSH, Vĩnh Phúc là một trong những tỉnh có mức
tăng trưởng NSLĐ thấp nhất, đứng thứ 9/11 địa phương. Các tỉnh có tốc độ tăng NSLĐ nhanh nhất bao gồm Hải Phòng
(15,38%/năm), Quảng Ninh (11,44%/năm), Hà Nam
(11,87%/năm). Năm 2021, so có sự thay đổi về cách thức thống kê số lượng lao động có việc làm trong ngành Nông nghiệp đã kéo theo
sự thay đổi về số liệu thống kê NSLĐ ngành Nông nghiệp nói riêng cũng như NSLĐ toàn tỉnh nói
chung, NSLĐ của Vĩnh Phúc năm 2021 đạt
238,92 triệu đồng/lao động.
Hình 20: NSLĐ các tỉnh vùng ĐBSH năm 2020
Nguồn: TCTK
Nông-lâm-thuỷ sản là nhóm
ngành có NSLĐ thấp nhất tại Vĩnh Phúc. NSLĐ
các ngành NLTS Vĩnh Phúc năm 2020 đạt 51,22 triệu đồng/lao động,
cao gấp 2 lần so với năm 2016 (25,42 triệu đồng/lao động, giá hiện hành). Mặc dù NSLĐ ngành NLTS tại Vĩnh Phúc đã tăng gấp hơn 2 lần sau 5 năm,
nhưng giá trị tuyệt đối NSLĐ của ngành NLTS tại Vĩnh Phúc là rất thấp so với cả nước cũng như các
tỉnh trong vùng ĐBSH. Năm 2020, NSLĐ ngành NLTS Vĩnh Phúc
là 51,22 triệu đồng/lao động, bằng 89,2% so với mức bình
quân NSLĐ chung cả nước là 57,44 triệu
đồng/lao động.
Khi
so sánh với các địa phương khác
trong vùng ĐBSH, NSLĐ ngành NLTS của Vĩnh Phúc thuộc nhóm xếp hạng thấp. Năm 2020, NSLĐ ngành
NLTS Vĩnh Phúc xếp thứ 7/11 địa phương trong vùng ĐBSH, bằng 58% NSLĐ ngành NLTS Hải Phòng (địa phương xếp 1/11 vùng ĐBSH), bằng 66% NSLĐ ngành
NLTS Quảng Ninh (địa phương xếp thứ 2/11 vùng ĐBSH). Tốc độ tăng NSLĐ ngành NLTS Vĩnh Phúc giai đoạn
2016-2020 là 11,36%/năm, cao hơn mức bình quân
chung của cả nước (8,56%/năm), nhưng chỉ xếp thứ 9/11 địa phương
và thuộc nhóm thấp nhất trong vùng.
Trong năm 2021, sự điều chỉnh về thống kê lao động làm việc trong nhóm ngành Nông nghiệp đã khiến NSLĐ trong ngành này tăng lên
đáng kể, từ 51,22 triệu đồng/lao động trong năm 2020 lên
104,2 triệu đồng trong năm 2021.
Công nghiệp-xây dựng mặc dù là ngành có NSLĐ cao, thu hút ngày càng nhiều lao động, tuy nhiên đây lại là
ngành có mức tăng trưởng NSLĐ thấp nhất trong cả 3 nhóm
ngành tại Vĩnh Phúc trong giai đoạn 2016-2020. NSLĐ ngành CN-XD Vĩnh
Phúc năm 2020 là 201,17 triệu đồng/lao động, tăng 1,2 lần so với
năm 2016 (166,67 triệu đồng/lao động), cao hơn mức bình quân cả nước (BQ cả nước năm 2020 là 179,05 triệu
đồng/lao động). NSLĐ ngành CN-XD của Vĩnh Phúc tiếp tục tăng nhanh, đạt 223 triệu đồng/lao động vào năm 2021,
tăng 10,86% so với năm 2020. Khi so sánh với
các địa phương khác trong vùng ĐBSH, NSLĐ nhóm
ngành CN-XD của Vĩnh Phúc thuộc nhóm
khá, xếp thứ 4/11 địa phương trong năm 2020, sau Quảng Ninh, Bắc
Ninh và Hải Phòng. So sánh về giá
trị tuyệt đối, mặc dù xếp thứ 4, nhưng NSLĐ
ngành CN-XD Vĩnh Phúc vẫn còn khoảng
cách khá xa với các địa phương dẫn
đầu, cụ thể NSLĐ ngành CN-XD Vĩnh Phúc năm 2020 chỉ bằng
35% NSLĐ ngành CN-XD Quảng Ninh, 55% NSLĐ ngành
CN-XD Bắc Ninh và 65% NSLĐ ngành CN-XD Hải
Phòng. Về tốc độ tăng NSLĐ, ngành CN-XD Vĩnh Phúc
có tốc độ tăng NSLĐ rất thấp, xếp thứ 10/11 địa phương trong vùng,
chỉ cao hơn Hưng Yên. Trung bình giai đoạn
2016-2020, NSLĐ ngành CN-XD tại Vĩnh Phúc tăng
0,25%/năm, thấp hơn nhiều (chỉ bằng 1/5) so với mức bình
quân của cả nước là 1,28%/năm.
Khi
so sánh với 2 nhóm ngành lớn là
NLTS và DV, NSLĐ ngành CN-XD Vĩnh Phúc cao hơn rất nhiều. Năm
2020, NSLĐ ngành CN-XD Vĩnh Phúc (201,17 triệu đồng/lao
động) cao gấp 3,93 lần NSLĐ ngành NLTS (51,22 triệu
đồng/lao động) và cao gấp 1,4 lần NSLĐ ngành DV
(142,97 triệu đồng/lao động).
Dịch vụ là ngành có NSLĐ cao
thứ hai tại Vĩnh Phúc, chỉ sau Công nghiệp-xây
dựng. Trong giai đoạn 2016-2020,
NSLĐ ngành DV tại Vĩnh Phúc tăng trưởng
tương đối ổn định. NSLĐ ngành DV Vĩnh Phúc năm 2020 đạt
142,97 triệu đồng/lao động, tăng 1,3 lần so với năm 2016 (109,76 triệu đồng/lao
động). NSLĐ ngành DV tại Vĩnh Phúc hiện
thấp hơn mức bình quân chung của cả nước (173,67 triệu
đồng/lao động vào năm 2020). Năm 2021, NSLĐ ngành DV tại
Vĩnh Phúc có xu hướng tăng nhưng tương đối chậm, chỉ đạt
146 triệu đồng/lao động (tăng 2,12% so với năm 2020). Khi so sánh với các địa phương khác trong vùng ĐBSH,
NSLĐ ngành DV Vĩnh Phúc cũng thuộc nhóm trung bình, xếp thứ 5/11 địa phương trong năm 2020.
Tuy
nhiên, khi xem xét tới tốc độ tăng NSLĐ, tốc độ tăng NSLĐ
ngành DV Vĩnh Phúc lại thuộc nhóm có tốc độ tăng nhanh trong vùng ĐBSH. Trong giai đoạn
2016-2019, NSLĐ ngành DV Vĩnh Phúc có tốc độ tăng trưởng
xếp thứ 2/11 địa phương vùng ĐBSH, trung bình tăng 8,9%/năm, chỉ xếp sau Hải Phòng (tăng 10,72%/năm).
3.3. Năng suất nhân tố tổng hợp
a) Khoa học và
công nghệ
Đầu
tư cho hoạt động KH&CN (gồm nguồn kinh
phí sự nghiệp, đầu tư phát
triển: KHCN và CNTT) đạt mức trung bình trong cả nước, đạt 0,8%, chưa
đạt 2,0% tổng chi NSNN theo tiêu chí tại Nghị quyết số 20-NQ/TW. Kinh
phí sự nghiệp KH&CN chủ yếu đầu tư nghiên cứu
khoa học và nghiên cứu ứng dụng cho các lĩnh vực: các đề tài, dự
án, đề án, chương trình, kế hoạch khung. Tính đến năm 2020, kinh
phí sự nghiệp KH&CN giao đoạn 2011-2020 là 525,36
tỷ đồng. Kinh phí đầu tư phát triển KH&CN chủ yếu đầu tư cho
các nghành KH&CN quản lý, ngành thông tin và truyền thông. Tính
đến năm 2020, kinh phí đầu tư phát triển KH&CN giao đoạn 2011-2020
là 335,29 tỷ đồng. Thông qua các dự án đầu tư, tiềm lực KH&CN
(cơ sở vật chất, trang thiết bị) của các cơ quan,
đơn vị ngày càng được tăng cường, từ
đó góp phần nâng cao hiệu quả,
hiệu lực quản lý nhà nước, hoặc đẩy mạnh
các hoạt động dịch vụ.
Nghiên cứu khoa học công nghệ
và ứng dụng
Giai
đoạn 2016-2020: Thực hiện 327 đề
tài, dự án khoa học và công nghệ cấp tỉnh (gồm
đề tài nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn
và đề tài nghiên cứu ứng dụng và phát triển
công nghệ), với tổng kinh phí
trên 160,0 tỷ đồng.
Áp
dụng thành tựu tiến bộ khoa học kỹ thuật, lĩnh vực công nghiệp
đã chế tạo thành công nhiều thiết bị, dây chuyền
sản xuất, chủng loại vật liệu mới phục vụ nghành cơ khí chế tạo, năng lượng, công nghiệp hỗ trợ,
nông nghiệp,... theo TCVN ISO 9001:2008 . Hàm lượng KH&CN trong các sản phẩm chủ lực của tỉnh như
ô tô, xe máy, điện, điện tử, vật liệu xây dựng ngày càng tăng,...
Các
KCN Vĩnh Phúc đầu tư đổi mới công nghệ
tiên tiến châu Âu, Nhật Bản, nâng cao hiệu quả sản xuất, cắt giảm tối đa chi phí sản xuất, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, nâng cao khả năng cạnh tranh sản phẩm... KH&CN
góp phần đưa Vĩnh Phúc trở thành trung tâm phụ trợ công nghiệp của cả nước.
Nhìn
chung, hoạt động nghiên cứu
ứng dụng và chuyển giao các tiến bộ
KH&CN vào sản xuất và đời sống trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đã
có những bước đi, cách làm đột phá, có sự tham gia chỉ đạo sát sao, quyết tâm
của cả hệ thống chính trị, đặc
biệt là sự tham gia tâm huyết,
có trách nhiệm của các doanh nghiệp,
tổ chức, cá nhân trong quá trình nghiên cứu, ứng dụng, triển khai thực hiện các nhiệm
vụ KH&CN. Nhiều mô hình KH&CN có hiệu quả được triển khai như: bảo tồn, phát
triển cây dược liệu quý hiếm
Trà hoa vàng, ba kích; trồng chanh tứ quý, cam
không hạt (cam V2) chất lượng cao; nhà kính, nhà
lưới ứng dụng công nghệ cao; sản xuất, cung ứng chế phẩm
Biomix1; xử lý chất thải chăn nuôi bằng
công nghệ tách rắn-lỏng...
tuyển chọn và phát triển một số giống lúa thuộc nhóm Japonica chất lượng trên địa bàn tỉnh; trồng thử nghiệm một số giống ớt
thương phẩm nhập nộị; ứng dụng công nghệ thụ tinh nhân tạo
để phát triển đàn trâu lai Murrah tại Vĩnh Phúc...
b) Môi trường kinh doanh
Chỉ số PCI của Vĩnh Phúc giai đoạn 2015-2021 đã
có sự cải thiện tích cực về cả điểm số và
xếp hạng cho thấy nỗ lực của chính quyền địa
phương trong quản lý, điều hành và cải
thiện năng lực cạnh tranh của tỉnh, đặc biệt trong bối cảnh dịch COVID-19 ảnh
hưởng nghiêm trọng đến đời sống và sản
xuất của người dân và doanh nghiệp trong giai đoạn
2020-2021. Về điểm số, mặc dù tại các năm giữa giai đoạn 2015-2021, điểm số PCI của Vĩnh Phúc khá biến động, không ổn định, song nhìn chung xu
hướng chung cả giai đoạn là tích cực, điểm đánh
giá PCI của Vĩnh Phúc trong giai đoạn
2015-2021 nhìn chung đã có cải thiện, tổng điểm đánh
giá đã tăng từ 62,56 điểm vào năm 2015 lên 69,69 điểm vào năm 2021 (tăng 7,13 điểm). Năm 2015, chỉ số
PCI của Vĩnh Phúc xếp hạng rất cao so với các tỉnh, thành, đứng thứ 4/63 trong cả nước; sang năm
2016, sự sụt giảm mạnh tổng điểm đánh giá xuống chỉ còn
57,82 (giảm 4,74 điểm) đã khiến thứ hạng của
Vĩnh Phúc cũng giảm sâu, xuống 37/63.
Trong các năm sau đó, mặc dù tổng
điểm đánh giá PCI của Vĩnh Phúc đã tăng trở lại, cao hơn mốc 62,56 điểm của năm 2015, tuy nhiên, do hầu hết các địa phương trong cả nước đều có
sự cải thiện về thể chế và môi trường kinh
doanh, dẫn đến trong bảng xếp hạng chung, Vĩnh Phúc vẫn luôn
nằm ngoài nhóm 10 địa phương có xếp hạng PCI cao nhất cả nước, năm 2020 vẫn ở hạng 29/63. Tuy vậy, chỉ
số PCI của tỉnh Vĩnh Phúc cải thiện đáng kể trong năm 2021. Năm 2021, với sự hiệu quả từ các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, cải thiện môi trường đầu tư
kinh doanh của chính quyền tỉnh Vĩnh Phúc. Trong tổng số 10 chỉ số thành phần trong năm 2021, Vĩnh
Phúc chỉ có 02/10 chỉ số giảm điểm và
giảm thứ hạng[23],
01 chỉ số giảm điểm và tăng thứ hạng[24], 07/10 chỉ số tăng điểm và
tăng thứ hạng[25].
Chính vì vậy, về tổng thể, Vĩnh Phúc đã tăng thứ hạng trở lại, chỉ số PCI của Vĩnh Phúc tăng cả
về điểm số và thứ hạng. Thứ hạng PCI của Vĩnh Phúc
vượt 24 bậc so với năm 2020, lên thứ 5/63
tỉnh, thành phố trong cả nước, vượt mục tiêu của tỉnh (nằm trong top 20). Với kết quả bứt phá trong năm 2021,
Vĩnh Phúc đã quay trở lại nhóm các địa
phương có chất lượng điều hành tốt
nhất trong cả nước. Khi so sánh với các tỉnh trong vùng Đồng bằng sông Hồng, Vĩnh Phúc cũng thuộc nhóm có điểm số và thứ hạng cao khi chỉ xếp sau Quảng Ninh
(xếp thứ 1/63) và Hải Phòng (xếp thứ
2/63).
Trong
số các chỉ số thành phần tăng về điểm số và thứ hạng, chỉ số Tiếp cận
đất đai tăng đến 54 bậc lên vị trí thứ
07/63 tỉnh/thành phố, là chỉ số có
mức tăng cao nhất của tỉnh Vĩnh Phúc; đứng
thứ hai là chỉ số Chính sách hỗ trợ
doanh nghiệp tăng 41 bậc lên vị trí 18/63 tỉnh thành phố; chỉ số Chi phí không chính
thức tăng 40 bậc lên vị trí 03/63 tỉnh, thành phố; chỉ số Cạnh tranh bình đẳng tăng 35 bậc lên vị trí 07/63 tỉnh, thành phố. Hai chỉ số giữ thứ hạng cao nhất
của tỉnh Vĩnh Phúc là chỉ số Chi phí thời gian và Chi phí không chính thức đều xếp hạng
03/63 tỉnh, thành phố. Hầu hết các chỉ
số thành phần đều đạt điểm số và thứ
hạng cao so với năm 2020. 02 chỉ số có sự giảm sâu
về cả thứ hạng và điểm số là Chỉ số Tính minh bạch giảm 32 bậc và Chỉ số Gia nhập thị trường giảm 14 bậc đây là các chỉ
số cần được Vĩnh Phúc quan tâm và cải thiện trong thời
gian tới.
c) Chất lượng chính
quyền
Thời gian qua, Vĩnh Phúc luôn
đặc biệt quan tâm đến công
tác cải cách thủ tục hành
chính và coi đây là khâu đột phá để cải thiện môi trường đầu tư, nâng
cao chỉ số cải cách hành chính (PAR INDEX).
Qua 10 năm thực hiện Chương trình tổng thể
cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2010-2020, tỉnh
Vĩnh Phúc đều đạt và vượt mục tiêu
theo Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 08/11/2011 của Chính phủ và Nghị quyết số
60/NQ-HĐND ngày 19/7/2012 của Hội đồng nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc. Nhận thức của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức về
cải cách hành chính (CCHC) được nâng lên; tinh thần, thái độ và ý thức trách
nhiệm trong giải quyết công việc được nâng
cao; cơ sở vật chất, trang thiết bị được đầu tư tốt hơn, cơ bản đáp
ứng được yêu cầu nhiệm vụ và mang lại hiệu quả cao; bộ máy hành chính được tổ chức
khoa học; hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính nhà nước
được nâng cao; thể chế, bộ máy các cơ quan hành
chính ngày càng hoàn thiện, phát huy dân chủ
và thực hiện chế độ công khai, minh bạch;
công tác ban hành văn bản tiếp tục đổi mới về chất lượng,
nội dung và quy trình góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Vĩnh Phúc
đã kết nối 651 dịch vụ công trực tuyến mức
độ 3, 4 với Cổng Dịch vụ công quốc gia; chỉ đạo, thực hiện
rút ngắn tối thiểu 20% thời hạn giải quyết của 825 thủ tục
hành chính có thời hạn giải quyết trên 10 ngày làm
việc, đặc biệt là các thủ tục hành
chính liên quan đến quá trình đầu tư của
doanh nghiệp theo hướng công khai, minh bạch, tạo điều
kiện thuận lợi để các doanh nghiệp sản xuất, mở rộng đầu
tư, kinh doanh. Đồng thời, tăng cường kiểm soát, đôn đốc
quá trình xử lý hồ sơ giải quyết thủ
tục hành chính tại các cơ quan, đơn vị,
địa phương, gắn với vai trò, trách nhiệm của người đứng
đầu tại các cơ quan. Nhờ những nỗ lực không ngừng, với sự vào cuộc của cả hệ thống chính
trị cùng những giải pháp bứt phá về cải cách thủ tục hành
chính, sau những thụt lùi về điểm số và
thứ hạng trong giai đoạn 2016-2020, vào năm 2021, Vĩnh
Phúc đã lọt vào nhóm 5 địa phương dẫn đầu cả
nước về xếp hạng Chỉ số cải cách hành chính năm 2021, tăng 10 bậc so với năm 2020. Khi so sánh với các tỉnh khác trong vùng Đồng bằng sông Hồng, trong năm 2021, Vĩnh Phúc chỉ xếp sau Hải Phòng
(hạnhg 1/63) và Quảng Ninh (hạng 2/63) trong
thực hiện cải cách hành chính.
Hiệu quả chính quyền tỉnh Vĩnh Phúc cải thiện đáng
kể trong giai đoạn 2016-2021. Chỉ
số PAPI tại Vĩnh Phúc đã biến động tăng giảm liên tục từ năm 2015 đến 2021, đã giảm từ hạng 30/63 vào
năm 2015 xuống 41/63 vào năm 2016, và sau đó tăng nhẹ lên mức 38/63 vào năm 2017. Kể từ năm 2018, sau khi có sự bổ sung thêm 2
chỉ số thành phần mới đánh giá về Quản trị môi trường và Quản
trị điện tử[26],
thứ hạng của Vĩnh Phúc đã bắt đầu được cải thiện theo
chiều hướng tích cực hơn, khi đạt thứ hạng 16/63 vào
năm 2018. Trong thời gian 3 năm gần đây, thứ
hạng PAPI của Vĩnh Phúc lại đang có chiều hướng giảm nhẹ, đứng ở vị trí thứ 23/63 vào
năm 2021, thuộc nhóm có điểm số trung bình
cao. Trong đó, trong năm 2021, các mặt đạt kết quả khá
cao của tỉnh là sự cải thiện thủ tục hành
chính công (đứng đầu cả nước); cung ứng dịch vụ công (vị trí 7/63) và quản trị điện tử (5/63). Trong khi
đó tỉnh không được đánh giá
cao về quản trị môi trường (chỉ đạt 3/10
điểm, xếp vị trí 57/63). Về chỉ số quản trị điện tử, điểm
đánh giá của Vĩnh Phúc trong năm 2021 cũng chỉ đạt 3,3/10 điểm. Về tổng thể, mặc dù có nhiều
chỉ số được đánh giá cao, hiệu quả chính quyền của tỉnh không đạt kết quả cao so với các
tỉnh trong vùng. Xếp hạng PAPI của Vĩnh Phúc
là tương đối thấp, khi trong năm 2021, điểm số PAPI của Vĩnh Phúc
chỉ xếp thứ 8/9 tỉnh, thành phố trong vùng
ĐBSH (loại trừ Quảng Ninh và Bắc Ninh chưa có
thông tin đánh giá).
Chỉ số hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự
phục vụ của các cơ quan hành chính nhà nước
(SIPAS)[27]
là khá cao. Năm 2017 là năm đầu tiên thực hiện xếp hạng SIPAS, Vĩnh Phúc đã đứng thứ 1 toàn
quốc, tuy nhiên, Vĩnh Phúc không giữ được
thứ hạng đó ở các năm tiếp theo. Theo
kết quả công bố của Ban Chỉ đạo CCHC của Chính phủ, năm 2017 chỉ số SIPAS của tỉnh Vĩnh Phúc đạt
95,75%, xếp thứ nhất trên 63 tỉnh, thành phố; năm 2018, đạt 88,2%, xếp thứ 13/63 tỉnh, thành phố; năm 2019, đạt 83,4%, xếp thứ 11/63 tỉnh, thành phố; năm 2020, đạt 90,5%, xếp thứ 6/63 tỉnh, thành phố. Trong đó, 4/5 tiêu chí có tỷ lệ đánh giá
hài lòng trên 90%, như tiêu chí tiếp cận dịch vụ đạt 91,33%; thủ
tục hành chính (TTHC): 93,1%; công chức tiếp nhận và
giải quyết TTHC: 90,9%; kết quả dịch vụ công: 93,7%; việc tiếp nhận, xử lý ý kiến góp ý, phản ánh kiến nghị: 82,7%. Ngoài ra, các nhận định, đánh giá của người dân năm 2020 đều cải thiện mạnh mẽ so với năm 2019, cụ thể: tỷ lệ hài lòng về tiếp cận dịch vụ nói chung đạt 91,33%; tỷ
lệ hài lòng về TTHC đạt 93,1%; tỷ lệ hài lòng công
chức tiếp nhận và xử lý hồ sơ TTHC đạt 90,1%; việc tiếp nhận xử lý phản ánh
kiến nghị đạt 82,7%[28].
Những chỉ số này, thể hiện sự tiến bộ, tích cực của các cấp chính quyền
tỉnh Vĩnh Phúc trong việc xây dựng
nền hành chính chính quyền chuyên nghiệp, hiện đại, năng động, trách nhiệm, đáp ứng ngày càng tốt nhu cầu của người dân và
các tổ chức trong tỉnh.
Tuy
nhiên, sang năm 2021, mặc dù đây là năm đầu tiên Vĩnh Phúc lọt vào top 5 địa phương dẫn đầu về chỉ số cải cách hành chính (PAR), nhưng đồng thời cũng là năm mà kết quả SIPAS lại giảm
mạnh, tụt xuống hạng thứ 29/63 trong bảng xếp hạng, với tỷ lệ hài lòng
là 87,14%, giảm 23 bậc so với năm 2020. Trong số các tiêu
chí đánh giá của SIPAS 2021, Vĩnh Phúc xếp
thứ 10/63 đối với chỉ số hài lòng về TTHC với 90,9 điểm;
xếp thứ 26/63 đối với chỉ số hài lòng về tiếp cận dịch vụ
với 88,96 điểm; xếp thứ 35 đối với chỉ số hài lòng về cán
bộ, công chức với 87,5 điểm; xếp thứ 42 đối
với chỉ số về việc tiếp nhận, xử lý ý kiến với 78,7 điểm.
Khi so sánh với các địa phương khác
trong vùng Đồng bằng sông Hồng, xếp hạng SIPAS
của Vĩnh Phúc không ổn định và ở mức
trung bình, cách biệt khá xa với các
tỉnh có thành tích cao nổi bật như Quảng
Ninh (nhiều năm liền xếp hạnh 1/63), hay Hải Phòng, Hưng Yên, Hải Dương (đều là các tỉnh nhiều năm liên tiếp nằm trong top 10 tỉnh có thứ hạng SIPAS cao
nhất cả nước)
d) Các yếu tố khác
(Đất đai)
Đất đai là một trong những nguồn lực quan trọng cho
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh
Vĩnh Phúc. Tổng diện tích đất tự nhiên
của tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2020 là
123,6 nghìn ha, trong đó đất nông nghiệp là
91,4 nghìn ha, đất phi nông nghiệp là
35,1 nghìn ha. Hoạt động nông nghiệp sử dụng
đất cho thấy xu hướng đất trồng lúa giảm xuống (còn
31,9 nghìn ha, giảm 2,7 nghìn ha so với năm
2010), thay vào đó là đất trồng cây lâu năm có xu
hướng tăng lên (tăng thêm 5,2 nghìn ha so với
năm 2010, đạt trên 13,7 nghìn ha). Đất nuôi trồng thủy sản tăng thêm 1,2 nghìn ha so với năm
2010, đạt trên 4,7 nghìn ha. Việc chuyển đổi sử dụng đất
sang các hoạt động kinh tế có hiệu
quả cao hơn đóng vai trò quan trọng trong việc cơ cấu lại
hoạt động của ngành nông, lâm thủy sản trên địa bàn. Đất phi nông nghiệp
được bố trí cho phát triển khu công nghiệp, phát triển hạ tầng, nâng cấp, mở rộng và làm mới các tuyến đường giao thông, các dự án về du lịch, công trình hạ tầng xã hội. Việc sử dụng đất hiệu quả, phù hợp với các
hoạt động kinh tế góp phần tích cực trong việc cơ cấu lại nền kinh tế của tỉnh, cụ thể:
-
Diện tích đất trồng lúa,
trồng cây hàng năm khác, nông nghiệp ứng
dụng công nghệ cao được duy trì và phát triển. Đáp ứng được mục tiêu an toàn lương thực và tạo thu nhập cho người dân.
-
Thực hiện giao đất sản
xuất nông nghiệp ổn định cùng với các chính sách đẩy mạnh sản xuất
hàng hóa đã làm cho nông dân năng động hơn, bố
trí hợp lý cơ cấu cây trồng, vật
nuôi...
-
Diện tích đất dành cho mở
rộng du lịch trên địa bàn tỉnh
Vĩnh Phúc trong những năm gần đây
luôn được quan tâm và phát triển. Đặc biệt là diện
tích đất thương mại, dịch vụ như các khu resot,
nhà hàng, khách sạn, điểm bán hàng,... phục vụ cho nhu cầu du lịch
đang ngày càng phát triển như hiện nay.
-
Việc bố trí quỹ đất đáp
ứng nhu cầu xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển công nghiệp, dịch vụ, chỉnh trang và xây dựng
mới cơ sở hạ tầng các khu dân
cư đô thị, nông thôn đã tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển
với tốc độ tăng khá, giúp cho
việc giao lưu của người dân thuận tiện hơn và người
dân được hưởng
thụ những lợi ích từ
cơ sở hạ tầng đem lại, tăng thu
nhập, cải thiện đời
sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.
Đất đai của tỉnh đã được khai thác đưa vào sử dụng đạt 98% diện tích tự nhiên. Việc chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất của 3 nhóm đất chính
cũng như các loại đất trong tỉnh cho thấy những năm gần đây
việc sử dụng đất của tỉnh đã hợp lý
hơn. Cơ cấu trong nội bộ đất nông nghiệp
đang dần được chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ lệ sử dụng đất dành cho
các loại hình sử dụng đất có hiệu quả kinh tế cao như trồng lúa, trồng rau màu,
trồng cây lâu năm... tuy nhiên tỷ lệ này
vẫn còn thấp so với yêu cầu phát triển và so với tổng
diện tích đất nông nghiệp.
Tuy
nhiên, quá trình phân bổ đất đai, thực hiện quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất trong giai đoạn 2016-2020 còn bộc lộ
nhiều hạn chế, chủ yếu do:
-
Cơ cấu sử dụng đất trong nội bộ đất phi nông nghiệp còn chưa hợp lý. Diện tích
đất có ý nghĩa quan trọng đối với chiến lược
quốc phòng - an ninh, đất trụ sở các cơ quan, đất sản xuất kinh doanh, đất thương mại, dịch vụ và đất các công trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh như đất giao thông, đất cho các
công trình sản xuất mới chỉ chiếm khoảng 6,76% diện tích đất tự nhiên của tỉnh.
-
Còn thiếu tính đồng bộ giữa
quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng (chưa
có sự thống nhất về không gian và thời gian, nội
dung lập và điều chỉnh quy hoạch
còn nhiều điểm khác nhau ở hệ thống quy hoạch, việc xác định các chỉ tiêu sử dụng đất của cùng một
giai đoạn được
xác định không thống nhất...); quy hoạch các khu
công nghiệp, đô thị, khu dân cư
nông thôn, hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, quy hoạch xây dựng nông thôn mới chưa thống nhất và tuân thủ theo quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất.
-
Thiếu các giải pháp có tính khả thi để thực hiện
quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất;
trong đó có hai khâu quan trọng là không cân đối đủ nguồn vốn cho
xây dựng hạ tầng và sự bất cập trong công tác
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất dẫn đến các công trình, dự án thường kéo dài
tiến độ thực hiện.
Tình trạng dự án sau khi giải phóng mặt
bằng còn bỏ hoang hóa trong khi người
dân thiếu đất sản xuất.
-
Một số tổ chức kinh tế lập dự án đầu tư
và hồ sơ đất đai chậm, một số
hạng mục công trình đã có trong chỉ tiêu kế
hoạch sử dụng đất hàng năm
nhưng cơ quan chủ đầu tư chưa lập xong dự án và hồ sơ đất đai, nên phải
lùi tiến độ thực hiện.
-
Việc tổ chức, kiểm tra,
giám sát thực hiện quy hoạch,
kế hoạch sử dụng đất đã được
phê duyệt thực hiện
chưa nghiêm và chưa thường xuyên; việc
công khai quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
nhiều nơi còn mang tính hình thức.
-
Kế hoạch sử dụng đất hàng năm chưa sát với thực tiễn, do chưa bám
sát vào quy hoạch sử dụng đất đã được duyệt
mà thường chỉ căn cứ vào nhu
cầu sử dụng đất của cấp huyện, cấp xã và các tổ chức sử dụng đất. Việc đăng ký nhu cầu sử dụng đất
của các tổ chức còn chủ quan, không có dự án tiền khả thi nên
không có khả năng thực hiện.
4. Đánh giá chung
4.1. Thành tựu
Trong
bối cảnh cả nước thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế, tỉnh
Vĩnh Phúc có điều kiện thuận lợi trong thực hiện cơ cấu
lại nền kinh tế trên địa bàn tỉnh.
Sau 5 năm triển khai thực hiện, tỉnh đạt được những kết quả tích cực.
Tăng
trưởng kinh tế của tỉnh Vĩnh Phúc đạt
cao so với cả nước và so với giai đoạn trước, quy mô
GRDP bình quân đầu người có xu hướng tăng
nhanh. Cơ cấu các ngành kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo
hướng tích cực, tập trung chủ yếu vào ngành công
nghiệp xây dựng. Mặc dù năm 2020 là
năm chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch COVID-19, nhưng tốc độ tăng
trưởng của tỉnh vẫn đạt mức khá so với mặt bằng chung của
cả nước.
Chuyển đổi cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp tiếp tục
được đẩy mạnh, sản xuất nông nghiệp có sự chuyển dịch sang các ngành chăn nuôi với giá
trị gia tăng cao hơn. Tiếp tục tăng cường ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, nhờ đó tiếp tục đẩy nhanh năng suất cây trồng, vật nuôi.
Cơ cấu cây trồng được chuyển đổi sang giống
cây có năng suất và sản lượng cao
hơn. Trong khi giá trị gia tăng của ngành tiếp tục được mở rộng, lao động nông nghiệp có
xu hướng giảm và chuyển dịch sang các
ngành khác, năng suất lao động của ngành NLTS tăng nhanh
nhất trong các ngành kinh tế.
Chuyển đổi cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp theo hướng
đa dạng hóa sản phẩm, trong đó các ngành mũi nhọn của tỉnh là ngành sản xuất phương tiện vận tải,
sản xuất linh kiện điện tử, sản xuất vật liệu xây dựng,
sản xuất trang phục. Trong đó, ngành sản xuất sản phẩm điện
tử, máy vi tính và sản phẩm quang học chiếm tỷ trọng lớn
nhất và tăng trưởng nhanh nhất trong các ngành công
nghiệp. Công nghiệp năng lượng tái tạo được quan tâm đầu tư và bắt
đầu có dự án đi vào hoạt động.
Chuyển đổi cơ cấu nội bộ ngành dịch vụ cho thấy sự
tăng lên rõ rệt của các ngành dịch vụ
thương mại, dịch vụ y tế và giáo dục. Lợi thế phát
triển các dịch vụ vận tải kho bãi
ngày càng được phát huy khi tỷ trọng đóng
góp của ngành ngày càng tăng. Thương mại
quốc tế của tỉnh ngày càng có quy mô lớn với độ mở kinh tế
lớn so với cả nước. Hệ thống hạ tầng du lịch đã được đầu
tư và từng bước cải thiện, hoạt động du lịch của tỉnh tăng
ổn định qua các năm.
Tỉnh cơ bản hoàn thành công tác sắp xếp đổi mới
doanh nghiệp nhà nước, tăng cường công tác giám sát
tài chính, đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà
ước theo đúng tinh thần cơ cấu lại DNNN để
hoạt động khu vực này có hiệu quả hơn.
Cơ
cấu lại NSNN đạt những kết quả đáng ghi nhận. Tỷ trọng thu nội địa vẫn chiếm tỷ trọng chủ yếu trong thu ngân
sách địa phương. Cơ cấu chi ngân sách ngày càng hợp lý khi tỷ trọng chi cho đầu tư phát triển có xu hướng tăng lên. Tỉnh
Vĩnh Phúc có tỷ lệ thu thuế cao trong GRDP và luôn
duy trì mức thặng dư ngân sách do đó có sự
chủ động trong các nguồn chi ngân sách của tỉnh.
Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội của tỉnh tiếp tục xu hướng tăng nhanh, tập trung chủ yếu và
tăng dần cho đầu tư xây dựng cơ bản. Các
ngành CNCBCT, xây dựng, thương mại là những
ngành thu hút nguồn vốn đầu tư chủ yếu. Thu hút vốn nước ngoài đạt nhiều thành tựu, vốn của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
tăng nhanh trong giai đoạn 2016-2020.
Công
tác quản lý đầu tư công được quan tâm chỉ đạo, giám sát chặt chẽ; quyết liệt trong điều hành, trong đó tập
trung vào công tác giải phóng mặt
bằng, thi công công trình và giải ngân nguồn vốn đầu tư công. Nguồn vốn đầu tư công
được tỉnh chủ động huy động từ nguồn ngân sách, ít phụ thuộc vào nguồn vốn vay.
Chất lượng lao động ngày càng được cải thiện. Vĩnh
Phúc đã dành nhiều nguồn lực ưu tiên cho phát triển nguồn nhân lực, nhiều giải pháp phát triển nguồn nhân lực đã được
triển khai đồng bộ tạo bước đột phá đáng kể về chất lượng
nguồn nhân lực của tỉnh, đặc biệt là nguồn nhân lực có kỹ năng nghề.
Tác
động tổng hợp của các biện pháp
cơ cấu lại nền kinh tế đã tạo được sự chuyển
dịch bước đầu về chất lượng tăng trưởng, tăng NSLĐ, nâng cao năng lực cạnh tranh, thúc đẩy chuyển đổi mô hình
tăng trưởng. Tăng trưởng kinh tế dần dịch chuyển sang chiều sâu,
thể hiện ở mức đóng góp của năng suất các
nhân tố tổng hợp (TFP) trong tăng trưởng kinh tế ngày một lớn. NSLĐ có sự cải thiện đáng kể theo hướng tăng đều qua các năm.
4.2. Hạn chế
Cơ
cấu lại nền kinh tế trên địa bàn
tỉnh còn chưa thực sự đi vào thực chất nhằm giải quyết những hạn chế trong tăng trưởng của tỉnh.
Cơ
cấu lại, phát triển công nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu
công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
thiếu bền vững; chưa tạo ra được những ngành công nghiệp trong nước có năng lực cạnh tranh cao. Sản xuất
công nghiệp chủ yếu là gia công, lắp
ráp, giá trị gia tăng thấp. Công nghiệp
hỗ trợ phát triển chậm, chưa đáp ứng
được nhu cầu của các ngành công nghiệp trong nước dẫn đến
tỷ lệ nội địa hóa trong các ngành công nghiệp đạt thấp;
nguyên vật liệu, linh kiện phục vụ sản xuất trên địa bàn còn phụ thuộc lớn vào bên ngoài. Tỷ lệ nội địa hóa thấp, phụ thuộc nhiều vào
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Thâm hụt thương mại kéo dài. Năng suất lao
động của ngành mặc dù cao so với các
ngành kinh tế khác nhưng gần như không
tăng trong cả giai đoạn 2016-2020.
Cơ
cấu lại, phát triển nông nghiệp tăng trưởng chậm. Tăng trưởng ngành NLTS ở mức
rất thấp so với bình quân cả nước và cả vùng ĐBSH. Sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ, manh mún. Năng suất cây trồng như lúa, ngô có xu hướng tăng nhưng vẫn chưa
đạt được mức bình quân cả nước. Đổi mới tổ chức sản xuất còn
chậm; đa số doanh nghiệp và hợp tác
xã nông nghiệp có quy mô nhỏ, hoạt động hiệu
quả chưa cao. Việc thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn còn hạn chế.
Chuyển dịch cơ cấu ngành dịch vụ còn chậm, chưa tương xứng với tiềm năng; tỷ trọng đóng góp của ngành dịch vụ còn khá thấp
so với bình quân ngành dịch vụ của vùng ĐBSH. Các
ngành dịch vụ phục vụ công nghiệp như tài
chính ngân hàng, vận tải kho bãi, logistic còn phát triển chưa tương xứng với nhu cầu. Du lịch tăng trưởng nhanh nhưng chất
lượng tăng trưởng chưa được chú trọng, chưa có nhiều sản phẩm đa dạng và chưa đảm bảo tính bền vững.
Thu
NSĐP chưa bền vững, tỷ trọng khoản thu một lần như thu từ
đất đai còn chiếm tỷ trọng lớn. Đóng góp của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọng lớn trong nguồn thu của địa phương gây ra những rủi ro tiềm ẩn khi nguồn thu còn thiếu tính
đa dạng.
Khu
vực kinh tế tư nhân chưa thực sự phát
huy được vai trò động lực. Đây là khu
vực quy mô nhỏ, vốn ít và có dấu hiệu bị lấn át bởi khu vực đầu tư nước ngoài.
Tăng trưởng khu vực tư nhân còn khá chậm so
với khu vực cá thể và khu vực có
vốn đầu tư nước ngoài. Khu vực tư nhân
của tỉnh có dấu hiệu thu hẹp nguồn vốn, sức
chống chịu yếu với các cú sốc bên ngoài, chưa trở thành động lực chính trong tăng trưởng kinh tế của tỉnh.
4.3. Nguyên nhân
a) Nguyên nhân khách quan
Bối cảnh quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, tác
động tiêu cực đến quá trình cơ cấu lại nền kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế của
Việt Nam. Bối cảnh quốc tế đã có nhiều yếu tố rủi ro như
bất ổn địa chính trị, chiến tranh thương mại diễn ra gay
gắt, đặc biệt là chiến tranh thương mại Mỹ-Trung Quốc, xu
thế chuyển sang các chính sách hướng nội, thậm chí
tiến tới chủ nghĩa bảo hộ, và chủ trương đưa
sản xuất về trong nước của một số nước phát triển, … Trong
khi đó, độ mở của tỉnh khá lớn, dễ dàng
chịu tác động từ các cú sốc bên ngoài, gây khó khăn, hạn chế cho khả năng
nắm bắt, phân tích, dự báo, khả năng
cạnh tranh và tính tự chủ các giải pháp
phát triển kinh tế của tỉnh.
Những yếu tố bất thường xảy ra như dịch bệnh trên động
vật, dịch COVID-19 ảnh hưởng nghiêm trong đến quá
trình thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế. Biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, đặc biệt là ngành nông nghiệp.
Thể chế, chính sách liên quan còn nhiều bất cập,
thiếu đồng bộ, là rào cản thực hiện tại địa phương.
CMCN
4.0 đã và đang nổi lên mạnh mẽ với
nhiều thách thức mới và to lớn
trong đổi mới tư duy, cơ cấu lại nền kinh tế, đổi
mới mô hình tăng trưởng, với nhiều công nghệ mới, mô hình kinh doanh mới như kinh tế chia sẻ,
kinh tế số, kinh tế tuần hoàn và đổi mới sáng tạo, … trong sản xuất, kinh doanh.
b) Nguyên nhân chủ quan
Mặc dù có sự thay đổi căn bản nhưng nhận thức một
số vấn đề về cơ cấu lại nền kinh tế còn chưa được sâu
sắc, các mối quan tâm về
chất lượng tăng trưởng, chuyển đổi mô hình tăng trưởng
giữa các cấp, các ngành còn chưa đúng mức. Tỉnh đã có chủ động trong việc chỉ đạo triển
khai chủ trương, chính sách cơ cấu lại nền kinh tế, đổi
mới mô hình tăng trưởng nhưng còn thiếu
các Đề án, chính sách triển khai tổng
thể thực hiện Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế cũng như Kế hoạch cơ cấu lại cho
từng ngành kinh tế, từng lĩnh vực kinh tế.
Còn
thiếu sự phối hợp hành động, kịp thời
giữa các đơn vị, sở, ngành trong thực
hiện các nhiệm vụ cơ cấu lại nền kinh tế của tỉnh. Một số
nhiệm vụ cơ cấu lại nền kinh tế có tính chất liên
ngành, đa lĩnh vực, đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa nhiều đơn vị để tạo sự đồng thuận nhưng còn
khó khăn.
5. Đánh giá mô hình tăng trưởng
- Mô hình tăng trưởng kinh tế của
Vĩnh Phúc theo chiều rộng, phụ
thuộc nhiều vào yếu tố vốn. Đóng góp chủ yếu vào tăng trưởng
kinh tế của tỉnh là yếu tố vốn. Trong giai đoạn 2016-2020,
tăng trưởng vốn của tỉnh đạt bình quân 11,1%/năm, nhanh gấp
1,4 lần so với tốc độ tăng trưởng vốn của cả nước trong cùng giai đoạn. Các nguồn vốn đều tăng trưởng nhanh nhưng đáng
kể là khu vực có vốn
đầu tư nước ngoài, tăng bình quân đạt 18,1%/năm khiến cho
tỉnh Vĩnh Phúc nằm trong các tỉnh tốp
đầu của vùng ĐBSH trong thu hút FDI giai đoạn 2016-2020
trong khi tăng trưởng khu vực này của cả nước bình
quân chỉ đạt 6,4%/năm. Tỷ trọng vốn FDI trên tổng vốn của cả nước năm 2020 chỉ là 16,5% nhưng tỉnh
Vĩnh Phúc đạt tới 34,9%. Nhờ tăng trưởng vốn nhanh, kết
cấu hạ tầng của tỉnh đã tương đối được đầu tư phát
triển, nhất là hạ tầng kết nối liên
vùng tương đối hoàn chỉnh đã góp phần quan trọng vào thu hút vốn FDI cho tỉnh. Các
khu, cụm công nghiệp được đầu tư, hình
thành cụm ngành công nghiệp chuyên về sản xuất, lắp ráp ô tô, xe máy với các đối tác điện tử lớn của Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc.
Nhờ đó, tăng trưởng kinh tế của tỉnh duy trì ở mức tăng trưởng nhanh và khá cao so với mặt bằng
chung của vùng ĐBSH và cả nước. Ước tính đóng góp của các yếu tố vốn bình quân giai đoạn 2016-2019 khoảng 55,6%, riêng năm 2020, do tăng trưởng thấp trong khi vốn tăng trưởng khá cao do đó đóng góp của vốn tăng mạnh trong năm này (trên 95%, yếu tố
lao động ảnh hưởng tiêu cực làm giảm
tăng trưởng khoảng 28% do lao động giảm 0,8% trong năm này), do đó bình
quân giai đoạn 2016-2020 đạt trên 63,5%. Trong khi đó,
đóng góp của các yếu tố năng suất tổng hợp
(TFP) duy trì bình quân đạt 41,7% giai đoạn 2016-2019,
thấp so với bình quân cả nước là 45,7%.
Hình 21: Đóng góp yếu tố cho mô hình tăng trưởng giai
đoạn 2016-2019
Nguồn: Nhóm nghiên cứu tổng hợp
Cơ cấu kinh tế cho thấy ngành
công nghiệp đóng vai trò quan
trọng trong tăng trưởng kinh tế của tỉnh Vĩnh Phúc.
Tỷ trọng giá trị gia tăng ngành
công nghiệp xây dựng của tỉnh Vĩnh Phúc
đến năm 2020 đạt 45,5%, tiếp tục tăng lên 48% trước những khó khăn trong giai đoạn chịu ảnh hưởng
của dịch COVID-19. Tương tự, nguồn vốn đầu tư cho ngành này đang chiếm tới 49% tổng vốn đầu tư toàn xã hội của tỉnh (bình
quân cả nước chỉ là 42%) và có xu hướng vượt
ngành dịch vụ. Tăng trưởng ngành nhanh, đóng góp lớn là những đặc điểm cho thấy mô hình tăng
trưởng của tỉnh là kết quả của quá
trình công nghiệp hóa đạt được nhiều thành
tựu.
Mô hình tăng trưởng theo hướng hiện
đại đã được thể hiện ngày
càng rõ rệt. Đã có nhiều thành quả ứng
dụng công nghệ, hiệu quả sản xuất được tăng lên duy
trì đóng góp của TFP ở mức khá cao. Tỉnh
đã có nhiều thành tự tiến bộ kỹ
thuật, lĩnh vực công nghiệp đã chế
tạo thành công nhiều thiết bị, dây chuyền sản xuất,chủng loại vật liệu mới phục vụ sản xuất, cơ khí chế tạo, năng lượng, công nghiệp hỗ trợ, nông
nghiệp công nghệ cao. Với nguồn vốn FDI lớn,
nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lớn của nhiều đối tác chiến lược với Việt Nam đã
đầu tư trên địa bàn tỉnh.
Nhìn chung, hoạt động nghiên cứu ứng
dụng và chuyển giao các tiến bộ
KH&CN vào sản xuất và đời sống trên
địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đã có những bước đi, cách làm đột phá, có sự tham gia chỉ đạo sát sao, quyết tâm của cả hệ thống chính trị, đặc biệt là sự tham gia tâm huyết, có trách nhiệm của các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân
trong quá trình nghiên cứu, ứng dụng, triển khai thực hiện các
nhiệm vụ KH&CN. Nhiều mô hình KH&CN có hiệu quả được triển khai. Trên địa bàn tỉnh đã có những thay đổi rõ rệt
nhằm cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh có tính chiến lược, chú trọng thu hút, phát triển doanh nghiệp lớn, có
uy tín, năng lực và sản xuất các sản phẩm chất lượng cao, không ảnh hưởng môi
trường; khuyến khích đổi mới công nghệ sản xuất, kinh doanh, đáp ứng hội nhập quốc tế,
thúc đẩy kinh tế - xã hội của tỉnh phát
triển nhanh, bền vững.
Tuy vậy, mô
hình tăng trưởng như vậy bộc lộ một số hạn chế, đó
là:
Một là, vốn đầu tư đổ vào quá nhanh trong khi tăng trưởng kinh tế mặc dù cao nhưng duy trì ở mức tương đối ổn định cho thấy hiệu quả sử dụng vốn có
xu hướng giảm xuống.
Hệ số ICOR năm 2016 ước tính ở mức 4,3, tăng lên
5,1 năm 2019 và riêng năm 2020 là 13,2. Vốn là nguồn lực có hạn, đặc biệt là sự
phụ thuộc vào nguồn vốn bên ngoài quá lớn là điểm yếu do nguy cơ rủi ro và tính bất định của nguồn vốn này. Thị trường xe máy
có dấu hiệu bão hòa, sản phẩm ô tô
trong nước đã có và tăng sức cạnh tranh với
thị trường xe lắp ráp trong khi Việt Nam thực hiện các
cam kết FTAs khiến thuế nhập khẩu giảm vì vậy
nhiều doanh nghiệp chuyển sang nhập khẩu thay vì sản xuất
và lắp ráp trong nước. Tỉnh Vĩnh Phúc
là một trong số ít các tỉnh thuộc vùng
ĐBSH có thâm hụt thương mại, cho thấy việc sản xuất chỉ là
gia công lắp ráp, chưa kết nối được với
doanh nghiệp phụ trợ trong nước, giá trị gia tăng tạo ra
không lớn trong khi phần thu nhập khá lớn của tỉnh chuyển ra nước ngoài.
Hai là, sự lấn át
doanh nghiệp nội địa trên địa bàn tỉnh. Việc chú trọng phát triển
doanh nghiệp trên địa bàn được HĐND
tỉnh Vĩnh Phúc quan tâm với nhiều chính sách đặc thù được ban hành, số
lượng doanh nghiệp trên địa bàn tăng bình quân
18%/năm, cao gấp 2,5 lần bình quân của vùng
ĐBSH nhưng lại đa số là doanh nghiệp siêu
nhỏ, nhỏ và vừa (97,7%). Số lượng doanh
nghiệp nội địa khá nhiều nhưng doanh nghiệp có quy
mô lớn trên 200 lao động chỉ chiếm 0,7%, còn
khu vực FDI là 29,8%. Trong giai đoạn
2016-2020, trong khi vốn của khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài tăng bình quân 70,8%/năm thì vốn của tổ chức doanh
nghiệp nội địa trên địa bàn lại giảm
bình quân 7%/năm.
Ba là, công nghiệp hóa
nhanh gây ra những hệ lụy về xã
hội và môi trường: Lao động tập trung đông tại các khu, cụm công nghiệp
dẫn đến việc giải quyết các vấn đề về môi trường sống, an ninh xã hội, hạ tầng giáo dục, y tế chưa đáp ứng kịp với nhu cầu. Tiếp đó
là tình trạng ô nhiễm môi trường do chất thải sinh hoạt và công nghiệp, ô
nhiễm bụi, tiếng ồn… ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của người
dân.
Bốn là, công
nghiệp đóng vai trò quan trọng trong phát triển
kinh tế của tỉnh nhưng Vĩnh Phúc mới chỉ tham gia vào được
giai đoạn có giá trị gia tăng thấp. Ngành công nghiệp trong những năm gần đây
chủ yếu phát triển dựa trên các ngành
lắp ráp điện tử, lắp ráp ô tô, xe
máy, giá trị gia tăng tạo ra chưa lớn, chưa có các ngành
công nghiệp chuyên sâu, công nghiệp công
nghệ cao, về lâu dài, không tạo ra sự đột phá
trong tăng trưởng kinh tế tỉnh.
Năm là, tăng trưởng đang phụ thuộc
nhiều vào yếu tố FDI là
rất rủi ro trong khi khu vực tư nhân
trên địa bàn sức chống chịu thấp. Đóng góp của khu vực có vốn
đầu tư nước ngoài trong GRDP của tính chiếm tới 32,9%, là khu vực chủ chốt và gấp 3 lần tỷ trọng của khu vực tư nhân trong nước.
Vai trò của khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài ngày càng tăng trong giai đoạn 2016-2020 do tốc
độ tăng trưởng vốn của khu vực này rất lớn, bình
quân giai đoạn 2016-2020 đạt 78,9%/năm, gấp 3 lần tốc độ tăng
trưởng vốn khu vực tư nhân và dân cư trên địa bàn tỉnh, do đó, tỷ trọng vốn FDI đến năm 2020 chiếm
45,4% tổng vốn thực hiện trên địa bàn. Đáng chú ý,
riêng khu vực công nghiệp, khu vực có
vốn đầu tư nước ngoài chiếm tới 79,54% tổng
giá trị sản xuất của khu vực này năm 2019 càng khẳng định vai trò quan trọng của khu vực có
vốn đầu tư nước ngoài trong khu vực công
nghiệp. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
dự kiến đóng góp tới 2,8 tỷ USD giai đoạn
2016-2020, nộp NSNN 0,53 tỷ USD và giải quyết việc làm
cho khoảng 117,6 nghìn người lũy kế đến năm
2020, tương đương 18,9% lực lượng lao động của tỉnh. Tuy vậy, tăng trưởng kinh
tế phụ thuộc nhiều vào khu vực có vốn
đầu tư nước ngoài sẽ tạo nguy cơ tiềm ẩn. Nhìn
chung, hoạt động sản xuất và đầu tư của các
doanh nghiệp nước ngoài vẫn chủ yếu dựa trên
gia công lắp ráp sử dụng lao động giá
rẻ và tạo ra ít giá trị
gia tăng. Tỷ lệ nội địa hóa và lan tỏa thay đổi không
đáng kể, đóng góp thấp vào việc chuyển giao công nghệ cũng như quá trình
công nghiệp hóa tại Việt Nam. Bên cạnh đó, việc phụ thuộc vào một
vài doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài lớn, cụ thể như TOYOTA và HONDA, tăng trưởng kinh tế bị ảnh hưởng và nguồn thu ngân
sách trên địa bàn thiếu bền vững khi các
doanh nghiệp này thay đổi chiến lược sản
xuất, kinh doanh hoặc gặp khó khăn trong hoạt động sản
xuất kinh doanh.
Sáu là, vốn FDI đang cho thấy sự
chững lại về hiệu quả. Tỷ trọng vốn/GRDP của khu
vực có vốn đầu tư nước ngoài đã tăng mạnh từ mức chỉ là 26% năm 2015 lên 43% năm 2021 (cao nhất là 47% năm 2019 sau đó giảm về 38% năm 2020 do
ảnh hưởng của dịch COVID-19), vượt khu vực kinh tế ngoài nhà nước là 40%. Vốn FDI tăng nhanh nhưng giá trị gia tăng tạo ra chưa tương xứng và hiệu quả sử
dụng vốn có xu hướng giảm. Hệ số ICOR của khu vực có
vốn đầu tư nước ngoài tăng lên đáng kể trong
năm 2019, từ 3,7 năm 2015 lên 4,7 năm 2020. Tăng trưởng
vốn FDI nhanh, lấn át vai trò của khu vực tư nhân
trên địa bàn, tỷ trọng vốn của khu vực nhà
nước giảm 11 điểm % và khu vực ngoài
nhà nước giảm 7 điểm % trong giai đoạn 2015-2021. Vốn đầu tư của
tổ chức doanh nghiệp trong tỉnh có dấu hiệu suy giảm kể từ
năm 2019 sau khi vốn FDI tăng mạnh trong giai đoạn này vùng với đó là tỷ lệ nội địa hóa thấp,
kết nối giữa doanh nghiệp trên địa bàn với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hạn chế, doanh nghiệp có sức cạnh tranh yếu, quy mô
nhỏ, sức chống chịu với cú sốc từ bên
ngoài như COVID-19 khá thấp khi khu vực có vốn
đầu tư nước ngoài vẫn tăng trưởng nhanh và phục hồi nhanh hơn khu vực tư nhân trên địa bàn.
Trong khi đó, nhờ khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài, độ mở của tỉnh Vĩnh Phúc là lớn,
đạt trên 250% GRDP, cao hơn so với mức bình quân của cả nước là 222%, nhưng thâm hụt thương mại rất
lớn, trên 3,3 tỷ USD và có xu hướng
tăng lên. Vĩnh Phúc là tỉnh duy nhất trong vùng ĐBSH
có độ mở cao trên 200% GRDP nhưng có thâm hụt
thương mại. Một số tỉnh khác có bối cảnh tương tự như Hải
Dương, Hải Phòng hay Hà Nam đều có độ
mở trên 200% nhưng duy trì thặng dư thương mại. Về lâu
dài, vốn FDI sẽ ngày càng bị hạn chế và
tính cạnh tranh lớn hơn trong khi khu vực tư nhân trên địa bàn còn khá yếu có thể ảnh
hưởng đến tính ổn định trong tăng trưởng của tỉnh trong
trung hạn.
Bảy là, nên tiếp tục mô hình tăng trưởng hiện tại nhưng sử dụng vốn hiệu quả hơn từ định hướng điều chỉnh cơ
cấu nội bộ ngành kinh tế thay
vì tập trung vào
sự mất cân đối của thành phần kinh
tế. Mô hình
tăng trưởng hiện tại đã tạo ra sự thay đổi đáng
kể bộ mặt của tỉnh trong thời gian vừa qua, góp phần quan trọng trong việc cải thiện mức sống của người dân, bắt đầu có tích lũy và thu nhập cao hơn giai đoạn
trước. Việc duy trì tốc độ tăng trưởng trung bình ở mức cao là thành tựu của tỉnh đạt được trong
trong giai đoạn này. Tuy vậy, vấn đề của Vĩnh Phúc
là sự mất cân đối giữa các thành phần kinh tế và khu vực tư nhân yếu kém. Nhưng vốn FDI vẫn sẽ là nguồn vốn có ý nghĩa quan trọng với tăng trưởng kinh
tế của tỉnh Vĩnh Phúc trong tương lai gần. Do đó, để giảm thiểu những yếu tố rủi ro trong mô hình tăng trưởng của tỉnh, cần sử dụng hiệu quả các nguồn vốn,
trong đó tập trung vào việc phát
triển một khu vực tư nhân nội địa mạnh mẽ
trong thời gian tới. Vốn trong khu vực dân cư còn rất lớn
và nhiều cơ hội để chuyển đổi sang hình thức vốn tổ chức, vốn doanh nghiệp khi tích lũy đủ
lớn và có đội ngũ doanh nhân đủ mạnh
trên địa bàn tỉnh. Các chính
sách hỗ trợ doanh nghiệp nội địa, kết nối với doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài cần được đẩy mạnh bên
cạnh việc tận dụng hiệu quả nguồn vốn FDI và đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu nội bộ các ngành kinh tế
theo hướng hiệu quả, tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ
cao là cần thiết trong giai đoạn tới.
Phần thứ hai
ĐỊNH HƯỚNG CƠ CẤU LẠI NỀN KINH TẾ GẮN MỚI ĐỔI MỚI MÔ HÌNH
TĂNG TRƯỞNG TỈNH VĨNH PHÚC ĐẾN NĂM 2030
I. CĂN CỨ XÁC ĐỊNH MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG VÀ CƠ
CẤU LẠI NỀN KINH TẾ
1. Quan điểm phát triển
Cơ
cấu lại nền kinh tế theo hướng phát triển nhanh và bền vững gắn với phát triển kinh tế số, kinh tế tri thức và đổi mới sáng
tạo;
Phát
huy tiềm năng, lợi thế so sánh của tỉnh để huy động tối đa các nguồn lực, tập trung đầu tư đồng bộ và
hiện đại kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
theo hướng liên thông và đa mục tiêu;
Phát
triển kinh tế tỉnh tập trung vào các nhóm ngành
quan trọng: (i) Công nghiệp chế biến chế
tạo, (ii) Du lịch sinh thái nghỉ dưỡng, du lịch đặc thù,
(iii) Dịch vụ tài chính, ngân hàng, dịch vụ
thương mại và Logictics và (iv) Nông nghiệp hữu cơ, nông
nghiệp công nghệ cao.
Nâng
cao hiệu quả, sức cạnh
tranh của nền kinh tế dựa trên nền tảng cải thiện môi trường đầu tư, ứng dụng khoa
học công nghệ và phát huy yếu tố con
người;
Tăng
trưởng kinh tế gắn với tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi
trường; bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống các dân
tộc trong tỉnh; sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên; chủ động ứng
phó với biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường;
Tăng
cường các liên kết phát triển giữa Vĩnh Phúc với vùng và các địa phương lân cận; xác định Hà
Nội là thị trường quan trọng để phát
triển tỉnh;
Chủ
động hội nhập và hợp tác
quốc tế để gắn với khắc phục các tác động
tiêu cực của các xu thế kinh tế quốc tế và khu vực.
2. Kinh nghiệm quốc tế trong đổi mới mô hình
tăng trưởng
2.1. Kinh nghiệm Hàn Quốc: chính sách phát triển kinh tế
dựa trên nghiên cứu và phát
triển (R&D)
Quan
sát chặng đường phát triển của Hàn
Quốc từ những thập niên 1960 và những thành
tựu vượt bậc ngày nay, bài học lớn nhất là
đầu tư rất sớm cho R&D. Hàn Quốc là
một hiện tượng của châu Á nói riêng và thế
giới nói chung về tốc độ tăng trưởng cao (trung bình
6,7%/năm trong giai đoạn 1965-2017), giúp cho chênh lệch về thu nhập bình quân đầu người so với Mỹ thay
đổi đáng kể (từ chỉ bằng 3% lên 50% cũng trong giai
đoạn này). Sự tăng trưởng mạnh mẽ của nền
kinh tế Hàn Quốc trong nhiều thập kỷ được đặc trưng bởi
những bước chuyển dịch sâu sắc trong cấu trúc ngành
từ nền nông nghiệp kém phát triển sang nền công nghiệp hiện đại hướng về xuất
khẩu. Hàn Quốc ngày nay có những công
ty dẫn đầu toàn cầu trong sản xuất màn
hình tinh thể lỏng, chip bộ nhớ, điện thoại thông minh,
các công ty đóng tàu lớn nhất thế giới và các nhà sản xuất ô tô thuộc nhóm đầu
trên thế giới. Chính sách phát triển
dựa trên R&D của Hàn Quốc bắt đầu
từ giai đoạn học hỏi từ các doanh nghiệp nước ngoài
tiêu biểu (1960s), sau đó là tự phát
triển các tổ chức nghiên cứu hỗ trợ cho năng lực công nghệ (1970s), đẩy mạnh
đầu tư Nhà nước và khuyến khích
tư nhân đầu tư vào R&D (1980s) và sau đó là doanh nghiệp chủ động đầu tư vào lĩnh vực R&D. Chính
phủ tập trung vào các chính sách hỗ trợ
R&D. Hàn Quốc năm 2013 đề xuất chiến lược xây dựng “Nền kinh tế sáng tạo” với các nội dung chính là: (i) bù đắp thỏa đáng cho
sáng tạo và xây dựng hệ sinh thái
thúc đẩy doanh nghiệp khởi nghiệp; (ii) tăng cường vai trò
của doanh nghiệp đầu tư mạo hiểm, doanh nghiệp nhỏ và vừa và nâng cao khả năng gia nhập thị trường toàn
cầu; (iii) tạo động lực tăng trưởng để dẫn đầu các thị trường mới và các ngành công nghiệp mới; (iv) nuôi
dưỡng tài năng sáng tạo toàn cầu ứng phó với thách thức và
theo đuổi khát vọng; (v) tăng cường năng lực
đổi mới KHCN và CNTT, tạo nền tảng cho kinh tế sáng
tạo; (vi) xây dựng nền văn hóa kinh tế sáng tạo. Hàn Quốc chủ
trương lấy doanh nghiệp nhỏ và vừa, hơn 30.000 doanh
nghiệp khởi nghiệp làm động lực chính tăng trưởng kinh tế với hệ sinh thái khởi nghiệp phát
triển mạnh mẽ. Trên 120 công ty đầu tư mạo
hiểm, 17 “Trung tâm xúc tiến ý tưởng
sáng tạo kinh tế khu vực” (CCEI) hỗ trợ lĩnh vực Công
nghệ thông tin - Truyền thông và cách
mạng công nghiệp 4.0, giúp doanh nghiệp khởi nghiệp kết nối với các tập đoàn lớn. Chính phủ chỉ định tổ chức chuyển giao công
nghệ thương mại hóa và hỗ trợ 70% hợp đồng công
nghệ từ các trung tâm nghiên cứu, bảo lãnh
dựa trên giá trị công nghệ để doanh nghiệp vay tiền từ ngân hàng không thế
chấp.
2.2. Kinh nghiệm Malaysia: Chuyển dịch mô
hình tăng trưởng kinh tế để trở thành nước công nghiệp mới.
Trong
những thập kỷ cuối của thế kỷ 20, Malaysia đã đạt những thành tựu kinh tế - xã hội ấn tượng. Nền kinh tế tăng trưởng nhanh và ổn
định, với tốc độ bình quân 8%/năm trong giai đoạn
1960-1997 (sau đó giảm nhẹ xuống còn 7%/năm), song
song với quá trình chuyển từ một quốc gia
sản xuất các sản phẩm thô thành quốc
gia xuất khẩu hàng chế biến. Tăng trưởng được duy trì
và chia sẻ thông qua việc thực hiện liên
tiếp các chính sách phát triển quan trọng
của nhà nước như Chính sách kinh tế
mới (NEP), Chính sách phát triển quốc gia (NDP), và
Chính sách tầm nhìn quốc gia (NVP). Malaysia
là một ví dụ chuyển dịch mô
hình tăng trưởng kinh tế thành công trong nhóm các nước công nghiệp mới (NICs).
-
Trước những năm 1970: công nghiệp hóa
tập trung vào một số ngành mũi nhọn như ô tô, sản xuất động cơ xe máy, thép,
xi-măng, lọc dầu và tinh chế sản phẩm từ dầu
mỏ…, thông qua đầu tư công và chính sách bảo hộ.
-
Từ 1970: NEP được triển khai nhằm chuyển dịch trọng tâm
từ các ngành công nghiệp nặng sang các
ngành định hướng xuất khẩu dựa trên tài nguyên của quốc gia; tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng tư
nhân hóa các doanh nghiệp mà chính phủ
đang nắm quyền chi phối, mà không đủ sức cạnh tranh nếu xóa
bỏ bảo hộ; đầu tư cho khoa học, công nghệ và
chất lượng nguồn nhân lực để hỗ trợ sự phát
triển của khu vực doanh nghiệp.
-
Từ 1990: NDP và NVP giúp xoay trục
nền kinh tế sang các hoạt động sản xuất có giá trị gia tăng cao hơn, thể hiện qua Kế hoạch Phát triển
doanh nghiệp mới, nhằm tăng cường mối liên kết giữa các
ngành và thúc đẩy các hoạt động sản xuất có
giá trị gia tăng cao hơn, từ đó đảm bảo sự
tồn tại và phát triển một cách bền
vững của các doanh nghiệp Malaysia trong bối cảnh tự do hóa
thương mại và toàn cầu hóa ngày càng
gia tăng.
2.3. Kinh nghiệm từ nền kinh tế Đài
Loan: Gắn công nghiệp
với kinh tế nông thôn, doanh nghiệp nhà
nước mở đường, đầu tư nguồn lực KHCN.
Đài
Loan là những nền kinh tế đi từ nghèo sang giàu chỉ trong giai đoạn 1970 đến năm 2010. Đặc điểm chung là bắt đầu từ huy động vốn, sau đó cải thiện KHCN, nâng
cao chất lượng lao động. Ở Đài Loan 1970-1975 đầu tư đóng góp gần một nửa tăng trưởng rồi giảm
mạnh từ 2000, 2010-2017, đầu tư không còn đóng góp cho tăng trưởng. Đài Loan gắn công nghiệp
với kinh tế nông thôn khi chuyển nhà máy về nông thôn, từ đó hút hết
lao động dư thừa vào làm công nghiệp. Đầu thập kỷ 1950, Đài
Loan phát triển công nghiệp thay thế nhập
khẩu. Thập kỷ 1970-1980, phát triển công nghiệp thâm dụng vốn (hóa chất, công
nghiệp nặng, điện tử, điện cơ và cơ khí). Tiếp
đó ưu tiên phát triển công nghiệp công
nghệ cao. Năm 1952, ở Đài Loan doanh nghiệp
Nhà nước chiếm 57% sản lượng công nghiệp, nắm mọi ngành kinh tế then chốt. Khi công
nghệ định hình, có lợi nhuận cạnh tranh, có
thị trường thì cổ phần hóa cho tư
nhân làm. Năm 1982, doanh nghiệp nhỏ chiếm 70% số lượng, góp
76% tỷ lệ xuất khẩu, sản xuất phụ kiện, làm vệ tinh cho doanh nghiệp lớn. Thập kỷ 1990, doanh nghiệp thâm dụng công nghệ là chủ chốt,
đầu tư vào Đại lục Trung Quốc và các nước Đông Nam Á. Chi tiêu cho R&E của Đài
Loan chiếm 3,33% GDP năm 2017, xếp thứ 4 thế giới chỉ sau,
Isarel, Hàn Quốc và Thụy Sĩ, chủ yếu
là nguồn vốn của tư nhân.
2.4. Kinh nghiệm Singapore: Xây
dựng chiến lược, kế hoạch đầu tư mạnh và xây
dựng hệ sinh thái khởi
nghiệp gắn với ĐMST.
Singapore
có xếp hạng ĐMST toàn cầu tương đối
cao (GII) - năm 2017 thứ 7/127. Nước này thành lập cơ quan
Khoa học Công nghệ và Nghiên cứu
(A*STAR) có 14 viện nghiên cứu với
2.250 nhà khoa học đóng vai trò chủ
chốt. Cùng với đó xây dựng kế hoạch
KH&CN 5 năm vào năm 2015 có 6 mục tiêu chính:
(i) Đầu tư khoa học cơ bản và tri thức tạo
“vốn trí tuệ” - cơ sở ĐMST tương lai; (ii) thu hút
và phát triển nguồn nhân lực tài năng
khoa học; (iii) tài trợ thúc đẩy đổi mới và ý tưởng; (iv) phối hợp R&D khu
vực công và doanh nghiệp, ưu tiên tài trợ R&D doanh nghiệp; (v) thương mại hóa sản
phẩm trí tuệ (vi) thương mại hóa ý tưởng
nghiên cứu cơ bản. Giai đoạn 2016-2020 nhắm tới mục tiêu
trở thành “Quốc gia thông minh”
(Smart Nation) và RIE 2020 được đưa ra với khẩu hiệu “chiến thắng
tương lai thông qua KH&CN”. Singapore thành lập các
công nghiệp và dịch vụ hỗ trợ cho các
doanh nghiệp khởi nghiệp và vườn ươm năng
lực, gắn với Đại học Quốc gia và Đại học bách khoa
tạo thành hệ sinh thái công nghệ.
2.5. Kinh nghiệm của Trung Quốc: Sáng
tạo là định hướng quan
trọng trong chuyển đổi phương thức phát triển
kinh tế
Sau
hơn 40 năm cải cách và mở cửa, Trung
Quốc đạt nhiều thành tựu to lớn, tạo cơ sở vững chắc cho
quốc gia này khẳng định vị thế trên trường quốc tế. Trung Quốc đã có sự chuyển biến mạnh
mẽ về thể chế kinh tế, xã hội, đến năm 2010, Trung Quốc đã
vượt Nhật Bản để trở thành nền kinh tế lớn
thứ 2 sau Mỹ. Tăng trưởng GDP của nước này duy trì ở mức
cao 7-8%/năm kể từ năm 1997 trở lại đến trước thời điểm COVID-19. Tỷ trọng GDP
của Trung Quốc trong GDP toàn cầu từ 1,8% năm 1978 tăng lên
15% năm 2018. Tuy vậy, Trung Quốc gặp nhiều vấn đề trong tăng
trưởng kinh tế. Kinh tế của nước này có xu hướng chậm dần.
Do tăng trưởng tốc độ cao trong một thời gian dài, những
hệ lụy để lại cho nền kinh tế Trung Quốc vẫn chưa được giải quyết triệt để,
chưa được khắc phục kịp thời, như cạn kiệt các nguồn tài
nguyên và ô nhiễm môi trường, mức độ chênh
lệch giàu - nghèo cao, phát triển không
cân đối... vượt qua “bẫy thu nhập trung bình”, hướng tới thu nhập cao, chất lượng cao, phát triển xã
hội và quản trị xã hội
vẫn là những thức thức lớn. Trung Quốc vốn là một quốc gia lạm dụng vốn, khi tỷ lệ đầu tư trong GDP của nước này
không ngừng tăng lên từ 25% năm 1990 lên
42% năm 2008, để phục hồi tăng trưởng do khủng hoảng tài
chính toàn cầu, nước này đã đẩy mức đầu tư
trên GDP lên mức kỷ lục 50% năm 2010. Tuy vậy, hiệu quả sử
dụng nguồn vốn này lại đang có xu hướng
giảm và đầu tư đang có xu hướng dư
thừa và nguồn vốn lại không được phân
bố cho các khu vực doanh nghiệp theo hiệu
suất. Ví dụ, khu vực doanh nghiệp quốc doanh có tỷ suất lợi nhuận tương đối thấp, nhưng lại được các ngân hàng ưu
tiên cấp vốn dễ dàng với lãi suất thấp, trong khi khu vực tư doanh (đặc biệt trong ngành dịch vụ) mặc dù tỷ suất lợi nhuận cao hơn - thì
lại luôn trong tình trạng khát vốn đầu tư. Trung Quốc đã có những điều chỉnh trong
chính sách kinh tế.
- Chuyển từ đầu tư về “lượng” sang tập
trung đầu tư về “chất”. Trước đây, mục tiêu và chính sách của Trung Quốc chủ yếu là
thu hút thật nhiều vốn và kỹ thuật từ nước
ngoài để bổ sung cho nguồn vốn và kỹ
thuật còn thiếu ở trong nước. Tuy vậy, trong bản “Quy
hoạch thu hút vốn nước ngoài trong Kế
hoạch 5 năm lần thứ 11” công bố năm 2006, mặc dù
Trung Quốc vẫn tiếp tục đẩy mạnh việc thu hút nguồn vốn FDI, nhưng đã thay đổi căn bản từ “lượng”
sang “chất”, chuyển trọng tâm thu hút đầu tư nước ngoài
từ bổ sung nguồn vốn và ngoại tệ không
đủ sang thu hút nguồn kỹ thuật tiên
tiến, kinh nghiệm quản lý và nhân tài có tố
chất cao.
- Chú trọng nâng cấp chất lượng hàng hóa xuất khẩu. Trung Quốc đã khai thác mô hình phát triển mới,
đẩy mạnh chuyển đổi và nâng cấp cơ cấu sản xuất, chú
trọng điều chỉnh mô hình phát triển của ngành
gia công chế biến xuất khẩu, khuyến khích các doanh nghiệp gia công chế biến tự chủ, sáng tạo, từng bước chuyển từ ủy thác gia công chế biến
sang tự thiết kế và tự tạo thương hiệu cho doanh nghiệp.
Từ năm 2006, Trung Quốc đưa ra chính sách mậu dịch mới đối
với ngành gia công chế biến, hướng dẫn áp dụng một loạt biện pháp tổng hợp nhằm thúc đẩy việc chuyển đổi và nâng cấp ngành này.
Ví dụ, thực hiện chuyển từ gia công chế biến
đơn thuần sang liên kết chặt chẽ hơn với các ngành
như liên kết các ngành thiết kế, nghiên
cứu phát triển, thương hiệu và dịch vụ,... Kết quả là chỉ trong ít năm chuyển đổi, đã có sự chuyển biến rõ rệt trong từng ngành xuất khẩu, nhiều doanh nghiệp
xuất khẩu đã tạo dựng được thương hiệu riêng.
- Phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần. Tăng cường cạnh tranh là
điều kiện để tạo ra một nền kinh tế năng động, theo đó thì
phải có nhiều thành phần
cùng tồn tại và cùng tham gia cạnh
tranh. Quan điểm xây dựng nền kinh tế nhiều thành
phần cho phép Trung Quốc phát triển mạnh mẽ kinh tế gia đình, kinh tế tư nhân,
đóng góp to lớn vào sự phát triển liên tục và ổn định của
nền kinh tế Trung Quốc nhiều năm qua, giải quyết những thiếu sót và khó
khăn trong quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc.
- Sáng tạo trở thành định hướng và giải pháp
quan trọng trong chuyển đổi phương thức phát
triển kinh tế. Mức chi cho nghiên
cứu và phát triển (R&D) đã tăng
52,2% kể từ năm 2012, đạt 1.570 tỷ NDT vào
năm 2016. Tỷ lệ chi tiêu cho R&D trong GDP đã tăng từ 1,91% lên 2,11% (từ năm 2012 đến 2016). Số
lượng các đơn xin cấp bằng sáng chế mà
Trung Quốc nhận được trong năm 2016 tăng 69% kể từ năm 2012,
trong khi số bằng sáng chế được cấp năm 2016 tăng 39,7%.
Từ năm 2013, Trung Quốc đã trở thành quốc gia hàng đầu trên toàn cầu
về doanh số bán rô-bốt công nghiệp.
Cường quốc rô-bốt sẽ là một nhiệm vụ
chiến lược để Trung Quốc thúc đẩy mạnh mẽ Chiến
lược “Made in China 2025”. Trung Quốc trở thành nước xuất khẩu các sản phẩm khoa học công nghệ cao đứng đầu châu Á. Từ giai đoạn 2006 - 2020,
Trung Quốc áp dụng mô hình tăng trưởng
“đổi mới nội sinh” dựa trên nền tảng KH&CN. Tăng mạnh
tài trợ R&D cho đại học, tạo ra năng lực nghiên
cứu mạnh trong một số lĩnh vực chủ chốt với tầm cỡ thế giới.
Trung Quốc đứng thứ 7 bảng xếp hạng các trường đại học các
quốc gia có nền kinh tế mới nổi , đứng vị trí
17 về chỉ số ĐMST toàn cầu. Thành lập các tổ chức chuyển giao công nghệ trong đại học, viện nghiên cứu, các khu
CNC quốc gia,…, các tổ chức đào tạo nguồn nhân lực KH&CN, chứng nhận chuyên
gia. Các viện nghiên cứu Nhà nước tập trung vào công nghệ cao, nhiều viện trở thành
doanh nghiệp thử nghiệm và ứng dụng. Doanh
nghiệp Trung Quốc đầu tư R&D cho các công nghệ số hàng
đầu trên thế giới, đầu tư tài chính mạo hiểm trong lĩnh vực công nghiệp điện và
điện tử cho các start-up công nghệ. Nhà
nước cho vay tín dụng hoặc thông qua
các quỹ, đầu tư R&D. Nhà nước ưu tiên
mua thiết bị từ các dự án và doanh
nghiệp công nghệ cao. Hệ sinh thái
ĐMST được hỗ trợ bằng mạng lưới các trung tâm ĐMST của ngành chế tạo, trung tâm ĐMST công nghệ quốc gia và mạng lưới trình diễn ý tưởng.
2.6. Kinh nghiệm của Thái
Lan: Chính sách đầu tư vào cơ sở hạ tầng kỹ thuật số
Nằm ở trung tâm ASEAN, Thái Lan là điểm đến lý
tưởng của thương mại và đầu tư. Thái
Lan có mạng lưới giao thông hiện đại, hệ
thống ngân hàng lành mạnh, cơ sở hạ tầng phát triển và lực lượng lao động chất lượng cao. Lợi thế
địa lý chiến lược giúp Thái Lan phát huy vai trò kiến tạo kết nối khu vực. Mô hình tăng trưởng kinh
tế do Chính phủ Thái Lan đề ra có
sự liên tục về bối cảnh: Thái Lan 1.0
tập trung phát triển cơ sở nông nghiệp. Thái-lan 2.0 chuyển sang tập trung vào
các ngành công nghiệp nhẹ và phát triển cơ
cấu kinh tế để hỗ trợ các sản phẩm thực phẩm, hàng
dệt may và hàng thủ công. Thái Lan
3.0 chuyển hướng sang ngành công nghiệp
nặng, trong đó có việc sản xuất thiết bị và máy móc
như sản xuất ô-tô, một lĩnh vực mà nước này đã khá thành công. Thái-lan 4.0 bao gồm các
khoản đầu tư quốc gia vào cơ sở hạ tầng kỹ
thuật số, thay đổi về luật pháp để hỗ trợ đổi mới sáng
tạo, đầu tư và xây dựng mạng lưới hạ tầng thông
tin tại Thái Lan và khu vực xuyên
biên giới. Thái Lan đang theo đuổi mô
hình phát triển bền vững nhằm tăng cường “sức chống chịu” của nền
kinh tế bên cạnh mô hình tăng trưởng
thông thường. Thái Lan cần giải quyết
một số vấn đề cơ bản nhằm thúc đẩy phát triển bền vững trong dài hạn và xây dựng xã hội tốt đẹp hơn cho các thế hệ tương lai. Để làm được điều này, Thái
Lan phát triển mỗi chuỗi giá trị lên
trình độ cao hơn nhằm tăng cường năng suất trong khi tạo ra lợi
thế cạnh tranh mới một cách bền vững.
Hiện nay, chính phủ Thái Lan nhằm
chuyển đổi nền kinh tế nước này từ dựa vào sản xuất sang dựa vào công nghệ số và không
giấu tham vọng dẫn đầu khu vực ASEAN trong lĩnh vực công
nghệ số. Mục tiêu của Chính phủ Thái Lan, đến năm 2027, nền kinh tế số sẽ đóng
góp 25% GDP cho nước này. Để làm được điều đó, Thái Lan đã đầu tư 2,5 tỷ bạt cho nghiên
cứu và ứng dụng công nghệ số; lên kế hoạch xây dựng
thành phố thông minh ở bảy tỉnh; nâng
cấp đường truyền internet tốc độ cao tới hơn 74 nghìn đơn
vị cấp phường ở địa phương; Ứng dụng công nghệ số vào các lĩnh vực như chăm sóc sức khỏe, giáo dục, phát triển
ngành nông nghiệp thông minh; Thiết
lập cơ chế cấp giấy phép một lần cho khởi nghiệp, đồng
thời đẩy mạnh hợp tác quốc tế với các tổ chức như Kết nối doanh nhân toàn cầu hay Liên
minh Viễn thông Quốc tế. Mục tiêu của của Thái Lan là điểm đến hấp dẫn nhất trong khu
vực ASEAN đối với các nhà đầu tư có tinh thần khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo về kỹ thuật số.
Thái Lan định hướng phát huy năng lực
sáng tạo và tinh thần kinh doanh với
sự ủng hộ của chính phủ, có hệ sinh
thái phù hợp để nuôi dưỡng thành
công. Tăng cường phối hợp đối tác công tư. Mục
tiêu để tạo ra sự liên doanh giữa nhà
đầu tư tư nhân và nhà nước trong các
dự án hạ tầng lớn. Quá trình thẩm định quy củ đã góp phần tăng cường tính
minh bạch, giữ vững lòng tin của các
nhà đầu tư, bảo đảm công bằng và
trách nhiệm giải trình. Cải thiện môi
trường thông qua ổn định kinh tế vĩ mô,
đầu tư vào khoa học công nghệ và đổi mới nhằm tạo ra các giá trị gia tăng, hoàn thiện khuôn khổ pháp luật nhằm tăng cường sức cạnh tranh quốc
gia và cung cấp lực lượng lao động, cơ sở hạ tầng, mạng
lưới logistic và công nghệ thông tin chất lượng quốc tế.
2.7. Kinh nghiệm của các tỉnh trong nước
a) Bài học từ tỉnh Quảng Ninh: Đầu tư công
dẫn dắt đầu tư tư
Quảng Ninh là tỉnh nằm trong vùng ĐBSH, nằm trong tốp các địa phương có chất lượng điều hành kinh tế xuất sắc nhất cả nước và
tốp các tỉnh đứng đầu về chỉ số năng lực
cạnh tranh. Tỉnh Quảng Ninh được đánh giá là điểm sáng
trong việc thực các đột phá chiến lược, đáng kể trong thu hút nguồn lực đầu tư lớn để phát triển hạ tầng, các
dự án động lực trong lĩnh vực du lịch, dịch
vụ… tạo nền tảng quan trọng để chuyển đổi mô hình tăng trưởng
từ “nâu” sang “xanh”. Để làm được
điều này, tỉnh Quảng Ninh đã nêu cao tinh thần chủ động, tích cực trong xây dựng và triển khai các mô hình mới, cách làm mới, nhấn mạnh phương châm “lấy đầu tư công dẫn dắt đầu tư tư” với nguyên
tắc Nhà nước không làm những gì người dân, doanh nghiệp
làm được và làm tốt hơn. Trên
cơ sở vốn đầu tư công được phân bổ từ Trung ương, tỉnh đã linh hoạt phân cấp triệt để nguồn vốn cho các sở, ngành, địa phương để chủ động phân bổ, lựa chọn các
dự án, công trình đầu tư. Trong đó, đặc biệt quan tâm đến dự án cải
thiện mạnh mẽ hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng giao thông vùng khó khăn, không
sử dụng tiền ngân sách đầu tư vào
lĩnh vực, dự án mà các thành phần kinh tế khác
có thể đầu tư. Đầu tư công được bố trí
tập trung, không phân tán, đảm bảo công
khai minh bạch và có tính đến sự hài
hòa giữa các ngành/lĩnh vực. Bên cạnh đó, phương châm công khai, minh bạch, rõ
ràng các điều kiện trong các quy hoạch chiến
lược, các dự án đầu tư theo hình
thức đối tác công tư đã trở thành nguồn vốn quan trọng bổ sung vào nguồn vốn đầu tư công.
Đến năm 2020, tỉnh có 44 dự án đầu tư công theo hình thức PPP, trong đó vốn ngân sách chỉ chiếm 10% được tập trung cho công
tác giải phóng mặt bằng, như vậy với 1 đồng
ngân sách bỏ ra có thể huy động được
từ 8-9 đồng từ khối kinh tế tư nhân tham gia đầu tư. Sự phát
triển vượt bậc của Quảng Ninh nằm ở chỗ tỉnh không chỉ dựa vào kế hoạch và vốn đầu
tư Trung ương mà chủ động đề xuất, chủ động triển khai
bằng các nguồn vốn hợp pháp do địa
phương huy động, với sự tham gia tự giác và tích cực của
nhiều doanh nghiệp tư nhân lớn. Đây là bằng chứng cho thấy kết quả tích cực nhờ tư duy từ
nội lực, dám dựa vào dân, vào khu vực
doanh nghiệp tư nhân của chính quyền
địa phương. Kinh nghiệm của tỉnh cho thấy, trước hết là phải
kiến tạo môi trường kinh doanh minh bạch, thông
thoáng, tư duy đổi mới, định hướng đến thu hút doanh nghiệp nội địa, xác định tầm nhìn lâu dài từ nền kinh tế nâu sang xanh, tức là phát
triển du lịch và thu hút đầu tư công
nghệ cao, đặc biệt chú trọng đến việc thu hút
các dự án FDI phù hợp với định hướng ngành
nghề, lĩnh vực ưu tiên mà tỉnh đặt ra.
b) Thành phố Hồ Chí Minh: Hướng tới kinh tế số toàn diện
Thành
phố Hồ Chí Minh là thành phố lớn nhất
Việt Nam với đặc điểm là một thành phố
năng động. Năm 2020, GRDP của thành phố đạt trên
1,37 nghìn tỷ đồng, đóng góp trên 22% GDP và 27% tổng thu ngân sách của cả nước. Với nhiều lợi thế
cạnh tranh, TP. Hồ Chí Minh nằm trong tốp đầu các tỉnh/thành có thu nhập bình quân đầu người cao đứng đầu cả nước. Đời sống người dân ở
mức cao, các dịch vụ y tế, giáo dục,
văn hóa đều giữ vị trí hàng đầu. Tuy
nhiên, khoảng một thập kỷ gần đây, dưới
nhiều tác động và áp lực khác
nhau, tăng trưởng của thành phố có sự giảm sút. Tốc độ tăng trưởng của TP HCM có
chậm lại một phần do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, một phần do
nhiều điểm nghẽn chưa được tháo gỡ như thể chế, hạ tầng,
nguồn nhân lực. Trong bối cảnh đó, đặc
biệt sau ảnh hưởng nghiêm trọng của COVID-19, TP đã
ban hành Đề án “Phát triển kinh tế số, kinh
tế chia sẻ và kinh tế tuần hoàn trên địa bàn TP. HCM giai đoạn 2020-2025, tầm nhìn
2030”. TP nhận định nhiều tác động tích
cực từ chuyển đổi số, nhận thấy khi chuyển đổi số, các
doanh nghiệp sẽ có thể tăng năng lực cạnh
tranh, nâng cao năng suất và xây dựng
mô hình kinh doanh mới đáp ứng được
nhu cầu thị trường và môi trường cạnh tranh.
2.8. Bài học rút
ra
Từ thực tiễn các nước trên thế
giới và ở Việt Nam, một số bài học
kinh nghiệm thiết thực có thể được rút ra như sau:
Một là, phát
triển doanh nghiệp tư nhân thành động lực
tăng trưởng chính cho tăng trưởng bền vững trong dài
hạn. Hầu hết kinh nghiệm của các quốc gia
đều cho thấy để đảm bảo sự tăng trưởng trong dài hạn, khu
vực tư nhân đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ giảm
nghèo đói, đặc biệt là có mối liên
kết, gắn kết chặt chẽ với địa phương hơn các khu vực kinh tế khác, do đó có thể tận dụng nguồn lực
tại chỗ thay vì phụ thuộc vào các tập
đoàn xuyên quốc gia. Khu vực doanh nghiệp nhà nước không chiếm tỷ trọng quá lớn
nhưng kinh nghiệm cho thấy khu vực này thường hoạt động kém
hiệu quả hơn khu vực tư nhân do đó việc cổ
phần hóa đối với doanh nghiệp nhà nước
là bắt buộc để nâng cao hiệu quả kinh
tế và sức cạnh tranh. Cùng với đó,
bản thân các Chính phủ các nước cũng có những nhận thức về sự cần thiết cần tránh
lệ thuộc quá nhiều vào các doanh nghiệp nước ngoài trong quá trình phát triển kinhh tế.
Hội nhập là xu hướng bắt buộc nhưng cạnh tranh giữa các
quốc gia trong việc thu hút đầu tư nước ngoài
khiến cho khu vực này có sự đặc quyền nhất
định, chèn ép doanh nghiệp trong nước trong khi tính
ổn định không cao. Chính vì vậy, các
chính sách hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp
cần hướng nhiều hơn vào khu vực doanh nghiệp tư nhân
trong nước, đặc biệt là nhóm doanh nghiệp
nhỏ và vừa, hay vì nhóm các doanh nghiệp FDI.
Hai là, đổi mới sáng
tạo theo hướng phát triển lĩnh vực, sản phẩm
mới và tạo thêm việc làm. Tầm quan trọng của việc nâng cao năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp thông qua hoạt động đổi mới sáng
tạo được chứng minh tại nhiều quốc gia. Tuy nhiên, việc đổi mới sáng tạo là việc
hương đến các lĩnh vực có giá trị gia
tăng cao, tạo ra các sản phẩm mới và tập trung vào các lĩnh vực có lợi thế cạnh tranh. Việc chuyển đổi giữa các công đoạn của chuỗi giá trị đòi hỏi
nguồn lực lao động có chất lượng cao nhưng có thể dẫn đến tỷ lệ lao động thất nghiệp có tay nghề
giản đơn tăng lên. Chính phủ có thể
hỗ trợ doanh nghiệp thử nghiệm trong các lĩnh vực công
nghệ cao, các lĩnh vực công nghệ mới cũng như tham gia vào đào tạo nâng
cao chất lượng lao động.
Ba là, đầu tư cơ sở
hạ tầng để tạo nền tảng cho phát triển. Việc hình
thành các cực tăng trưởng trong bối cảnh nguồn lực hạn chế nhưng
có thể tạo ra sự mất cân đối, mất bình
đẳng giữa các khu vực. Chính sách đầu tư vào cơ sở hạ tầng cần hướng đến tính
tương đối đồng đều và có tính kết nối về sản
xuất và thương mại. Điều này cũng giúp giảm bớt được áp lực gia tăng chi phí cho
doanh nghiệp liên quan tới đất đai, lao động
và các dịch vụ cơ sở hạ tầng khác, qua đó nâng cao
hiệu quả cạnh tranh của doanh nghiệp.
Bốn là, nguyên
tắc đảm bảo mô hình tăng trưởng kinh tế cần
kết hợp với phát triển xã hội và
bảo vệ môi trường. Trung Quốc có sự tăng trưởng lệch rất lớn giữa các đặc khu kinh
tế và vùng còn lại dẫn đến những hậu quả về mặt xã
hội, môi trường. Việc điều chỉnh chính
sách cần hướng đến khía cạnh phân phối và tạo cơ hội cho người nghèo có thể tham gia nhiều hơn vào quá trình tăng trưởng. Chính
phủ cần tập trung đầu tư cho giáo dục, y tế
và bảo vệ môi trường nhằm hình
thành vốn con người và duy trì vốn tài
nguyên đây là những yếu tố ảnh hưởng lớn tới hoạt động sản xuất và
thu nhập của người nghèo.
Năm là, năng lực và
trách nhiệm giải trình của chính quyền đóng vai trò then chốt: Hầu hết các quốc gia đều cho thấy một thể chế hiệu quả, minh bạch kèm theo
trách nhiệm giải trình của chính phủ là cần thiết để phát triển
khu vực tư nhân và mang lại tăng trưởng.
3. Đường lối, chủ trương về cơ cấu lại nền
kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng
Đại hội lần thứ XII của Đảng đã chỉ rõ: “Đổi mới mô hình tăng trưởng trong thời gian tới kết
hợp có hiệu quả phát triển chiều rộng
với chiều sâu, chú trọng phát triển
chiều sâu, nâng cao chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh trên cơ sở nâng cao năng suất lao động, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ,
đổi mới và sáng tạo, nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, phát huy lợi
thế so sánh và chủ động hội nhập quốc tế, phát triển nhanh và bền vững”. Tiếp tục đến Đại hội XIII
của Đảng đã xác định mục tiêu chủ yếu
cho phát triển kinh tế Việt Nam đến năm 2030, định hướng
đến năm 2045, trong đó nhấn mạnh mục tiêu trọng tâm đến năm 2030 là nước
đang phát triển, có công nghiệp hiện
đại, thu nhập trung bình cao với GDP bình quân đầu người đạt 7.500 USD. Theo đó, để đạt mục tiêu
này định hướng phát triển kinh tế tập trung
chủ yếu vào đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại, nâng cao năng suất, chất lượng,
hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Quan điểm tiếp
cận đến cơ cấu lại nền kinh tế là cơ cấu lại nền kinh tế
trên cơ sở nền tảng của Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư, toàn dụng lao động quốc
gia, bảo đảm an sinh, phúc lợi xã hội.
Trong đó, toàn dụng lao động quốc gia là mục tiêu trung tâm để gợi mở phương án cơ cấu lại nền kinh tế nhằm bảo đảm ổn định xã hội.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 xác định một trong những
phướng hướng nhiệm vụ trọng tâm là đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, bảo đảm thực chất, hiệu quả; phát triển nền
kinh tế số; thúc đẩy tăng trưởng nhanh, bền vững trên
cơ sở ổn định kinh tế vĩ mô.
Nghị quyết số 31/2021/QH15 ngày 12/11/2021 về kế
hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025 đặt ra mục tiêu tổng quát “Hình thành cơ cấu hợp lý, hiệu quả trong từng ngành, lĩnh vực; giữa các
ngành, lĩnh vực và cả nền kinh tế; phát
triển được nhiều sản phẩm quốc gia dựa vào công nghệ mới, công nghệ cao; tạo bứt phá về năng lực cạnh tranh của một số ngành kinh tế chủ
lực và chuyển biến thực chất, rõ nét về mô hình tăng trưởng, năng suất, chất lượng, hiệu
quả, sức cạnh tranh, nâng cao tính tự chủ, khả năng thích
ứng, sức chống chịu của nền kinh tế.”. Chính phủ ra Nghị Quyết số 54/NQ-CP ngày 12/4/2022 của Chính
phủ ban hành Chương trình hành động của Chính
phủ thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch cơ cấu lại nền
kinh tế giai đoạn 2021 2025, đặt mục tiêu giai đoạn
2021-2025, tốc độ tăng năng suất lao động bình quân trên 6,5%/năm, trong
đó tốc độ tăng năng suất lao động ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 6,5 - 7%/năm, nâng cao tỷ
trọng đóng góp của khoa học công nghệ,
đổi mới sáng tạo vào tăng trưởng,
trong đó năng suất các nhân tố tổng
hợp (TFP) đạt khoảng 45% GDP. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội
bình quân 05 năm khoảng 32 - 34% GDP, nâng cao chất lượng thể chế quản lý đầu tư công đạt mức tiệm cận quốc tế. Tỷ trọng chi cho nghiên cứu
khoa học và phát triển công nghệ đạt
không dưới 1% GDP; số lượng doanh nghiệp thực hiện đổi mới
công nghệ tăng trung bình 15%/năm giai đoạn 2021 - 2025. Phấn đấu đạt khoảng 1,5 triệu doanh nghiệp, trong đó
có khoảng 60.000 đến 70.000 doanh nghiệp quy mô vừa và lớn; tỷ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào GDP khoảng 55%. Tỷ
trọng giá trị tăng thêm của kinh tế
số trong GDP đạt khoảng 20%; tỷ trọng giá trị tăng thêm
của kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực
đạt tối thiểu 10%. Phấn đấu đến hết năm 2025 có khoảng
35.000 hợp tác xã, trong đó có trên 3.000 hợp tác
xã ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất và tiêu thụ nông sản,
khoảng 50% hợp tác xã nông nghiệp liên kết với doanh nghiệp theo chuỗi giá trị.
Các
Bộ, ngành và địa phương tập trung
thực hiện nhiệm vụ, giải pháp bao gồm (1) Tập trung hoàn
thành các mục tiêu cơ cấu lại đầu tư công,
ngân sách nhà nước, hệ thống các tổ chức tín
dụng và đơn vị sự nghiệp công lập; (2) Phát triển các loại
thị trường, nâng cao hiệu quả phân bổ
và sử dụng nguồn lực; (3) Phát triển
lực lượng doanh nghiệp; thúc đẩy kết nối giữa doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế; đổi mới, phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã; (4) Phát triển
kinh tế đô thị, tăng cường liên kết vùng,
liên kết đô thị - nông thôn và phát
huy vai trò của các vùng kinh tế trọng điểm,
các đô thị lớn; (5) Cơ cấu lại các ngành theo hướng hiện đại, phát triển kinh tế xanh, bền vững và
phát huy tối đa các tiềm năng, lợi thế.
4. Bối cảnh tỉnh Vĩnh Phúc
Tiếp tục kế thừa những thành tựu đạt được trong hơn
20 năm tái lập tỉnh với nhiều bài học
kinh nghiệm, thực hiện các văn bản quan trọng định hướng
cho sự phát triển lâu dài của tỉnh đã
được phê duyệt cho giai đoạn 2021-2025 là
cơ hội cho tỉnh tiếp tục cơ cấu lại nền kinh tế trong giai đoạn
tới. Tỉnh Vĩnh Phúc đã có những thành tựu trong cơ cấu lại nền kinh tế trong giai đoạn 2016-2020, tăng trưởng
kinh tế năm sau cao hơn năm trước, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động theo hướng tích cực, năng suất và
chất lượng tăng trưởng có sự cải thiện.
Trong bối cảnh cả nước thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế trong giai đoạn mới,
tỉnh Vĩnh Phúc có nhiều thuận lợi về mặt chính sách
và hỗ trợ từ trung ương trong thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế trên
địa bàn tỉnh.
Đến năm 2030, từ bên ngoài, sự phục hồi tăng trưởng
kinh tế và thương mại thế giới sau dịch COVID-19 đang dần
phục hồi lại chuỗi cung ứng hàng hóa toàn cầu sau thời
gian dài bị gián đoạn. Tuy vậy, cả
thế giới đang phải khắc phục những hậu quả bất ổn do chính sách phục hồi kinh tế trong giai đoạn dịch bệnh. Lạm phát kỷ lục diễn ra tại nhiều quốc gia sau thời gian dài các chính
sách tài khóa mở rộng được thực hiện. Gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu và chiến tranh Nga Ucraina khiến tình trạng khan hiếm
nhiên liệu và giá cả mặt hàng
này tăng cao. Giá cả các mặt hàng đầu vào tăng mạnh ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí
nhập khẩu và giá thành sản xuất của Vĩnh Phúc.
CMCN 4.0 và xu hướng tự động hóa trong công nghiệp chế biến, chế tạo sẽ làm mất dần lợi thế về lực
lượng lao động rẻ, dồi dào của tỉnh. Trong khi đó,
với việc gia nhập ngày càng sâu vào kinh tế
thế giới, cơ hội để mở rộng thị trường xuất khẩu và thu hút thêm dòng vốn đầu tư nước ngoài là rõ ràng, do đó cần đẩy
mạnh xúc tiến đầu tư và mức độ đáp
ứng về cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực của các nhà đầu tư nước ngoài.
Từ bên trong, Vĩnh Phúc nằm trong vùng ĐBSH,
vùng kinh tế - xã hội trọng điểm của cả nước
với mục tiêu đi đầu trong phát triển
khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo,
hình thành kinh tế số, xã hội số.
Điều này tạo cơ hội cho Vĩnh Phúc xác định mục tiêu phát triển công nghiệp và các ngành ưu tiên. Trong khi đó, những
chuyển biến tích cực từ hoạt động điều hành của Tỉnh đang tạo ra môi trường kinh doanh thuận
lợi, hạ tầng ngày càng hoàn thiện, cải cách hành
chính diễn ra hiệu quả, khuyến khích khu vực
tư nhân phát triển. Những đột phá trong lĩnh vực công nghiệp, phát triển đô
thị, hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội đang có
tác động tích cực đến tăng trưởng của tỉnh và
làm bàn đạp cho phát triển của tỉnh trong
giai đoạn tới.
Tuy
nhiên, những hạn chế trong giai đoạn trước đòi hỏi tỉnh cần tiếp tục khắc phục như việc chuyển đổi mô hình tăng
trưởng còn chậm, mô hình tăng trưởng còn phụ thuộc chủ yếu yếu tố vốn và vốn FDI, năng suất và hiệu quả còn thấp và chậm cải thiện, chất lượng lao động còn
thấp so với bình quân vùng ĐBSH, phát triển
khoa học công nghệ còn hạn chế, dư
địa và không gian cho phát triển không còn nhiều (đặc biệt là đất đai, tài nguyên). Khu vực kinh tế tư nhân chủ yếu quy mô vừa, nhỏ và siêu nhỏ, năng lực cạnh tranh, trình
độ quản trị thấp, khả năng tiếp cận các nguồn
lực hạn chế. Khả năng tìm kiếm động lực tăng trưởng mới
mang tính đột phá trong bối cảnh hiện
nay là rất khó. Do đó việc thực
hiện cơ cấu lại nền kinh tế cần sự thay đổi về tư duy và quyết tâm nỗ lực rất lớn từ các cấp, các ngành để đạt được mục tiêu tăng trưởng đề ra.
II. ĐỊNH HƯỚNG TÁI CƠ CẤU ĐỂ ĐỔI MỚI MÔ HÌNH TĂNG
TRƯỞNG VĨNH PHÚC
1. Lựa chọn mô hình tăng trưởng
Mô
hình tăng trưởng kinh tế hiện nay dưới sức ép của CMCN 4.0 và nhu cầu của thị trường đang có
xu hướng chuyển đổi dần sang mô hình tăng trưởng dựa trên KHCN và đổi mới sáng tạo. Các nghiên cứu tại nhiều quốc gia phát
triển cho thấy khi nền kinh tế hiện đại thì đổi mới sáng tạo sẽ trở thành yếu tố quan trọng nhất để thúc đẩy tăng trưởng cao.
Thực tiễn phát triển cho thấy đổi mới sáng tạo thực chất là kết quả của quá trình phát
triển kinh tế và có sự ràng buộc tương quan giữa hai yếu tố này, các quốc gia có
thu nhập cao có chỉ số đổi mới sáng tạo càng lớn và ngược lại.
Hình 22: Mối
quan hệ giữa đổi mới sáng tạo và
thu nhập các quốc gia
Nguồn: Tính toán theo số liệu Global Innovative Index
2019
Mặc dù xác định được đích đến
nhưng việc đổi mới mô hình tăng trưởng cần xác định dựa trên thực tiễn của từng quốc gia/vùng.
Cho đến nay, không có một quốc gia đang phát
triển nào có thể đi ngay vào việc áp dụng KHCN để công nghiệp
hóa hiện đại hóa thành công. Quá trình để trở thành một nền kinh tế hiện đại là một quá trình với sự tích lũy nguồn lực cơ sở vật chất và tri thức cũng như thúc
đẩy vai trò của KHCN. Tại các quốc gia phát triển, sau giai đoạn tích lũy để đạt được tới thu nhập nhất định, KHCN và tài nguyên con người mới trở thành nhân tố quan trọng và quay
lại trở thành động lực chính thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Tại Vĩnh Phúc, thu nhập bình quân đầu người của tỉnh chỉ đạt 4,3 triệu đồng/người (năm 2020), vẫn trong nhóm
thu nhập thấp của vùng và xấp xỉ mức bình
quân cả nước. Đóng góp bình quân TFP khoảng
42% GDP nhưng khi phân rã thành phần của TFP theo phương
pháp ước lượng hàm sản xuất biên
ngẫu nhiên (SFA), hiệu quả công nghệ chỉ chiếm tỷ trọng 5,8% giai đoạn 2016-2019, thuộc nhóm có hiệu quả công nghệ thấp nhất vùng ĐBSH (bình
quân đạt 8,62% và bình quân cả nước là
8,65%)[29].
Tỷ lệ đô thị hóa của
của Vĩnh Phúc đến năm 2020 chỉ đạt 30%, thấp so với bình
quân cả nước (36,8%) và bình quân vùng ĐBSH (37,1%), tốc độ tăng trưởng đô thị chậm chưa đảm bảo các
tiêu chí về đô thị. Đánh giá những đóng góp của các yếu tố
cho thấy mô hình tăng trưởng của tỉnh vẫn đang là
mô hình tăng trưởng theo chiều rộng, phụ thuộc vào sự gia tăng yếu tố đầu vào và chưa tạo ra được
những yếu tố nội sinh trong tăng trưởng. Do đó, vấn đề đặt
ra đối với mô hình tăng trưởng của tỉnh là tiếp tục tạo ra được tích lũy đủ mức để trở thành
nền tảng cho công nghiệp hóa, đồng thời trên cơ sở phát triển
kinh tế công nghiệp và đô thị, phát
triển đủ mạnh vốn tri thức và nâng cao tài nguyên con người để theo đuổi mô hình tăng trưởng theo chiều sâu.
Giai đoạn 2021-2030 là giai đoạn có
tính quyết định để đạt được thành công trong công nghiệp hóa, do đó trong bối cảnh CMCN 4.0, tỉnh bắt
buộc phải định hướng mô hình tăng trưởng dựa trên
tích lũy tri thức và công nghệ, chú
trọng cải thiện chất lượng và năng lực cạnh
tranh của cộng đồng doanh nghiệp, khuyến khích chuyển dịch
sang những ngành nghề, dịch vụ đòi hỏi
trình độ công nghệ, trí tuệ và mang lại giá trị gia
tăng cao. Để thực hiện chuyển đổi mô hình, cần ưu tiên:
-
Tăng cường đầu tư và tích lũy vốn
(bao gồm vốn tư bản và vốn con người). Điều này có
nghĩa là bên cạnh những yếu tố như nguyên vật
liệu, công nghệ có thể mua, vay mượn
thì việc đầu tư và cải cách mạnh mẽ hệ thống giáo dục, y tế để tăng vốn con
người là cần thiết.
-
Tận dụng lợi thế người đi sau. Tăng cường việc trao đổi để
mua sắm và sử dụng công nghệ mới thay
vì đầu tư nghiên cứu mới. Đầu tư mới
chỉ trong điều kiện đủ nguồn lực nhưng nguồn lực của tỉnh là hạn chế và chưa đủ tích lũy. Do đó, cần hướng đến mô hình tăng trưởng theo phân
bổ hiệu quả lại nguồn lực. Phân bổ các
ngành công nghiệp theo hướng tập trung, không dàn đều theo địa giới hành chính. Chuyển dần các
ngành công nghiệp có tác động xấu tới môi
trường sang các ngành công nghiệp thân
thiện, công nghệ cao và thích ứng tốt với CMCN 4.0.
-
Thực thi tốt các chính sách khuyến khích,
hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp tư nhân lớn
mạnh. Doanh nghiệp tư nhân trên địa bàn là nguồn lực quan trọng để đảm bảo tăng trưởng trong dài hạn, vừa tạo việc làm, tích lũy vốn và là
nguồn đầu tư ổn định. Tăng cường mối liên kết
giữa doanh nghiệp nội địa và doanh nghiệp nước ngoài,
tăng tỷ lệ nội địa hóa đối với các sản phẩm công nghiệp có triển
vọng.
-
Ưu tiên phát triển nguồn nhân lực công
nghiệp. Hệ thống đào tạo và dạy nghề cần chuyển sang định hướng thực hành, gắn
kết với hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp
công nghiệp.
-
Hoàn thiện cơ sở hạ tầng, kinh tế đô thị, đáp ứng tốt nhu cầu tăng trưởng kinh tế.
-
Không đánh đổi mọi thứ cho tăng trưởng kinh tế. Đảm bảo sự
hài hòa trong tăng trưởng kinh tế với phát triển xã hội, bảo vệ môi trường,
thích ứng với biến đối khí hậu.
2. Mục tiêu cơ cấu lại nền kinh tế đến năm
2030
2.1. Mục tiêu tổng quát
Cơ
cấu lại nền kinh tế trên địa bàn
tỉnh Vĩnh Phúc nhằm hình thành cơ cấu hợp lý, đẩy nhanh chuyển đổi mô hình
tăng trưởng sang chiều sâu dựa trên
khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, tăng hiệu quả sử dụng nguồn lực, tăng năng suất và sức cạnh tranh, góp phần đạt tăng trưởng kinh tế
cao và bền vững, gắn với bảo vệ môi trường và công bằng xã hội. Đến
năm 2030, Vĩnh Phúc là tỉnh công nghiệp
phát triển, một trong những trung tâm công nghiệp, dịch vụ, du lịch của vùng và cả nước.
2.2. Mục tiêu cụ thể
Các
mục tiêu, chỉ tiêu chi tiết được nêu tại các nhóm nhiệm
vụ, trong đó, các mục tiêu chung bao gồm:
(1)
Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn đạt 10,5-11%/năm.
(2)
Tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng đóng
góp của các ngành dịch vụ, đến năm 2030, cơ
cấu giá trị gia tăng các ngành nông, lâm nghiệp thủy sản, công nghiệp xây dựng và dịch vụ lần lượt là 3%, 61-62% và
35-36%.
(3)
Tốc độ tăng năng suất lao động đạt trên 11%/năm, năm
2030 năng suất lao động bình quân đạt 540
triệu đồng/lao động (giá hiện hành);
(4)
Đóng góp của năng suất các nhân tố
tổng hợp trong tăng trưởng GRDP của tỉnh đạt khoảng 55-60%;
(5)
Tổng vốn toàn xã hội đầu tư cho khoa
học và công nghệ chiếm tối thiểu 2% GRDP.
(6)
Số lượng doanh nghiệp thực hiện đổi mới công nghệ tăng trung bình 15%/năm.
(7)
Tỷ trọng đóng góp của khu vực kinh tế
tư nhân vào GRDP tăng lên 20%.
(8)
Tỷ lệ kinh tế số trên GRDP trong từng
ngành/lĩnh vực đạt tối thiểu 10%.
(9)
Tỷ lệ lao động qua đào tạo có
bằng cấp, chứng chỉ đạt 48%.
(10)
Chuyển đổi sang nền kinh tế tuần hoàn, tăng tỷ lệ rác thải được tái chế.
Đến năm 2025, tái sử dụng, tái chế,
xử lý 85% lượng chất thải nhựa phát sinh; giảm dần mức sản xuất và sử dụng túi ni lông
khó phân hủy và sản phẩm nhựa dùng một lần.
3. Nhiệm vụ, giải pháp cơ cấu lại nền kinh tế
3.1. Cơ cấu lại ngành theo định hướng ngành ưu
tiên
3.1.1. Cơ cấu lại ngành công nghiệp
a) Mục tiêu
Phấn đấu trở thành một tỉnh công nghiệp phát triển, một trong những trung tâm
công nghiệp của vùng và cả nước gắn với phát
triển bền vững; khai thác hiệu quả vị trí,
tiềm năng và lợi thế của tỉnh, nâng
cao chất lượng tăng trưởng ngành công nghiệp.
Hoàn
thiện hệ thống hạ tầng công nghiệp
hiện đại (các khu, cụm công nghiệp)
trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2030, đảm bảo sự phát triển bền vững (tạo
việc làm, nâng cao thu nhập và tác phong công nghiệp cho người lao động) và góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa các địa phương
và vào tăng trưởng kinh tế chung của toàn tỉnh.
Đến năm 2030, công nghiệp của tỉnh phát triển với cơ cấu hợp lý; chuyển đổi sang các
ngành công nghiệp thâm dụng công nghệ, hiệu quả và có giá trị gia tăng cao hướng xuất
khẩu và tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu. Năm 2025, tỉ trọng ngành công
nghiệp trong GRDP đạt trên 40%; tỉ trọng công
nghiệp chế biến, chế tạo đạt trên 45%. Năm 2030, tỉ trọng ngành công nghiệp đạt trên 55%.
b) Nhiệm vụ, giải pháp
-
Triển khai xây dựng và đưa vào
thực hiện Đề án tăng cường chất lượng sản
phẩm ngành công nghiệp; xây dựng danh
mục các ngành công nghiệp ưu tiên phù hợp với lợi thế của địa phương và nhu cầu tiêu
dùng, xuất khẩu;
-
Tập trung đầu tư các công trình hạ
tầng kỹ thuật, sử dụng vốn đầu tư công có hiệu quả cho các
dự án xây dựng cơ sở hạ tầng. Xây dựng và ban hành các cơ chế chính sách đặc thù để thu hút doanh nghiệp
đầu tư xây dựng kinh doanh hạ tầng khu, cụm công
nghiệp, hạ tầng năng lượng;
-
Xây dựng và triển khai quy hoạch phát
triển các cụm liên kết
ngành công nghiệp chuyên môn hóa; hình thành chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị đảm bảo chất lượng và
nguồn gốc xuất xứ tại các cụm ngành;
thúc đẩy liên kết, hợp tác giữa doanh nghiệp và các viện nghiên cứu, các tổ chức liên quan. Mở
rộng hợp tác về phát triển công
nghiệp với các địa phương trong vùng
ĐBSH để hình thành phát huy lợi thế, khai thác
tiềm năng của tỉnh, hình thành chuỗi giá
trị theo địa phương và thúc đẩy chuyển dịch
cơ cấu kinh tế thông qua việc tổ chức triển lãm thành
tựu nghiên cứu, công nghệ trong các ngành công nghiệp ưu tiên, giới thiệu kết nối doanh nghiệp phụ trợ trong nước với các doanh
nghiệp đầu tư nước ngoài.
-
Tổ chức các hoạt động xúc tiến đầu tư có định hướng. Tăng cường thu hút
đầu tư vào các ngành công nghiệp nền tảng
như công nghiệp cơ khí chế tạo, điện
tử, luyện kim, vật liệu xây dựng, phù hợp với thế mạnh của tỉnh. Tập trung phát triển công
nghiệp hỗ trợ đầu vào cho công nghiệp xuất
khẩu. Ưu tiên phát triển một số ngành công nghiệp mũi nhọn, công nghệ mới, công nghệ cao, có lợi thế cạnh tranh đi đôi với áp dụng công nghệ tiết
kiệm năng lượng, nguyên liệu như công nghệ thông tin, công nghiệp điện tử, công nghiệp chế tạo thông minh, công nghiệp vi mạch bán
dẫn, công nghiệp sản xuất robot, ô
tô, thiết bị tích hợp vận hành tự động, điều khiển từ xa, công nghiệp sản xuất
phần mềm, sản phẩm số, công nghiệp chế biến, chế tạo phục
vụ nông nghiệp, công nghiệp vật liệu
mới.
-
Chính quyền địa phương tổ chức các khóa đào tạo, cung cấp cơ sở hạ tầng kỹ thuật hỗ trợ đóng gói và thử nghiệm vi mạch, kết nối doanh nghiệp với nhà nghiên cứu, xây dựng Trung tâm thiết
kế vi mạch nằm trong trung tâm đổi mới sáng tạo của tỉnh. Thực hiện tuyên truyền, quảng bá
về vai trò nguồn nhân lực
đối với phát triển công nghiệp, xây
dựng chương trình kết nối đội ngũ nghiên
cứu liên quan đến công nghiệp vi mạch bán dẫn để hợp tác kinh doanh,
tiếp thu kiến thức, công nghệ thực hành.
-
Xây dựng chính sách hỗ trợ nâng
cao năng lực cho các doanh nghiệp tư nhân,
đặc biệt trong các lĩnh vực công nghiệp chế tạo, công nghệ cao, công nghiệp công nghệ thông tin; xây dựng
và triển khai một số chương trình kết
nối kinh doanh giữa nhà cung cấp trong nước với các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
để hình thành các chuỗi cung ứng của các
ngành công nghiệp; tạo điều kiện hình thành các tập đoàn kinh tế lớn trong nước trong lĩnh vực công
nghiệp có vai trò dẫn dắt phát triển ngành và có khả năng cạnh tranh trên thị trong nước và nước ngoài; tăng cường các biện pháp bảo vệ các
ngành, doanh nghiệp sản xuất công nghiệp
trong nước trước áp lực của cạnh tranh từ quá trình
mở cửa hội nhập.
-
Xây dựng cơ chế để khuyến khích các doanh nghiệp đổi mới công nghệ như hỗ trợ về mặt bằng đất
đai, cơ sở hạ tầng giao thông kết nối, kết nối doanh
nghiệp đầu vào, xúc tiến tìm kiếm thị
trường. Xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá mức độ đổi mới công nghệ của doanh nghiệp, thực
hiện điều tra, khảo sát hằng năm để đánh giá tiến độ đổi mới công nghệ của doanh nghiệp đưa ra các
chính sách phù hợp.
-
Xây dựng mô hình phát triển công
nghiệp theo điển hình Singapore. Điều chỉnh
vị trí xây dựng các khu công nghiệp
lớn chuyển dần ra vùng ngoại ô hoặc
bố trí tại vùng nông thôn, việc này
yêu cầu việc bố trí đất đai, hình
thành hạ tầng giao thông kết nối phù
hợp. Chuyển dần các ngành công nghiệp gây
ô nhiễm vùng trung tâm, khu vực dân
cư và quy hoạch các cơ sở hạ tầng thiết yếu
đi kèm. Tiếp theo là tập trung vào
chất lượng sản phẩm công nghiệp và tạo danh tiếng cho tỉnh về các sản phẩm được sản
xuất. Để tái cơ cấu các ngành công nghiệp, công nghệ, kĩ năng và tri thức là các yếu tố quan trọng hàng đầu, do đó việc chuyển đổi đầu tư sang các
ngành công nghiệp thâm dụng công nghệ là bắt buộc, chú trọng tới
việc tạo ra các sản phẩm mới phù hợp
với xu hướng phát triển và nhu cầu
của thế giới ngày nay. Chính sách của chính quyền địa phương cần làm là việc tạo quỹ đất cho các
doanh nghiệp sử dụng theo như yêu cầu và
có dự phòng quỹ đất phù hợp, chi phí cho doanh nghiệp trong khai thác
quỹ đất này cần đảm bảo ở mức thấp nhất. Đánh
giá hiệu quả sử dụng quỹ đất cho công nghiệp
hằng năm để xem xét bổ sung hoặc thu hồi đất chưa phù
hợp với mục đích sử dụng và khuyến khích doanh nghiệp mở rộng sản xuất, sử dụng
hết quỹ đất được cấp.
Lập kế hoạch chuyên môn hóa các khu công nghiệp,
cụm công nghiệp, đặc biệt chú trọng
đến các ngành công nghiệp phụ trợ, vi mạch bán dẫn phục vụ cho sản xuất linh kiện điện tử. Thực hiện cơ cấu lại doanh
nghiệp trong cùng một ngành công nghiệp
tập trung tại một địa điểm để tạo thành cụm sản xuất, điều
này cũng sẽ tối đa hóa việc tận dụng
nguồn đất đai. Lập kế hoạch sử dụng đất công nghiệp theo các
vành đai, khu dân cư được coi là trung tâm, tiếp đó là vành đai công nghiệp tiên tiến, vành đai công nghiệp nhẹ và vành đai
công nghiệp chung hoặc nặng. Tạo không gian công nghiệp sôi động thông qua việc
thiết kế không gian đô thị với quy hoạch công nghiệp, xây dựng các khu tổ hợp
thương mại dịch vụ kết hợp giữa hoạt động sản xuất theo cụm, trung tâm
logistic, kinh doanh, khách sạn và giải trí.
3.1.2. Cơ cấu lại các ngành dịch vụ
a) Mục tiêu
Phát triển
một số ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao, trong đó bao gồm
các ngành dịch vụ phục vụ công
nghiệp như vận tải kho bãi, logistic, phát triển dịch vụ du lịch, tăng cường ứng dụng dịch vụ số để
phát triển thương mại điện tử, một số mục tiêu cụ
thể như sau:
- Tỷ
trọng khu vực dịch vụ trong GRDP khoảng 35-36% vào năm 2030.
- Tốc độ
tăng trưởng bình quân hàng năm của tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
(chưa loại trừ yếu tố giá) đạt
9-9,5%/năm.
- Tốc độ
tăng trưởng ngành dịch vụ logistic đạt 18%/năm.
- Đến
năm 2030, thu hút 150 nghìn lượt khách
quốc tế, 16 triệu lượt khách nội
địa.
b) Nhiệm vụ, giải pháp
- Phát triển
hạ tầng thương mại hiện đại. Đầu tư nâng
cấp kết cấu hạ tầng thương mại phù hợp
với từng địa bàn đô thị và
nông thôn, trong đó ưu tiên xây dựng
các hạng mục thiết yếu, đáp ứng nhu cầu trao đổi
mua sắm của người dân theo khu vực. Sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu
tư công để hoàn thiện hạ tầng thương mại. Có chính sách khuyến khích các tổ chức, cá
nhân thuộc các thành phần kinh tế tham gia góp vốn đầu tư.
- Tập
trung hỗ trợ hình thành các doanh nghiệp trong lĩnh vực phân phối
bán buôn, bán lẻ (gồm FDI và
doanh nghiệp nội địa) nhằm hiện
đại hóa ngành thương mại, thực hiện chuyển dịch hệ thống phân phối sang
các loại hình phân phối hiện đại như trung siêu thị,
trung tâm thương mại, cửa hàng tiện lợi.
- Hình thành các trung tâm logistics nhằm tận dụng vị trí địa lý thuận
lợi của tỉnh Vĩnh Phúc và phục vụ cho sản xuất công nghiệp
và phân phối hàng hóa. Ứng dụng các
công nghệ mới trong hoạt động
logistics, khuyến khích phát triển ứng dụng các phương tiện giao thông mới
hỗ trợ việc vận chuyển, giao nhận hàng
hoá trong thương mại điện tử; Tổ
chức triển khai hiệu quả Đề án nâng cao
chất lượng hành khách công cộng bằng xe buýt trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2021-2025, trong đó nghiên cứu
mở mới thêm các tuyến xe buýt, điểm đón
trả khách tới
các khu công nghiệp, điều chỉnh lộ trình một số tuyến cho phù hợp
tạo điều kiện thuận lợi cho công nhân và
người lao động.
- Ưu tiên bố trí kinh phí từ ngân
sách cho các dự án xây dựng
và phát triển hạ tầng thương mại điện tử, khuyến khích doanh nghiệp khai thác các phương thức thanh toán điện tử và các phương tiện, dịch vụ thanh toán mới.
- Tổ
chức hướng dẫn, hỗ trợ các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ số truy xuất
nguồn gốc sản phẩm. Nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý thị
trường nhằm tăng cường công tác kiểm soát,
đảm bảo chất lượng, vệ sinh an toàn thực
phẩm, truy xuất nguồn gốc.
- Khai thác hiệu quả các hiệp định thương mại tự do (FTAs) đã ký để
tạo động lực phát triển xuất nhập khẩu dịch vụ bền vững. Đẩy nhanh
quá trình đa dạng hóa thị trường, không để phụ thuộc quá lớn vào một
thị trường, nghiên cứu cảnh báo sớm rủi ro, bảo đảm cân bằng
cán cân xuất, nhập khẩu hàng
hoá và dịch vụ, đồng thời đa dạng
hoá và cơ cấu lại mặt hàng
xuất khẩu theo hướng nâng cao giá trị sản phẩm hàng hoá qua chế biến và
tìm kiếm các mặt hàng xuất
khẩu mới.
- Tập
trung cơ cấu lại các ngành dịch vụ dựa trên nền tảng công nghệ
hiện đại, công nghệ số. Tập trung nguồn lực phát triển
một số ngành dịch vụ tiềm năng, có hàm lượng tri thức và công nghệ
cao như tài chính, ngân hàng, thông tin
và truyền thông, an toàn thông tin, khoa học và công nghệ, giáo
dục và đào tạo,
y tế, du lịch, logistics và vận tải, phân
phối.
- Phát triển
nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực thương mại đáp ứng yêu cầu
hội nhập và cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao chất lượng các cơ sở đào tạo nhằm tạo ra nguồn nhân lực
thương mại có khả năng tiếp nhận và
làm chủ được công nghệ
quản lý hoạt động kinh doanh mới, có định
hướng đến các ngành ưu tiên. Xây dựng cơ chế chính sách khuyến khích doanh nghiệp tham gia đào tạo lao động phục vụ theo nhu cầu sử dụng của
doanh nghiệp.
-
Cơ cấu lại ngành du lịch, bảo đảm tính
chuyên nghiệp, hiện đại; ứng dụng mạnh mẽ thành tựu của CMCN 4.0 vào phát triển du lịch. Đẩy mạnh xúc
tiến đầu tư vào hạ tầng kỹ thuật phục vụ du
lịch. Sớm đưa Nghị quyết hỗ trợ phát triển du lịch trên
địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2022-2025 vào triển khai thực hiện; Triển khai
hiệu quả Kế hoạch phát triển du lịch giai đoạn 2022-2026
định hướng đến năm 2030. Chú trọng liên kết giữa ngành du lịch với các ngành, lĩnh vực khác trong chuỗi giá trị hình
thành nên các sản phẩm du lịch để du lịch thực sự trở thành
ngành kinh tế chủ chốt. Tổ chức các hoạt
động sự kiện, chương trình quảng bá, giới thiệu du lịch Vĩnh Phúc và tăng cường đào
tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ quản lý,
đội ngủ hướng dẫn viên, thuyết minh viên,
nhân viên phục vụ và cộng đồng dân cư
tham gia hoạt động du lịch. Tăng cường công tác quản lý nhà nước về du lịch, đảm bảo môi trường du lịch phát triển bền vững; đảm bảo an ninh
trật tự, vệ sinh môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm, nếp sống văn minh tại các khu du lịch,
nhất là trước, trong và sau tết và
mùa lễ hội, mùa du lịch; triển khai Bộ quy
tắc ứng xử văn minh du lịch và phát động phong trào
người dân ứng xử văn minh, tận tình hỗ trợ khách du lịch; phát động
phong trào “Mỗi người dân là một
hướng dẫn viên, niềm nở với khách du lịch” “Chung tay xây dựng hình ảnh du lịch Vĩnh Phúc văn minh - Lịch sự”. Tổ chức
tập huấn, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng làm du lịch cho lao
động tại các cơ sở lưu trú, địa điểm
ăn uống, doanh nghiệp trong lĩnh vực du lịch.
3.1.3. Cơ cấu lại ngành nông nghiệp
a) Mục tiêu
Tập
trung cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng phát triển nông nghiệp
bền vững, nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng và khả
năng cạnh tranh nông sản; bảo vệ môi trường, sinh thái; nâng cao thu nhập cho người dân
ở khu vực nông thôn; đảm bảo an ninh lương thực và an
ninh quốc phòng. Đẩy
mạnh phát triển nền nông nghiệp hiện đại, nông nghiệp sạch, nông nghiệp
hữu cơ, gắn với phát triển công
nghiệp chế biến nông sản,
thích ứng với biến đổi khí hậu và kết
nối bền vững với chuỗi giá trị nông sản toàn
cầu. Một số mục tiêu cụ
thể đến năm 2030 như sau:
Tốc độ
tăng trưởng giá trị gia tăng ngành
nông nghiệp đạt bình quân từ
2,5 đến 2,9%/năm;
Tốc độ
tăng năng suất lao động nông, lâm nghiệp và thủy sản đạt bình quân trên 10%/năm;
Tỷ lệ giá trị
sản phẩm nông nghiệp ứng dụng công
nghệ cao đạt trên 20%.
b) Nhiệm vụ, giải pháp
- Tổ
chức triển khai hiệu quả các Đề án, Kế hoạch, Chương trình về
cơ cấu lại ngành nông nghiệp, trong đó điển hình như: Kế
hoạch cơ cấu lại ngành nông nghiệp giai đoạn 2021-2025; Đề án phát triển sản phẩm OCOP giai đoạn 2021-2025, định hướng 2030; Đề án phát triển nông nghiệp hữu cơ giai đoạn 2023-2025, định hướng 2030; Đề án phát triển thủy sản giai đoạn 2023-2030…
- Thực
hiện đồng bộ các giải pháp tái cơ cấu ngành
nông nghiệp theo hướng chuyển đổi
cơ cấu giống, cây trồng, vật nuôi
phù hợp với lợi thế và nhu cầu
thị trường, chuyển đổi linh hoạt, hiệu quả quy mô và cơ cấu sản xuất theo
nhóm sản phẩm chủ lực địa phương; nhóm sản
phẩm theo mô hình “Mỗi xã một sản phẩm” nhằm phát huy lợi
thế, phù hợp với nhu cầu thị trường và thích ứng
biến đổi khí hậu. Bố trí quỹ đất phù
hợp theo chuỗi giá trị,
từ nguồn thức ăn, khu vực chăn nuôi, trồng trọt đến chế biến.
- Đẩy
mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động trong nông
nghiệp, nông thôn để
nâng cao thu nhập. Đa dạng hóa
thu nhập cho người dân từ
nhiều ngành nghề (nông nghiệp và
phi nông nghiệp, tại chỗ và ngoài nông thôn). Tổ chức đào tạo lao động nông nghiệp để bổ sung
nguồn nhân lực có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu đổi mới
phương thức sản xuất trong nông nghiệp.
- Khuyến
khích tích tụ ruộng đất, phát
triển các vùng sản
xuất hàng hóa tập trung, quy mô
lớn, tổ chức sản xuất theo chuỗi
đối với các sản phẩm chủ lực. Khuyến khích phát triển nông nghiệp xanh, sạch, nông
nghiệp sinh thái, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp công
nghệ cao, thông minh, thích ứng với biến đổi khí hậu, giảm sử dụng các loại
phân bón vô cơ, hóa chất bảo vệ thực vật. Thúc đẩy
phát triển cơ giới hóa
nông nghiệp và công nghiệp chế biến nông sản, phát
triển công nghiệp
hỗ trợ và dịch vụ logistic phục vụ nông nghiệp.
- Nâng cao trình độ nghiên cứu, chuyển giao và ứng
dụng khoa học công nghệ, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ
số, trí tuệ nhân tạo để phát
triển nông nghiệp
thông minh, hiện đại. Đổi mới và
phát triển các hình thức
tổ chức sản xuất phù hợp, hiệu quả. Đẩy mạnh hiệu quả liên kết
giữa 4 nhà “Nhà nước - Nhà nông -
Nhà khoa học - Nhà doanh nghiệp” nhằm gắn sản xuất với chế biến và
tiêu thụ, kết nối với hệ thống tiêu thụ
trong nước và toàn cầu, tiến tới sản xuất hàng hóa quy mô lớn và hiện
đại. Khuyến khích hình thành và phát triển các
mô hình doanh nghiệp, hợp tác xã ứng
dụng công nghệ quản trị tiên
tiến, có khả
năng tổ chức liên kết sản xuất và
tiêu thụ sản phẩm cho nông dân ở
những vùng sản xuất tập trung. Khơi dậy tinh thần khởi nghiệp, đổi
mới sáng tạo trong nông
nghiệp, nông thôn.
- Đẩy
mạnh đầu tư, thu hút các nguồn lực xã
hội để phát triển
kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông
thôn ngày càng hiện đại, đáp ứng yêu cầu
của nền sản xuất hàng hóa quy mô lớn, hội nhập quốc tế và xây dựng
nông thôn mới.
- Xây dựng
và phát triển hệ thống thông
tin về giá cả thị
trường (xây dựng trang web thông
tin hàng ngày thị trường giá cả nông sản
chủ lực trong nước và thế giới; thông
tin các danh mục sản phẩm, giá cả nông sản
chủ lực của các doanh nghiệp trong nước), dự báo nhu cầu
thị trường trong nước và thế giới; dự báo cân đối cung cầu thị
trường trong nước và thế giới đối với một số nông sản
chủ lực, … Đổi mới phương thức quảng bá
giới thiệu sản phẩm, xúc tiến
thương mại cho sản phẩm nông sản chủ lực của tỉnh. Xây dựng
các đề án dự án về quảng bá
nông sản kết hợp nông nghiệp
với du lịch để thu hút các nhà đầu tư.
3.2. Nâng cao năng suất lao động và chất
lượng lao động
3.2.1. Mục tiêu
Tốc độ tăng năng suất lao động đạt trên 11%/năm.
Tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ đạt 48% đến năm 2030.
Tiếp tục giảm lao động làm việc trong ngành
nông nghiệp xuống còn 20-23% năm 2025, và còn 18-20% vào
năm 2030.
3.2.2. Nhiệm vụ, giải pháp
a) Cải thiện chất lượng dạy và học, tăng cường trình độ cho người lao động
- Hằng
năm, lập kế hoạch và đánh giá kết quả dạy và học, đảm bảo việc cải
thiện chất lượng dạy học đi vào thực chất. Thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện
hệ thống giáo dục và đào tạo. Tập trung đầu tư vào cơ sở
vật chất, trang thiết bị, đồ dùng dạy học tiếp cận chuẩn khu vực và thế
giới.
- Xây dựng
chính sách đào tạo, bồi dưỡng nhân
tài, thu hút nguồn nhân lực
khoa học công nghệ chất lượng cao, đào tạo nguồn nhân lực
số, nhân lực có kỹ năng, trình
độ chuyên môn cao thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động theo từng lĩnh vực, ngành nghề.
- Phát triển
giáo dục nghề nghiệp; đảm bảo trình độ
tay nghề, kỹ năng, văn hóa lao động của người lao động đáp ứng
được các nhu cầu ngày càng đổi mới và
khắt khe của thị trường; đảm bảo
gắn kết cung cầu lao động với doanh nghiệp. Tiếp tục thực hiện phân luồng
học sinh sau trung học cơ sở; đẩy mạnh công
tác tư vấn, hướng nghiệp trong nhà trường
với doanh nghiệp và thị trường lao động. Tập trung đào tạo các nghề
trọng điểm đạt chuẩn Quốc tế, khu vực cho đội ngũ lao động chất lượng cao đáp ứng
nhu cầu của doanh nghiệp. Cơ cấu lại mạng lưới giáo dục nghề nghiệp theo
nguyên tắc: tăng cường chất lượng đào tạo,
tăng quyền tự chủ; nhà nước và
doanh nghiệp đặt hàng đào tạo;
ngân sách hỗ trợ đầu tư thiết bị đào tạo có điều
kiện thông qua số lượng, chất lượng đào tạo. Tập trung đầu tư
bồi dưỡng, đào tạo ngoại ngữ. Thu hút các Trung tâm, các Trường
hoặc mở các khoa đào tạo tiếng Anh, Trung, Hàn, Nhật…
- Đa dạng
hóa các loại hình đào tạo, tập trung vào các trường cao đẳng, đào tạo
đa cấp trình độ, đa ngành nghề; đẩy mạnh liên kết đào tạo
của các trường trung cấp, cao đẳng; mở rộng liên kết đào tạo
giữa các cơ sở giáo dục nghề nghiệp thuộc Trung ương với các cơ sở
giáo dục nghề nghiệp ở địa phương; tập trung đầu tư phát triển
trường cao đẳng nghề chất lượng cao của tỉnh và các ngành, nghề trọng
điểm, hướng tới tăng quy mô đào tạo; khai thác tiềm năng sẵn có của
tỉnh.
- Tăng cường
mối liên kết giữa nhà trường và
doanh nghiệp, giữa các cơ sở
đào tạo với người sử dụng lao động. Chú trọng
gắn kết đào tạo lý thuyết với yêu
cầu thực hành, đào tạo
nhân lực chất lượng cao cho từng lĩnh vực cụ thể và đào tạo
lại nhân lực lao động đáp ứng yêu
cầu cuộc CMCN 4.0, yêu cầu
chuyển đổi số và phát triển kinh tế số, xã hội số.
- Nâng cao trình độ, năng lực cho đội ngũ giáo viên thông qua thực hiện: Quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí đội
ngũ cán bộ quản lý giáo dục đủ tầm, đáp ứng yêu cầu.
Triển khai Đề án đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý đảm bảo đạt chuẩn trình độ đào tạo,
đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo giai đoạn 2021-2025. Tổ chức bồi dưỡng, cập
nhật kiến thức, kỹ năng thường niên cho
giáo viên các cấp. Hằng năm tổ
chức, tham gia các hội giảng nhà
giáo giáo dục nghề nghiệp.
- Tăng cường
đầu tư hạ tầng, đầu tư cơ sở vật chất, máy
móc, trang thiết bị dạy và học các cấp,
đặc biệt chú trọng nâng cao chất lượng, cải tiến giáo trình dạy
nghề nhằm đáp ứng yêu cầu ngày
càng cao của thị trường và nhà tuyển
dụng. Chú trọng đầu tư các
ngành nghề là thế
mạnh và nhu cầu của tỉnh như: cơ khí chế tạo, lắp ráp linh kiện
điện tử, tin học, dệt may, da giầy,…
b) Hỗ trợ phát triển thị trường lao động
- Tiếp tục triển khai Kế hoạch số 156/KH-UBND
ngày 17/6/2021 của UBND tỉnh về hỗ trợ phát triển thị trường lao động đến
năm 2030 trên địa bàn tỉnh. Xây dựng và hoàn thiện hệ
thống thông tin thị trường lao động; dự báo về thị trường lao động
và việc làm, đánh
giá thị trường lao động
theo hướng dẫn của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.
-
Triển khai tổ chức thu thập, cập
nhật, lưu trữ, tổng hợp dữ liệu về thị
trường lao động hàng năm theo
hướng dẫn của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.
Thực hiện số hóa, cập nhật thông tin dữ liệu
về người lao động; lưu trữ, quản lý dữ liệu
và cập nhật thông tin thị trường lao động thống nhất với
cơ sở dữ liệu
toàn quốc, phù hợp với thực tế của tỉnh, kết nối liên thông từ
cấp xã đến cấp tỉnh. Chú trọng nâng cấp cơ sở
hạ tầng, trang thiết bị phục vụ việc thu thập, lưu trữ số liệu,
phân tích và dự báo về cung - cầu lao động đáp ứng yêu cầu quản lý, phân
tích, chia sẻ, công bố thông tin về thị trường
lao động.
-
Triển khai hiệu quả các chính sách hỗ
trợ giáo dục nghề nghiệp và giải
quyết việc làm; các chương trình, đề án, kế hoạch cải thiện môi trường và điều kiện làm việc, mối quan hệ hài hoà, hợp tác giữa doanh nghiệp và người lao động. Ban hành và tổ chức thực hiện hiệu
quả một số chính sách chính sách hỗ trợ giáo dục nghề nghiệp và giải quyết việc làm trên
địa bàn tỉnh giai đoạn 2021-2025. Xây
dựng Chương trình việc làm tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2021-2025 và xây dựng Chương trình mục tiêu về
việc làm, an toàn lao động theo hướng dẫn của Trung ương.
Thực hiện các chương trình, đề án, kế
hoạch cải thiện môi trường và điều
kiện làm việc, mối quan hệ hài hoà, hợp
tác giữa doanh nghiệp và người lao
động gắn bó lâu dài.
-
Triển khai kết nối, khai thác cơ sở dữ liệu
dân cư, đăng ký doanh nghiệp, bảo
hiểm xã hội theo quy định; kết
nối, liên thông giữa cổng thông tin và giao tiếp điện tử của Sở Lao động- Thương binh và Xã hội,
Trung tâm Dịch vụ việc làm tỉnh với
cổng thông tin điện tử về lao động, việc làm ở
trung ương theo hướng dẫn của Bộ
Lao động- Thương binh và Xã hội, đảm bảo cập nhật
kịp thời các thông tin thiết yếu phục vụ người lao động, người
dân.
-
Nâng cao hiệu quả hoạt động
của Trung tâm dịch vụ việc làm. Thường
xuyên đào tạo, bồi dưỡng, nâng
cao năng lực cho cán bộ làm
công tác dịch vụ việc làm về kiến thức
và kỹ năng thu thập, xử lý,
khai thác thông tin thị trường lao động
phục vụ tư vấn, giới thiệu việc làm. Triển khai các công cụ (phần mềm, bộ tiêu chí, tiêu chuẩn) về dịch vụ việc
làm theo hướng dẫn của Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội.
Đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong các giao dịch về lao động,
việc làm.
-
Tiếp tục triển khai có hiệu quả Kế hoạch
số 272/KH-UBND ngày 03/11/2021 của UBND tỉnh về triển khai cung ứng lao động cho các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2022-2025.
-
Nghiên cứu xây dựng các Đề án về : i) vấn đề việc
làm trong bối cảnh CMCN 4.0 để nhận
diện những thay đổi, biến động của thị
trường lao động và vấn đề việc làm trong bối cảnh CMCN4.0; ii) đào tạo và đào tạo
lại nhân lực trong bối cảnh CMCN 4.0 để
nhận diện những
nghề cần đào tạo để chuẩn bị
nhân lực; những ngành nghề và con người nào cần đào tạo và đào
tạo lại để chuẩn bị nhân lực.
- Đẩy mạnh công tác dự báo nhu cầu thị
trường nhân lực trong ngắn
hạn và dài hạn. Nghiên cứu
nhu cầu lao động của các doanh nghiệp trong cuộc CMCN
4.0 để định hướng đào tạo đối với các cơ sở đào
tạo trên địa bàn tỉnh, đặc biệt là lĩnh vực công nghệ thông tin, điện tử, tự động
hóa, nông nghiệp công nghệ cao, chăm sóc sức
khỏe, ngoại ngữ sẽ có nhu cầu lao động rất lớn mở ra
cơ hội việc làm cho thanh niên ở cả trong nước và
quốc tế.
c) Tăng cường kết nối thị trường lao động trong và ngoài tỉnh, trong và ngoài nước
- Thiết
kế chương trình hướng nghiệp đa dạng về đối tượng, nội dung và hình thức,
linh hoạt địa điểm, đào tạo đội ngũ nhân sự tham gia tổ chức
hướng nghiệp cho học sinh, sinh viên.
- Nghiên cứu
và phổ biến các hệ thống chứng nhận nghề, kỹ năng nghề theo tiêu chuẩn
quốc tế hỗ trợ người lao động tham gia các
thị trường lao động trong và ngoài nước.
- Đa dạng hóa hình thức kết nối cung - cầu lao
động, tăng cường phối hợp giữa Trung tâm
Dịch vụ việc làm tỉnh với các Trung tâm dịch vụ việc làm
trong và ngoài tỉnh; với các doanh nghiệp hoạt động
dịch vụ việc làm để mở rộng khả năng khai thác nguồn lao động, mở rộng
phạm vi cung ứng lao động; hỗ trợ người lao động
rút ngắn thời gian tìm việc, người sử dụng
lao động giảm chi phí về thời gian cho
công tác tuyển dụng lao động; với các doanh nghiệp dịch vụ đưa lao
động đi làm việc ở nước ngoài trong công tác tạo nguồn, tổ chức đào tạo
ngoại ngữ, giáo dục định hướng. Phối hợp với UBND cấp huyện, cấp
xã nắm bắt thông tin người lao động đi làm việc ở nước ngoài hoặc các tỉnh, thành phố trở về địa
phương để kịp thời hỗ trợ thông tin thị trường lao động,
tư vấn, giới thiệu công việc phù hợp cho người lao động
có nhu cầu giải quyết việc làm hoặc tổ chức các phiên giao dịch việc làm kết
nối người lao động với doanh nghiệp có nhu cầu tuyển lao động.
- Triển khai có hiệu quả Luật người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng và Nghị
quyết số 07/2022/NQ - HĐND ngày 20/7/2022 của HĐND tỉnh. Qua đó, hỗ trợ
người lao động đi
làm việc ở nước
ngoài để nâng cao thu nhập, có cơ hội học
tập, tiếp cận với công nghệ tiên tiến, hiện đại,
nâng cao trình độ, kỹ năng và tác phong công nghiệp.
Nghiên cứu, đề xuất giải pháp phù hợp để khai thác, sử
dụng hiệu quả nguồn lao động đi làm việc ở nước ngoài hết hạn hợp đồng
trở về nước, đặc biệt là lao động từ các thị
trường Châu Âu, Nhật Bản, Hàn
Quốc.
3.3. Tăng cường tích lũy vốn và đóng góp của
khu vực tư nhân
3.3.1. Mục tiêu
Phát
triển lực lượng doanh nghiệp tư nhân hiện đại, tham gia sâu vào chuỗi giá trị trong nước, khu vực và toàn cầu. Mục tiêu
cụ thể như sau:
-
Phấn đấu mỗi năm có từ 1.000 1.500
doanh nghiệp thành lập mới.
-
Quy mô vốn đầu tư từ khu vực ngoài nhà nước trong giai đoạn 2021-2025 đạt khoảng 129 nghìn tỷ đồng; giai đoạn 2026-2030 đạt 220 nghìn tỷ đồng,
trong đó, tỷ trọng vốn của tổ chức doanh nghiệp tư nhân
trong tổng vốn đầu tư từ khu vực ngoài nhà nước đạt bình quân 35,5% trong giai đoạn 2021-2030.
Tỷ trọng bình quân vốn đầu tư từ khu vực ngoài nhà
nước trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội tỉnh
đạt 39,6% trong giai đoạn 2021-2030.
-
Thực hiện qua mạng 100% các thủ tục
đăng ký kinh doanh, thành lập doanh nghiệp, điều chỉnh
giấy phép, tăng giảm vốn, các thủ
tục, giấy tờ liên quan khác đến hoạt động doanh nghiệp.
-
Tăng cường chuyển đổi số trong các doanh nghiệp trên tất cả các ngành lĩnh vực để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp trên địa bàn. 100% doanh nghiệp
được nâng cao nhận thức về chuyển đổi số.
-
Tạo thuận lợi phát triển khu vực kinh
tế tư nhân thực sự trở thành một động
lực quan trọng của nền kinh tế. Thúc đẩy hình thành
và phát triển một số tập đoàn kinh tế tư nhân
lớn, tiềm lực mạnh, có công nghệ hiện đại,
năng lực quản trị tiên tiến, có khả
năng cạnh trạnh khu vực, quốc tế, dẫn dắt các chuỗi cung
ứng, chuỗi giá trị trong nước và quốc
tế.
3.3.2. Nhiệm vụ, giải pháp
-
Tập trung cụ thể hóa các nhiệm vụ,
giải pháp để triển khai Đề án phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn
2022-2025
-
Thực hiện quyết liệt và hiệu quả cải
cách thủ tục hành chính; rà soát các văn bản nhằm bãi bỏ các rào cản
hạn chế quyền tự do kinh doanh, cải thiện nâng cao chất
lượng môi trường kinh doanh, bảo đảm cạnh tranh lành
mạnh, bình đẳng, minh bạch; bảo đảm đầy đủ
quyền tự do kinh doanh, an toàn trong hoạt động kinh
doanh; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, đơn giản hóa thủ tục hành chính, giảm
chi phí tuân thủ các thủ tục nộp
thuế, phí của người dân và doanh nghiệp.
-
Đổi mới công tác xúc tiến đầu tư, thu
hút làn sóng đầu tư mới có chất lượng
nhằm phát triển công nghiệp, dịch vụ,
chế biến nông, lâm sản tỉnh có lợi
thế cạnh tranh. Tăng cường xúc tiến đầu tư thông
qua các doanh nghiệp đang hoạt động trên địa
bàn. Thực hiện tốt Quy chế phối hợp trong việc xây
dựng, quản lý và thực hiện Chương trình
xúc tiến đầu tư hằng năm. Công tác xúc tiến
đầu tư cần định hướng đầu tư tư nhân theo những lĩnh vực
ưu tiên của tỉnh nhằm phát huy lợi
thế và tăng cường năng lực cạnh tranh của tỉnh. Các
lĩnh vực ưu tiên bám sát theo định hướng Quy
hoạch tỉnh Vĩnh Phúc thời kỳ 2021-2030, định hướng đến năm
2050.
-
Hoàn thành bộ tiêu chí về đầu tư nhằm
tận dụng tối đa lợi thế của địa phương, thu hút các dự án
phù hợp với định hướng phát triển của tỉnh;
quy định một số chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và
vừa giai đoạn 2021 -2025.
-
Xây dựng chính sách khuyến khích,
hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp trên địa bàn tiếp cận và nhập khẩu
công nghệ từ nước ngoài, trong đó ưu tiên các dự án đầu tư về công nghiệp công
nghệ cao, công nghệ sạch và công nghiệp hỗ trợ nhằm tạo ra các sản phẩm có chất lượng, sức cạnh tranh, thân thiện với môi
trường.
-
Ưu tiên tập trung xây dựng và
hoàn thiện Đề án thành lập Trung tâm
Đổi mới sáng tạo và khởi
nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc, tạo điều kiện hỗ trợ, kết nối hoạt
động đổi mới sáng tạo trong cộng đồng và các cơ sở giáo dục đào tạo bậc đại
học, cao đẳng, dạy nghề, viện nghiên cứu, các
startup, doanh nghiệp, quỹ đầu tư trong nước và ngoài nước.
-
Phát huy vai trò của Bộ phận Chỉ đạo Hỗ trợ đầu tư và
Phát triển doanh nghiệp và Tổ công
tác trực tiếp giúp Chủ tịch UBND tỉnh tiếp
nhận và xử lý thông tin nhằm xử lý
kịp thời, nghiêm túc mọi phản ánh, kiến nghị của doanh nghiệp, nhà đầu tư, góp
phần tháo gỡ khó khăn trong quá trình
đầu tư, sản xuất kinh doanh trên địa bàn.
Xây dựng hình ảnh, thương hiệu của tỉnh thông
qua việc xây dựng những biểu trưng, ấn phẩm,
những đặc điểm riêng biệt của tỉnh Vĩnh Phúc so với các địa phương khác, tổ
chức xúc tiến, quảng bá các điểm đến
hấp dẫn, điều kiện hạ tầng và yếu tố con người Vĩnh Phúc
... với các bạn bè, doanh nghiệp trong và ngoài nước.
-
Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các
giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp về đào
tạo và thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao; hỗ trợ chi phí quảng cáo
trên các phương tiện thông tin đại chúng
của tỉnh đối với các dự án thuộc lĩnh vực tỉnh khuyến khích đầu tư trên địa bàn tỉnh; các chính sách hỗ
trợ liên quan đến đất đai của tỉnh cho doanh nghiệp như:
tạo quỹ đất sạch để thu hút đầu tư, hỗ trợ bồi thường,
cưỡng chế, giải phóng mặt bằng đối với các dự án trọng điểm; chính sách hỗ
trợ về quy hoạch như: hỗ trợ về chi phí lập hồ sơ đề xuất
dự án đầu tư trực tiếp, thủ tục giới thiệu địa điểm, quy
hoạch chi tiết 1/500, chi phí lập báo cáo đánh giá
tác động môi trường đối với các dự án thuộc lĩnh vực khuyến khích đầu tư trên địa bàn tỉnh.
-
Tổ chức phổ biến kiến thức về hội nhập, tạo mạng lưới chia
sẻ thông tin, kết nối cộng đồng doanh nghiệp nội địa và
doanh nghiệp nước ngoài trên địa bàn,
hỗ trợ doanh nghiệp nội địa tìm kiếm thị
trường xuất khẩu, tận dụng thời cơ từ các Hiệp định thương
mại tự do. Thường xuyên tập hợp các ý kiến phản ánh, nguyện vọng từ phía doanh nghiệp; Tham mưu tôn vinh các doanh nghiệp có
nhiều đóng góp vào phát triển kinh tế - xã
hội của tỉnh nhằm động viên, khuyến khích
doanh nghiệp; tổ chức các cuộc gặp mặt đối
thoại giữa doanh nghiệp với lãnh đạo tỉnh, chính
quyền địa phương. Xây dựng và duy trì
các diễn đàn doanh nghiệp riêng cho
doanh nghiệp trong nội bộ tỉnh và kết nối
với các doanh nghiệp lớn trong nước và nước ngoài. Tăng cường hiệu quả hoạt động của Cổng
thông tin đối thoại doanh nghiệp Chính quyền của tỉnh Vĩnh Phúc.
-
Xây dựng chính sách hỗ trợ tăng cường
năng lực đáp ứng các yêu cầu của thị
trường xuất khẩu cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đổi mới công tác xúc tiến thương mại và
phát triển thương hiệu theo chiều sâu vào từng
thị trường và mặt hàng cụ thể. Nâng
cao vai trò của các tổ chức hỗ trợ xuất
khẩu; xây dựng và phát triển hệ thống
các cơ quan đại diện, các văn phòng nghiên cứu phát triển thương mại và đầu
tư đại diện cho doanh nghiệp, ngành hàng ở nước ngoài…
-
Tăng cường liên kết, hợp tác
giữa doanh nghiệp, viện nghiên cứu, trường
đại học, trường cao đẳng dạy nghề và các tổ chức liên
quan với mục tiêu hỗ trợ doanh nghiệp đổi
mới công nghệ, chuẩn bị lực lượng lao động được đào
tạo đúng định hướng ngành nghề và đáp ứng yêu cầu của
doanh nghiệp.
-
Thành lập Quỹ nghiên cứu cải tiến quy
trình sản xuất do doanh nghiệp trích lập, đặc biệt là các doanh nghiệp nước ngoài
đầu tư trên địa bàn nhưng chưa được đánh giá cao về trình độ công
nghệ để khuyến khích doanh nghiệp sử dụng công
nghệ tiên tiến, công nghệ cao vào sản xuất.
-
Hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện thủ tục đăng ký sở hữu trí tuệ theo hướng đơn giản, nhanh chóng,
thuận lợi nhằm bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
hiệu lực, hiệu quả.
-
Thực hiện hiệu quả Đề án chuyển đổi
số quốc gia, phát triển kinh tế số, các chương
trình hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi số. Khuyến khích
doanh nghiệp tư nhân tham gia xây dựng hạ
tầng số và các hạ tầng khác phục vụ
chuyển đổi số quốc gia theo hình thức PPP trên địa bàn tỉnh.
-
Xây dựng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất 5 năm, hàng
năm để xây dựng các khu, cụm công nghiệp cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa thuê làm mặt
bằng sản xuất kinh doanh. Tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp cận tín
dụng, tiếp cận đất đai, giảm chi phí gia nhập
thị trường; giải quyết kịp thời các vướng mắc, kiến nghị
hợp lý của các nhà đầu tư. Tăng cường
kiểm tra, giám sát, đôn đốc các dự án
chậm tiến độ đã cam kết; xử lý nghiêm
các trường hợp vi phạm pháp luật.
-
Khuyến khích, hỗ trợ các hộ gia đình, hộ kinh doanh cá thể chuyển đổi sang hình thức doanh nghiệp. Đẩy mạnh
xã hội hoá các hoạt động sự nghiệp
như y tế, giáo dục, đào tạo nghề, văn
hóa, thể thao khoa học công nghệ...
Thành lập các quỹ như quỹ tín
dụng nhân dân ở những nơi có nhu cầu và đủ điều kiện, quỹ bảo hiểm sản xuất… thông
qua hệ thống các ngân hàng thương mại để huy
động vốn đầu tư tại chỗ để đáp ứng nhu cầu phát triển KT-XH của tỉnh.
-
Triển khai tốt Kế hoạch hoàn thiện và
nhân rộng mô hình HTX kiểu mới, hiệu quả trên
địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2021-2025; Quyết định của UBND tỉnh quy định một số nội dung hỗ trợ
cho các mô hình HTX thí điểm trên địa
bàn tỉnh Vĩnh Phúc. Tăng cường chuyển
đổi mô hình hoạt động các hợp tác
xã theo đúng Luật Hợp tác xã. Hỗ trợ, hướng
dẫn để phát triển kinh tế tập thể, kinh tế hộ hoạt động
hiệu quả. Hỗ trợ hình thành các mô hình sản xuất mới trong
nông nghiệp, gắn kết giữa người nông dân với doanh nghiệp.
-
Khuyến khích hình thành và phát triển
các mô hình kinh doanh mới hướng đến phát triển bền vững, như mô hình kinh doanh tuần hoàn,
kinh tế chia sẻ, kinh doanh vì người thu
nhập thấp,…
3.4. Đẩy mạnh đầu tư vào khoa học công nghệ,
thúc đẩy kinh tế số, chuyển đối số
3.4.1. Mục tiêu
Thúc
đẩy đổi mới công nghệ, tăng số lượng
doanh nghiệp thực hiện đổi mới công nghệ tăng trung bình
15%/năm.
Tốc độ đổi mới công nghệ bình quân toàn tỉnh giai đoạn 2021-2030 đạt 20%, riêng các lĩnh vực
ưu tiên đạt trên 20%.
Tổng vốn toàn xã hội đầu tư cho khoa học và
công nghệ chiếm tối thiểu 2% GRDP (theo Điều 49 Luật Khoa học và
công nghệ năm 2013) trong giai đoạn 2021-2030 và duy trì
trên 2% trong các năm tiếp theo.
Tăng
cường cơ chế tự chủ các tổ chức,
doanh nghiệp KH&CN. Đến năm 2030, 100% các tổ chức
KH&CN công lập chuyển đổi sang cơ chế tự chủ, tự chịu
trách nhiệm.
Hình
thành và phát triển các doanh nghiệp
KH&CN, kết hợp với xây dựng hạ tầng kỹ thuật và
phát triển nhân lực công nghệ cao.
Tham gia, kết nối vào mạng lưới khoa học công nghệ cả nước nhằm nâng cao năng lực; đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao tiến bộ KH&CN, tiến tới làm chủ và tạo ra công nghệ cao.
Ứng
dụng hiệu quả công nghệ cao trong các lĩnh vực sản xuất sản phẩm, phát triển kinh tế-xã
hội, hướng tới mục tiêu lấy KH&CN làm
nền tảng cho các ngành sản xuất trên
địa bàn tỉnh. Tỷ lệ kinh tế số trên
GRDP đạt tối thiểu 10%.
Phấn đấu đến năm 2030 tỷ lệ nhân lực KH&CN đạt 5-7 người/ 1 vạn dân.
3.4.2. Nhiệm vụ, giải pháp
a) Nâng cao năng lực, phát
triển tiềm lực khoa học và
công nghệ của tỉnh trên các
khía cạnh cơ bản: thể chế, chính
sách; cơ sở vật chất; nhân lực; vốn đầu tư; hợp tác.
* Thể chế, chính
sách
+
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng
cao nhận thức của các cấp, các ngành và toàn xã hội về vai trò nền tảng, động
lực, giải pháp đột phá để phát
triển kinh tế - xã hội của KH&CN.
+
Xây dựng đồng bộ cơ chế, chính sách hỗ
trợ phát triển khoa học công nghệ và
ĐMST, trong đó tập trung hoàn thành và triển
khai Chương trình chuyển giao, đổi mới công nghệ và phát triển thị trường công nghệ Vĩnh Phúc giai đoạn 2021-2025.
+
Xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù
vượt trội, thúc đẩy ứng dụng, chuyển giao công
nghệ; chú trọng tháo gỡ
các rào cản về hệ thống luật pháp; cho phép thực hiện cơ chế thử nghiệm chính sách mới, chấp
nhận rủi ro cho việc triển khai và ứng dụng công
nghệ mới, ĐMST, mô hình kinh doanh mới. Hình
thành và phát triển hệ thống ĐMST, lấy doanh nghiệp làm
trung tâm thúc đẩy hệ sinh thái khởi nghiệp
ĐMST. Đẩy nhanh xây dựng chính quyền
số.
* Cơ sở vật chất
+
Phát triển hệ thống mạng
lưới tổ chức KH&CN, các
trung tâm nghiên cứu ứng dụng tiến bộ KH&CN,
các tổ chức ứng dụng, dịch vụ khoa học kỹ thuật.
Đẩy mạnh quá trình tái cấu trức, nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức KH&CN công lập; phát triển
mạng lưới các tổ chức tư vấn, hỗ trợ, chuyển giao công nghệ đa dạng, đáp ứng
nhu cầu của doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa
và nhỏ, khu vực nông nghiệp,
nông thôn.
+
Triển khai mô hình Trung tâm ĐMST và khởi nghiệp tỉnh và các phân khu, tạo môi trường thuận lợi cho sự hình thành và phát triển các
hoạt động ĐMST và khởi nghiệp trên địa bàn tỉnh, tạo nền tảng và điều kiện cho các hoạt đông nghiên cứu phát triển (R&D), gắn với thử nghiệm, ứng
dụng và sản xuất. Xây dựng và
hoàn thiện các chủ trương, chính sách
hỗ trợ mạng lưới cơ sở hạ tầng ĐMST và khởi
nghiệp. Phát triển các cơ sở ươm tạo,
khu sản xuất sản phẩm ĐMST trong lĩnh vực công nghiệp CNC,
nông nghiệp CNC, du lịch dịch vụ và khởi nghiệp. Một số lĩnh vực ưu tiên phát triển của
Trung tâm ĐMST và khởi nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc bao gồm: Công nghiệp CNC, nông nghiệp CNC, ứng dụng công nghệ số và dữ liệu số cho logistics, môi trường, thương mại
điện tử, du lịch, dịch vụ và chăm sóc sức khoẻ, phòng
chống dịch bệnh, …
+
Đẩy mạnh xây dựng các cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ hoạt động KH&CN, đặc biệt đối với các
lĩnh vực KH&CN ưu tiên của tỉnh như: hệ
thống phòng thí nghiệm, hệ thống thông tin, tư liệu KH&CN, …
+
Tăng cường năng lực, cơ sở vật chất hình thành mạng lưới tổ chức KH&CN, doanh nghiệp KH&CN, hạ tầng KH&CN.
Hình thành các cơ sở ươm tạo công nghệ,
cơ sở ươm tạo doanh nghiệp KH&CN.
* Nhân lực
+
Tăng cường phát triển nguồn nhân lực KH&CN, tăng cường công tác bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ KH&CN hiện có,
kết hợp với xây dựng kế hoạch bồi dưỡng, đào
tạo mới nguồn nhân lực KH&CN để đáp
ứng tốt cho các nhu cầu nhân lực phục vụ dự án ĐMST và khởi nghiệp của tỉnh
trong ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
+
Kết hợp hiệu quả giữa đào tạo, đào
tạo lại với sử dụng và trọng dụng nhân
tài. Xây dựng kế hoạch và chính sách khuyến
khích, trọng dụng, thu hút cán bộ
KH&CN, đặc biệt là trong các lĩnh vực công nghệ cao, các lĩnh vực là thế
mạnh cũng như trọng tâm phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh trong và ngoài nước về làm việc tại Vĩnh Phúc; thực hiện chế độ đãi ngộ hợp lý đối với cán bộ khoa
học và công nghệ trẻ, tài năng.
+
Hình thành các nhóm chuyên gia nghiên cứu, tư vấn trong các
lĩnh vực Công nghiệp, Công nghệ sinh học và môi trường, công nghệ thông tin, Y dược,....
* Vốn đầu tư
+
Chú trọng đầu tư ngân sách nhà nước cho hoạt động KH&CN. Bảo đảm đầu tư ít nhất 2%
trong tổng chi NSNN cho KH&CN trong giai đoạn
2021-2030.
+
Tăng cường xã hội hóa, huy động mọi nguồn lực cho phát triển khoa học, công
nghệ và ĐMST, nhất là đầu
tư từ doanh nghiệp. Chú trọng phát triển năng lực ĐMST của doanh nghiệp, lấy doanh nghiệp làm trung
tâm, là động lực chính của tăng trưởng kinh
tế, tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả và
sức cạnh tranh. Tập trung vào nâng cao năng lực hấp thụ, làm chủ công nghệ
mới, tham gia các chuỗi sản xuất, chuỗi giá trị gia tăng cao, nhất là doanh nghiệp nhỏ và
vừa.
+
Xây dựng cơ chế chính sách khuyến khích
các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp
tư nhân, ứng dụng công nghệ, đổi mới
công nghệ. Hỗ trợ doanh nghiệp trích lập và sử dụng quỹ khoa học và công nghệ phục vụ đổi mới công nghệ, ĐMST.
+
Tăng cường cơ chế tự chủ các tổ chức,
doanh nghiệp KH&CN.
* Tăng cường hợp tác
quốc tế; hợp tác trong nước trong hoạt động nghiên cứu khoa học và chuyển
giao công nghệ
+
Tăng cường hợp tác, liên danh, liên kết
trong nước trong các hoạt động nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao các sản phẩm, kết quả
KH&CN: i) giữa các tổ chức KH&CN trong nội bộ tỉnh
Vĩnh Phúc; ii) giữa các tổ chức
KH&CN của tỉnh Vĩnh Phúc với các tổ chức KH&CN thuộc các tỉnh, thành khác
trong cả nước; và iii) giữa các tổ chức KH&CN của tỉnh Vĩnh Phúc với các
doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong nước.
Tăng cường gắn kết các tổ chức KH&CN với
các cơ sở đào tạo và tổ chức ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học
và phát triển công nghệ (người
dân và doanh nghiệp).
+
Tăng cường hợp tác quốc tế trong các
hoạt động nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao
các sản phẩm, kết quả KH&CN, thu hút các dự án đầu tư về nông nghiệp công
nghệ cao, công nghiệp công nghệ cao, phát triển công nghệ
mới, các thành tựu của cách mạng công
nghiệp 4.0; hợp tác đào tạo nguồn nhân
lực chất lượng cao về chuyên môn nghiệp vụ
trong các ngành nghề, lĩnh vực là thế
mạnh, ưu tiên phát triển của tỉnh, cũng như hợp tác
tăng cường năng lực tin học, ngoại ngữ cho cán bộ thuộc các tổ chức KH&CN công lập của tỉnh.
+
Xây dựng danh mục dự án khoa học công
nghệ của tỉnh để kêu gọi đầu tư tư nhân
và nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực khoa học và chuyển giao công nghệ.
+
Từng bước hình thành và phát triển
Mạng lưới tổ chức KH&CN; Thị trường KH&CN, để KH&CN và ĐMST
thực sự làm nền tảng và động lực cho chuyển đổi mô hình tăng trưởng của
tỉnh.
b) Đẩy mạnh hoạt động ứng dụng, nghiên
cứu, tiếp thu chuyển giao tiến bộ KH&CN; tăng
cường xác lập quyền sở hữu trí
tuệ; đổi mới công nghệ, ứng dụng KH&CN nâng cao năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm hàng
hóa chủ lực, thúc đẩy phát triển kinh tế
- xã hội
b.1) Đẩy mạnh các
hoạt động nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và hấp thụ tiến bộ KH&CN, các thành tựu KH&CN
+
Đề xuất các nhiệm vụ nghiên
cứu KH&CN thiết yếu, kết chặt
chẽ khoa học xã hội và nhân văn với
khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật
và công nghệ trong quá trình triển khai các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội
của tỉnh giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến 2030 theo hướng phát
triển nhanh, bền vững; lựa chọn ngành, lĩnh vực thế mạnh của tỉnh, từng bước tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4.
+
Xây dựng cơ chế hỗ trợ cho các tổ
chức KH&CN nghiên cứu và ứng dụng
các tiến bộ kỹ thuật có khả năng tạo
ra các sản phẩm KH&CN có tính cạnh
tranh trên thị trường. Tập trung nâng cao năng lực hấp thụ, đổi mới công nghệ của doanh nghiệp. Phát triển doanh
nghiệp KH&CN, doanh nghiệp
công nghệ cao,..
+ Phát triển
KH&CN theo hướng đóng góp tích cực vào
nâng cao năng suất, chất lượng hàng hóa và dịch vụ, cải thiện năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và nền
kinh tế toàn tỉnh. Tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu,
ứng dụng KH&CN vào thực tiễn sản xuất và đời
sống. Khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ;
nghiên cứu, ứng dụng công
nghệ mới; đưa công nghệ
cao, công nghệ tiết kiệm năng lượng, thân thiện
với môi trường vào sản xuất - kinh doanh, đặc biệt là các ngành công nghiệp bảo quản, chế biến nông sản thực phẩm, cơ khí, điện
tử, sản xuất vật liệu xây dựng.
+
Đẩy mạnh công tác nghiên cứu ứng dụng
công nghệ cao vào sản xuất phù
hợp với những đặc thù và lợi thế riêng
của tỉnh Vĩnh Phúc. Chú trọng phát
triển các sản phẩm Công nghiệp, dịch vụ chủ lực tỉnh gắn với chế biến đáp ứng
nhu cầu thị trường và thích ứng biến đổi khí hậu. Gắn KH&CN với sản xuất kinh doanh để nâng cao năng suất, chất lượng, đạt tiêu chuẩn Quốc tế hướng tới
mục tiêu xuất khẩu và tham gia chuỗi
giá trị toàn cầu.
-
Đẩy mạnh hoạt động thu hút đầu tư các
dự án sản xuất các sản
phẩm mới, sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao và các sản phẩm chủ lực của tỉnh: Cơ khí
phục vụ công nghiệp ô tô, cơ khí nông
nghiệp; linh phụ kiện điện tử - tin học;… Xây dựng cơ chế khuyến khích, đặc biệt đẩy mạnh liên
kết, liên doanh, ứng dụng tiến bộ khoa học
kỹ thuật thực hiện các dự án đầu tư
sản xuất nông nghiệp theo quy mô công nghiệp, tạo ra các sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao, chất lượng sạch.
+
Đẩy mạnh hoạt động của sàn giao dịch
công nghệ và thiết bị trực tuyến Vĩnh
Phúc để thu hút ngày càng nhiều doanh
nghiệp, tổ chức, cá nhân thực hiện các giao dịch mua, bán công nghệ, thiết bị, …
+
Tăng cường phối hợp giữa các sở, ngành
nhằm nâng cao hiệu quả công tác chỉ đạo, điều hành triển khai thực hiện các
nhiệm vụ, đặc biệt là triển khai các
Chương trình nghiên cứu ứng dụng KH&CN, các dự án đầu tư tăng cường tiềm lực KH&CN trên
địa bàn tỉnh. Từng bước tăng cường, khuyến
khích và đẩy mạnh xã hội hoá
hoạt động KH&CN thông qua các chương trình, đề tài, dự án để huy động mọi
nguồn lực đầu tư cho KH&CN, thúc đẩy kinh tế-xã
hội của tỉnh phát triển.
b.2) Thúc đẩy các
hoạt động khởi nghiệp, đổi mới sáng
tạo
+ Tăng cường
tuyên truyền về ĐMST; xây
dựng và vận hành Cổng
thông tin khởi nghiệp ĐMST tỉnh; tổ chức sự kiện ngày hội
khởi nghiệp ĐMST; phát triển hoạt động đào tạo, nâng cao năng lực và dịch vụ cho khởi nghiệp ĐMST.
+ Thường xuyên tổ chức các hoạt động đối thoại chính sách để nắm bắt kịp thời các nguyện vọng, kỳ vọng và
đề xuất của các nhà ĐMST và khởi nghiệp để có
những điều chỉnh chính sách kịp thời, cần
thiết và phù hợp. Cập nhật thường xuyên và đầy đủ những chủ trương, chính sách mới cho các
nhà ĐMST, nhằm hỗ trợ các hoạt động ĐMST và
khởi nghiệp một cách hiệu quả.
+
Xây dựng mô hình và thành lập Trung tâm Đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp
tỉnh Vĩnh Phúc. Hỗ trợ, kết nối hoạt động ĐMST trong cộng đồng
và các cơ sở giáo dục đào tạo bậc đại
học, cao đẳng, dạy nghề, viện
nghiên cứu, các startup, doanh nghiệp,
quỹ đầu tư trong nước và ngoài nước.
+
Chú trọng khai thác kịp thời, có
hiệu quả những động lực mới cho tăng trưởng dựa trên
KH&CN và ĐMST, ưu tiên thúc đẩy ứng dụng, chuyển giao công
nghệ; nghiên cứu cơ chế, chính sách đặc thù, khuyến khích lấy
doanh nghiệp là trung tâm nghiên cứu, phát triển và ứng dụng, chuyển giao công nghệ.
+
Chú trọng ứng dụng công nghệ số. Hình
thành năng lực sản xuất mới, tăng cường năng lực tự chủ và
khả năng thích ứng với những biến động của
nền kinh tế.
+
Hằng năm tổ chức đào tạo, bồi dưỡng
về khởi nghiệp ĐMST cho các đối tượng khởi nghiệp trên
địa bàn tỉnh, cộng đồng khởi nghiệp ĐMST,
bồi dưỡng nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp các Hợp tác xã của tỉnh.
+
Tổ chức cuộc thi về khởi nghiệp ĐMST, sự kiện Ngày
hội khởi nghiệp ĐMST Vĩnh Phúc 02 năm/lần;
Hỗ trợ giới thiệu các doanh nghiệp khởi nghiệp tiềm năng
tại tỉnh tham dự TECHFEST quốc gia. Tổ chức hội nghị, hội thảo, diễn đàn,
sự kiện khởi nghiệp ĐMST, sự kiện kết nối hệ sinh thái khởi nghiệp ĐMST của tỉnh; tham gia kết nối với hệ sinh thái khởi nghiệp ĐMST quốc gia, các tỉnh, thành
khác; tìm kiếm, giới thiệu và kết nối đối tác
kinh doanh, nhà đầu tư cho dự án, doanh nghiệp
khởi nghiệp ĐMST.
+
Hỗ trợ ươm tạo, khởi nghiệp ĐMST đối với các cá
nhân, nhóm cá nhân có dự án khởi nghiệp,
doanh nghiệp khởi nghiệp có khả năng tăng trưởng nhanh dựa
trên khai thác tài sản trí tuệ, công
nghệ, mô hình kinh doanh mới.
b.3) Tăng cường công tác Tiêu chuẩn
Đo lường Chất lượng
+
Tăng cường công tác kiểm tra, giám
sát, áp dụng và duy trì cải tiến hệ thống
TCVN ISO 9001:2015 vào hoạt động của các cơ quan
hành chính nhà nước.
+
Tăng cường công tác kiểm tra, phối
hợp thanh tra, kiểm tra về đo lường chất lượng sản phẩm hàng hoá một cách kịp thời, đảm bảo đo lường thống nhất, chính
xác, hạn chế hàng giả, hàng kém chất lượng, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
+
Thực hiện tốt công tác thông tin, tuyên truyền về công tác tiêu chuẩn đo lường chất lượng,
hướng dẫn các tổ chức, cá nhân và doanh nghiệp xây dựng, công bố tiêu
chuẩn cơ sở, áp dụng hệ thống tiêu
chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật tiên tiến nhằm nâng
cao chất lượng sản phẩm, hàng hoá, tăng cường
tính chất cạnh tranh trên thị trường
trong và ngoài nước.
b.4) Tăng cường quản lý
công nghệ và phát triển thị trường công nghệ
+
Thường xuyên tổ chức khảo sát,
điều tra đánh giá trình độ công nghệ và phát triển thị trường KH&CN trên địa bàn tỉnh. Tổ chức hướng dẫn, kiểm tra hoạt động
của các trung tâm giao dịch công nghệ,
sàn giao dịch công nghệ, các tổ chức trung gian của thị trường KH&CN, doanh nghiệp KH&CN trên
địa bàn tỉnh.
+
Hướng dẫn các tổ chức, cá nhân
trong hoạt động ươm tạo công nghệ, xây
dựng giải pháp hỗ trợ đổi mới công
nghệ.
+
Hướng dẫn, quản lý các hoạt động chuyên
giao công nghệ trên địa bàn, bao gồm: chuyển giao công nghệ, đánh giá, định giá, giám định công nghệ,
môi giới và tư vấn chuyển giao công
nghệ, các dịch vụ chuyển giao công
nghệ khác theo quy định.
+
Thực hiện thẩm định công nghệ cho
100% các dự án đầu tư vào tỉnh để lựa chọn công nghệ hiện đại, tiên tiến đầu tư vào tỉnh, nhất là các ngành công
nghiệp ưu tiên của tỉnh như: ô tô, xe
máy, vật liệu xây dựng, điện điện tử, … đồng
thời loại bỏ các dự án sử dụng các
công nghệ cũ lạc hậu, tiêu hao nhiều nguyên,
nhiên liệu, năng lượng, gây ô nhiễm môi
trường;
+ Quản lý việc
khai báo, thống kê các nguồn phóng
xạ, thiết bị bức xạ, chất thải phóng xạ
trên địa bàn theo quy
định của pháp luật;
tổ chức thực hiện việc kiểm soát và xử lý sự cố bức xạ, sự cố hạt nhân trên địa
bàn.
b.5) Tăng cường quản lý
các hoạt động sáng kiến, sáng chế, tài
sản trí tuệ
+
Thường xuyên rà soát, sửa đổi, bổ sung
quy định quản lý hoạt động sáng kiến
trên địa bàn tỉnh. Xây dựng kế hoạch, tiếp
nhận hồ sơ đề nghị công nhận sáng kiến
của các cá nhân, tổ chức, tiến hành phân loại hồ sơ, thẩm định, đánh giá sáng kiến cấp cơ sở,
cấp tỉnh nghiêm túc, chặt chẽ, minh bạch, đúng quy
định. Phối hợp với các cấp, ngành triển khai nhân rộng và đánh giá hiệu quả các sáng kiến có khả
năng ứng dụng thực tiễn.
+
Tăng cường công tác bảo hộ và thực thi quyền sở hữu
trí tuệ. Hướng dẫn hoàn thiện các thủ tục cho 100% các tổ chức, cá nhân có nhu
cầu đăng ký xác lập quyền sở hữu công nghiệp và cung cấp, tra cứu thông tin về sở hữu
trí tuệ; tham mưu giúp Hội đồng sáng kiến tỉnh xem xét, chứng nhận sáng
kiến.
+
Triển khai các chương trình, kế hoạch
của tỉnh về thực hiện Chương trình hỗ trợ phát triển tài sản trí tuệ. Tổ chức các
lớp tập huấn, đào tạo về đăng ký khai
thác nhãn hiệu, sáng chế và sở hữu công nghiệp cho các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh; thực
hiện quản trị tài sản trí tuệ, đăng ký
khai thác nhãn hiệu cho sản phẩm đặc trưng của các làng
nghề, địa phương cho các hộ kinh doanh, hợp
tác xã, làng nghề trên địa bàn
tỉnh.
+
Xây dựng và đăng ký nhãn hiệu tập
thể, nhãn hiệu hàng hoá cho các sản
phẩm đặc trưng, chủ lực của các địa phương trên địa bàn tỉnh.
+
Hỗ trợ quản lý và phát triển tài
sản trí tuệ đối với các sản phẩm đặc trưng của các địa phương mang địa danh
đã được bảo hộ, chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu chứng nhận, nhãn hiệu tập thể.
+
Đẩy mạnh hoạt động thông tin, thống kê KH&CN
và hoạt động sở hữu
trí tuệ để đảm bảo quyền lợi
của người tiêu dùng và nhà sản xuất trên địa bàn. Xây dựng
chương trình hành động với các
chỉ tiêu cụ thể để ứng dụng phát triển khoa học,
công nghệ và đổi mới sáng tạo
trong mọi mặt hoạt động ở các cấp, các nghành của tỉnh.
c) Thúc đẩy kinh tế số, chuyển đổi số
-
Triển khai thực hiện các nghị quyết của
Trung ương, của tỉnh về chuyển đổi số, ứng dụng
thành tựu KH&CN vào phát triển kinh tế - xã hội
của tỉnh như: Xây dựng chính quyền điện tử, tiến tới chính quyền số (trước mắt tập trung
vào việc giải quyết các TTHC trực
tuyến), xây dựng thành phố thông minh, quản lý xã
hội; thanh toán không dùng tiền mặt
(trước mắt triển khai trong một số lĩnh vực như y tế, giáo dục,
nộp thuế); quan trắc môi trường tự động, hồ
sơ quản lý sức khỏe điện tử, ứng dụng trong công tác quản lý
nhà nước, xây dựng thành phố
thông minh.
-
Nâng cao nhận thức về
phát triển nền kinh tế số thông qua tăng cường các hoạt động tuyên truyền, phổ biến về sự cần thiết,
lợi ích và vai trò của kinh tế số trong phát triển kinh tế-xã hội, để các DN hoạt động trên địa bàn có sự
chuẩn bị phù hợp, kịp thời nắm bắt
cơ hội, cũng như bảo đảm tính
cạnh tranh quốc tế trong nền kinh tế số toàn cầu; đẩy
mạnh đầu tư cho hạ tầng công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực khi tham gia
vào nền kinh tế số.
-
Xây dựng chiến lược về chuyển đổi số, kinh tế số của tỉnh, khuyến
khích cái mới, tạo môi trường, điều kiện
và cơ hội cho cái mới ra đời và phát triển. Chủ động tham gia vào
các cơ chế, chính sách để phát triển kinh tế số, chính sách về dữ liệu, quản trị dữ
liệu, tạo thuận lợi cho việc kết nối, chia sẻ và khai thác dữ liệu bảo đảm an toàn, an ninh mạng, tiến tới kết
nối với các tỉnh và toàn quốc; triển
khai hạ tầng di động 5G trên toàn tỉnh, Internet băng thông
rộng phủ sóng 100% đến cấp xã. Đề xuất cơ chế, chính sách khuyến khích
doanh nghiệp tư nhân có đủ năng lực tham gia
xây dựng hạ tầng viễn thông và các hạ
tầng khác cho chuyển đổi số, cho quá trình phát triển mô hình đô thị thông minh. Hoàn thiện các quy định, cơ chế, chính sách về quản trị dữ liệu, tạo thuận lợi cho việc tạo dựng, kết nối, chia sẻ và
khai thác dữ liệu đảm bảo an toàn, an ninh mạng
tiến đến kết nối trong nước và khu vực ASEAN.
+ Tăng cường
phối hợp giữa các Sở, ngành để nghiên
cứu, đề xuất giải pháp chính sách tập trung phát triển kinh tế số trong các ngành ưu tiên có mức độ sẵn sàng
cao như: Công nghiệp công nghệ
thông tin, điện tử - viễn thông;
an toàn, an ninh mạng; công nghiệp
chế tạo thông minh; tài chính - ngân hàng
số; thương mại điện tử; nông nghiệp
số; du lịch số; y tế kết nối số; giáo dục và
đào tạo thông minh.
-
Nghiên cứu thay đổi nội dung, phương pháp đào tạo nhằm xây dựng
nguồn nhân lực có khả năng tiếp nhận các xu thế
công nghệ sản xuất mới; tập trung vào thúc đẩy đào tạo về
khoa học, công nghệ, kỹ thuật
và toán học, ngoại ngữ, tin học; xây dựng chương trình đào tạo, đào tạo lại kiến thức nghề nghiệp;... Có chính sách kết nối với cộng đồng khoa học công nghệ trong nước với nước ngoài, đặc biệt
với cộng đồng
người Việt Nam ở nước ngoài.
-
Chú trọng đầu tư cơ sở hạ tầng số, trong đó nhanh chóng phát triển
dịch vụ internet di động 5G, đầu
tư mở rộng mạng lưới cáp quang
tốc độ cao và tăng băng thông internet quốc tế;
chú trọng công tác bảo vệ an ninh kinh tế,
an ninh thông tin, an ninh chính trị, an ninh văn hoá
và an ninh quốc gia nói chung qua không gian mạng
- Tập trung phát triển sản phẩm nội dung
số, truyền thông số, quảng cáo số. Phát triển công nghiệp
sáng tạo, hệ sinh thái nội dung số Việt Nam đa dạng,
hấp dẫn.
3.5. Phát huy vai trò của khu vực doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nghiên cứu tăng cường liên kết, kết nối doanh
nghiệp FDI và trong nước
3.5.1. Mục tiêu
Phát
huy vai trò của doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài trong nâng cấp chuỗi giá trị, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, gắn với liên
kết và phát huy nội lực của nền kinh tế
tỉnh. Một số mục tiêu cụ thể:
-
Thu hút thêm vốn đầu tư từ khu vực ngoài nhà nước và vốn đầu tư nước ngoài nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển
kinh tế của Vĩnh Phúc. Thu hút trên 47 nghìn tỷ đồng vốn
của tổ chức doanh nghiệp tư nhân và trên 142 nghìn tỷ đồng
vốn khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài giai đoạn
2021-2025, 76 nghìn tỷ đồng vốn của tổ chức doanh nghiệp
tư nhân và trên 143 nghìn tỷ đồng vốn khu vực đầu tư trực
tiếp nước ngoài giai đoạn 2026-2030.
-
Tăng tỉ lệ doanh nghiệp sử dụng công nghệ tiên tiến, quản trị hiện đại, bảo vệ môi
trường, hướng đến công nghệ cao.
3.5.2. Nhiệm vụ, giải pháp:
-
Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư,
nâng cao năng lực cạnh tranh của tỉnh; tạo lợi thế trong
việc thu hút nguồn đầu tư trực tiếp và gián tiếp từ nước ngoài. Tiếp tục thực hiện cải cách
thủ tục hành chính.
-
Tổ chức triển khai Kế hoạch 194/KH-UBND ngày
26/7/2022 về việc thực hiện Chiến lược hợp tác đầu tư nước ngoài giai đoạn 2021 - 2030 trên
địa bàn tỉnh; Đề án hỗ
trợ kết nối, liên kết, hợp tác giữa
doanh nghiệp của tỉnh với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài từng bước tham gia chuỗi cung
ứng toàn cầu; Đề án cải thiện môi
trường đầu tư, nâng cao chỉ số năng lực cạnh
tranh cấp tỉnh (PCI) giai đoạn 2021-2025.
-
Hiện đại hóa công tác xúc tiến đầu tư
theo hướng hiệu quả, có trọng tâm, trọng
điểm vào các đối tác tiềm năng; thu hút
nhà đầu tư chiến lược có năng lực kinh
nghiệm, tài chính, các tập đoàn xuyên quốc gia có công nghệ cao, công nghệ nguồn, công nghệ xanh thân thiện với môi trường. Các nội
dung cần hiện đại hóa - có thể bao gồm: phạm vi các
hoạt động xúc tiến đầu tư, cách tiếp cận, công cụ và các chỉ số
hiệu quả FDI được sử dụng.
-
Chủ động trong xây dựng chiến lược ngành
rõ ràng và định hướng xúc tiến FDI góp
phần chuyển dịch cơ cấu đầu tư của địa phương. Trong đó, cần định hướng tăng cường thu hút FDI quy mô lớn và
các ngành công nghệ cao, công nghệ nguồn, công
nghệ mới, tiên tiến, thân thiện với môi trường; có kết nối
giữa doanh nghiệp trong nước trên địa bàn tỉnh. Ưu tiên các dự án trong các lĩnh vực công nghiệp điện tử, viễn thông, công
nghiệp cơ khí, vật liệu xây dựng, vật liệu mới và công nghiệp hỗ trợ của ngành
sản xuất, lắp ráp ô tô, xe máy, điện tử; các
dự án phát triển hạ tầng khu công
nghiệp, dự án du lịch dịch vụ, trường đại
học tầm cỡ quốc tế và các dự án đầu
tư vào ngành dịch vụ như: Tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, y tế, giáo dục-đào tạo,
vận tải, logistics. Mở rộng đối tác thu hút FDI như các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ, các
doanh nghiệp nhỏ và vừa của Nhật Bản, Hàn
Quốc và hướng tới các đối
tác tiềm năng đến từ châu Âu và Hoa Kỳ.
-
Thực hiện tốt công tác quy hoạch và
tập trung hoàn thiện kết cấu hạ tầng để phục
vụ thu hút đầu tư. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tạo tính minh bạch, lành mạnh, tạo điều kiện thuận lợi nhất để các
nhà đầu tư đến đầu tư vào Vĩnh Phúc. Tiếp
tục thực hiện có hiệu quả các hỗ trợ
xây dựng hạ tầng kỹ thuật trong và ngoài hàng rào
khu công nghiệp theo Nghị quyết số 57/2016/NQ-HĐND ngày
12/12/2016 của Hội đồng Nhân dân tỉnh Vĩnh
Phúc.
-
Xây dựng bộ tiêu chí đánh giá dự án
đầu tư trực tiếp nước ngoài để có lựa chọn các dự án đầu tư phù
hợp với Quy hoạch tỉnh Vĩnh Phúc thời kỳ
2021-2030, định hướng đến năm 2050. Trong đó, ưu tiên các tiêu chí lựa chọn đảm bảo tính phù hợp với ngành ưu
tiên, giảm thiểu các tác động tiêu cực đến xã hội và môi trường trên
địa bàn tỉnh.
-
Tăng cường thêm các cam kết của nhà
đầu tư nước ngoài đầu tư trên địa bàn tỉnh như tăng tỷ lệ nội địa hóa, đảm bảo về môi trường, trình độ
công nghệ trung bình trở lên...
thông qua việc hoàn thiện các cơ chế, chính sách chuyển giao công nghệ tiên tiến và quản trị hiện
đại, thúc đẩy liên kết sản xuất theo
chuỗi giá trị với doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân
trong tỉnh.
-
Tiếp tục các chính sách ưu đãi về
thuế, đất đai cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
nhưng xây dựng các chế tài phạt nặng nếu các cam kết bị vi phạm. Từng bước nâng
cao các tiêu chuẩn, kỹ thuật về sản phẩm, bảo vệ môi trường, tài nguyên, tiết kiệm năng lượng. Không
gia hạn hoạt động đối với dự án công nghệ
lạc hậu, thâm dụng tài nguyên và gây ô nhiễm môi trường.
-
Khuyến khích doanh nghiệp đầu tư nước
ngoài tham gia đào tạo, nâng cao kỹ
năng, trình độ cho lao động trên địa
bàn tỉnh.
-
Xây dựng cơ chế, chính sách huy động
nguồn thu; đa dạng hóa các hình thức huy động vốn. Tăng
cường huy động vốn đầu tư theo cơ chế công tư kết hợp
(PPP) dưới nhiều hình thức. Nghiên cứu
xây dựng danh mục các công trình đầu
tư xây dựng kết cấu hạ tầng theo hình thức PPP cho từng giai đoạn để thu hút nhà đầu tư,
coi đây là giải pháp đột phá để hoàn thiện cơ sở vật chất, hạ tầng phục vụ phát
triển kinh tế - xã hội và hướng tới mục tiêu xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ,
hiện đại. Các dự án PPP phải được
nghiên cứu, chuẩn bị kỹ lưỡng; công tác chuẩn bị hồ sơ và công việc sơ bộ cần được ưu tiên
và tập trung thực hiện trước khi bắt đầu các cuộc thảo luận PPP với các nhà đầu tư tiềm năng.
Đồng thời, tăng cường huy động nguồn vốn đầu tư từ doanh nghiệp, đón các
làn sóng chuyển dịch đầu tư thời kỳ hậu Covid-19; Kiều hối và
huy động đầu tư từ bên ngoài.
3.6. Sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư công
3.6.1. Mục tiêu
Thực
hiện đúng tiến độ và có hiệu quả kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 đã được HĐND tỉnh ban hành tại
các Nghị quyết số 56/NQ-HĐND ngày 21/12/2021, Nghị quyết
số 01/NQ-HĐND ngày 24/6/2022, Nghị quyết số 12/NQ-HĐND ngày 20/7/2022… nhằm nâng cao hiệu quả và
tác động lan tỏa của nguồn lực
đầu tư công trong thu hút tối đa các
nguồn lực cho đầu tư hệ thống kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thiết yếu, cho đầu tư phát triển
kinh tế - xã hội tỉnh, góp phần thực hiện thành công các mục tiêu, chỉ
tiêu của Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc khóa XVII nhiệm kỳ 2020-2025; Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 05 năm giai đoạn
2021 - 2025; Quy hoạch tỉnh Vĩnh Phúc thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn 2050 và các quy hoạch ngành, lĩnh
vực cấp quốc gia được phê duyệt.
Một số mục tiêu cụ thể như sau:
-
Ưu tiên nguồn lực đầu tư công tập
trung vào các dự án trọng điểm để hoàn
thiện hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội,
hạ tầng cho kinh tế số và thúc đẩy đổi mới sáng tạo.
-
Tăng cường hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công trong
trung hạn, tránh lãng phí, thất thoát
và đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công.
-
Thúc đẩy tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công
cao trên địa bàn tỉnh; gắn trách nhiệm người đứng đầu các đơn vị với tỷ lệ giải ngân
vốn đầu tư công cao như là một tiêu
chí để đánh giá chất lượng hoàn thành
công việc hàng năm.
-
Huy động trên 35 nghìn tỷ đồng vốn
khu vực Nhà nước cho phát triển kết
cấu hạ tầng của tỉnh giai đoạn 2021-2025, tăng lên trên 58 nghìn tỷ đồng giaii đoạn 2026-2030.
3.6.2. Nhiệm vụ, giải pháp
-
Đa dạng hóa nguồn thu ngân
sách và bồi dưỡng nguồn thu bền vững cho ngân sách. Đảm bảo thực hiện đúng Luật ngân sách nhà nước để huy động tối đa nguồn thu, tránh thất thoát.
-
Tiếp tục tranh thủ sự hỗ trợ của Chính phủ, các Bộ, ngành Trung ương, các nhà tài trợ để thu hút các nguồn vốn từ ngân sách
trung ương, nguồn vốn hỗ trợ ODA và các nguồn
vốn hỗ trợ khác để đầu tư các dự án
lớn, ưu tiên hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ
tầng kinh tế - xã hội (kết cấu hạ tầng giao thông,
thủy lợi), hạ tầng cho kinh tế số và thúc đẩy
đổi mới sáng tạo. Tăng cường phối hợp với các Bộ, ngành ngay từ khâu xây dựng
quy hoạch và kế hoạch, đảm bảo các công trình, dự án trọng điểm của tỉnh được thể hiện đầy đủ
trong quy hoạch, kế hoạch đầu tư của Bộ ngành, nhằm đảo
bảo vốn cho đầu tư phát triển.
-
Rà soát lại tất cả các dự án đầu tư, kiểm soát chặt chẽ phạm vi, quy mô của từng dự án đầu tư theo đúng mục tiêu, lĩnh vực và chương trình đã được phê duyệt. Thực hiện đúng các nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ vốn đầu tư công nguồn ngân sách nhà nước tỉnh giai đoạn 2021-2025 theo tinh thần Nghị quyết số 38/NQ-HĐND ngày
14/12/2020 của HĐND tỉnh. Xem xét ngừng khởi
công hoặc giãn tiến độ đầu tư đối với
các dự án chưa thật sự cấp thiết, không
giải phóng được mặt bằng và các dự án không có khả năng bố trí vốn đảm bảo theo các nguyên tắc; các dự án chuyển tiếp phải dừng, giãn tiến độ cần bố trí vốn hoàn thành đến điểm dừng kỹ thuật để đưa phần công trình hoàn thành vào sử dụng và phát huy hiệu quả vốn đã đầu tư.
-
Xây dựng và thực hiện tốt kế hoạch
đầu tư công trung hạn và hàng năm. Đổi
mới cơ bản cơ chế phân bổ vốn và quản
lý sử dụng vốn, nâng cao hiệu quả đầu
tư nhà nước về đầu tư công, kiên quyết
khắc phục đầu tư dàn trải, phân tán. Áp dụng quy trình hợp lý, chặt
chẽ và có hiệu quả về thẩm định, lựa chọn, phân bổ vốn đầu tư và thực hiện dự án đầu tư nhà nước, theo đó chỉ
lựa chọn những dự án đáp ứng tiêu chí về hiệu quả kinh tế - xã hội; tập trung bố trí
đủ vốn đầu tư thực hiện các dự án trọng tâm, trọng điểm, dự án cấp
bách, dự án có tính chất liên
kết vùng, là động lực cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh; không sử dụng vốn NSNN để đầu tư mới vào các dự án
thuộc ngành, lĩnh vực mà khu vực tư nhân có khả năng và sẵn
sàng đầu tư kinh doanh như các dịch
vụ thương mại, khách sạn, nhà hàng, kinh doanh bất động sản, lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng và
một số ngành, lĩnh vực khác. Đồng thời, tăng cường công tác theo dõi, đánh giá, giám sát, kiểm tra, thanh tra việc thực hiện kế hoạch đầu tư công hàng năm
và trung hạn và thực hiện các chương
trình, dự án đầu tư một cách công
khai, minh bạch và có tính khả thi. Xác
định các điểm nghẽn từ giai đoạn lập kế
hoạch để đưa ra giải pháp nhằm tháo gỡ
khó khăn trong quá trình thực hiện, đẩy nhanh tốc độ giải
ngân vốn đầu tư công.
-
Đảm bảo việc công khai, minh bạch thông
tin về các dự án, công trình, thủ tục, chế độ chính sách. Lấy tiêu chí về tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công cao trên
địa bàn tỉnh là một
trong những tiêu chí để đánh giá, xếp
loại đơn vị, cán bộ, đảng viên, người
đứng đầu các đơn vị hàng năm.
-
Nâng cao trách nhiệm người đứng đầu đơn vị trong việc
quyết định chủ trương đầu tư các dự án đầu tư được phân cấp theo quy định của pháp
luật; bảo đảm chất lượng lập báo cáo đề
xuất, thẩm định, phê duyệt chủ trương đầu tư, quyết định
đầu tư dự án. Chỉ quyết định chủ trương đầu tư những dự án
thật sự cần thiết khi đã thẩm định, làm
rõ hiệu quả của dự án, nguồn vốn, khả năng cân
đối, bố trí vốn cho từng dự án, bảo đảm dự án được phê duyệt có
đủ nguồn lực tài chính để thực hiện.
-
Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông
tin trong công tác giám sát, đánh giá đầu tư, tích hợp các hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu về quản lý đầu tư.
-
Tăng cường quản lý, đánh giá chất
lượng công trình đầu tư công, tăng cường
sự giám sát từ Chính quyền địa phương
và của cộng đồng đối với hoạt động đầu tư công nhằm cải thiện chất lượng công trình.
-
Hoàn thiện chính sách phát huy vai trò của đầu tư công dẫn dắt đầu tư tư nhân để tạo đột phá thu hút nguồn vốn đầu tư từ khu vực
ngoài nhà nước trong và ngoài tỉnh
theo phương thức PPP vào các công trình thiết yếu, quan
trọng, có sức lan tỏa rộng và tác động
lớn tới phát triển kinh tế; các dự án
hạ tầng xã hội phục vụ cộng đồng dân
sinh, trong đó ưu tiên tăng trưởng xanh, các công viên,
khu vui chơi giải trí, nhà ở xã hội, nhà ở cho công nhân, nước
sạch nông thôn. Ngoài ra, cần tăng cường tuyên truyền, phổ biến thông tin về đầu tư theo phương thức
PPP.
3.7. Cơ cấu lại doanh nghiệp Nhà nước
và các đơn vị sự nghiệp công lập
-
Triển khai Kế hoạch sắp xếp lại doanh nghiệp giai đoạn
2022-2025 ngay sau khi được cấp có thẩm quyền phê
duyệt; Chỉ đạo các doanh nghiệp nhà
nước xây dựng và trình cấp có thẩm quyền hoặc phê duyệt
theo thẩm quyền Đề án/phương án cơ cấu lại doanh nghiệp
giai đoạn 2022-2025.
-
Hoàn thiện, trình Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt Danh mục các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc phạm vi quản lý
chuyển thành công ty cổ phần giai đoạn
2022-2025 theo quy định tại Quyết định số 26/2021/QĐ-TTg ngày 12/8/2021
của Thủ tướng Chính phủ; tiếp tục thực hiện
thoái vốn Nhà nước đối với các
đơn vị (Công ty cổ phần Nước sạch Vĩnh Phúc,
Công ty cổ phần Cấp thoát nước số 1 Vĩnh Phúc
và Công ty cổ phần Quản lý và Sửa chữa đường
bộ Vĩnh Phúc).
-
Xây dựng Đề án sáp nhập đối với 04 Công
ty TNHH một thành viên thủy lợi: Liễn Sơn,
Tam Đảo, Lập Thạch, Phúc Yên.
-
Công khai, minh bạch thông tin doanh nghiệp nhà nước; khích doanh nghiệp
nhà nước hoạt động theo cơ chế thị trường; nâng cao
năng lực, hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, giám sát của cơ quan quản lý
Nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước trên
địa bàn tỉnh; phòng ngừa,
phát hiện và xử lý nghiêm những hành vi vi phạm pháp luật,
tiêu cực, tham nhũng, lãng phí trong doanh nghiệp nhà nước; tăng cường quản lý, giám sát
chặt chẽ việc huy động, sử dụng vốn của doanh nghiệp nhà
nước, nhưng phải đảm bảo công khai, minh bạch
trong triển khai thực hiện, bảo đảm quyền tự chủ trong hoạt động của doanh
nghiệp nhà nước theo nguyên tắc thị
trường.
3.8. Từng bước cơ cấu lại chi ngân sách
địa phương theo hướng tích cực
3.8.1. Mục tiêu
-
Tỷ trọng chi đầu tư phát triển bình
quân giai đoạn 2021-2025 khoảng 45-50% tổng chi ngân sách
địa phương; tỷ trọng chi thường xuyên chiếm
khoảng 50-55% tổng chi ngân sách địa phương; ưu tiên
bảo đảm chi trả nợ các khoản vay.
-
Căn cứ tình hình thực tế, số bố trí
chi đầu tư phát triển sẽ được HĐND tỉnh xem
xét, quyết định trong dự toán chi ngân sách địa phương hằng năm.
3.8.2. Nhiệm vụ, giải pháp
- Tập trung tổ chức,
chỉ đạo thu với phương châm tích cực nhất, thường xuyên
đánh giá phân tích tình hình thu trên tất cả các lĩnh vực, các sắc thuế từ đó có các giải pháp cụ thể để quản lý, chỉ
đạo và tham mưu có hiệu quả. Quản lý chặt chẽ mọi nguồn thu, triển khai đồng bộ các biện
pháp tổ chức quản lý thu trên tất cả
các lĩnh vực và địa bàn để phấn đấu hoàn thành vượt mức dự toán thu
ngân sách nhà nước, bảo đảm tỷ trọng thu nội địa cao, phù
hợp với sự phát triển của tỉnh; giảm tỷ
trọng các khoản thu từ xuất nhập khẩu. Đẩy mạnh các
biện pháp chống thất thu thuế và các
khoản thu ngân sách nhà nước.
-
Tăng hợp lý tỷ trọng chi đầu tư phát
triển, giảm dần tỷ trọng chi thường xuyên; Bảo
đảm chi cho con người, an sinh xã hội, phòng chống thiên tai, dịch bệnh và chi cho quốc phòng, an ninh, các chính sách do địa phương và
Trung ương ban hành địa phương đảm bảo nguồn. Bố trí cho
chi sự nghiệp giáo dục, đào tạo và dạy nghề và sự nghiệp
khoa học và công nghệ không thấp hơn
dự toán Trung ương giao.
-
Thực hiện cơ cấu lại thu, chi ngân sách nhà nước bảo đảm theo mục tiêu, định hướng đã đề ra. Từng bước thực hiện quản lý ngân sách theo kết
quả thực hiện nhiệm vụ (kết quả đầu ra). Thực hiện có hiệu
quả các giải pháp bảo đảm an ninh, an
toàn tài chính của tỉnh.
-
Tổ chức thực hiện có hiệu quả các
quy định về đổi mới quản lý ngân sách nhà nước
theo Luật ngân sách nhà nước, sắp xếp các khoản chi, triệt để tiết kiệm, chống lãng phí, tăng nguồn thu sự nghiệp; không ban hành các chính sách, chế độ, các chương trình, đề án khi không cân
đối được nguồn; kiểm soát chặt chẽ việc ứng
trước dự toán, chi chuyển nguồn, chi từ nguồn dự phòng
ngân sách.
-
Thực hiện nghiêm kỷ luật tài
chính trong thu, chi ngân sách nhà nước. Tăng cường thanh tra,
kiểm tra để chống thất thu, ngăn chặn các hành vi gian lận
thương mại, chuyển giá, trốn thuế, chống thất thoát,
lãng phí trong chi ngân sách nhà nước, đặc biệt là trong
chi đầu tư xây dựng cơ bản. Tích cực đôn đốc, xử lý nợ đọng
thuế và các khoản thu ngân sách nhà nước; giảm tối đa nợ đọng thuế. Xử lý nghiêm, kịp
thời các trường hợp vi phạm pháp luật
về quản lý, thu, chi ngân sách nhà nước, nâng cao
trách nhiệm của người đứng đầu các sở, ngành,
địa phương và đơn vị trong việc quản lý
ngân sách nhà nước. Kiên quyết cắt giảm
những khoản chi đã có trong dự toán nhưng không cần thiết, chậm triển khai; hạn chế chuyển nguồn ngân sách.
-
Thực hiện chính sách tiền lương cùng
với việc quyết liệt, đồng bộ các cơ chế, chính
sách liên quan đến việc đổi mới cơ chế tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập. Đẩy mạnh sắp xếp và tăng cường giao tự chủ tài
chính đối với các đơn vị sự nghiệp công
lập, giảm mức hỗ trợ trực tiếp cho đơn vị sự nghiệp công lập khi giá dịch vụ công được
điều chỉnh theo lộ trình.
-
Đẩy mạnh việc cơ cấu lại và nâng cao chất lượng quản trị, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. Thực hiện thoái vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước không cần nắm giữ hoặc nắm quyền chi phối theo
cơ chế thị trường bảo đảm tối đa hóa lợi ích của Nhà nước và người dân.
-
Kiểm soát chặt chẽ các chỉ tiêu nợ công của tỉnh trong
giới hạn cho phép; bố trí nguồn bảo
đảm trả nợ đầy đủ, đúng hạn. Các khoản
vay mới chỉ thực hiện sau khi đã đánh giá đầy đủ tác
động lên quy mô nợ công của tỉnh và khả năng trả nợ trong trung hạn.
-
Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành
chính trong lĩnh vực tài chính. Thực hiện
hiện đại hóa công tác quản lý tài chính ngân sách
thông qua đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông
tin, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu tài chính đồng bộ. Tăng cường tính minh bạch các thông
tin tài chính ngân sách theo quy định.
-
Tiếp tục thực hiện quản lý, sắp xếp
xe công và xử lý tài sản công
trong giai đoạn 2021-2025 theo mục tiêu, lộ
trình đề ra và đảm bảo quy định của
Nhà nước./.
Mục lục
Danh mục từ
viết tắt
BQGĐ
|
Bình quân giai đoạn
|
CMCN
|
Cách mạng công nghiệp
|
CN-XD
|
Công nghiệp và xây dựng
|
ĐBSH
|
Đồng bằng sông Hồng
|
ĐMST
|
Đổi mới sáng tạo
|
DNNN
|
Doanh nghiệp nhà nước
|
DNNN
|
Doanh nghiệp nhà nước
|
DV
|
Dịch vụ
|
FDI
|
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
|
GDP
|
Tổng sản phẩm quốc nội
|
GRDP
|
Tổng sản phẩm trên địa bàn
|
ICOR
|
Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư
|
KCN
|
Khu công nghiệp
|
KH&CN
|
Khoa học và công nghệ
|
NLTS
|
Nông lâm thủy sản
|
NSĐP
|
Ngân sách địa phương
|
NSLĐ
|
Năng suất lao động
|
NSNN
|
Ngân sách nhà nước
|
PAPI
|
Chỉ số Hiệu quả quản trị và hành chính
công cấp tỉnh
|
PCI
|
Chỉ số cạnh tranh cấp tỉnh
|
R&D
|
Nghiên cứu và phát triển
|
TCTD
|
Tổ chức tín dụng
|
TCTK
|
Tổng cục Thống kê
|
TFP
|
Năng suất các nhân tố tổng
hợp
|
TSCĐ
|
Tài sản cố định
|
XD
|
Xây dựng
|
XDCB
|
Xây dựng cơ bản
|
Phụ lục 1: CÁC CHỈ TIÊU CHUNG CỦA KẾ HOẠCH CƠ
CẤU LẠI NỀN KINH TẾ GIAI ĐOẠN 2021-2030
TT
|
Mục tiêu
đến năm 2030
|
Căn cứ xác
định
|
Thực trạng
giai đoạn 2016-2020
|
1
|
Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 10,5-11%/năm
|
Nghị quyết số 01/NQ-ĐH XVII ngày
16/11/2020
|
Bình quân giai đoạn đạt 7,03%/năm
|
2
|
Tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
tăng đóng góp của các ngành dịch
vụ, đến năm 2030, cơ cấu giá trị gia tăng các
ngành nông, lâm nghiệp thủy sản, công nghiệp
xây dựng và dịch vụ lần lượt là
3%, 61-62% và 35-36%.
|
Nghị quyết số 01/NQ-ĐH XVII ngày
16/11/2020.
- Chỉ tiêu này thể hiện kết
quả chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
|
Đến năm 2020, cơ cấu giá trị
gia tăng các ngành NLTS, CN-XD và DV lần lượt là
8,2%, 61,3% và 30,4% (không tính đến thuế sản phẩm trừ trợ cấp
sản phẩm)
|
3
|
Tốc độ tăng năng suất lao động đạt trên
11%/năm (giá hiện hành)
|
Nghị quyết số 01/NQ-ĐH XVII ngày
16/11/2020.
- Chỉ tiêu này thể hiện
chất lượng tăng trưởng kinh tế.
|
Bình quân giai đoạn 2016-2020 đạt 7%/năm (giá
cố định), 9,4%/năm (giá hiện hành)
|
4
|
Đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng đạt khoảng
55-60%
|
Kế hoạch phát triển kinh tế
- xã hội 5 năm 2021-2025
Tăng cường vai trò của khoa
học công nghệ so với giai đoạn trước.
|
Đạt 41,6% giai đoạn 2016-2019
|
5
|
Tổng vốn toàn xã hội đầu tư
cho khoa học và công nghệ chiếm tối thiểu 2% GRDP
|
- Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII khẳng định KHCN và ĐMST đóng vai trò quan trọng trong phát triển KTXH của đất nước;
- Nghị quyết 20/NQ-TW Hội nghị lần thứ 6 Ban
Chấp hành Trung ương Khóa XI ngày 01/11/2012 về phát
triển KHCN phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH trong điều kiện kinh tế
thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế đặt mục
tiêu nâng tổng đầu tư xã hội cho
khoa học và công nghệ đạt 1,5% GDP vào năm 2015,
trên 2% GDP vào năm 2020 và khoảng 3% GDP vào năm 2030;
Kế hoạch hoạt động khoa học và công nghệ 5 năm 2021-2025
Kế hoạch cơ cấu lại hoạt động khoa học và
công nghệ giai đoạn 2021-2025
|
Đầu tư cho KH&CN giai đoạn 2016-2020 đạt
0,8% GRDP.
|
6
|
Số lượng doanh nghiệp thực hiện đổi mới công
nghệ tăng trung bình 15%/năm.
|
Quyết định số 118/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính
phủ ngày 25/01/2021 ban hành Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia đến năm 2030 đặt mục
tiêu đến năm 2025 số lượng doanh nghiệp thực hiện đổi
mới công nghệ tăng trung bình 15%/năm.
Kế hoạch hoạt động khoa học và công nghệ 5 năm 2021-2025
Kế hoạch cơ cấu lại hoạt động khoa học và
công nghệ giai đoạn 2021-2025
|
Đây là vấn đề mới nên chưa có số liệu thống kê cho giai đoạn 2016-2020
|
7
|
Tỷ trọng đóng góp của khu
vực kinh tế tư nhân vào GRDP tăng lên 20%.
|
- Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII;
- Phấn đấu đạt khoảng 1,5 triệu doanh nghiệp vào
năm 2025, trong đó có khoảng 60.000 đến 70.000 doanh nghiệp quy
mô vừa và lớn.
- Thể hiện vai trò của khu
vực tư nhân trong phát triển kinh tế.
|
Đến năm 2020, đóng góp 15,9% GRDP.
|
8
|
Tỷ lệ kinh tế số trên GRDP đạt tối thiểu 10%.
|
- Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII;
- Nghị quyết của Quốc hội ngày 27/7/2021
về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội 5 năm 2021-2025.
|
Đây là vấn đề mới nên chưa có số liệu thống kê cho giai đoạn 2016-2020
|
9
|
Tỷ lệ lao động qua đào tạo
có bằng cấp, chứng chỉ đạt 48% vào năm 2030.
|
Kế hoạch phát triển kinh tế
- xã hội 5 năm 2021-2025
|
Đến năm 2020, tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ đạt 28,59%
|
10
|
Chuyển đổi sang nền kinh tế tuần hoàn,
tăng tỷ lệ rác thải được tái chế. Đến năm 2025,tái sử dụng, tái chế, xử lý 85% lượng chất thải nhựa phát
sinh; giảm dần mức sản xuất và sử dụng túi
ni lông khó phân hủy và sản phẩm nhựa dùng
một lần
|
Quyết định số 687/QĐ-TTg ngày 07/6/2022 về phê duyệt Đề án Phát triển
kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam
|
Đây là vấn đề mới nên chưa có số liệu thống kê cho giai đoạn 2016-2020
|
Phụ lục 2:
DANH MỤC CÁC
CHƯƠNG TRÌNH, ĐỀ ÁN, KẾ HOẠCH, NHIỆM VỤ THỰC HIỆN CƠ CẤU LẠI NỀN KINH TẾ GIAI
ĐOẠN 2021-2030
STT
|
Nội dung
|
Cơ quan chủ
trì thực hiện
|
Thời gian
thực hiện
|
|
Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 2025 và 2026-2030
|
Sở Kế hoạch và
Đầu tư
|
2021-2030
|
|
Đề án hỗ trợ doanh nghiệp
nhỏ và vừa giai đoạn 2022-2025 và giai đoạn tiếp theo
|
Sở Kế hoạch và
Đầu tư
|
2021-2030
|
|
Quy hoạch tỉnh Vĩnh Phúc thời
kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050
|
Sở Kế hoạch và
Đầu tư
|
2021-2030
|
|
Đề án cải thiện môi
trường đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh
cấp tỉnh giai đoạn 2021-2025
|
Sở Kế hoạch và
Đầu tư
|
2021-2030
|
|
Kế hoạch tài chính - ngân sách 3 năm
2023-2025 và các giai đoạn tiếp theo
|
Sở Tài chính
|
2021-2030
|
|
Chính sách thu hút dự án đầu
tư vào lĩnh vực công nghiệp công
nghệ cao trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc
|
BQL Các KCN tỉnh
|
2021-2030
|
|
Kế hoạch cơ cấu lại ngành nông nghiệp giai đoạn 2021-2025
|
Sở NN&PTNT
|
2021-2025
|
|
Đề án phát triển sản phẩm
OCOP giai đoạn 2021-2025, định hướng 2030
|
Sở NN&PTNT
|
2021-2030
|
|
Đề án phát triển nông
nghiệp hữu cơ giai đoạn 2023-2025, định hướng 2030
|
Sở NN&PTNT
|
2021-2030
|
|
Đề án phát triển thủy sản
giai đoạn 2023-2030
|
Sở NN&PTNT
|
2023-2030
|
|
Đề án phát triển thương mại
điện tử đến năm 2030
|
Sở Công thương
|
2021-2030
|
|
Đề án phát triển công
nghiệp phụ trợ đến năm 2030
|
Sở Công thương
|
2021-2030
|
|
Xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khu vực ngoài nhà nước tham
gia chuỗi giá trị sản xuất vùng Đồng
bằng sông Hồng đến năm 2030.
|
Sở Công thương
|
2021-2030
|
|
Đề án sử dụng năng lượng
tiết kiệm và hiệu quả trong doanh nghiệp sản xuất công
nghiệp đến năm 2030
|
Sở Công thương
|
2021-2030
|
|
Đề án phát triển công
nghiệp theo chiều sâu, nâng cao năng suất,
chất lượng sản phẩm trên địa bàn tỉnh
đến năm 2030
|
Sở Công thương
|
2021-2030
|
|
Đề án thu hút doanh nghiệp
bán lẻ hiện đại đầu tư trên địa bàn
tỉnh
|
Sở Công thương
|
2021-2030
|
|
Đề án nâng cao chất lượng các
dịch vụ công cộng trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2021-2025 và giai
đoạn tiếp theo
|
Sở Công thương
|
2021-2030
|
|
Đề án tăng cường hoạt động
xúc tiến đầu tư kết hợp xúc tiến
thương mại trong bối cảnh mới
|
Sở Công thương
|
2021-2030
|
|
Đề án sắp xếp lại các
trường Cao đẳng thuộc tỉnh
|
Sở Lao động Thương
binh và Xã hội
|
2021-2025
|
|
Đề án về đầu tư, hỗ trợ
thực hiện hoạt động giáo dục nghề nghiệp và giải quyết việc làm tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2021-2025
|
Sở Lao động Thương
binh và Xã hội
|
2021-2025
|
|
Chương trình phát triển giáo dục nghề nghiệp giai đoạn 2021 - 2030
|
Sở Lao động Thương
binh và Xã hội
|
2021-2030
|
|
Đề án thúc đẩy doanh nghiệp
ứng dụng tiến bộ công nghệ và đổi
mới sáng tạo.
|
Sở Khoa học và
Công nghệ
|
2021-2030
|
|
Đề án phát triển Trung tâm
đổi mới sáng tạo và Khởi nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc
|
Sở Khoa học và
Công nghệ
|
2021-2030
|
|
Chương trình Năng suất chất lượng tỉnh Vĩnh Phúc
giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030.
|
Sở Khoa học và
Công nghệ
|
2021-2030
|
|
Chương trình Chuyển giao, đổi mới công
nghệ và phát triển thị trường công
nghệ Vĩnh Phúc giai đoạn 2021-2025.
|
Sở Khoa học và
Công nghệ
|
2021-2025
|
|
Đề án xây dựng đô thị Vĩnh Phúc văn minh hiện đại đến năm 2030
|
Sở Xây dựng
|
2021-2025
|
|
Đề án chỉnh trang đô
thị tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2030
|
Sở Xây dựng
|
2021-2030
|
|
Kế hoạch sử dụng đất 2021-2025 của tỉnh
|
Sở TNMT
|
2021-2025
|
|
Đề án Quản lý bền vững Chất thải rắn xây dựng cho tỉnh Vĩnh Phúc
giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030
|
Sở TNMT
|
2021-2030
|
|
Đề án phát triển kinh tế số
và xã hội số trên địa bàn
giai đoạn 2021-2030.
|
Sở TTTT
|
2021-2030
|
|
Chính sách hỗ trợ nâng cao năng lực thích ứng cho doanh nghiệp trong bối cảnh
CMCN 4.0
|
Sở TTTT
|
2021-2030
|
|
Kế hoạch phát triển du lịch
giai đoạn 2022-2026 định hướng đến năm 2030.
|
Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch
|
2021-2030
|