ỦY
BAN NHÂN DÂN
TỈNH HẬU GIANG
-------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số:
193/QĐ-UBND
|
Hậu
Giang, ngày 29 tháng 01 năm 2016
|
QUYẾT ĐỊNH
BAN HÀNH KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI TỈNH HẬU GIANG 5 NĂM 2016
- 2020
ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH HẬU GIANG
Căn cứ Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 19 tháng 6 năm 2015;
Căn cứ Nghị quyết số
11/2015/NQ-HĐND ngày 03 tháng 12 năm 2015 của HĐND
tỉnh Hậu Giang khóa VIII, kỳ họp thứ 16 về tình
hình kinh tế - xã hội 5 năm (2011-2015) và mục
tiêu, nhiệm vụ chỉ tiêu chủ yếu Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2016-2020);
Xét đề nghị của Giám đốc Sở
Kế hoạch và Đầu tư,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Ban hành kèm theo Quyết định này Kế hoạch phát triển kinh tế
- xã hội tỉnh Hậu Giang 5 năm 2016-2020.
Điều 2. Giao Sở Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các sở,
ban, ngành tỉnh và UBND huyện, thị xã, thành phố tham mưu UBND tỉnh chỉ đạo, điều
hành kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020 theo đúng định hướng.
Hàng năm sơ kết tình hình thực hiện và kiến nghị UBND tỉnh những khó khăn, vướng
mắc trong quá trình thực hiện; đồng thời tham mưu điều chỉnh, bổ sung kế hoạch
cho phù hợp tình hình thực tế của địa phương, vùng đồng bằng sông Cửu Long và cả
nước.
Các sở, ban, ngành tỉnh theo chức năng, nhiệm vụ
xây dựng các chỉ tiêu kinh tế - xã hội và thể chế hóa cơ chế, chính sách hiện
hành làm căn cứ tính toán kế hoạch 5 năm gửi Sở Kế hoạch và Đầu tư để theo dõi,
tham mưu UBND tỉnh chỉ đạo, điều hành hiệu quả; đồng thời đề ra các giải pháp
điều hành kế hoạch 5 năm 2016 - 2020 của ngành mình đạt hiệu quả thiết thực.
UBND huyện, thị xã, thành phố căn cứ kế hoạch 5 năm
của tỉnh và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ địa phương để cụ thể hóa kế hoạch 5 năm
2016 - 2020 về phát triển kinh tế - xã hội của địa phương phù hợp với tình hình
thực tế, làm cơ sở xây dựng kế hoạch hàng năm từ nay đến năm 2020.
Để nâng cao tính pháp lý của kế hoạch 5 năm, sớm phổ
biến, công bố công khai kế hoạch 5 năm để nhân dân trong tỉnh biết, thực hiện.
Các cấp ủy Đảng lãnh đạo kịp thời, chặt chẽ nhằm huy động sức mạnh tổng hợp để
thực hiện kế hoạch 5 năm 2016 - 2020 đạt kết quả cao nhất.
Các sở, ban, ngành, đoàn thể và các địa phương
nghiên cứu kiến nghị với UBND tỉnh, Trung ương những cơ chế, chính sách, bổ
sung các luật, văn bản dưới luật nhằm tạo hành lang pháp lý thông thoáng phát
triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020 hiệu quả và bền vững.
Điều 3. Chánh Văn phòng UBND tỉnh, Giám đốc sở, Thủ trưởng cơ quan,
ban, ngành tỉnh, Chủ tịch UBND huyện, thị xã, thành phố, các cơ quan, đơn vị có
liên quan chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này kể từ ngày ký./.
Nơi nhận:
- VP. Chính phủ (HN - TP.
HCM);
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư;
- TT: TU, HĐND, UBND tỉnh;
- UBMTTQ và các đoàn thể tỉnh;
- Như Điều 3;
- Cơ quan báo, đài trên địa bàn tỉnh;
- Lưu: VT, TH. PT.
|
TM. ỦY BAN NHÂN
DÂN
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH
Đồng Văn Thanh
|
KẾ HOẠCH
PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI TỈNH HẬU GIANG 5 NĂM 2016 - 2020
(Ban hành kèm theo Quyết định số 193/QĐ-UBND ngày 29/01/2016 của UBND tỉnh Hậu
Giang
Phần một
ĐÁNH GIÁ KẾT
QUẢ THỰC HIỆN KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 5 NĂM 2011 - 2015
Qua 5 năm thực hiện Kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Hậu Giang, trong bối cảnh kinh tế cả nước
còn gặp nhiều khó khăn, thách thức, sản xuất kinh doanh và đời sống của nhân
dân còn nhiều khó khăn; thiên tai, dịch bệnh diễn biến bất thường; nhu cầu an
sinh phúc lợi xã hội, đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ngày càng cao,
nhưng nguồn lực còn rất hạn hẹp. Được sự quan tâm chỉ đạo của Trung ương, sự nỗ
lực phấn đấu của cả hệ thống chính trị và cộng đồng doanh nghiệp, mặc dù
còn một số tồn tại, hạn chế nhất định, nhưng nhìn chung tình hình kinh tế - xã
hội đã chuyển biến tích cực, phát triển đúng hướng trên các lĩnh vực, các chỉ
tiêu kinh tế - xã hội, quốc phòng và an ninh đề ra trong 5 năm 2011 - 2015 đạt
mục tiêu đề ra, có chỉ tiêu vượt kế hoạch, cụ thể như sau:
I. Kết quả thực
hiện các chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu 5 năm 2011 - 2015
1. Tăng trưởng
và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động
Thực hiện chuyển đổi mô hình
tăng trưởng kinh tế theo quan điểm phát triển từ chiều rộng sang chiều
sâu, cùng với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, tình hình kinh tế
- xã hội trong tỉnh tiếp tục phát triển, tốc độ tăng trưởng kinh tế
bình quân đạt khá cao 13,2 - 13,5%/năm theo giá so sánh 1994 và đạt
6,27%/năm theo giá so sánh 2010; cơ cấu kinh tế ngành chuyển dịch theo
hướng công nghiệp hóa, các thành phần kinh tế phát triển khá về quy
mô, tỷ trọng thành phần kinh tế có vốn nhà nước có xu hướng giảm, kinh
tế tư nhân và hộ cá thể, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có xu
hướng tăng lên, tỷ trọng năm 2010 là 17% - 82,8% - 0,2%, đến năm 2015 là
14,75% - 85% - 0,25%. Kinh tế hợp tác xã phát triển khá đa dạng, theo hướng
củng cố, nâng chất và giải thể các hợp tác xã hoạt động không hiệu quả, kết
quả: đến năm 2015 có 218 hợp tác xã các loại, tăng 56 hợp tác xã so với
năm, chất lượng hoạt động các hợp tác xã đang được củng cố, đã giải thể 76
hợp tác xã hoạt động không hiệu quả. Đời sống nhân dân đã có bước
cải thiện khá rõ nét, giá trị gia tăng bình quân đầu người năm 2015
đạt 36,5 triệu đồng/người (tương đương 1.672 USD) gấp 2,3 lần năm 2010 và
bằng 81% mức bình quân của đồng bằng sông Cửu Long.
Cơ cấu lao động tiếp tục chuyển
dịch theo hướng giảm ở khu vực I và tăng ở khu vực II và III, lao
động giữa 3 khu vực I, II, III năm 2010 là 67% - 12% - 21%, đến năm 2015
là 61% - 14,97% - 24,03%. Bình quân mỗi năm lao động khu vực I giảm chậm
chỉ được 1,2%.
2. Kết quả
thực hiện các chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu 2011 - 2015
Kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội 5 năm (2011 - 2015) đề ra 19 chỉ tiêu chủ yếu, thực hiện đạt
19/19 chỉ tiêu, có 14 chỉ tiêu vượt kế hoạch là: giá trị gia tăng
bình quân đầu người; cơ cấu kinh tế; tổng vốn đầu tư toàn xã hội;
tổng thu ngân sách; tổng kim ngạch xuất nhập khẩu; xây dựng xã nông
thôn mới; mức giảm sinh và tỷ lệ tăng dân số tự nhiên; nhóm chỉ tiêu
về y tế; xây dựng xã phường văn hóa; tỷ lệ hộ nghèo; tỷ lệ hộ sử dụng
điện; giải quyết việc làm; giáo dục; cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất; có 05 chỉ tiêu đạt kế hoạch là: tốc độ tăng trưởng kinh
tế; tỷ lệ người tham gia các hình thức bảo hiểm y tế; tỷ lệ sử dụng nước
hợp vệ sinh; tỷ lệ chất thải rắn ở đô thị và các trung tâm xã được thu gom
và xử lý; quốc phòng - an ninh, cụ thể:
(1) Tốc độ tăng trưởng kinh tế (VA)
theo giá so sánh 1994 giai đoạn 2011 - 2015 đạt bình quân từ 13,2 -
13,5%/năm, trong đó khu vực I: 3,87%, khu vực II: 15,47%, khu vực III: 17,65%.
Tốc độ tăng trưởng GRDP theo giá 2010 đạt 6,27%/năm, trong đó khu vực I:
1,85%, khu vực II: 15,43%, khu vực III: 7,9%.
(2) Cơ cấu kinh tế đến năm 2015
giữa 3 khu vực I, II, III là 23,75% - 34,25% - 42% (kế hoạch là 24% -
34,18 % - 41,82%.
Khi áp dụng phương tính tổng sản
phẩm trên địa bàn tỉnh GRDP thì cơ cấu của tỉnh cuối năm 2015 là
33,95% - 21,18% - 44,87%.
(3) Giá trị gia tăng bình quân đầu
người năm 2015 đạt 36,5 triệu đồng/người (tương đương 1.671 USD); kế hoạch
là 1.500 USD.
Khi áp dụng phương tính tổng sản
phẩm trên địa bàn tỉnh thì GRDP bình quân đầu người đạt 27,88 triệu đồng,
quy tương đương 1.277 USD.
(4) Tổng vốn đầu tư toàn xã hội 5 năm
2011 - 2015: 61.610 tỷ đồng, tăng bình quân 12,07%/năm, bình quân mỗi năm
từ 12.000 đến 12.500 tỷ đồng. Kế hoạch từ 55.000 tỷ đồng - 65.000 tỷ
đồng.
(5) Kim ngạch xuất nhập khẩu hàng
hóa và dịch vụ thu ngoại tệ đến cuối năm 2015 đạt 506,45 triệu USD,
vượt 1,29% kế hoạch, tăng bình quân 16,8%/năm. Giá trị xuất khẩu đến năm
2015 đạt 420,025 triệu USD, vượt 5,01% kế hoạch, tăng bình quân 18,06%/năm;
nhập khẩu đạt 86,425 triệu USD, đạt 86,4% kế hoạch, tăng bình quân
11,79%/năm.
(6) Thu ngân sách nhà nước trên địa
bàn đạt 6.496,51 tỷ đồng, vượt 12,98% kế hoạch, tăng bình quân giai đoạn
2011 - 2015 là 12%/năm (kế hoạch 5.000 tỷ đồng). Trong đó: thu nội địa
1.400,2 tỷ đồng, tăng bình quân 14,13%/năm, vượt 27,29% kế hoạch (kế
hoạch là 1.100 tỷ đồng). Tổng chi 6.459,952 tỷ đồng, vượt 29,2% kế hoạch,
tăng bình quân 12,47%/năm (kế hoạch là 4.998 tỷ đồng), trong đó: chi
đầu tư phát triển 2.264,014 tỷ đồng, tăng bình quân 23,16%/năm, đạt
77,78% kế hoạch (kế hoạch là 2.911 tỷ đồng).
(7) Mức giảm sinh 0,057‰ (KH 0,05‰);
tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giảm còn 10,25 ‰ (kế hoạch 11‰), vượt kế hoạch.
(8) Giải quyết việc làm 5 năm là
114.506 lao động, vượt 4,1% kế hoạch, bình quân hàng năm giải quyết
22.900 lao động, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 40% (kế hoạch 40%), trong đó
tỷ lệ lao động được đào tạo nghề là 21,36% (kế hoạch 25%).
(9) Tỷ lệ huy động học sinh các cấp
năm 2015: Tổng số học sinh các cấp huy động 155.447 học sinh (năm 2010
là 142.981, kế hoạch 151.862), vượt 2,36% kế hoạch. Trong đó, huy động
14% trẻ trong độ tuổi đi nhà trẻ (năm 2010 là 8,5%, kế hoạch 16%), 70% trẻ
trong độ tuổi từ 3 - 5 tuổi đi mẫu giáo (năm 2010 là 70%, kế hoạch 71%). Huy
động 100% học sinh tiểu học trong độ tuổi từ 6 -10 tuổi đến trường (năm 2010
là 99%, kế hoạch 99%), 100% học sinh trung học cơ sở trong độ tuổi từ 11 -
14 tuổi (năm 2010 là 87%, kế hoạch 91%), 63% học sinh trung học phổ thông
trong độ tuổi từ 15 - 17 tuổi (năm 2010 là 55%, kế hoạch 66%); số sinh viên
trên 1 vạn dân là 150 (năm 2010 là 87, kế hoạch 150); trường đạt chuẩn quốc
gia chiếm khoảng 45% tổng số trường (năm 2010 là 20%, kế hoạch 45%) đạt kế
hoạch.
(10) Tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân mỗi
năm 3,3%; đến cuối năm 2015 tỷ lệ hộ nghèo còn 6,23% (KH 18%), hộ cận nghèo
còn 5,89%, vượt kế hoạch.
(11) Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy
dinh dưỡng còn 12,8% (kế hoạch 15%); có 6,3 bác sỹ trên vạn dân (kế hoạch 6
bác sĩ); 27,15 giường bệnh trên 1 vạn dân (kế hoạch 25 giường). Tỷ lệ trẻ
em tử vong dưới 01 tuổi còn 10,2‰ (kế hoạch 9‰); số trạm y tế xã, phường, thị
trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế xã là 63/76 trạm, đạt 82,89% (kế hoạch 65%)
và trạm y tế xã có bác sĩ là 90%. Nhìn chung những chỉ tiêu cơ bản của
nhóm chỉ tiêu này vượt kế hoạch.
(12) Tỷ lệ người tham gia các hình thức
bảo hiểm y tế 65%, đạt 100% kế hoạch.
(13) Tỷ lệ hộ sử dụng điện, đạt
98,1% số hộ, trong đó khu vực nông thôn 95,5%, vượt kế hoạch.
(14) Tiếp tục củng cố, nâng chất 55
xã, phường, thị trấn văn hóa, thực hiện mô hình có cảnh quan sáng, xanh, sạch, đẹp
gắn với tiêu chí xây dựng nông thôn mới và đô thị văn minh (Kế hoạch 51 xã,
phường, thị trấn văn hóa), vượt kế hoạch.
(15) Công nhận 12 xã đạt chuẩn nông
thôn mới (12/54 xã, đạt 22,2% tổng số xã trong toàn tỉnh), 42 xã còn lại
đạt từ 9 - 12 tiêu chí; hoàn thành cơ bản đường ô tô về trung tâm các xã; đạt
100% kế hoạch.
(16) Tỷ lệ hộ sử dụng nước hợp vệ
sinh 93%, trong đó, khu vực nông thôn 85% số hộ, đạt 100% kế hoạch.
(17) Tỷ lệ chất thải rắn ở đô thị và
các trung tâm xã được thu gom 80% (kế hoạch 80%) và được xử lý 20%; đạt kế
hoạch.
(18) Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất đạt 99,83%, vượt 0,83% kế hoạch (Kế hoạch là 99%).
(19) Công tác tuyển chọn gọi công
dân nhập ngũ và xây dựng lực lượng dân quân tự vệ đạt kế hoạch; an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo; tai nạn giao thông
được kiềm chế; chất lượng tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật được
nâng lên, đạt kế hoạch.
II. Tình hình
thực hiện trên từng lĩnh vực
1. Nông nghiệp
và nông thôn
Sản xuất nông nghiệp của tỉnh tiếp tục
phát triển khá toàn diện, cơ cấu kinh tế nông nghiệp chuyển dịch dần theo
hướng tích cực. Tính theo giá so sánh 1994 giá trị sản xuất khu vực I
tăng bình quân 6,66%/năm, trong đó: nông nghiệp tăng 4,5%/năm, lâm nghiệp tăng
1,3%/năm, thủy sản tăng 13,1%/năm. Giá trị tăng thêm đạt bình quân 3,87%/năm
(kế hoạch 3,5 - 4%), tính theo giá năm 2010 tăng bình quân 1,85%/năm.
Trong cơ cấu giá trị sản xuất khu vực I, tỷ trọng ngành nông nghiệp -
lâm nghiệp - thủy sản năm 2010 là 90,4% - 0,9% - 8,7% thì đến năm 2015
tương ứng là 85% - 0,5% - 14,5%, trong đó thủy sản có xu hướng tăng dần
và nông nghiệp có xu hướng giảm dần.
Giá trị sản xuất ngành chăn nuôi
tăng bình quân 13%/năm, dịch vụ tăng 10%/năm, trồng trọt tăng 3%/năm. Tỷ trọng
trồng trọt đã giảm từ 82,3% năm 2010 còn 80,7% năm 2015; chăn nuôi tăng 12,3%
năm 2010 lên 13,3% năm 2015; dịch vụ tăng 5,4% năm 2010 lên 6% năm 2015. Nông sản
hàng hóa khá đa dạng, một số mặt hàng nông sản bước đầu hình thành mối liên kết
4 nhà; công tác ứng dụng khoa học công nghệ đã phát huy hiệu quả; khống chế
nhanh dịch bệnh; tỷ lệ cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi, nuôi
trồng thủy sản ngày càng tăng.
Tỉnh đã xây dựng được các vùng
nguyên liệu nông sản chuyên canh với quy mô khá lớn, đáp ứng được nhu cầu tiêu
dùng nội địa và chế biến xuất khẩu như: vùng nguyên liệu lúa chất lượng cao
32.000 ha, vùng nguyên liệu mía 10.300 ha, vùng nguyên liệu khóm 1.500 ha, vùng
cây ăn trái đặc sản 2.500 ha, vùng nuôi trồng thủy sản tập trung 1.500 ha.
Toàn tỉnh đã ứng dụng 59 đề tài nghiên cứu khoa học vào sản xuất nông
nghiệp mang lại hiệu quả. Tỉnh đã chỉ đạo thực hiện mô hình “Bốn cây - Bốn
con”, để tập trung phát triển theo chiều sâu. Một số loại nông sản tiềm năng
của tỉnh đã có thương hiệu như: Bưởi 5 roi, Bưởi hồ lô, Khóm Cầu Đúc, Cá Thát
lát, Cá rô đồng, lúa Hậu Giang,…
- Về trồng trọt:
Lúa là cây trồng chủ lực, diện
tích trồng lúa ổn định khoảng 78.000 ha, diện tích gieo trồng năm 2015:
207.029 ha, năng suất bình quân 6,31 tấn/ha, sản lượng 1,306 triệu tấn; so với
năm 2010 năng suất tăng 1,16 tấn/ha, sản lượng tăng 16,5%; tỷ lệ sử dụng giống
xác nhận đạt trên 70%, lượng gạo xuất khẩu trung bình khoảng 350.000 - 400.000
tấn/năm. Cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp được quan tâm đầu tư, trong sản xuất
lúa tỷ lệ cơ giới hoá khâu làm đất, tưới tiêu trên 95%; khâu thu hoạch khoảng
74% diện tích canh tác lúa.
Cây mía đến năm 2015 diện tích
còn 11.589 ha, giảm 1.474 ha so với năm 2010; năng suất bình quân 100
tấn/ha; sản lượng 1,1 triệu tấn, tương đương so với năm 2010.
Rau màu, diện tích gieo trồng 22.801
ha (năm 2010 là 14.407 ha), sản lượng 253.045 tấn, tăng 50% so với năm 2010. Cơ
cấu cây trồng thay đổi theo hướng lựa chọn những cây trồng có hiệu quả kinh tế
cao được trồng tập trung.
Cây ăn trái tăng mạnh, nhất là
cây có múi sạch bệnh và cây ăn trái đặc sản, trong đó các cây trồng chủ lực
như: Bưởi Năm roi, cam mật, cam sành, quýt đường, xoài cát Hòa Lộc,…, diện tích
cây ăn trái tăng từ 22.962 ha năm 2010 lên 33.893 ha năm 2015 tăng 47,6%
(trong đó cây khóm 1.600 ha). Sản lượng 265.000 tấn, tăng 55% so với năm
2010. Cơ cấu cây có múi chiếm 46,5% diện tích cây ăn trái.
Do ảnh hưởng của dịch bệnh nên chăn
nuôi gặp rất nhiều khó khăn, quy mô đàn gia cầm 3,83 triệu con, tăng
17,8%/năm, quy mô đàn gia súc giảm, trong đó đàn heo 131.000 con; đàn
trâu, bò 3.335 con. Các mô hình chăn nuôi gia cầm theo hướng tập trung an toàn
dịch bệnh và an toàn vệ sinh thực phẩm cũng đã được nhân rộng, nhiều trang trại
chăn nuôi tập trung với quy mô lớn đang phát triển.
Thủy sản là thế mạnh thứ hai
sau cây lúa và có tiềm năng khá lớn (50.000 ha), nhưng quy mô nhỏ, giá trị sản
xuất theo giá thực tế năm 2015 đạt 1.800 tỷ đồng, chiếm 12,7% giá trị sản
xuất khu vực I. Năm 2015 diện tích nuôi 7.309 ha, sản lượng 68.596 tấn, tăng
42,9% so năm 2010 (tăng 20.893 tấn), trong đó sản lượng nuôi tăng 17,2%/năm, điều
này thể hiện việc nuôi trồng thủy sản có bước chuyển biến mới do nuôi thâm canh
thay nuôi quảng canh trước đây. Đã có nhiều mô hình nuôi thủy sản an
toàn, chất lượng theo hướng thực hành nông nghiệp tốt (GAP), hình
thành các vùng nuôi tập trung.
Lâm nghiệp, có quy mô nhỏ, chủ yếu trồng
rừng phòng hộ và trồng cây phân tán. Tỷ lệ che phủ rừng đạt thấp, chỉ
khoảng 1,8% diện tích tự nhiên của tỉnh. Công tác phòng chống cháy rừng
được quan tâm; toàn tỉnh có 09 trại nuôi động vật hoang dã với 224.408 cá thể.
Hệ thống thủy lợi tạo nguồn được đầu
tư và phát huy hiệu quả, hệ thống đê bao ngăn mặn được đầu tư đã phát huy như
đê bao Long Mỹ - Vị Thanh. Đến nay, toàn tỉnh hình thành 915 vùng thủy lợi khép
kín, có diện tích 30 - 100 ha/vùng, khả năng phục vụ 73.277 ha, chiếm 54,7%
diện tích đất sản xuất nông nghiệp, hầu hết diện tích sản xuất lúa, cây
ăn trái, mía, khóm và trên 70% diện tích trong rau màu đều được bơm tưới bằng
máy. Đặc biệt là chiến dịch giao thông - thủy lợi mùa khô, hàng năm đã đào đắp,
nạo vét hệ thống kênh mương, với tổng khối lượng thực hiện 5 năm gần 9 triệu
m³. Tổng kinh phí thực hiện trên 800 tỷ đồng, trong đó nhân dân đóng góp 25%.
Chương trình xây dựng nông thôn mới đạt
nhiều kết quả khả quan, qua 5 năm triển khai thực hiện đã đạt được một số kết
quả rất tích cực, hoàn thành quy hoạch sớm, triển khai sâu rộng, phong trào được
người dân ủng hộ, đời sống vật chất, tinh thần của người dân nông thôn được
nâng lên. Tổng vốn đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn và xây dựng nông thôn
mới huy động trên 14.233 tỷ đồng, kết cấu hạ tầng từng bước được cải thiện
và kiên cố hóa; các công trình văn hóa, y tế, giáo dục, thông tin liên lạc, điện,
nước sinh hoạt được đầu tư xây dựng và phục vụ người dân ngày càng tốt hơn, số
tiêu chí đạt được của các xã ngày càng tăng lên,… đã xây dựng 12 xã đạt 19
tiêu chí nông thôn mới, chiếm tỷ lệ 22,2% tổng số xã, các xã còn lại
đạt từ 9 -12 tiêu chí. Đặc biệt, thị xã Ngã Bảy được Thủ tướng Chính phủ
công nhận đạt chuẩn nông thôn mới.
Đề án xây dựng cánh đồng lớn
đem lại hiệu quả thiết thực, các địa phương đã đăng ký thực hiện 5 cánh đồng
lớn với tổng diện tích 1.758 ha/1.503 hộ, gồm: xã Trường Long Tây (huyện Châu
Thành A), xã Vị Thanh (huyện Vị Thủy), thị trấn Long Mỹ (huyện Long Mỹ), xã Tân
Bình (huyện Phụng Hiệp) và phường Hiệp Thành (thị xã Ngã Bảy). Trong đó tỉnh
chọn 2 cánh đồng làm điểm chỉ đạo là cánh đồng xã Trường Long Tây và xã Vị
Thanh, đã có 06 doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh tham gia liên kết sản xuất với
diện tích bao tiêu 5.450 ha.
Đề án cơ giới hóa trong sản xuất lúa
giai đoạn 2012 - 2015 được triển khai hiệu quả, đến nay đã giải ngân 99/100 máy
gặt đập liên hợp, nâng tổng số máy gặt đập liên hợp trên địa bàn tỉnh lên
315 máy, khả năng đáp ứng thu hoạch bằng máy 79% diện tích, trong đó ngân
sách tỉnh đã hỗ trợ lãi suất vay cho người dân trên 7,8 tỷ đồng.
Khu Nông nghiệp ứng dụng công
nghệ cao của tỉnh cũng đã được thành lập và phê duyệt Quy hoạch chung xây dựng
với quy mô 5.200ha, có các loại hình sản xuất chủ lực là lúa chất lượng cao, thủy
sản nước ngọt, chăn nuôi, nấm và chế phẩm vi sinh, cây ăn quả, hiện nay đang
triển khai thực hiện các quy hoạch chi tiết và lập các dự án đầu tư. Do lĩnh vực
công nghệ cao là lĩnh vực mới, nên việc triển khai gặp nhiều khó khăn, nhất
là vốn đầu tư để triển khai thực hiện quy hoạch. Các chính sách ưu đãi, cơ
chế giao đất, tiêu chuẩn lựa chọn nhà đầu tư và nguồn nhân lực công nghệ cao của
tỉnh chưa được ban hành, nên việc xác định lựa chọn nhà đầu tư và thu hút nguồn
nhân lực gặp nhiều khó khăn.
Trong sản xuất nông nghiệp, tỉnh đã tập
trung đầu tư, hình thành các vùng chuyên canh, tập trung với các cây trồng chủ
lực và đã đăng ký xây dựng nhãn hiệu, tham gia thị trường khá tốt, đã có 9/10
nhãn hiệu được công nhận như: bưởi Năm Roi Phú Thành, cam sành Ngã Bảy, khóm Cầu
Đúc, chanh không hạt, cá thát lát Hậu Giang, cá rô đồng Hậu Giang, lúa Hậu
Giang 2, mía đường CASUCO, Quýt đường Long Trị.
Kinh tế hợp tác, hợp tác xã được củng
cố, từng bước nâng chất và có chuyển biến tích cực hơn, có 156 hợp tác xã nông
nghiệp và 01 Liên hiệp HTXNN, kinh tế trang trại đang từng bước phát triển với
30 trang trại, tuy nhiên số lượng hợp tác xã hoạt động có hiệu quả
còn ít.
Đến năm 2015 toàn tỉnh có trên 74.560
hộ nông dân sản xuất giỏi có mô hình đạt giá trị thu nhập từ 50 - 100 triệu
đồng/ha/năm, gấp 2 lần so với năm 2010 và có 35.807 hộ sản xuất hiệu
quả có mô hình đạt giá trị trên 105 triệu đồng/ha/năm (năm 2010 là 45 triệu
đồng/ha/năm), gấp 2,3 lần năm 2010, đưa thu nhập bình quân trên một đơn vị diện
tích đất canh tác đến hết năm 2015 trên địa bàn cả tỉnh là 52 triệu đồng/ha/năm,
bằng 1,67 lần so với năm 2010 (năm 2010 là 31 triệu đồng/ha/năm), lợi nhuận gần
30%.
Mặc dù diện tích, sản lượng hầu hết
các cây trồng chính đều tăng nhưng do sự gắn kết giữa nhà nước, nhà nông, nhà
khoa học và nhà doanh nghiệp chưa chặt chẽ, việc ứng dụng tiến bộ khoa học
kỹ thuật và công nghệ vào nông nghiệp còn chậm; sản xuất nông nghiệp còn manh
mún, chất lượng nông sản hàng hóa còn thấp, chi phí sản xuất cao và bị ảnh
hưởng mạnh vào yếu tố thị trường, nên gặp khó khăn trong tiêu thụ, hiệu
quả thấp; phát triển kinh tế hợp tác còn nhiều hạn chế chưa thật sự là chỗ dựa
bền vững cho người nông dân; việc thực hiện quy hoạch ngành nông nghiệp còn
nhiều bất cập, chưa thật sự có hiệu quả, người dân chưa tuân thủ vào công tác
quy hoạch cũng như kế hoạch phát triển chung của ngành, vẫn còn tồn tại thói
quen sản xuất tự phát, chưa theo qui luật thị trường. Cơ cấu giống cây con
chưa được cải thiện nhiều nên sản phẩm có sức cạnh tranh yếu, hiệu quả sản xuất
còn thấp. Sự hỗ trợ của nhà nước về chính sách tiêu thụ sản phẩm,
giá cả, quản lý vật tư đầu vào, khoa học công nghệ chưa tỏ ra hiệu
quả, kịp thời và bền vững.
2. Công nghiệp
và xây dựng
Tính theo giá so sánh 1994 giá trị
sản xuất khu vực II tăng bình quân 17,35%/năm (KH là 20,13%), đạt 88,8% kế
hoạch. Giá trị tăng thêm bình quân đạt 15,4%/năm (kế hoạch 16,7%).
Giá trị sản xuất công nghiệp - tiểu
thủ công nghiệp tính theo giá so sánh 1994 tăng bình quân 24,8%/năm (KH là
44,8%), giá trị gia tăng đạt 17,4%/năm; quy mô công nghiệp của tỉnh còn nhỏ,
chủ yếu là công nghiệp chế biến (chiếm 95%) và công nghiệp sản xuất và phân phối
điện, nước, khí đốt (chiếm 5%). Công nghiệp của tỉnh toàn bộ là công
nghiệp địa phương, công nghiệp trung ương trên địa bàn tỉnh không có và
đây là một hạn chế lớn trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa.
Giá trị sản xuất công nghiệp chủ
yếu do sự đóng góp của khu vực kinh tế ngoài nhà nước (chiếm 84,5%), kinh
tế có vốn nhà nước chiếm 13,5%, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài quy mô
rất nhỏ chiếm 2,3%.
Tuy vậy sản lượng một số sản phẩm
công nghiệp chủ yếu đều tăng khá, trên 7%/năm, như thủy sản đông lạnh tăng
16,3%/năm; nước mắm tăng 15%/năm; gạo xay xát tăng 12,9%/năm; thức ăn gia súc
tăng 19,8%/năm; đường kết các loại tăng 13 %/năm; đường mật các loại tăng
12,5%/năm; bánh kẹo các loại tăng 35,1%/năm; nước đá tăng 7,3%/năm; mũi giày da
tăng 55,7%/năm; nông cụ cầm tay tăng 16,6 %/năm; nước máy sản xuất tăng
9,5%/năm.
Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) năm
2015 tăng 7,1%. Trong đó: Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 7,01%; ngành
sản xuất, phân phối điện tăng 8,27% và ngành cung cấp nước và xử lý nước thải,
rác thải tăng 12,53%.
Sản lượng điện tiêu thụ từ 285 triệu
KWh năm 2010 tăng lên 672 KWh năm 2015; sản lượng điện tiêu thụ bình quân đầu
người từ 374 KWh/người năm 2010 lên 831 KWh người năm 2015; số xã sử dụng điện
đạt 100%, tỷ lệ hộ sử dụng điện khu vực thành thị là 100% và khu vực nông thôn
là 95,5%; tỷ lệ hộ sử dụng điện an toàn là 96,5%.
Toàn tỉnh có 4.200 cơ sở công nghiệp
- tiểu thủ công nghiệp đang hoạt động; có 2 khu công nghiệp và 8 cụm công nghiệp
tập trung, với tổng diện tích là 1.529,7 ha, trong 05 năm đã thu hút được 50
nhà đầu tư, gồm 78 dự án; tổng vốn đầu tư đăng ký gần 70.000 tỷ đồng và 668,7
triệu USD; tỷ lệ đất lấp đầy theo đăng ký 71%, đã có 45 dự án đi vào hoạt động,
với tổng vốn thực hiện 15.779,17 tỷ đồng và 40 triệu USD, giải quyết việc
làm cho trên 18.585 lao động; hiện có 12 dự án đang triển khai với số
vốn đầu tư đăng ký 46.536,33 tỷ đồng và 628,7 triệu USD; còn 09 dự án
chưa triển khai với tổng vốn đầu tư đăng ký 2.684,5 tỷ đồng.
Thực hiện Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày
07 tháng 01 năm 2013 của Chính phủ về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản
xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường, giải quyết nợ xấu, UBND tỉnh đã ban hành kế
hoạch với nhiều giải pháp cụ thể chỉ đạo các sở, ngành, địa phương tập trung
tháo gỡ những khó khăn vướng mắc của doanh nghiệp. Tuy nhiên, do giá nhiều loại
vật tư nguyên, nhiên liệu tăng, chi phí sản xuất còn cao, công nghệ thấp,
doanh nghiệp gặp khó khăn về nguồn vốn và ảnh hưởng của suy thoái kinh
tế thế giới, trong nước, nên sức cạnh tranh của sản phẩm, kể cả những mặt hàng
đang có sức tiêu thụ khá cũng gặp nhiều khó khăn và thiếu ổn định; tiến độ
xây dựng các công trình công nghiệp lớn như giấy, điện… bị chậm lại.
Ngành xây dựng đã có những bước tiến
đáng kể trong xây dựng công trình, kiến trúc và quy hoạch, phát triển đô thị và
nhà ở, năng lực xây dựng công trình có tiến bộ đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu
xây dựng. Giá trị sản xuất ngành xây dựng theo giá so sánh 1994 tăng bình
quân 12,7%/năm (KH là 15,8%), đạt 86,6% kế hoạch. Giá trị gia tăng bình
quân đạt 9,4%/năm. Công tác quản lý quy hoạch xây dựng được chấn chỉnh, từng
bước đi vào nề nếp. Công tác quản lý nhà ở được quan tâm.
Tuy nhiên quy mô ngành xây dựng còn
nhỏ, những công trình lớn, công nghệ tiên tiến chưa nhiều, chủ yếu là khu vực
ngoài quốc doanh, chưa có các công ty xây dựng lớn có thể đảm nhiệm xây dựng
các công trình hiện đại quy mô lớn. Việc triển khai quy hoạch không đúng tiến
độ do thiếu vốn thực hiện, quy hoạch dàn đều, quy hoạch treo vẫn còn; thời
gian thi công các công trình hạ tầng, nhất là công trình trọng điểm còn kéo
dài.
3. Phát triển
dịch vụ
Giá trị sản xuất khu vực III theo
giá so sánh 1994 tăng bình quân 20,2%/năm, đạt 99,8% kế hoạch (kế hoạch là
20,3%); giá trị gia tăng đạt 17,6%/năm (kế hoạch 17 -17,5%, theo giá so
sánh 1994), đạt kế hoạch đề ra.
Tổng mức bán lẻ hàng hoá và kinh doanh
dịch vụ tăng từ 12.433 tỷ đồng năm 2010 lên 29.985 tỷ đồng năm 2015, tăng bình
quân 20%/năm, trong đó ngành thương nghiệp chiếm tỷ trọng 75,06%, ngành
dịch vụ chiếm 11,7%, ngành khách sạn, nhà hàng chiếm 12,21% và ngành
du lịch chiếm 1,03%.
Mạng lưới chợ được quy hoạch tổ chức
sắp xếp, mở rộng đến hầu hết các xã, phường, thị trấn; các địa phương triển
khai nhiều dự án đầu tư xây dựng, cải tạo nâng cấp chợ bằng việc huy động vốn của
các nhà đầu tư trong và ngoài tỉnh; hiện nay toàn tỉnh có 02 siêu thị loại II
và 70 chợ, tăng 1 siêu thị và 3 chợ so năm 2010. Mật độ chợ đạt bình quân
11.050 người/chợ, từng bước đáp ứng nhu cầu nhân dân. Hiện có khoảng 28.500
doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể trong lĩnh vực thương mại - dịch vụ, giải
quyết 60.000 lao động, chiếm khoảng 13,6% lao động đang làm việc trong các
ngành kinh tế của tỉnh.
Hưởng ứng cuộc vận động “Người Việt
Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, hoạt động Hội chợ gắn với đưa hàng Việt về
nông thôn được đẩy mạnh, đã tổ chức nhiều phiên chợ chuyên đề hàng Việt và
đưa 45 chuyến hàng Việt về nông thôn.
Công tác xúc tiến thương mại đạt được
nhiều kết quả nổi bật như tổ chức thành công các kỳ hội chợ lớn; tổ chức hàng
chục kỳ hội chợ thương mại, đầu tư, ký kết hợp tác liên tỉnh, tìm đầu ra cho sản
phẩm nông thủy sản; quảng bá thương hiệu các mặt hàng chủ lực của tỉnh, thường
xuyên vận động các Doanh nghiệp tham gia nhiều lượt Hội chợ từ các tỉnh, thành
trong và ngoài nước.
Công tác quản lý thị trường được
chú trọng, nắm sát diễn biến hàng hóa - giá cả, dự báo tình hình thị trường,
nhất là các hàng hóa thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống; chống sản xuất,
kinh doanh hàng giả, hàng kém chất lượng, hàng không rõ nguồn gốc, gian lận
thương mại, vi phạm sở hữu trí tuệ,…
Kim ngạch xuất khẩu và dịch vụ thu
ngoại tệ đến năm 2015 đạt 420,025 triệu USD, vượt 5,01% kế hoạch, tăng bình
quân 18,06%/năm (năm 2010: 183 triệu USD), trong đó xuất khẩu trực tiếp tăng
19%/năm; ủy thác xuất khẩu giảm 24,2%/năm; dịch vụ thu ngoại tệ tăng 13,6%/năm.
Giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông,thủy sản, trái cây, hàng thủ công
mỹ nghệ, may mặc, giày da, tiếp tục tăng cao trong cơ cấu xuất khẩu. Nhập
khẩu đến năm 2015 là 86,425 triệu USD, đạt 86,4% kế hoạch, tăng bình quân
11,79%/năm (năm 2010: 49,5 triệu USD); tập trung chủ yếu nhập khẩu máy móc thiết
bị và nguyên vật liệu.
Dịch vụ vận tải đáp ứng được nhu cầu
vận tải hàng hóa và hành khách, chất lượng phục vụ của các đơn vị tham gia vận
tải hành khách được nâng cao, trật tự vận tải hành khách được cải thiện. Giá trị
sản xuất ngành giao thông vận tải tăng bình quân 10 - 11%/năm. Năm 2015 tổng sản
lượng vận tải hàng hóa đạt trên 8,7 triệu tấn, tăng 7,8%/năm và trên 99 triệu
lượt hành khách, tăng 9,2%/năm. Trong cơ cấu ngành vận tải của tỉnh, vận tải
thủy chiếm vị trí chủ yếu, khoảng 80% khối lượng hàng hoá vận chuyển và 91,5%
khối lượng hàng hoá luân chuyển. Khối lượng vận tải đường bộ chiếm khoảng 20%
khối lượng vận chuyển hàng hoá và 8,5% hàng hoá luân chuyển.
Lĩnh vực du lịch từng bước phát triển,
một số di tích lịch sử, văn hóa được đầu tư xây dựng, nâng cấp, mở rộng, gắn kết
với khai thác du lịch, lượng khách tham quan tăng bình quân 8%/năm. Hàng năm,
tỉnh đều tham gia các hoạt động du lịch nhằm quảng bá hình ảnh, sản phẩm du lịch
Hậu Giang. Tổng lượng khách du lịch năm 2015 khoảng 200.000 lượt, tăng bình
quân 8,5%/năm. Tuy nhiên, hoạt động du lịch chưa khai thác đúng mức tiềm năng cả
về nội dung và phương thức hoạt động, chất lượng phục vụ còn kém.
Lĩnh vực Bưu chính viễn thông phát
triển có hiệu quả, đáp ứng được nhu cầu đời sống nhân dân. 100% số xã có bưu điện
văn hóa xã. Số thuê bao điện thoại/100 dân đạt mật độ 92 máy (năm 2010 là
65 máy), tăng bình quân 14,7%/năm; số thuê bao internet băng thông rộng đạt
1,5 thiết bị. Toàn tỉnh có 62 điểm hoạt động bưu chính, viễn thông ở 76 xã, phường,
thị trấn. Các loại hình dịch vụ khác như: y tế, bảo hiểm, giáo dục, văn hóa,
nhà hàng, khách sạn, tư vấn pháp luật đều có sự tăng trưởng về số lượng và chất
lượng dịch vụ.
4. Cải thiện
môi trường đầu tư và phát triển doanh nghiệp
Môi trường đầu tư của Hậu Giang tiếp
tục được cải thiện, chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) năm 2010 xếp
thứ 8, năm 2011 xếp thứ 43, năm 2012 xếp thứ 11, năm 2013 xếp thứ 20, năm 2014
xếp thứ 25/63 tỉnh, thành trong cả nước và xếp thứ 8/13 ở khu vực đồng bằng
sông Cửu Long. Kết quả này cho thấy Hậu Giang rất nỗ lực trong cải
thiện môi trường đầu tư, chỉ số PCI ở mức khá tốt và có xu hướng
tương đối ổn định. Để góp phần phòng chống rũi ro pháp lý và tăng
cường năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh, UBND
tỉnh đã thành lập Trung tâm dịch vụ và hỗ trợ pháp lý cho doanh
nghiệp trực thuộc Sở Tư pháp; ngoài ra tỉnh đã thường kỳ tổ chức đối thoại
với doanh nghiệp, họp mặt nhà doanh nghiệp; tổ chức thăm và tháo gở khó khăn vướng
mắc cho một số doanh nghiệp.
Về đầu tư trong nước, trong 5 năm
đã thành lập mới 1.700 doanh nghiệp, với tổng số vốn trên 7.839 tỷ đồng, bình
quân mỗi năm có khoảng 340 doanh nghiệp đăng ký mới, với số vốn bình quân mỗi
năm trên 1.500 tỷ đồng. Trong 5 năm có 122 doanh nghiệp giải thể (chiếm
tỷ lệ 7,1% so với doanh nghiệp thành lập mới), 38 doanh nghiệp ngưng
hoạt động và đã có 31 doanh nghiệp hoạt động trở lại. Tình hình
giải thể và ngưng hoạt động cao nhất là những năm 2012 và 2013, đến
nay hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đã phục hồi dần,
nhưng còn chậm và qui mô sản xuất chưa tăng nhiều.
Về tái cơ cấu doanh nghiệp nhà
nước, sau khi chia tách tỉnh có 05 doanh nghiệp Nhà nước và 03 doanh nghiệp
thành lập mới, hiện nay, tỉnh đã hoàn thành lộ trình sắp xếp, cổ phần hóa doanh
nghiệp. Nhìn chung, sau khi thực hiện cổ phần hóa các Công ty Cổ phần, trong hoạt
động sản xuất, kinh doanh, các chỉ tiêu chủ yếu về sản xuất, sản lượng tiêu thụ,
kim ngạch xuất khẩu đều tăng so với khi chưa thực hiện cổ phần hóa và công ty
được chủ động trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh của đơn vị; đồng thời, tỉnh
cũng đã rà soát các công ty hoạt động không hiệu quả để lập thủ tục giải thể,
phá sản theo quy định.
Về đầu tư trực tiếp nước ngoài, trong
5 năm thu hút được 11 dự án đều đã được triển khai, với số vốn 49,6
triệu USD, lũy kế đã thu hút được 27 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI),
trong đó có 11 dự án 100% vốn nước ngoài, còn lại 16 dự án liên kết, liên doanh
với nước ngoài. Trong 5 năm đã cấp 73 giấy chứng nhận đầu tư, với số
vốn 1.430 tỷ đồng và 6 triệu USD, lũy kế từ khi Luật Đầu tư có hiệu lực đến
nay đã cấp 507 giấy chứng nhận đầu tư trong và ngoài nước, với tổng số vốn
đầu tư trong nước là 123.000 tỷ đồng, tổng vốn đầu tư nước ngoài là 732,645 triệu
USD.
5. Tài chính -
ngân hàng
Tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa
bàn năm 2015, đạt 6.496,51 tỷ đồng, tăng bình quân 12%/năm, gấp gần 1,76 lần
so năm 2010, vượt 12,98% kế hoạch (kế hoạch 5.000 tỷ đồng), trong đó thu
nội địa 1.400,2 tỷ đồng, tăng bình quân 14,13%/năm, vượt 27,29% kế hoạch
(kế hoạch là 1.100 tỷ đồng). Tuy nguồn thu nội địa của tỉnh có tăng qua
các năm, nhưng tăng chậm, nhìn chung chưa thể đáp ứng được nhu cầu chi, vì vậy
phần lớn vẫn nhờ sự hỗ trợ của Trung ương.
Tổng chi 6.459,952 tỷ đồng, tăng
bình quân 12,47%/năm, tăng bình quân 12,47%/năm, gấp 1,8 lần so năm 2010, vượt
29,2% kế hoạch (kế hoạch 4.998 tỷ đồng), trong đó: chi đầu tư phát
triển 2.264,014 tỷ đồng, tăng bình quân 23,16%/năm, gấp 2,8 lần so năm
2010, đạt 77,78% kế hoạch (kế hoạch 2.911 tỷ đồng). Chi ngân sách đã tập
trung hơn cho mục tiêu đầu tư phát triển, xóa đói giảm nghèo, giáo dục - đào tạo,
khoa học - công nghệ, bảo vệ sức khoẻ nhân dân; đồng thời, thông qua việc xã hội
hóa một số mặt hoạt động kinh tế - xã hội, nhờ đó nhu cầu chi được đáp ứng tốt
hơn. Tổng chi ngân sách địa phương tăng khá do ngoài nguồn cân đối chung của
ngân sách trung ương giao và bổ sung, tỉnh đã huy động từ rất nhiều nguồn để
tăng chi cho đầu tư phát triển.
Dịch vụ ngân hàng phát triển mạnh, có
một hội sở chính là ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt
(nhưng gần cuối năm 2015 đã chuyển hội sở về thành phố Hồ Chí Minh), 14 chi
nhánh cấp I, tăng 2 đơn vị so với năm 2010. Hầu hết các ngân hàng và chi
nhánh hoạt động có hiệu quả. Tổng nguồn vốn huy động của các tổ chức tín dụng đến
cuối năm 2015 đạt 6.770 tỷ đồng, tăng bình quân 14,77/năm; tổng dư nợ đều tăng
qua các năm, đến cuối năm 2015 đạt 16.198 tỷ đồng, tăng 22,55%; tỷ lệ nợ xấu ở
mức thấp (2,08% tổng dư nợ).
6. Phát triển kết
cấu hạ tầng
Trong giai đoạn 2011 - 2015 tỉnh đã
tập trung huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển, tổng vốn đầu tư toàn xã
hội trong 5 năm đạt 61.610 tỷ đồng, tăng bình quân 12,07%/năm, vượt 12,07% chỉ
tiêu 5 năm, bằng 2,3 lần so với giai đoạn 2006 - 2010, bình quân mỗi năm
vốn đầu tư từ 12.000 đến 12.500 tỷ đồng. Tổng nguồn vốn đầu tư công 5
năm là 17.581 tỷ đồng, chiếm 28,6% vốn đầu tư toàn xã hội, trong đó vốn
đầu tư thuộc ngân sách 3.935 tỷ đồng, vốn trái phiếu Chính phủ 5.045
tỷ đồng, vốn xổ số kiến thiết 1.502 tỷ đồng, vốn tín dụng đầu tư
của nhà nước 662 tỷ đồng, vốn Trung ương đầu tư trên địa bàn và huy
động khác có tính chất ngân sách 6.437 tỷ đồng.
Trong 05 năm tỉnh đã tập trung huy động
các nguồn lực cho đầu tư phát triển, tổng vốn đầu tư toàn xã hội trong 5 năm đạt
61.282 tỷ đồng, tăng bình quân 11,5%/năm, bằng 2,25 lần so với giai đoạn 2006
- 2010 (27.234 tỷ đồng). Trong đó, vốn đầu tư công 14.069 tỷ đồng, chiếm
23,84%, gấp1,7 lần 5 năm trước (5 năm 2006 - 2010 là 8.170 tỷ đồng), tỷ
trọng vốn đầu tư của nhà nước trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội đã giảm so với
các năm trước (năm 2010: 39,4%, năm 2011: 32%, năm 2012: 28,6%, năm 2013:
23,6%, năm 2014: 19% và năm 2015: 19%); đầu tư khu vực doanh nghiệp có
vốn nhà nước 2.238 tỷ đồng, chiếm 3,65%, đầu tư trực tiếp nước ngoài
2.975 tỷ đồng chiếm 4,85%, nguồn vốn tư nhân và dân cư 41.460 tỷ đồng
chiếm 67,65%.
Trong điều kiện khó khăn về
nguồn vốn, tỉnh đã thực hiện tốt việc lồng ghép các nguồn vốn, kết hợp với
thu hút đầu tư trong dân và các thành phần kinh tế, việc bố trí vốn đầu tư
từ các nguồn ngân sách nhà nước thực hiện có trọng tâm, trọng điểm, nguồn ngân
sách Nhà nước đã đầu tư cho lĩnh vực kinh tế chiếm 55,3%, lĩnh vực xã hội -
môi trường 43,5%, quốc phòng - an ninh 1,1%, trong đó ngành giao thông vận tải
32%, y tế 11%, nông nghiệp và phát triển nông thôn 10%, giáo dục và đào tạo
10%, Quản lý nhà nước 10%, công nghiệp, thương mại và đầu tư hạ tầng khu, cụm
công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp 8%, còn lại đầu tư cho các lĩnh vực công cộng,
phúc lợi xã hội khác. Nhiều công trình lớn trên các lĩnh vực giao thông, thủy
lợi, y tế, giáo dục - đào tạo, nâng cấp đô thị, cấp điện, nước được tập trung
đầu tư hoàn thành và phát huy hiệu quả, tình trạng đầu tư dàn trải và thiếu
đồng bộ được khắc phục.
Tỷ trọng vốn đầu tư công của nhà nước
trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội đã giảm so với các năm trước (năm 2010: 43%,
năm 2011: 35,3, năm 2012: 32,8%, năm 2013: 30,4%, năm 2014: 22,7% và năm 2015:
18,6%). Điều đó cho thấy, tăng trưởng của tỉnh đã giảm bớt sự phụ thuộc vào vốn
đầu tư, trước mắt là đầu tư công, mà đang đi theo hướng đầu tư theo chiều
sâu, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả đầu tư. Từ đó hệ thống kết cấu
hạ tầng trong tỉnh đã có bước phát triển mới, tạo ra những tiền đề cần thiết,
từng bước đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa tỉnh nhà. Một số công
trình trọng điểm của tỉnh đã hoàn thành có sức lan tỏa, tạo động
lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, tạo ra diện mạo mới cho
Hậu Giang trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long như đầu tư hạ tầng khu, cụm
công nghiệp, các công trình kè, thủy lợi quan trọng và giao thông nông thôn;
xây dựng hoàn thành và đưa vào sử dụng đường nối Vị Thanh - Cần Thơ; hoàn thành
cơ bản đường ô tô về trung tâm xã; đê bao ngăn mặn Long Mỹ - Vị Thanh; nạo vét
kênh Xà No 2, hoàn thành xây dựng Bệnh viện Đa khoa tỉnh, Bệnh viện lao phổi;
các bệnh viện huyện, thị, thành phố đưa vào hoạt động có hiệu quả; chương trình
kiên cố hóa trường, lớp học; trụ sở làm việc các cơ quan cấp tỉnh; xây dựng mới
các công trình văn hóa, thể dục - thể thao, phát thanh - truyền hình.
Việc sử dụng các nguồn vốn đầu tư
ngày càng hiệu quả hơn, khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, phân tán, góp phần
nâng cao hiệu quả đầu tư theo đúng mục tiêu, định hướng của chiến lược, kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Trong cân đối vốn đầu tư, tỉnh đã tập
trung bố trí vốn các dự án đã hoàn thành, dự án chuyển tiếp, hạn chế việc triển
khai đầu tư dự án khởi công mới, từ đó nợ đọng trong xây dựng cơ bản giảm dần,
tính đến cuối năm 2015 tổng số nợ đọng của tỉnh còn khoảng 641 tỷ đồng.
Nguồn vốn trái phiếu Chính phủ
do Trung ương hỗ trợ đã phát huy được hiệu quả cao, phát triển mạng lưới giao
thông về đến tận xã, thúc đẩy hoạt động giao thương, cơ sở y tế đã đáp ứng được
nhu cầu khám chữa bệnh của người dân, cơ sở giáo dục đào tạo được mở rộng,
cải tạo và nâng cấp. Điển hình như đường nối Vị Thanh với thành phố Cần
Thơ được hoàn thành giai đoạn 1, 28 dự án giao thông đường ô tô về trung
tâm xã đã hoàn thành đưa vào sử dụng với tổng chiều dài 154km, 17 dự án y tế
bao gồm bệnh viện đa khoa tỉnh 500 giường, các bệnh viện tuyến huyện,
phòng khám đa khoa khu vực được đầu tư, có 03 dự án thủy lợi trọng điểm
hoàn thành đưa vào khai thác với chiều dài 47,7km, hoàn thành đưa vào sử dụng
849 phòng học kiên cố và 130 nhà công vụ cho giáo viên.
Nguồn ngân sách Trung ương hỗ trợ
có mục tiêu được bố trí đầu tư trên 100 dự án, đã hoàn thành đưa vào sử dụng
nhiều công trình trọng điểm, đặc biệt là Khu hành chính Tỉnh ủy và Khu hành
chính UBND tỉnh.
Nguồn ngân sách địa phương, tỉnh đã tập
trung cho các ngành thuộc lĩnh vực văn hóa - xã hội trên 62%.
Nguồn vốn ODA đã huy động được 16 dự
án, với tổng số vốn 750 tỷ đồng, trong đó 05 dự án đã hoàn thành, 09 dự án đang
thực hiện, 02 dự án chuẩn bị thực hiện, gồm 01 dự án thuộc nguồn vốn JICA Nhật
Bản và 01 dự án thuộc nguồn vốn Ngân hàng Thế giới.
Nguồn vốn NGO cũng góp phần quan trọng
trong huy động nguồn lực, có tổng giá trị cam kết cho các dự án là 2,458 triệu
USD, tổng giá trị giải ngân 1,438 triệu USD, đạt 60% so với giá trị cam kết tài
trợ.
Công tác xã hội hóa đầu tư có
chuyển biến tích cực, đã huy động gần 1.000 tỷ đồng vào phát triển hạ tầng
kinh tế - xã hội, nhất là ở nông thôn và việc xây dựng các trường mẫu
giáo, bệnh viện tuyến huyện và trạm y tế đạt chuẩn.
Mặc dù nỗ lực rất lớn, nhưng do
điểm xuất phát thấp nên hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội trong
tỉnh đến nay vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém, thiếu đồng bộ. Hạ tầng giao thông
chưa mang tính kết nối cao, hạ tầng xã hội thiếu về số lượng, yếu về chất lượng,
hiệu quả sử dụng chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu dịch vụ xã hội cơ bản, đặc
biệt là về y tế, giáo dục và vui chơi giải trí. Kết cấu hạ tầng nông thôn phát
triển chậm, chưa đáp ứng kịp cho yêu cầu công nghiệp hóa nông nghiệp,
hiện đại hóa nông thôn. So với kế hoạch 2011 -2015, còn một số dự án
chưa có vốn triển khai như đường Hậu Giang mở đến Giồng Riềng (Kiên Giang);
kè sông Ngã Bảy, Ngã Sáu; Bệnh viện sản nhi, Bệnh viện tâm thần và Bệnh viện Y
học dân tộc và còn 3 xã chưa có đường ô tô đến trung tâm.
7. Phát triển
đô thị và dân cư nông thôn
Năm 2010 trên địa bàn tỉnh có 14 đô
thị (01 đô thị loại III, 02 đô thị loại IV và 11 đô thị loại V), đến nay, có 15
đô thị (02 đô thị loại III, 01 đô thị loại IV và 12 đô thị loại V), thị xã
Ngã Bảy được công nhận đô thị loại III và đã thành lập thị xã Long
Mỹ. Tỷ lệ đô thị hóa tăng dần từ 21,3% năm 2010 lên 24,7% năm 2015,
bình quân mỗi năm tăng 0,68%, đạt mức trung bình của vùng đồng bằng
sông Cửu Long.
Kế hoạch chỉnh trang đô thị theo hướng
đô thị sáng - xanh - sạch - đẹp được phát động đi vào chiều sâu, diện mạo
đô thị của tỉnh Hậu Giang có nhiều thay đổi tích cực; đô thị được nâng cấp và
chỉnh trang, kiến trúc và cảnh quan đô thị đã được quan tâm đầu tư phát triển.
Công tác phát triển nhà ở đô thị và
nông thôn có nhiều chuyển biến. Chính sách chăm lo nhà ở cho các đối tượng
chính sách và người có công, người nghèo và người dân tộc đã được Trung ương và
tỉnh rất quan tâm. Tỉnh đã hỗ trợ cho 7.108 hộ nghèo có khó khăn về nhà ở theo
Quyết định số 167/2008/QĐ-TTg; triển khai 03 dự án nhà ở xã hội cho người có
thu nhập thấp có quy mô 2.124 căn hộ, 03 dự án nhà ở sinh viên; đang triển
khai Đề án hỗ trợ người có công với cách mạng về nhà ở theo Quyết định số
22/2013/QĐ-TTg cho 5.612 đối tượng. Nhiều dự án nhà ở hoàn thành đưa vào khai
thác, sử dụng đã đáp ứng nhà ở cho khu vực đô thị, điểm dân cư nông thôn, đến
năm 2015 diện tích sàn nhà ở bình quân đạt từ 19,6m²sàn/người, trong đó, khu
vực nông thôn từ 17,4m² sàn/người, khu vực thành thị từ 26,4 m² sàn/người.
Chương trình xây dựng cụm, tuyến dân
cư và nhà ở vùng ngập lũ đến nay cơ bản hoàn thành, đã bố trí cho
2.892/3.707 hộ thường xuyên bị sạt, lở vào sinh sống trong 10 cụm, tuyến dân cư
vượt lũ trên địa bàn 05 huyện và thị xã (gồm huyện Châu Thành, Châu Thành A,
Phụng Hiệp, Vị Thủy và thị xã Ngã Bảy), với tổng nguồn vốn đầu tư 312 tỷ đồng,
thực hiện được 237 tỷ đồng, đạt 76% kế hoạch;
Trong công tác quản lý xây dựng
tuy đã có nhiều nỗ lực giám sát, nhưng tình trạng xây cất trái phép, lấn
chiếm đất vẫn còn xảy ra ở các khu đô thị có mật độ dân cư đông, làm ảnh hưởng
đến công tác phát triển đô thị, cảnh quan kiến trúc. Đối với vùng nông thôn việc
xây dựng nhà ở của nhân dân chưa được quản lý chặt chẽ.
8. Phát triển
khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực
Về khoa học và công nghệ: một số công nghệ, thiết bị mới được các doanh nghiệp tích cực đầu tư
nhằm nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm. Hoạt động nghiên cứu
khoa học đã góp phần nâng cao hiệu quả và chất lượng chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
năng suất lao động. Các đề tài, dự án những năm qua tập trung chủ yếu vào các
lĩnh vực: nông nghiệp, kỹ thuật và công nghệ, y dược, xã hội, nhân văn, đã tạo
ra một số giống cây con mới có chất lượng cao, đầu tư thiết bị cho công tác kiểm
dịch động, thực vật, thủy sản; ứng dụng công nghệ trong chế biến lương thực -
thực phẩm, nhất là chế biến thủy sản, rau màu xuất khẩu; ứng dụng công nghệ
sinh học ở các mô hình sản xuất nông nghiệp có hiệu quả kinh tế, tính bền vững,
thân thiện với môi trường; ứng dụng công nghệ trong chăm sóc sức khỏe, phòng chống
dịch bệnh, công tác chẩn đoán và điều trị bệnh.
Một số công trình nghiên cứu có giá trị
khoa học và thực tiễn như phát triển vùng ca cao; vùng chuyên canh cây khóm
Queen “Cầu Đúc”; ứng dụng công nghệ trong sản xuất nấm ăn và nấm dược liệu,
các chế phẩm sinh học. Triển khai thực hiện 60 đề tài, dự án nghiên cứu
khoa học công nghệ, trung bình mỗi năm triển khai 10 - 13 đề tài, dự án. Chuyển
giao 74 đề tài, dự án ứng dụng vào thực tế. Trong các đề tài, dự án được triển
khai có đến 62% đề tài, dự án thuộc lĩnh vực nông nghiệp; 11% đề tài, dự án thuộc
lĩnh vực Kỹ thuật và Công nghệ; Y dược chiếm 5%, xã hội và nhân văn chiếm 21%.
Công tác thông tin khoa học và công nghệ được đẩy mạnh đã có những
đóng góp đáng kể vào sự phát triển của tỉnh.
Về giáo dục: Các chỉ tiêu về phát triển giáo dục và đào tạo đều đạt và vượt kế hoạch.
Cơ sở vật chất trường lớp được tiếp tục đầu tư xây dựng, mạng lưới trường, lớp
học tăng đáng kể nhất là vùng đồng bào dân tộc, vùng nông thôn; đã thu hút hầu
hết các học sinh trong độ tuổi đến trường, thể hiện qua tỷ lệ huy động học sinh
các cấp hàng năm đều tăng. Kết quả phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, phổ
cập THCS được giữ vững, tỉnh đang triển khai thực hiện phổ cập bậc trung học bước
đầu có hiệu quả. Chất lượng giáo dục và đào tạo từng bước được nâng lên; tỷ lệ
giáo viên được chuẩn hóa ngày càng tăng.
Tổng kinh phí cho đầu tư phát triển
cơ sở vật chất ngành giáo dục giai đoạn 2011 - 2015 là 1.529 tỷ đồng,
(trong đó, Trái phiếu Chính phủ: 353 tỷ đồng, Chương trình mục tiêu quốc gia:
94 tỷ đồng, vốn ODA: 20 tỷ đồng, ngân sách tỉnh: 815 tỷ đồng, xã hội hóa:
247 tỷ đồng). Năm 2015 ngành học mầm non và phổ thông có tổng số 338 trường,
tăng 19 trường so với năm 2010 (trong đó, Mầm non (mẫu giáo) 82 trường, tăng 11
trường; Tiểu học 171 trường, tăng 02 trường; THCS 62 trường, tăng 5 trường,
THPT 23 trường, tăng 01 truờng). Đặc biệt từ nguồn vận động xã hội hóa hàng
trăm tỷ đồng và ngân sách của địa phương đã đầu tư xây dựng 13 trường mầm
non, mẫu giáo, đến nay 100% xã, phường đều có trường mầm non. Tổng số phòng học
hiện có 6.451 phòng tăng so với năm 2010 là 1.481 phòng, trong đó, mẫu giáo là
916 phòng, tăng 153 phòng, tiểu học 3.081 phòng, tăng 479 phòng; trung học cơ sở
là 1.572 phòng, tăng 541 phòng, trung học phổ thông là 786 phòng, tăng 306
phòng, trung tâm giáo dục thường xuyên là 96 phòng, tăng 02 phòng.
Một số cơ sở trường học được
xây dựng mới như thành lập Trường THPT Vĩnh Tường huyện Vị Thủy, đầu tư xây dựng
hoàn chỉnh trường chuyên từ cơ sở hiện hữu, đã khởi công xây dựng trường Trung
cấp kinh tế - Kỹ thuật trong năm 2014, đầu tư xây dựng cơ sở 3 Trường Cao đẳng
Cộng đồng Hậu Giang tại thị xã Ngã Bảy đã đi vào hoạt động, xây dựng và đưa
vào sử dụng ký túc xá sinh viên Hậu Giang tại Trường Đại học Cần Thơ, phục vụ
cho sinh viên là đối tượng chính sách, người nghèo, người dân tộc trên
địa bàn tỉnh. Tính đến năm 2015 đã công nhận 152 trường đạt chuẩn quốc
gia, đạt tỷ lệ 45%, tăng 98 trường so năm 2010.
Đối với giáo dục thường xuyên (GDTX),
chuyên nghiệp: có 01 Trung tâm GDTX tỉnh; 07 Trung tâm GDTX huyện, thị xã,
thành phố, 74/74 Trung tâm học tập cộng đồng; 01 Trường Cao đẳng Cộng đồng, 01
Trường Trung cấp Kinh tế - Kỹ thuật và 01 Trường Đại học Võ Trường Toản, góp phần
đào tạo nguồn nhân lực cho địa phương.
Việc đổi mới chương trình, nội dung, phương
pháp giáo dục, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy và công
tác quản lý được tập trung thực hiện. Chất lượng giảng dạy và học tập từng
bước được nâng lên, tỷ lệ lên lớp bậc tiểu học 98,4%, công nhận tốt nghiệp tiểu
học đạt tỷ lệ 99,9%, công nhận tốt nghiệp THCS: 99,3%; công nhận tốt nghiệp bổ
túc THCS: 99,1%; tỷ lệ tốt nghiệp THPT: 99,6%; tốt nghiệp bổ túc THPT: 55,5%. Tỷ
lệ đạt chuẩn và trên chuẩn của giáo viên các ngành học, cấp học được nâng lên
đáng kể, cụ thể bậc học mầm non đạt chuẩn 100%, trong đó, vượt chuẩn 80%; tiểu
học đạt chuẩn 99,6%, trong đó vượt chuẩn 85%; THCS đạt chuẩn 100%, trong đó, vượt
chuẩn 70%; THPT đạt chuẩn 99,2%, trong đó vượt chuẩn 7,8%. Tỷ lệ học sinh bỏ học
các cấp 1,03%. Tỷ lệ huy động học sinh đi học so với dân số trên địa bàn đều
đạt kế hoạch, Nhà trẻ: 14% (kế hoạch 16%, năm 2010 là 8,5%); Mẫu giáo: 70%
(kế hoạch:71%, năm 2010 là 70%); Tiểu học 100% (kế hoạch: 99%, năm 2010 là
99%); Trung học cơ sở 100% (kế hoạch 91%, năm 2010 là 87%); Trung học phổ
thông 63% (kế hoạch là 66%, năm 2010 55%); có 150 sinh viên/vạn dân. Kết quả
công tác chống mù chữ và phổ cập giáo dục được giữ vững.
Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh” với cuộc vận động “Mỗi thầy giáo, cô giáo là tấm
gương đạo đức, tự học và sáng tạo”, cuộc vận động “Hai không” và phong trào thi
đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” được chỉ đạo thực hiện
tốt có hiệu quả.
Sự nghiệp giáo dục và đào tạo có phát
triển khá, nhưng vẫn còn những khó khăn, thách thức như: cơ sở vật chất phục
vụ công tác dạy và học còn hạn chế, nhất là ngành học mầm non; các chỉ tiêu huy
động trẻ vào nhà trẻ, xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia còn thấp so với mục
tiêu phát triển.
Về đào tạo nguồn nhân lực: Hệ thống các cơ sở dạy nghề trong tỉnh có bước phát triển,
trên địa bàn tỉnh hiện có 21 cơ sở đào tạo nghề đang hoạt động, (trong đó, có 01
Trường Cao đẳng nghề, 02 Trường Trung cấp nghề; 07 Trung tâm dạy nghề và 11 cơ
sở khác có tham gia dạy nghề). Cơ cấu ngành nghề đào tạo cũng được điều
chỉnh từng bước phù hợp nhu cầu, gồm 06 nghề trọng điểm cấp quốc gia tại
02 Trường trung cấp nghề là: kỹ thuật xây dựng, công nghệ ô tô, thú y, điện
công nghiệp, điện dân dụng, kỹ thuật sửa chữa, lắp ráp máy tính. Trong 5 năm
đã đào tạo nghề cho 41.147 lao động, đạt 93% so với kế hoạch. Trong đó đào tạo
Trung cấp nghề 3.033 lao động; sơ cấp nghề, dạy nghề dưới 03 tháng và dạy nghề
từ các chương trình, dự án khác là 38.114 lao động. Tỷ lệ lao động qua đào tạo
40% (năm 2010 là 20,6%), trong đó tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề đạt 21,36%
(kế hoạch là 25%, năm 2010 là 16,95%).
Đối với Hậu Giang, lao động nông
nghiệp còn chiếm 61% tổng số lao động đang làm việc, nên việc đào tạo
nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn được tập trung chỉ đạo. Tỉnh đã tổ
chức xây dựng chương trình, giáo trình dạy 40 nghề nông nghiệp trình độ sơ cấp
cho lao động nông thôn; thực hiện thông tin thị trường hàng hóa, hỗ trợ việc
tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, tư vấn học nghề và việc làm cho lao động nông
thôn. Tổng số lao động được học nghề nông nghiệp là 10.550 người, có 351.797 lượt
nông dân được chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật.
Về đào tạo thu hút nguồn nhân lực, tỉnh
đã ban hành các chính sách, chế độ, đãi ngộ đội ngũ trí thức, đội ngũ cán bộ
khoa học công nghệ. Thực hiện Nghị quyết Trung ương 7, khóa X về “Xây dựng đội
ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”,
đến nay đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đã được chuẩn hóa, từng
bước đáp ứng yêu cầu vị trí việc làm trong bộ máy quản lý nhà
nước trong tỉnh. Năm 2010 toàn tỉnh có 16 tiến sĩ; 250 thạc sĩ; 6.120 Đại học;
9.788 cao đẳng, trung cấp trở xuống. Đến nay, tỉnh đã có 32 tiến sỹ và chuyên
khoa 2; 390 thạc sỹ và chuyên khoa 1; 9.000 người có trình độ đại học;
7.500 người có trình độ cao đẳng, trung cấp; đây là lực lượng tiềm năng đóng
góp quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội.
Nguồn nhân lực của tỉnh tuy dồi
dào, nhưng chất lượng đào tạo và tỷ lệ qua đào tạo còn thấp, nhất là
đào tạo nghề lao động nông thôn, thiếu lao động có trình độ chuyên môn
cao, năng suất lao động thấp so với khu vực đồng bằng sông Cửu Long,
chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động trong quá trình
hội nhập và cạnh tranh.
9. Tình hình
thực hiện các quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội và các quy
hoạch ngành, lĩnh vực
Công tác quy hoạch luôn được sự quan
tâm, tạo cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng
cơ bản, phát triển ngành, sản phẩm chủ yếu; chất lượng các quy hoạch cũng từng
bước được cải thiện. Một số chiến lược, quy hoạch tổng thể, ngành của cả nước,
vùng đồng bằng sông Cửu Long được phê duyệt, đã tạo điều kiện thuận lợi để địa
phương có căn cứ lập quy hoạch tương quan trên địa bàn. Hầu hết các quy hoạch
được lập từ năm 2005, đến năm 2014 đã được điều chỉnh.
Tuy vậy, lĩnh vực quy hoạch vẫn
còn nhiều hạn chế và bất cập do chất lượng của một số báo cáo quy hoạch
đạt thấp, việc công bố quy hoạch còn hạn chế ở việc chưa phổ biến sâu rộng cho
nhân dân và các doanh nghiệp. Việc triển khai thực hiện các quy hoạch chưa được
quan tâm nghiêm túc và đúng mức, tình trạng quản lý phát triển kinh tế - xã hội
tự phát, không tuân thủ các quy hoạch còn xảy ra phổ biến, dẫn đến việc phải điều
chỉnh, bổ sung quy hoạch khá thường xuyên. Điều này dẫn đến tình trạng quy hoạch
phải chạy theo công tác quản lý, thay vì công tác quản lý phải bám sát và tuân
thủ quy hoạch được duyệt. Trong quá trình triển khai thực hiện phần lớn các quy
hoạch còn thiếu quan tâm đánh giá, điều chỉnh giữa kỳ; công tác đánh giá, tổng
kết cuối kỳ quy hoạch đôi lúc chưa được thực hiện. Sự phối hợp giữa các sở,
ban, ngành và địa phương chưa nhịp nhàng dẫn đến một số quy hoạch có sự chồng
chéo, chưa thống nhất giữa quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội và quy hoạch ngành,
quy hoạch xây dựng và quy hoạch sử dụng đất. Trong một số đồ án quy hoạch xây dựng,
quy hoạch chi tiết chưa phủ kín hết diện tích đồ án quy hoạch chung; chưa ban
hành đầy đủ các quy định quản lý theo quy hoạch được duyệt, quy chế quản lý
không gian, kiến trúc, cảnh quan trên địa bàn đô thị; việc thực hiện cắm mốc
chưa được triển khai đồng bộ gây khó khăn trong công tác quản lý quy hoạch và cấp
phép xây dựng.
10. Phát triển
các lĩnh vực xã hội
a) Công tác giảm nghèo, giải
quyết việc làm và thực hiện các chính sách an sinh xã hội
Những năm qua, công tác xóa đói giảm
nghèo đã đem lại nhiều kết quả thật sự có ý nghĩa thông qua việc đầu
tư cơ sở hạ tầng, hỗ trợ phát triển sản xuất, cho hộ nghèo vay vốn tín dụng ưu
đãi, hỗ trợ dạy nghề gắn với tạo việc làm, hỗ trợ về y tế và giáo dục, hoạt
động trợ giúp pháp lý, nâng dần mức sống dân cư ở các xã nghèo, các vùng khó
khăn, chống tái nghèo. Tạo điều kiện thuận lợi để người thất nghiệp, người thiếu
việc làm và người nghèo tiếp cận được các dịch vụ công, được trợ giúp hướng
nghiệp, giới thiệu việc làm, giúp người nghèo tăng thu nhập. Trong 5 năm toàn tỉnh
đã hỗ trợ xây dựng cho 3.652 căn nhà cho hộ nghèo, tổng kinh phí thực hiện trên
75 tỷ đồng; từ nguồn vận động “Quỹ vì người nghèo” toàn tỉnh đã xây dựng mới
và sửa chữa 1.571 căn nhà tình thương cho hộ nghèo, với tổng kinh phí thực hiện
hơn 29 tỷ đồng và trợ cấp khó khăn đột xuất trên 79 tỷ đồng. Với
những nỗ lực trên, tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh đã giảm từ 22,8% năm 2010 xuống
còn 6,23% năm 2015, bình quân mỗi năm giảm tỷ lệ hộ nghèo 3,3%, vượt kế hoạch
đề ra. Tỷ lệ hộ cận nghèo toàn tỉnh giảm từ 11,25% năm 2010 xuống còn 5,89% năm
2015, bình quân mỗi năm giảm trên 01%. Đời sống vật chất, tinh thần
của dân tộc thiểu số được cải thiện đáng kể, tỷ lệ hộ nghèo trong
đồng bào dân tộc đã giảm từ 35,5% năm 2010 xuống còn 14,6% cuối năm
2015, bình quân mỗi năm giảm 4%, hộ khá có tăng lên, trong đồng bào
thiểu số có 20% hộ là nông dân sản xuất giỏi. So với các địa phương
trong cả nước, thì tỷ lệ hộ nghèo của Hậu Giang vẫn còn cao, trong
công tác giảm nghèo việc xây dựng kế hoạch ở cấp xã từng lúc từng nơi chưa
cụ thể, thiếu sự phân công theo dõi, ảnh hưởng đến chất lượng và tính bền
vững của kết quả giảm nghèo.
Các chính sách xã hội, chăm sóc người
có công với nước, đối tượng bảo trợ xã hội, người đồng bào dân tộc được quan
tâm và từng bước xã hội hóa. Việc phụng dưỡng Bà Mẹ Việt Nam anh hùng, chăm sóc
thân nhân liệt sĩ già yếu cô đơn, đỡ đầu con liệt sĩ mồ côi không nơi nương tựa
thu được những kết quả tốt trong các năm qua. Toàn tỉnh có trên 97% hộ gia
đình chính sách có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của dân cư địa
phương nơi cư trú; hơn 90% xã, phường, thị trấn làm tốt công tác thương binh liệt
sĩ và người có công; hàng năm, đều có đầu tư ngân sách để nâng cấp, sửa chữa
công trình nghĩa trang liệt sĩ.
Công tác chính sách đối với
người có công được thực hiện tốt, tiếp nhận và giải quyết chính sách trên
16.900 hồ sơ các loại, trong đó hồ sơ đề nghị và đã tổ chức lễ phong,
truy tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà Mẹ Việt Nam anh hùng là 1.187
Bà Mẹ; hồ sơ đề nghị hưởng chính sách thờ cúng liệt sĩ là 5.464 hồ
sơ; tù đày 550 hồ sơ; người phục vụ Mẹ Việt Nam anh hùng 130 hồ sơ,
chất độc hóa học 106 hồ sơ....Tỉnh đã hỗ trợ cho 420 đối tượng người có
công với cách mạng cải thiện nhà gần 10 tỷ đồng; xây dựng được 242 căn nhà
tình nghĩa 7,3 tỷ đồng. Hàng năm, thực hiện trợ cấp thường xuyên cho gần
10.000 đối tượng có công, cấp mới trên 16.000 thẻ bảo hiểm xã hội; tổ chức
khám bệnh, giải quyết chế độ mai táng phí, thực hiện trợ cấp khó khăn đột xuất,
trợ cấp một lần, điều dưỡng tại gia đình cũng như điều dưỡng tập trung... kịp
thời cho các đối tượng với tổng kinh phí trên 100 tỷ đồng. Tuy vậy trong
thực hiện chính sách, quy trình xem xét, giải quyết một số loại hồ
sơ người có công còn kéo dài, hồ sơ chính sách còn nhiều trường hợp khó
khăn, thiếu các giấy tờ cần thiết, thực trạng thông tin giữa hồ sơ gốc và đối
tượng trong thực tế chưa đầy đủ hoặc không trùng khớp.
Công tác giáo dục chăm sóc bảo vệ trẻ
em được quan tâm, toàn tỉnh có 74/76 xã, phường, thị trấn được công nhận xã phường
phù hợp trẻ em, chiếm tỷ lệ 97% tổng số xã. Tổng số xã, phường, thị trấn lành
mạnh không tệ nạn ma tuý, mại dâm, được công nhận đến nay là 48 đơn vị,
chiếm tỷ lệ 63,1% tổng số xã trên địa bàn tỉnh.
Bằng nhiều biện pháp như tổ chức dạy
nghề, cho vay vốn từ Quỹ quốc gia giải quyết việc làm..., tạo điều kiện cho người
lao động sản xuất kinh doanh, đã giải quyết việc làm cho 114.506 lao động, bình
quân mỗi năm giải quyết 22.900 lao động, vượt 18,4% so với kế hoạch. Trong
đó có 156 lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Cơ cấu lao động tiếp
tục chuyển dịch phục vụ cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế từng vùng, từng lĩnh
vực; giảm dần tỷ trọng khu vực nông - lâm - ngư nghiệp xuống 61%, tăng lao động
trong khu vực công nghiệp và xây dựng 14,97%; thương mại - dịch vụ 24,03%; giảm
tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị xuống 4,25%, riêng tỷ lệ thiếu việc làm ở
khu vực nông thôn vẫn còn ở mức cao 9% (đồng bằng sông Cửu Long là 6%).
Việc quản lý nguồn lao động tại các địa phương, lao động đang làm việc trong
các doanh nghiệp còn nhiều bất cập. Công tác quản lý, nắm bắt thông tin về tình
hình lao động, việc làm chưa sát thực, công tác xuất khẩu lao động rất
thấp không như mong đợi. Công tác dạy nghề so với yêu cầu vẫn còn
nhiều mặt hạn chế như: chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa ngành Lao
động - Thương binh và Xã hội và ngành Nông nghiệp trong công tác dạy
nghề; các đoàn thể cũng như địa phương chưa quan tâm đến công tác tuyên
truyền, nắm nhu cầu và tư vấn tham gia học nghề phù hợp cho từng đối
tượng. Nhận thức của người dân về quyền lợi trong học nghề, ý thức
học nghề để tự tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo, cải thiện cuộc
sống chưa cao. Một số ít học viên chưa thật sự quyết tâm học nghề,
chưa chủ động tìm kiếm việc làm, tự tạo việc làm, còn trông chờ
vào Nhà nước, đôi khi người học bỏ nghề vì thiếu ý chí vươn lên
thoát nghèo.
b) Dân số, y tế và chăm sóc
sức khỏe nhân dân
Công tác dân số, kế hoạch hóa gia
đình và chăm sóc sức khỏe sinh sản trong những năm qua luôn đạt các chỉ tiêu cơ
bản, đã tập trung giải quyết căn bản vấn đề về quy mô dân số trên cơ sở giảm
nhanh mức sinh. Nâng cao chất lượng dân số, phát triển nguồn nhân lực, góp phần
vào sự phát triển nhanh và bền vững của tỉnh; 100% tuyến y tế huyện thực hiện
được phương pháp đình sản nam nữ, 100% tuyến y tế xã đã thực hiện được các biện
pháp tránh thai, nhiều năm liền, Hậu Giang là một trong những tỉnh được xếp vào
nhóm có thành tích cao trong Chiến dịch và đứng đầu trong cả nước. Tỷ lệ áp dụng
các biện pháp tránh thai hiện đại đã tăng lên hàng năm từ 54,7% năm 2010 lên
72,5% vào năm 2015; tỷ lệ sinh con lần thứ 3 trở lên là 10,88% năm 2010, giảm
xuống còn 10% vào năm 2015; số con trung bình của mỗi phụ nữ trong độ tuổi sinh
đẻ từ 1,94 con năm 2010 giảm xuống còn 1,78 con vào năm 2015; tỷ số giới tính
khi sinh (số bé trai/100 bé gái) duy trì trong khoảng từ 107 - 110 cho cả giai
đoạn 2011 - 2015, nhưng vẫn thấp hơn trung bình cả nước (cả nước 114,4). Hiện tại
Hậu Giang chưa có sự chênh lệch về mất cân bằng giới tính khi sinh.
Tập trung nâng cấp cơ sở hạ tầng y
tế là một trong những mục tiêu quan trọng của tỉnh, được cả hệ thống
chính trị và toàn xã hội đặc biệt quan tâm, huy động nhiều nguồn đầu tư
cho mạng lưới khám chữa bệnh, từ ngân sách nhà nước, trái phiếu Chính phủ, vốn
ODA và xã hội hóa. Toàn tỉnh có 02 bệnh viện đã hoàn thành và đưa vào sử
dụng (Bệnh viện Đa khoa Hậu Giang và Bệnh viện Lao & Bệnh phổi). Đối với hệ
thống bệnh viện tuyến huyện, đã hoàn thành và đưa vào sử dụng 05 bệnh viện:
là Bệnh viện đa khoa khu vực Ngã Bảy, Bệnh viện đa khoa huyện Châu Thành, Bệnh
viện đa khoa huyện Châu Thành A, Bệnh viện đa khoa huyện Vị Thủy và Bệnh viện
đa khoa huyện Phụng Hiệp và mở rộng bệnh viện đa khoa huyện Long Mỹ đang trong
quá trình triển khai thực hiện và hoàn thành trong năm 2015; bệnh viện đa
khoa thành phố Vị Thanh hoàn thành trong năm 2016; Trung tâm Phòng chống HIV/AIDS
đã hoàn thành, trung tâm Y tế dự phòng đang triển khai. Đối với y tế xã, đã
khởi công xây mới, mở rộng, sửa chữa nâng cấp các trạm y tế xã bao gồm 47 công
trình, từ nguồn kinh phí 169 tỷ đồng của ngân sách tỉnh và xã hội hóa.
Đến nay toàn tỉnh có 09 bệnh viện đa khoa và 01 Trung tâm Phòng chống bệnh xã
hội, 08 Phòng khám đa khoa khu vực và 67 trạm y tế xã.
Mạng lưới hành nghề y dược tư nhân
cũng khá phát triển, đáp ứng cho người dân dễ dàng tiếp cận các dịch vụ y tế
phổ cập và làm giảm tải cho các bệnh viện. Toàn tỉnh có: 01 bệnh viện tư nhân
(Bệnh viện đa khoa số 10, quy mô 50 giường); 01 bệnh viện Đại học Võ Trường Toản
quy mô 300 giường bệnh, cùng với hơn 430 cơ sở hành nghề y các loại và y học cổ
truyền. Thời gian qua mạng lưới y dược học cổ truyền của tỉnh đã có những thay
đổi đáng kể, hệ thống y tế tư nhân có 31 phòng chẩn trị y học cổ truyền, 41 nhà
thuốc.
Tỷ lệ trạm y tế xã, phường, thị trấn
đạt chuẩn quốc gia về y tế xã 82,89%. Số xã có bác sỹ năm 2010 là 67,12% tăng
lên 90% vào năm 2015. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng còn 12,8% (năm
2010 là 16%), số giường bệnh trên 1 vạn dân 27,15 giường (cả nước là 29 giường),
có 6,3 bác sĩ/vạn dân, trẻ em tử vong dưới 1 tuổi còn 10,2‰ (năm 2010 là 11‰ và
tử vong dưới 5 tuổi còn 15,4 ‰ (năm 2010 là 18 ‰). Chất lượng dân số được nâng
dần, mức giảm sinh 0,057‰. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên 10,25‰ (năm 2010 là 11‰).
Tỷ lệ người dân tham gia các hình thức bảo hiểm y tế 65% (năm 2010 là 50%). Tuổi
thọ trung bình của người dân đã tăng lên đáng kể, từ 74 tuổi năm 2010 lên 75
tuổi, cao hơn mặt bằng chung của toàn quốc là 73 tuổi. Một số chính sách về
nâng cao chất lượng dịch vụ được ban hành, thực hiện, mang lại hiệu quả cao nhờ
đó, số người khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế công lập và trạm y tế xã đã tăng
cao, đạt mức bình quân gần 3 lần khám/người/năm (cao hơn 30% so với mức bình
quân chung của cả nước). Nhiều kỹ thuật tiên tiến đã được triển khai tại tỉnh
đã làm giảm được tỷ lệ chuyển tuyến và quá tải ở các bệnh viện tuyến trên và giảm
chi phí điều trị cho người bệnh.
Công tác nâng cao chất lượng khám, chữa
bệnh cho nhân dân, phòng, chống dịch bệnh, giám sát và xử lý môi trường tại các
điểm có nguy cơ xảy ra dịch, đẩy mạnh truyền thông về vệ sinh an toàn thực phẩm,
là nhiệm vụ thường xuyên, được tập trung chỉ đạo, kết quả trên địa bàn
tỉnh không xảy ra dịch lớn.
Bên cạnh những thuận lợi, công tác
chăm sóc sức khỏe nhân dân còn gặp một số khó khăn: trang thiết bị một số nơi
còn thiếu hoặc xuống cấp, ảnh hưởng đến chất lượng khám, chữa bệnh cho nhân
dân; việc khám, chữa bệnh bằng Bảo hiểm y tế còn hạn chế nhất định; một số công
trình xây dựng cơ bản triển khai thực hiện chậm,... Cơ sở hạ tầng cho hệ y tế dự
phòng, nhất là y tế dự phòng tuyến huyện chưa đầy đủ, chất lượng khám và
điều trị tại trạm y tế xã còn yếu. Một số cơ sở y tế chưa đảm bảo điều
kiện tối thiểu về xử lý chất thải y tế. Hầu hết hệ thống xử lý nước thải của bệnh
viện đã được xây dựng từ lâu, lạc hậu và xuống cấp, công nghệ xử lý chưa đảm bảo
tiêu chuẩn môi trường. Mặc dù chất lượng khám và điều trị bệnh có
được nâng lên, nhưng vẫn còn thấp so với khu vực và cả nước, chưa đáp
ứng nhu cầu điều trị của người dân. Chất lượng dân số cũng còn thấp,
thể hiện qua các tố chất về thể lực, chiều cao.
c) Văn hóa, thể thao, du lịch,
thông tin truyền thông
Công tác tuyên truyền phục vụ kịp
thời các nhiệm vụ chính trị của địa phương, nổi bật là góp ý dự thảo sửa đổi Hiến
pháp 1992, tình hình biển đảo, các Nghị quyết của Đảng và Chính phủ về kiềm
chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo an sinh xã hội, các chính sách
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, các ngày lễ, kỷ niệm của đất
nước, “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; kỷ niệm 10 năm
thành lập tỉnh, đặc biệt là Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hậu Giang lần thứ
XIII, nhiệm kỳ 2015-2020 và Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII,… đáp ứng kịp thời
nhu cầu hưởng thụ văn hóa nghệ thuật và góp phần nâng cao đời sống tinh thần
cho nhân dân trong tỉnh, nhất là vùng sâu, vùng đồng bào dân tộc.
Tổ chức tốt các cuộc hội thi, hội diễn
của tỉnh hàng năm và định kỳ như: Hội thi thuyền văn hóa - Đội Thông tin lưu động,
Liên hoan các nhóm ca khúc, Hội thi kịch ngắn - kịch vui, Hội thi hoạt động
tuyên truyền cổ động…Tham gia các kỳ liên hoan, hội thi, hội diễn toàn quốc và
khu vực (hội thi Tuyên truyền lưu động toàn quốc, liên hoan tiếng hát hẹn hò 9
dòng sông, liên hoan Đờn ca tài tử khu vực miền Tây Nam bộ, Ngày hội văn hóa
Khmer Nam Bộ, Festival Đờn ca tài tử tại Bạc Liêu…) đều đạt thứ hạng cao.
Cơ sở vật chất văn hóa từ tỉnh đến cơ
sở được đầu tư, nâng cấp; các khu di tích lịch sử văn hóa và phòng truyền thống
trong tỉnh, nhất là các khu di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia được quan tâm
chỉnh trang, bổ sung về nội dung, hình thức phục vụ cho nhu cầu tham quan, thăm
viếng của du khách và nhân dân vào dịp lễ, Tết, kỷ niệm; công nhận mới 4 di
tích lịch sử văn hóa, nâng tổng số di tích lịch sử văn hóa trong toàn tỉnh lên
15 di tích (trong đó, có 01 di tích được công nhận cấp quốc gia đặc biệt là Chiến
thắng Chương Thiện, 8 di tích cấp quốc gia, 6 di tích cấp tỉnh); nhiều di tích
lịch sử văn hóa được đầu tư nâng cấp, trùng tu, tôn tạo như: khu di tích Đền thờ
Bác Hồ, Căn cứ liên Tỉnh ủy, di tích Chiến thắng Tầm Vu, khu di tích Căn cứ Tỉnh
ủy Cần Thơ và cụm tượng đài di tích Địa điểm thành lập Tiểu đoàn Tây Đô, di
tích Chiến thắng Vàm Cái Sình… Đặc biệt nhân dịp kỷ niệm 10 năm thành lập tỉnh,
đã khánh thành đưa vào sử dụng công trình Nhà trưng bày và phần trưng bày ngoài
trời thuộc dự án xây dựng tôn tạo khu di tích Chiến thắng 75 lượt Tiểu đoàn địch
của quân và dân Khu 9 tại thành phố Vị Thanh (di tích cấp quốc gia đặc biệt Chiến
thắng Chương Thiện), tổ chức sưu tầm mới trung bình trên 350 hiện vật/năm.
Lĩnh vực du lịch từng bước phát
triển, năm 2015 có 200.000 lượt khách du lịch, tăng bình quân 8%/năm, trong
đó có 5.000 lượt khách quốc tế và 195.000 lượt khách nội địa, doanh thu 40 tỷ đồng.
Hàng năm tỉnh đều tham gia các hoạt động du lịch nhằm quảng bá hình ảnh, sản
phẩm du lịch Hậu Giang. Hiện nay đang triển khai dự án xây dựng loại hình du lịch
cộng đồng tại vùng khóm Cầu Đúc; dự án Bảo tồn và phát huy Chợ nổi Ngã Bảy gắn
với phát triển du lịch sông nước miệt vườn; dự án Khu du lịch sinh thái Việt Úc
- Hậu Giang; Trung tâm Nông nghiệp Mùa Xuân; Khu bảo tồn thiên nhiên Lung Ngọc
Hoàng, đây là những dự án đột phá cho du lịch sinh thái tỉnh nhà.
Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa” nay là phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hóa và nông thôn mới” tiếp tục được triển khai sâu rộng và đi vào thực chất,
xây dựng được 55/76 xã, phường, thị trấn văn hóa (năm 2010 là 42 xã), đạt tỷ lệ
72,36% (chỉ tiêu 65-70%); có 94% số hộ đạt tiêu chuẩn gia đình văn
hóa (năm 2010 là 91,6%); 67 nhà văn hóa xã (năm 2010 là 54 nhà); trong quá
trình tổ chức, chỉ đạo và phát động phong trào, đã xây dựng thành công và
nhân rộng nhiều mô hình, điển hình tiêu biểu, như “Xóm đạo bình yên”, “Khu
văn hóa gia đình”, “Nhà văn hóa dân lập”, “Tổ nhân dân tự quản kiểu
mẫu”, trong đó nổi bật là việc tổ chức cuộc thi “Mô hình có cảnh quan,
môi trường sáng, xanh, sạch, đẹp”. Kể từ khi Cuộc thi được phát động lần đầu
tiên năm 2010, đến nay vẫn duy trì tổ chức hằng năm mang lại nhiều hiệu quả
thiết thực và được sự đồng tình hưởng ứng cao trong nhân dân và các cơ
quan, đơn vị.
Lĩnh vực thể dục thể thao (TDTT)
có nhiều khởi sắc, đã xây dựng và đưa vào sử dụng Nhà thi đấu đa năng tỉnh, là
địa điểm thuận lợi để tập luyện và đăng cai tổ chức các giải thể thao thành
tích cao. Số người luyện tập thể dục thể thao thường xuyên đạt 34,5% dân số
(năm 2010 là 26%). Số gia đình thể thao 42.786 hộ, đạt 22% tổng số hộ trong
toàn tỉnh (năm 2010 có 28.439 hộ); 80% xã, phường có phong trào hoạt động TDTT
thường xuyên; 1.120 câu lạc bộ TDTT (năm 2010 có 962 câu lạc bộ). Đối với thể
thao thành tích cao mặc dù chưa phát triển mạnh, nhưng bước đầu đã đạt được
thành tích đáng kể ở một số môn như: bóng rổ, Vovinam, Judo, Teawondo,
Karatedo, tham dự các giải thi đấu khu vực, toàn quốc đều đạt nhiều Huy chương
các loại.
Lĩnh vực văn hóa, thể thao và du
lịch vẫn còn nhiều hạn chế chủ yếu là hệ thống thiết chế văn hóa, thể
thao ở một số địa phương, đã xuống cấp chưa có vốn đầu tư sửa chữa, việc huy
động nguồn lực xã hội hóa phục vụ hoạt động văn hóa, thể dục thể thao chưa cao
và đạt kết quả tương xứng. Phong trào TDTT quần chúng có phát triển nhưng chưa
đều, lực lượng vận động viên của các môn thể thao, nhất là vận động viên trẻ
còn mỏng; cơ sở vật chất - trang thiết bị phục vụ tập luyện của quần chúng và
đào tạo vận động viên thành tích cao còn thiếu và lạc hậu; các câu lạc bộ văn
hóa, văn nghệ ở cơ sở thành lập nhiều nhưng thực chất hoạt động còn yếu. Ngành
du lịch chưa phát triển tương xứng với tiềm năng của tỉnh, hiệu quả hoạt động
kinh doanh du lịch còn thấp, sản phẩm du lịch còn đơn điệu, chất lượng dịch vụ
chưa cao; các điểm tham quan du lịch hiện nay chủ yếu dựa vào di tích lịch sử -
văn hóa có sẵn, chưa được đầu tư mang tính chuyên nghiệp và bền vững; quảng bá
du lịch còn thiếu tính chuyên nghiệp.
Bưu chính viễn thông tiếp tục phát
triển, 100% xã, phường, thị trấn có điểm phục vụ bưu chính, viễn thông, 30% các
ấp có điểm phục vụ internet. Toàn tỉnh có 78 điểm giao dịch bưu chính. Mật độ
điện thoại 92 máy/100 dân, số thuê bao internet băng thông rộng đạt 1,5 thuê
bao/100 dân, đạt mức khá trong khu vực. Việc ứng dụng công nghệ thông tin của
Hậu Giang đạt mức khá so với 63 tỉnh thành trong cả nước, đã góp phần hiện đại
hóa nền hành chính nhà nước như ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác báo
cáo, trao đổi, cung cấp, thu thập thông tin, sử dụng có hiệu quả hệ thống mạng
nội bộ, thư điện tử, góp phần tiết giảm kinh phí, giảm giấy tờ, giảm hội họp, hạn
chế được việc in ấn phát hành văn bản. Hầu hết các sở, ngành, huyện, thị xã,
thành phố và UBND tỉnh sử dụng chung phần mềm quản lý văn bản trong điều hành
quản lý có hiệu quả. 5 năm qua tỉnh đã triển khai các dự án lớn về
công nghệ thông tin như Dự án “Nâng cao khả năng sử dụng máy tính và truy cập
Internet công cộng tại Việt Nam” do Bộ Thông tin và Truyền thông triển khai tại
tỉnh Hậu Giang năm 2013; dự án “Nâng cấp, hiện đại hóa cơ sở hạ tầng Công nghệ
thông tin cho các Sở Thông tin và Truyền thông” do Bộ Thông tin và Truyền thông
làm chủ đầu tư. Đến nay, toàn tỉnh có 100% các cơ quan chuyên môn thuộc tỉnh,
UBND các huyện, thị xã, thành phố đã có mạng LAN, 34 đơn vị cấp tỉnh, 74 đơn vị
thuộc UBND các huyện, thị xã, thành phố đã kết nối mạng LAN phục vụ công việc
trong nội bộ cơ quan. Phần mềm Một cửa điện tử đã triển khai trong toàn tỉnh và
chính thức đi vào hoạt động tháng 9 năm 2013. Hệ thống truyền hình hội nghị trực
tuyến đã được triển khai thực hiện; UBND các huyện, thị xã, thành phố, đang triển
khai áp dụng chữ ký số và chứng thực chữ ký số cho lãnh đạo các sở, ban, ngành
tỉnh.
Lĩnh vực công nghệ thông tin của
tỉnh vẫn còn thấp so với trong vùng, tình hình sử dụng phần mềm mã nguồn
mở trong hệ thống cơ quan nhà nước chưa nhiều do chưa có sự thống nhất của các
ngành, địa phương trong việc giao dịch điện tử bằng phần mềm này. Các cơ quan
báo chí trong tỉnh đôi lúc còn bỏ sót thông tin trên địa bàn, hoặc thông tin chậm
hơn so với các báo Trung ương. Công tác đào tạo, tập huấn về an toàn an ninh
thông tin vẫn còn hạn chế.
d) Quản lý đất đai, bảo vệ môi
trường và phát triển bền vững
Tỉnh đã triển khai thực hiện nhiều dự
án, đề án phục vụ thiết thực cho công tác quản lý nhà nước về tài nguyên và môi
trường, như dự án đo đạc tổng thể; quy hoạch đất đai, môi trường, nước dưới đất,
khoáng sản, xây dựng cơ sở dữ liệu tài nguyên và môi trường... Cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất đạt 99,83% hộ, tình trạng tranh chấp đất đai giảm nhiều
và không đáng kể so thời kỳ trước là điều kiện quan trọng để ổn định và phát
triển sản xuất.
Công tác truyền thông nâng cao nhận
thức bảo vệ môi trường được triên khai đến cho mọi người, xây dựng hệ thống cơ
sở dữ liệu về thông tin khoa học công nghệ môi trường phục vụ mọi đối tượng
được các cấp, các ngành quan tâm, thực hiện.
Công tác phòng ngừa và kiểm soát ô
nhiễm môi trường trong công nghiệp; công tác thẩm định báo cáo tác động môi trường
được thực hiện tốt. Các hoạt động điều tra cơ bản được tiến hành thường xuyên,
thu thập và xử lý số liệu về các điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên,
làm căn cứ xây dựng và điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch của tỉnh và huyện,
thị xã, thành phố.
Việc triển khai thực hiện các chương
trình, dự án về ứng phó với biến đổi khí hậu được chú trọng, Hậu Giang đã
được Thủ tướng Chính phủ thống nhất cho triển khai 02 dự án ưu tiên thuộc
chương trình biến đổi khí hậu, gồm: hệ thống cống ngăn mặn Nam kênh Xà No
- tỉnh Hậu Giang, tổng mức đầu tư 297 tỷ đồng, đã thực hiện được 60%;
dự án Nâng cấp bờ bao, kè kết hợp với đường giao thông đoạn từ thị trấn Cây
Dương đến ngã ba Vĩnh Tường, có tổng mức đầu tư 549 tỷ đồng, đang triển
khai.
Các chương trình, dự án về xử lý rác
thải được quan tâm, tỉnh đã hoàn thành việc cải tạo, khắc phục ô nhiễm môi
trường tại 2 bãi rác Hỏa Tiến và Long Mỹ và được cấp giấy chứng nhận hoàn thành
các hạng mục bảo vệ môi trường. Triển khai nhân rộng mô hình thu gom và xử lý
rác thải sinh hoạt tại hộ gia đình, hỗ trợ các xã triển khai thực hiện tiêu chí
môi trường trong xây dựng xã nông thôn mới.
Mặc dù đạt được kết quả cao trong
công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng từng nơi, từng lúc còn
những hạn chế như hồ sơ thực hiện chưa đầy đủ, chưa đúng quy định; thực hiện
thủ tục hành chính, trả kết quả trễ hẹn, việc xét duyệt nguồn gốc đất, thời điểm,
mục đích sử dụng đất, lập thủ tục niêm yết công khai trường hợp đủ điều kiện,
không đủ điều kiện cấp giấy tại UBND cấp xã, phường, thị trấn chưa đầy đủ, còn
nhiều sai sót, chưa đúng trình tự, thủ tục quy định, còn sai sót trong nghiệp vụ.
Trong giải quyết đơn thư tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về tài nguyên và môi trường
còn một số vụ việc chậm do đây là những vụ việc, phức tạp, tồn đọng kéo dài phải
xin ý kiến của Bộ, ngành Trung ương.
e) Công tác tôn giáo
Thực hiện chính sách tôn giáo
của Đảng và Nhà nước, tỉnh luôn tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo
hoạt động. Làm tốt công tác mặt trận, đoàn kết tôn giáo, phát huy truyền thống
yêu nước của đồng bào theo đạo. Thực hiện tốt các chính sách tôn trọng và bảo
đảm quyền tự do tín ngưỡng. Giải quyết tốt các vấn đề tôn giáo nhằm thực hiện
thắng lợi công cuộc đổi mới, vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng
văn minh. Bảo đảm được đời sống tín ngưỡng, tôn giáo, gắn với vấn đề dân tộc,
nông dân và dân nghèo đô thị, đặc biệt là vùng nông thôn kém phát triển và dân
tộc. Đang triển khai dự án Thiền viện Trúc Lâm Hậu Giang với nguồn vận
động xã hội hóa 210 tỷ đồng, diện tích 4,2 ha, xây dựng tại ngã ba Vĩnh
Tường, xã Long Bình, huyện Long Mỹ. Đây sẽ là nơi trên 250 chức sắc, nhà tu
hành tham gia sinh hoạt tôn giáo và đáp ứng nhu cầu tâm linh của gần 94.730
Tăng, Ni, Phật tử và Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Hậu Giang.
f) Công tác bình đẳng giới và
phát triển thanh niên
Công tác tuyên truyền, phổ biến Luật
bình đẳng giới, vì sự tiến bộ phụ nữ được quán triệt đến cán bộ, công chức và
các tầng lớp nhân dân bằng nhiều hình thức; xây dựng thí điểm 02 mô hình “Giảm
thiểu tác hại của bạo lực trên cơ sở giới” và “Bình đẳng giới và hôn nhân gia
đình”. Phối hợp với các đơn vị liên quan tổ chức 47 lớp tập huấn về nghiệp vụ
bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ và kỹ năng lãnh đạo, quản lý cho 2.932
lượt lãnh đạo các cấp từ tỉnh đến cơ sở. Tỷ lệ nữ tham gia vào cấp ủy, lãnh đạo
chính quyền tăng so với nhiệm kỳ trước. Tuy vấn đề về bình đẳng giới có nhiều
bước tiến đáng kể, nhưng khoảng cách về giới vẫn còn nhiều tồn tại cần tiếp tục
giải quyết để góp phần cải thiện có hiệu quả hơn trong lĩnh vực bình đẳng
giới. Tỷ lệ nữ tham gia hệ thống chính trị còn thấp và đang từng bước cải thiện.
Các cấp trong tỉnh luôn quan tâm
triển khai thực hiện tốt Chiến lược Quốc gia về thanh niên; tăng cường công tác
dạy nghề, hỗ trợ thanh niên tìm việc làm, khuyến khích phát triển phong trào
thanh niên lập nghiệp, thanh niên tham gia phát triển tin học, nghiên cứu khoa
học phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
11. Hợp tác và
liên kết vùng
Các năm qua, việc hợp tác giữa tỉnh
Hậu Giang với thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Cần Thơ trong các lĩnh vực chuyển
giao công nghệ sinh học, công nghệ chế biến, bảo quản sau thu hoạch, cơ khí chế
tạo, công nghệ thông tin, công nghệ sản xuất vật liệu xây dựng, vật liệu mới,
kinh nghiệm quản trị doanh nghiệp, giới thiệu sản phẩm, tìm kiếm thị trường,
đào tạo chuyên gia khoa học - công nghệ, quản lý, quản trị kinh doanh, học
sinh, sinh viên, được tiếp tục đẩy mạnh.
Tỉnh đã có nhiều nỗ lực trong
xúc tiến thương mại, tổ chức thành công các kỳ hội chợ lớn, tham gia hội chợ
trong và ngoài nước; phát hành cẩm nang xúc tiến thương mại; liên kết với
các viện, trường, tổ chức các lớp nghiệp vụ kinh doanh và phát triển thương hiệu
Việt cho các mặt hàng nông, thủy sản và thương mại điện tử.
Về xúc tiến đầu tư, các doanh
nghiệp của tỉnh đã chủ động tham gia sâu vào các hoạt động của Diễn
đàn hợp tác kinh tế đồng bằng sông Cửu Long (MDEC) hàng năm, các hội
nghị, hội thảo xúc tiến đầu tư do Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ tổ chức.
Tổ chức hợp tác giữa Hậu Giang với các tỉnh, thành phố trong khu vực ĐBSCL và
Đông Nam Bộ về các lĩnh vực khai thác cảng Cái Cui, chế biến và xuất khẩu từ
nguyên liệu nông thủy hải sản trong vùng, sản xuất, tiêu thụ phân bón, thức ăn
gia súc, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y. Hợp tác với các Viện trường về
các lĩnh vực đào tạo cán bộ khoa học công nghệ chuyên ngành phát triển nông
nghiệp.
Tham gia liên kết hợp tác kinh tế
với một số tổ chức kinh tế nước ngoài như Lào, Campuchia, Nhật Bản,
Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan,...; tiếp một số đoàn nước ngoài đến
tham quan, làm việc để tăng thu hút nguồn viện trợ NGO phục vụ cho
giảm nghèo và các hoạt động xã hội.
Mặc dù có nhiều nỗ lực trong
cải thiện môi trường đầu tư, song công tác xúc tiến đầu tư hiệu quả vẫn
còn thấp, hình thức quảng bá còn riêng lẻ, chưa tập trung vào một
đầu mối, chưa tranh thủ được nhiều sự hỗ trợ của các Bộ ngành Trung
ương trong việc giới thiệu, quảng bá tiềm năng lợi thế của địa
phương, nên thu hút đầu tư còn thấp, qui mô các dự án thu hút được
còn nhỏ, nhất là nguồn vốn FDI, mối quan hệ liên kết vùng còn lúng
túng và bị động nhất là liên kết về sản xuất, chế biến, vùng
nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm.
12. Cải cách
hành chính, phòng, chống tham nhũng, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân
Chương trình tổng thể cải cách hành
chính giai đoạn 2010 - 2015 và 2011 - 2020 của tỉnh đã đạt được nhiều kết quả
quan trọng. Đặc biệt là cải cách thủ tục hành chính theo Đề án 30, cải cách tổ
chức bộ máy hành chính nhà nước. Hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống
chính quyền các cấp trong tỉnh có bước nâng lên. Việc quản lý hành chính một cửa,
một cửa liên thông mang lại nhiều hiệu quả, tình trạng sách nhiễu, thủ tục
phiền hà giảm đáng kể, bộ máy chính quyền từ tỉnh đến cơ sở tinh gọn, bớt khâu
trung gian, tách hẳn quản lý hành chính nhà nước về kinh tế với quản lý sản xuất
kinh doanh; đã thực hiện cơ chế một cửa ở 100 đơn vị; chất lượng hoạt động của
bộ phận tiếp nhận và trả kết quả 3 cấp được nâng lên, có 36 đơn vị, sở, ngành
và UBND cấp huyện có trang tin điện tử thành viên thuộc Cổng thông tin điện tử
UBND tỉnh và hoạt động có hiệu quả. Các cơ quan cấp tỉnh và cấp huyện đã áp dụng
hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001:2008, đảm bảo giải quyết
thủ tục hành chính hiệu quả hơn.
Việc theo dõi thi hành pháp luật tiếp
tục được đổi mới và nâng chất. Công tác hành chính tư pháp đã đi vào nề nếp, giải
quyết một khối lượng lớn yêu cầu của người dân trong lĩnh vực hộ tịch, quốc tịch,
lý lịch tư pháp. Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật tiếp tục được tăng cường,
thu hút được đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia. Công tác hòa giải ở cơ sở
ngày càng phát huy hiệu quả, tạo được niềm tin của người dân. Các cơ quan tham
gia tố tụng bám sát nhiệm vụ chính trị địa phương, độc lập và tuân thủ pháp luật;
ý thức pháp luật của nhân dân được nâng lên, kỷ cương xã hội từng bước được thiết
lập, vị thế của ngành Tư pháp ngày càng được cũng cố, nâng cao.
Công tác giải quyết đơn thư khiếu nại,
tố cáo, của công dân được quan tâm, các vụ án quan trọng kéo dài tồn đọng đã cơ
bản giải quyết xong. Trong 5 năm đã giải quyết đạt trên 97% đơn khiếu nại, tố
cáo, phản ảnh. Nội dung khiếu nại phần lớn liên quan tranh chấp đất đai, cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất; bồi thường, hỗ trợ tái định cư có liên quan đến
việc thực hiện các dự án đầu tư.
Công tác phòng, chống tham nhũng tiếp
tục được quan tâm chỉ đạo, gắn với việc triển khai Cuộc vận động học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, đã
góp phần nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về hoạt động
phòng chống tham nhũng, lãng phí, bước đầu củng cố được niềm tin trong nhân
dân. Trong 5 năm đã thực hiện 128 cuộc thanh tra trách nhiệm trong việc thực
hiện các quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng (tăng 65 cuộc so với
5 năm trước). Qua đó đã phát hiện sai phạm về nguyên tắc tài chính và chi
sai chế độ, định mức, tiêu chuẩn với tổng số tiền hơn 01 tỷ đồng, xử lý
trách nhiệm 03 tập thể và 15 cá nhân.
Cải cách hành chính đã có
nhiều tiến bộ, nhưng việc ban hành một số văn bản còn chồng chéo về chức
năng, nhiệm vụ, nên gây khó khăn cho địa phương trong quá trình thực hiện. Điều
kiện vật chất, đặc biệt là cấp cơ sở còn rất nhiều khó khăn, nên chưa đảm bảo
chuẩn tối thiểu theo quy định. Trình độ cán bộ, công chức còn nhiều hạn chế, đặc
biệt là các kỹ năng nghiệp vụ, nhưng ngân sách tỉnh chưa thể đảm bảo cho công
tác bồi dưỡng, tập huấn. Tinh thần, thái độ phục vụ của một số ít cán bộ, công
chức vẫn còn hạn chế cùng với việc một số ngành và địa phương chưa thật sự quan
tâm đến công tác cải cách hành chính nên hiệu quả cải cách tại các đơn vị này
chưa cao. Việc thực hiện quy chế dân chủ ở một số nơi còn mang tính hình thức,
đối phó.Việc thanh tra, kiểm tra nội bộ và công tác thanh tra, kiểm tra trách
nhiệm thủ trưởng trong việc thực hiện các quy định của pháp luật về phòng, chống
tham nhũng có nơi còn yếu; việc phát hiện tố giác và xử lý còn hạn chế; thực
hành tiết kiệm kết quả đạt được vẫn chưa đáp ứng với yêu cầu đề ra. Trong công
tác thụ lý các vụ việc khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền, còn có những vụ việc
thực hiện chưa bảo đảm đầy đủ các bước, chưa đúng theo quy trình và chưa bảo đảm
về thời gian giải quyết theo quy định. Các khó khăn, vướng mắc trong công tác bồi
thường thiệt hại, giải phóng mặt bằng liên quan đến công tác giải quyết khiếu nại,
tố cáo, hiện nay còn tồn đọng số lượng tương đối lớn trên địa bàn tỉnh, tập
trung chủ yếu là ở các khu công nghiệp và ở một số các dự án, công trình trọng
điểm. Công tác quản lý cán bộ ở một số đơn vị, địa phương chưa sâu, công tác đấu
tranh phê bình, tự phê bình đôi lúc chưa thường xuyên và chưa thật sự nghiêm
túc, một số nơi chưa thực hiện tốt quy chế dân chủ, dẫn đến một số cán bộ có dấu
hiệu sai phạm nhưng không được đấu tranh, phát hiện kịp thời.
13. Quốc phòng -
an ninh được tăng cường, trật tự xã hội ổn định
Công tác quân sự - quốc phòng địa
phương được triển khai thực hiện đồng bộ, lực lượng vũ trang được xây dựng vững
mạnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. An ninh chính trị, trật tự
an toàn xã hội được bảo đảm, tiềm lực quốc phòng, an ninh được tăng cường; đời
sống vật chất, tinh thần của lực lượng vũ trang luôn được cải thiện. Khu vực
phòng thủ, thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân được củng cố. Việc
kết hợp giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh được
thực hiện tốt hơn. Công tác tuyển chọn gọi công dân nhập ngũ hàng năm đều đạt
chỉ tiêu pháp lệnh, đảm bảo số lượng, chất lượng. Công tác huấn luyện, diễn tập
khu vực phòng thủ hàng năm đạt kết quả cao. Từng bước kiện toàn tổ chức, bổ
sung biên chế, xây dựng cơ sở vật chất, trang bị phương tiện, vật tư kỹ thuật
đáp ứng yêu cầu công tác thường xuyên và đột xuất của lực lượng vũ trang, góp
phần giữ vững ổn định an ninh, trật tự, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của
tỉnh. Công tác giáo dục quốc phòng trong nhân dân và nhà trường, thực hiện tốt
Luật Nghĩa vụ quân sự, chính sách hậu phương quân đội ngày càng tốt hơn.
Chủ động nắm chặt mọi diễn biến tình
hình liên quan đến an ninh quốc gia, kịp thời phát hiện và vô hiệu hóa, đấu
tranh ngăn chặn mọi âm mưu hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch và bọn phản
động trên các lĩnh vực: an ninh, chính trị, nội bộ, kinh tế, văn hóa tư tưởng,
thông tin, xã hội; đấu tranh xử lý kịp thời các loại tội phạm, các tệ nạn xã hội
và kéo giảm tai nạn giao thông. Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc
được tăng cường xây dựng, củng cố, phát huy được hiệu quả công tác giữ gìn an
ninh, trật tự ở cơ sở.
14. Việc tổ chức,
phối hợp triển khai thực hiện kế hoạch 5 năm 2011 - 2015.
Kết quả đạt được trong 5 năm 2011 -
2015 là sự phấn đấu, nỗ lực của cả hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó sự
chỉ đạo, điều hành của chính quyền các cấp đóng vai trò nòng cốt. Trước hết,
là sự nỗ lực quyết tâm vượt qua khó khăn để ổn định tình hình kinh
tế - xã hội. UBND tỉnh luôn chú trọng công tác dự báo, chủ động trên tất
cả lĩnh vực, trong đó tập trung chỉ đạo quyết liệt để phấn đấu hoàn thành
kế hoạch 5 năm 2011 - 2015, nhất là về lĩnh vực nông nghiệp, tiêu thụ nông
sản, xây dựng nông thôn mới, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, tháo gỡ
khó khăn cho doanh nghiệp, cải thiện môi trường đầu tư, đảm bảo an sinh xã hội.
Các sở, ngành, địa phương rất tích cực triển khai thực hiện nhiệm vụ được giao
và được sự đồng thuận cao của nhân dân.
Tiếp tục phát huy nội lực và tranh thủ
ngoại lực, UBND tỉnh thường xuyên chỉ đạo sát tình hình thu ngân sách; tích cực,
chủ động khai thác nguồn quỹ đất, tranh thủ thêm các nguồn vốn hỗ trợ của
Trung ương, đẩy mạnh cải cách hành chính, chấn chỉnh lề lối làm việc của cán bộ,
công chức, thực hành tiết kiệm trong chi tiêu công, xây dựng tổ chức bộ máy
chính quyền. Thường xuyên quan tâm chỉ đạo thực hiện công tác tiếp công dân, tổ
chức đối thoại với công dân, tổ chức vận động quần chúng, giải quyết khiếu nại,
tố cáo.
Trong quá trình triển khai kế
hoạch 5 năm 2011 - 2015, UBND tỉnh chấp hành và thực hiện nghiêm túc sự chỉ đạo
của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, HĐND tỉnh. Các
Nghị quyết của Chính phủ, Nghị quyết của Tỉnh ủy, HĐND tỉnh được UBND
tỉnh triển khai kịp thời, đồng thời, thực hiện tốt chế độ báo cáo, đề xuất
và kiến nghị. Nhìn chung các văn bản được ban hành đảm bảo đúng quy định và phục
vụ thiết thực công tác quản lý nhà nước trên các lĩnh vực.
Quy chế làm việc và Chương trình công
tác của UBND tỉnh được triển khai đúng nguyên tắc; việc phối hợp công
tác giữa UBND tỉnh, các sở, ban, ngành tỉnh, các ngành dọc của Trung ương với
các Ban Đảng, Đoàn Đại biểu Quốc hội, Thường trực HĐND tỉnh, Thường trực
UBMTTQVN tỉnh và các tổ chức thành viên ngày càng hiệu quả hơn. Mối quan hệ giữa
UBND tỉnh với báo chí, nhà khoa học, doanh nghiệp, các hội đặc thù và văn
nghệ sỹ ngày càng tốt hơn.
Tuy nhiên trong quá trình triển
khai thực hiện kế hoạch, vẫn còn bộc lộ những hạn chế chủ yếu là:
- Nhu cầu đầu tư xây dựng cơ bản
rất lớn, nhưng nguồn vốn ngân sách hạn chế, từ đó nợ đọng trong xây dựng
cơ bản khá cao, nhất là nợ giao thông nông thôn. Một số địa phương chưa tích cực
tìm giải pháp huy động vốn và trả nợ.
- Mặc dù đã có nhiều nỗ lực tháo gỡ
khó khăn cho doanh nghiệp, nhưng hiệu quả hỗ trợ chưa đủ mạnh, nên đối tượng được
ưu đãi chưa được thụ hưởng thực sự, sự kết nối giữa doanh nghiệp với ngân
hàng tuy có quyết tâm tháo gỡ tích cực, nhưng vẫn còn nhiều doanh
nghiệp khó tiếp cận nguồn vốn vay.
- Khâu triển khai của sở, ngành, địa
phương từng lúc chưa đáp ứng kịp sự chỉ đạo điều hành của UBND tỉnh, nhiều
kết luận chỉ đạo của Thường trực UBND tỉnh chậm thực hiện, đặc biệt là các chỉ
đạo về giải phóng mặt bằng, giải quyết khiếu nại tố cáo của công
dân.
15. Các giải
pháp, chính sách quan trọng đã ban hành trong thực hiện kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015
Chính sách giảm nghèo: là một trong những chính sách quan trọng mà tỉnh tập trung triển
khai, tiếp tục nghiên cứu bổ sung những chính sách mạnh mẽ hơn, tạo động lực
quyết tâm xóa đói, giảm nghèo.
Chính sách hỗ trợ đào tạo nghề: để phát triển nguồn nhân lực tỉnh đã ban hành Quyết định số
11/2011/QĐ-UBND ngày 03 tháng 3 năm 2011 về việc qui định mức hỗ trợ
tiền ăn cho các đối tượng học nghề lao động nông thôn trên địa bàn
tỉnh Hậu Giang.
Chính sách đất đai: để thực hiện chính sách sử dụng đất trên cơ sở luật đất đai, tỉnh đã
ban hành nhiều quyết định, hướng dẫn tạo thuận lợi cho người sử dụng đất khuyến
khích các nhà đầu tư, sử dụng có hiệu quả đất đai,… phục vụ tốt cho phát triển
kinh tế địa phương.
Chính sách thu hút đầu tư: trên cơ sở các văn bản hướng dẫn của Trung ương, tỉnh đã cụ thể hóa một
số chính sách ưu đãi như: thực hiện miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp; miễn,
giảm tiền thuê đất, hỗ trợ chi phí quảng cáo, chi thưởng môi giới đầu tư, hỗ trợ
đầu tư phát triển hạ tầng kỹ thuật, hỗ trợ đào tạo nghề, hỗ trợ điện nước, nhà ở
cho công nhân..., doanh nghiệp được miễn 11 năm tiền thuê đất, thuê mặt nước đối
với dự án đầu tư; miễn 15 năm đối với các dự án thuộc danh mục khuyến khích đầu
tư.
Chính sách ưu đãi về vốn tín dụng: tỉnh đã có nhiều nỗ lực kết nối giữa ngân hàng, doanh
nghiệp và hộ cá thể, tiếp tục đổi mới chính sách hỗ trợ cho các cơ sở công
nghiệp - tiểu thủ công nghiệp vay vốn sản xuất, kinh doanh, đầu tư phát triển
chợ, nông nghiệp, thủy sản, chăn nuôi, ưu tiên cho vay trung, dài hạn các dự
án đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất và đầu tư sản phẩm mới.
Chính sách phát triển nông - lâm -
thủy sản: tỉnh đã ban hành chương trình số
04/CTr-UBND về phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn gắn với xây
dựng nông thôn mới; Chương trình phát triển nông sản chủ lực giai đoạn
2013 - 2015. Đề án tái chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi giai đoạn
2014 - 2020; Đề án phát triển kinh tế hợp tác; Đề án cơ giới hóa
trong sản xuất lúa giai đoạn 2012 - 2015; thành lập khu nông nghiệp ứng
dụng công nghệ cao; quy hoạch tổng thể phát triển thủy sản; quy hoạch
phát triển sản xuất và tiêu thụ cá da trơn. Đề án thu hút doanh
nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn.
Chính sách phát triển công nghiệp
- tiêu thủ công nghiệp: đã quy hoạch kịp thời các khu
công nghiệp, cụm công nghiệp tập trung với diện tích đủ rộng có vị trí thuận lợi
về giao thông thủy, bộ, gần thành phố Cần Thơ. Để phát huy thế mạnh của Hậu
Giang là nông nghiệp, tỉnh đã chủ trương phát triển mạnh công nghiệp chế biến
nông sản và thủy sản, phục vụ xuất khẩu, ban hành Chương trình khuyến công
giai đoạn 2014 - 2020; Quyết định số 24/2014/QĐ về quy chế quản lý, sử
dụng kinh phí và quy định mức hỗ trợ cho các hoạt động khuyến công;
Chỉ thị số 07/2012/CT-UBND về tăng cường hoạt động khuyến khích phát
triển công nghiệp nông thôn.
Chính sách phát triển thương mại,
dịch vụ và du lịch: chính sách phát triển thương mại của
tỉnh tập trung chủ yếu khai thác thị trường nội tỉnh. Đầu tư phát triển một số
trung tâm thương mại quan trọng là thành phố Vị Thanh, thị xã Ngã Bảy, thị
trấn Long Mỹ, các cụm kinh tế - xã hội ở khu vực thị trấn, thị tứ, trung tâm
xã. Tập trung củng cố và phát triển thị trường nông thôn theo các tuyến, các cụm
kinh tế - xã hội, các trục hành lang kinh tế để thu gom, tiêu thụ hàng nông
- lâm - thủy sản. UBND tỉnh đã ban hành Quyết định 37/2012/QĐ-UBND về
việc ban hành quy định về hỗ trợ và khuyến khích đầu tư xây dựng hạ
tầng chợ giai đoạn 2012 - 2015.
Chính sách phát triển kết cấu hạ tầng: thông qua Chương trình số 05/CTTr-UBND về xây dựng kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội tỉnh Hậu Giang 5 năm 2011 - 2015, tỉnh đã huy
động được nhiều nguồn lực cho đầu tư phát triển.
Chính sách khoa học - y tế - công
nghệ - môi trường được tập trung vào các lĩnh vực như: về nông, lâm nghiệp và thủy sản tập trung chỉ đạo thực hiện chính
sách đổi mới công nghệ trong nông nghiệp nông thôn như cải tạo giống cây trồng
vật nuôi phù hợp với điều kiện sinh thái từng vùng, ứng dụng các
tiến bộ kỹ thuật trong nông nghiệp, cơ giới hóa nông nghiệp, chuyển dịch
cơ cấu mùa vụ phù hợp, bảo vệ thực vật và vật nuôi, công tác khuyến nông, khuyến
ngư. Về công nghiệp tập trung vào chính sách ứng dụng quy trình công nghệ sản
xuất các thiết bị chế biến, xay xát chế biến gạo và các loại nông sản khác. Về
y tế khuyến khích thực hiện các đề tài triển khai thực hiện các chương trình trọng
điểm của Bộ Y tế. Về công nghệ thông tin ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin
trong các cơ quan nhà nước, khuyến khích các ngành, các doanh nghiệp đẩy mạnh ứng
dụng rộng rãi công nghệ thông tin trong sản xuất và dịch vụ, xử lý văn bản qua
mạng đem lại nhiều hiệu quả trong quản lý. Về tài nguyên và môi trường tập
trung chính sách bảo vệ nguồn lợi thủy sản, bảo vệ rừng và phòng chống ô nhiễm
nguồn nước ngầm, nước mặt, vệ sinh an toàn thực phẩm.
Mặc dù, còn nhiều khó khăn, nhưng nhờ
vận dụng linh hoạt các chính sách của Trung ương, nên đã có tác động tích cực,
tạo chuyển biến mới trong quá trình phát triển của tỉnh Hậu Giang. Tuy vậy các
chính sách thời gian qua cũng chưa được đồng bộ, lực lượng cán bộ làm chính
sách thiếu và yếu, chưa sát thực tế. Nhiều chính sách về hỗ trợ doanh nghiệp, tổ
chức thị trường, du lịch, đào tạo nghề, thu hút nguồn nhân lực, thu hút đầu
tư... chưa phát huy được hiệu quả như mong muốn.
III. Đánh giá
chung
1. Những thành
tựu
- Kinh tế tăng trưởng khá, các
ngành, lĩnh vực đều có bước phát triển, chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng định
hướng, đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện, thực hiện tốt chính
sách đối với người có công, giảm nghèo tích cực, an sinh phúc lợi
xã hội được đảm bảo.
- Sản xuất nông nghiệp và kinh tế
nông thôn phát triển khá toàn diện theo hướng sản xuất hàng hoá; năng suất, chất
lượng, hiệu quả được nâng lên; xây dựng nông thôn mới đạt được nhiều kết quả
quan trọng. Sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, hoạt động thương mại -
dịch vụ có bước chuyển biến; khu, cụm công nghiệp hình thành và phát huy hiệu
quả.
- Huy động được nhiều nguồn lực cho đầu
tư phát triển. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội tiếp tục được đầu tư xây dựng,
tạo ra diện mạo mới để đẩy nhanh phát triển kinh tế - xã hội, thu hút đầu tư.
- Các lĩnh vực giáo dục - đào tạo,
khoa học - công nghệ, văn hóa - xã hội có bước phát triển; bảo vệ môi trường và
ứng phó với biến đổi khí hậu chuyển biến tích cực. Quốc phòng - an ninh được giữ
vững và tăng cường, đảm bảo trật tự an toàn xã hội, phục vụ phát triển sản xuất
và đời sống nhân dân.
- Cải cách thủ tục hành chính chuyển
biến tích cực. Việc xây dựng chính quyền các cấp được đẩy mạnh, hiệu lực và hiệu
quả hoạt động nâng lên.
Nguyên nhân
- Đường lối, chủ trương đúng đắn của Đảng;
sự quan tâm chỉ đạo, hỗ trợ tích cực của Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ,
các bộ, ngành Trung ương; sự liên kết giúp đỡ có hiệu quả của các địa phương
trong khu vực và cả nước.
- Huy động được các nguồn lực đầu
tư trong và ngoài tỉnh.
- Phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ
thống chính trị, các thành phần kinh tế, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân.
2. Những hạn chế
yếu kém
- Những kết quả đã đạt được trong 05
năm qua chưa tương xứng với lợi thế, tiềm năng của tỉnh; chất lượng tăng trưởng
kinh tế thiếu ổn định, bền vững, chủ yếu dựa trên cơ sở tăng tổng mức đầu tư
toàn xã hội, cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động chuyển dịch chậm; năng suất
lao động và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp; thu nhập bình quân đầu
người còn thấp so với các tỉnh trong khu vực và cả nước. Giá trị sản xuất công
nghiệp, thương mại - dịch vụ tăng trưởng thấp hơn kế hoạch 5 năm đề ra,
chất lượng sản phẩm và dịch vụ sức cạnh tranh yếu; công tác quảng
bá du lịch chưa được chú trọng đúng mức; một số nguồn thu ngân sách
chưa đạt kế hoạch, việc kêu gọi đầu tư xây dựng cải tạo chợ triển khai còn
gặp nhiều khó khăn.
- Sản xuất nông nghiệp còn nhỏ, lẻ,
hiệu quả thấp, giá trị sản xuất tăng chậm; chưa tạo được môi trường liên kết vững
chắc giữa sản xuất, chế biến và tiêu thụ; việc ứng dụng khoa học, công nghệ vào
sản xuất chưa rộng khắp; xây dựng nông thôn mới còn gặp nhiều khó khăn, do thiếu
nguồn lực; tình hình thu hút đầu tư còn hạn chế, vì cơ sở hạ tầng các khu, cụm
công nghiệp còn yếu kém và thiếu đồng bộ, hệ thống giao thông chưa hoàn thiện,
chưa tạo được lợi thế cho các nhà đầu tư.
- Hệ thống kết cấu hạ tầng trong tỉnh
vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém, thiếu đồng bộ. Kết cấu hạ tầng nông thôn phát
triển chậm, chưa đồng đều, hạ tầng đô thị chưa đạt nhiều tiêu chí theo
qui định.
- Việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất
trường, lớp học vẫn còn nhiều khó khăn do thiếu nguồn vốn đầu tư. Chất lượng
và hiệu quả giáo dục - đào tạo còn thấp so yêu cầu phát triển chung; chất lượng
lao động chưa đáp ứng tốt cho nhu cầu chuyển dịch cơ cấu lao động và nâng cao
năng suất lao động; đào tạo nghề còn yếu và chưa gắn với giải quyết việc làm
ổn định; tỷ lệ lao động qua đào tạo còn thấp so bình quân chung của cả nước.
- Công tác quy hoạch một số lĩnh vực
còn nhiều bất cập; sự phối hợp giữa các ngành về công tác quy hoạch chưa
chặt; chất lượng một số quy hoạch chưa cao; việc tổ chức thực hiện đúng quy hoạch
còn chưa được quan tâm đúng mức nên ảnh hưởng đến phát triển chung.
- Thu nhập và đời sống dân cư tuy có
cải thiện nhưng vẫn còn khó khăn, đặc biệt đối với vùng sâu, vùng có đông đồng
bào dân tộc Khmer; giảm nghèo chưa bền vững, nguy cơ tái nghèo là vẫn còn; chất
lượng khám và điều trị bệnh còn hạn chế, chất lượng dịch vụ y tế chưa đáp ứng
nhu cầu ngày càng đa dạng của nhân dân.
- Số lượt người khiếu nại vẫn còn
tăng; tình hình tội phạm tuy có giảm về số vụ nhưng tăng về tính chất bạo lực,
đối tượng phạm tội ngày càng trẻ hóa, một số ít địa phương chưa kiềm chế, giảm
tai nạn giao thông, ý thức chấp hành luật giao thông của một bộ phận
người dân còn yếu, cần tiếp tục tăng cường kiểm soát. Việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo, kiến nghị của công dân ở một số địa phương còn chậm, nhất là ở cơ
sở.
Nguyên nhân:
- Những diễn biến phức tạp của
tình hình thế giới, khu vực về chính trị, kinh tế, tình hình biển Đông; sự chống
phá của các thế lực thù địch; tác động của cuộc khủng hoảng tài chính, suy
thoái kinh tế toàn cầu; giảm đầu tư công; xuất phát điểm kinh tế - xã hội thấp,
kết cấu hạ tầng chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, thiếu nguồn lực đầu tư...
- Nguồn nhân lực tuy nhiều nhưng yếu
về chất lượng, đặc biệt là lực lượng lao động có trình độ chuyên môn cao
- Một số cơ chế chính sách ưu đãi của
tỉnh để thu hút các nguồn lực chưa đủ sức tạo ra động lực mới; nhất là nâng cao
chất lượng doanh nghiệp tư nhân, khuyến khích đầu tư trong nước, thu hút vốn nước
ngoài, đầu tư phát triển khoa học - công nghệ, thu hút nhân tài, xã hội hóa đầu
tư các lĩnh vực văn hóa - xã hội...
- Việc thực hiện và quản lý quy
hoạch chưa thật sự chặt chẽ và đúng quy định, thiếu biện pháp chế
tài và xử lý cụ thể đối với các tổ chức hoặc cá nhân thực hiện
sai quy hoạch. Nhu cầu vốn đầu tư để kiến thiết tỉnh rất lớn nhưng nguồn vốn đầu
tư ngoài ngân sách huy động còn hạn chế, vấn đề khai thác, huy động vốn đầu
tư chưa mạnh, tình hình kêu gọi thu hút đầu tư vào các dự án hạ tầng còn yếu
nhất là hình thức BT, PPP.
- Cải cách hành chính đã được cải
thiện một bước đáng kể, nhưng vẫn còn phức tạp, chưa đáp ứng nhu cầu phát
triển; khoa học và công nghệ phát triển chưa mạnh, ứng dụng vào thực tế sản xuất
chưa nhiều; hiệu quả hoạt động của chính quyền ở một số nơi chưa đáp ứng yêu cầu;
một số địa phương, đơn vị vẫn còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào cấp trên; trình
độ, năng lực, tinh thần trách nhiệm của một số cán bộ còn hạn chế; công tác kiểm
tra, giám sát và các biện pháp ngăn ngừa, hạn chế cán bộ vi phạm kỷ luật mang lại
hiệu quả chưa cao, tình trạng quan liêu, thiếu dân chủ vẫn còn ở một số nơi; tệ
nạn xã hội, trật tự trị an ở một số địa bàn còn phức tạp; giải quyết khiếu kiện
có vụ còn chậm.
3. Các bài học
kinh nghiệm
- Trong chỉ đạo, điều hành phải xác định
nhiệm vụ, mục tiêu trọng tâm, trọng điểm, khâu đột phá phù hợp từng thời
gian, từng chương trình, dự án; có biện pháp tổ chức thực hiện thật cụ thể,
giao nhiệm vụ, trách nhiệm cho từng ngành, từng cá nhân rõ ràng; bố trí nguồn lực
tương xứng với yêu cầu thực tiễn; có cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các ngành
liên quan; thường xuyên kiểm tra đôn đốc, giải quyết kịp thời những vấn đề phát
sinh, thực hiện tốt cải cách hành chính.
- Những thành tựu đạt được trong 05
năm qua là kết quả của sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng bộ; thực sự dân chủ,
tạo sự đồng thuận của cả hệ thống chính trị; tính tiên phong, gương mẫu, sâu
sát, quyết liệt và năng động của cán bộ, công chức, nhất là vai trò của
người đứng đầu được thể hiện ngày càng cao hơn; trong thực hiện mọi chủ
trương, chính sách, việc làm đều vì nhân dân, phát huy tốt nhất sức mạnh của
nhân dân; kế thừa, phát huy những thành tựu và kinh nghiệm của những nhiệm kỳ
trước.
- Xác định rõ tiềm năng, thế mạnh,
có cơ chế, chính sách thu hút đầu tư năng động, phù hợp, thông
thoáng, phát huy tốt các nguồn lực trong và ngoài nước, trước hết là nội lực
để đầu tư phát triển kinh tế - xã hội.
- Trong chỉ đạo, điều hành phải xác định
nhiệm vụ, mục tiêu trọng tâm, trọng điểm, khâu đột phá phù hợp từng thời
gian, từng chương trình, dự án; có biện pháp tổ chức thực hiện khoa học; có quyết
tâm chính trị cao; bố trí nguồn lực tương xứng với yêu cầu thực tiễn; có cơ
chế phối hợp chặt chẽ giữa các ngành liên quan; thường xuyên kiểm tra đôn đốc,
giải quyết kịp thời những vấn đề phát sinh, thực hiện tốt cải cách hành
chính.
- Phải coi trọng việc kết hợp chặt chẽ
giữa phát triển kinh tế với giải quyết tốt các vấn đề xã hội và các nhu cầu dân
sinh, tập trung giải quyết các vấn đề bức xúc như giảm nghèo, việc làm, nhà ở
cho các đối tượng chính sách, hộ nghèo, đồng bào dân tộc, chăm lo sự nghiệp
giáo dục, y tế, văn hóa nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân
dân, bảo đảm cho sự ổn định chính trị, xã hội.
- Phải làm tốt công tác dự báo,
phân tích, đánh giá sát tình hình, kịp thời ban hành các cơ chế,
giải pháp phù hợp, đáp ứng yêu cầu thực tế đời sống của nhân dân.
Phần hai
MỤC TIÊU,
NHIỆM VỤ VÀ CÁC CHỈ TIÊU CHỦ YẾU PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 5 NĂM
2016 - 2020
Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
5 năm 2016 - 2020 tỉnh Hậu Giang thực hiện trong điều kiện có nhiều thuận
lợi do qui mô kinh tế của tỉnh sau 12 năm thành lập đã được nâng cao hơn
trước; những kết quả bước đầu của tái cơ cấu kinh tế đã tạo ra những tiền đề
mới đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh; sự ổn định về chính
trị - xã hội là nền tảng vững chắc cho phát triển. Song những khó khăn, thách
thức cũng không ít, kinh tế thế giới và khu vực đang phục hồi đà tăng trưởng
sau cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng tốc độ phục
hồi còn chậm và tiềm ẩn nhiều rủi ro. Ở trong nước, kinh tế có dấu hiệu phục hồi
nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, đặc biệt các diễn biến ở biển Đông có thể có tác
động ảnh hưởng tới phát triển kinh tế đất nước và Hậu Giang.
Tình hình nêu trên tạo ra thời cơ,
thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen nhau, đặt ra nhiều vấn đề, nhiệm vụ,
đòi hỏi phải có những chính sách, giải pháp đúng đắn, mạnh mẽ, phù hợp để phát huy
thuận lợi, khắc phục khó khăn đưa Hậu Giang phát triển nhanh và bền vững hơn
cùng với các tỉnh, thành trong vùng và cả nước thực hiện mục tiêu xây dựng nền
tảng để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
I. Mục tiêu,
nhiệm vụ và các chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội 5 năm 2016-2020
1. Mục tiêu
tổng quát
Đẩy mạnh tái cơ cấu kinh tế,
chuyển đổi mô hình tăng trưởng; công nghiệp hóa nông nghiệp, hiện đại
hóa nông thôn; phát triển kết cấu hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực và
đẩy mạnh cải cách hành chính; phát triển hài hòa các lĩnh vực văn
hóa - xã hội, môi trường; nâng cao đời sống Nhân dân; bảo đảm an ninh
chính trị và trật tự an toàn xã hội, phấn đấu đến năm 2020 Hậu
Giang trở thành tỉnh khá của vùng đồng bằng sông Cửu Long.
2. Nhiệm vụ
chung
(1) Duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế
hợp lý, bền vững; đẩy nhanh thực hiện tái cơ cấu kinh tế, trong đó tập trung
cho tái cơ cấu ngành nông nghiệp, nhất là các cây, con thế mạnh của tỉnh; đẩy
nhanh và phát huy Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao của tỉnh; huy động và
sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, phát huy sức mạnh tổng hợp của mọi thành phần
kinh tế, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội theo hướng hiện đại.
(2) Phát triển kinh tế Hậu Giang phải
phù hợp với đặc điểm tự nhiên, đặc điểm dân cư, từng bước điều chỉnh tạo sự
phát triển hài hoà, hợp lý giữa các vùng trong tỉnh, thu hẹp dần về khoảng cách
và mức sống giữa các tầng lớp dân cư, giữa thành thị và nông thôn.
(3) Khai thác hiệu quả thế mạnh
và tiềm năng về nông nghiệp, tạo bước đột phá về công nghiệp, nâng
cao chất lượng dịch vụ; cải thiện môi trường đầu tư. Phát triển có trọng
tâm trọng điểm vào các khu vực có thể tạo ra sự đột phá và phát triển nhanh như
các khu, cụm công nghiệp tập trung, các đô thị trọng điểm, lĩnh vực nông nghiệp
ứng dụng công nghệ cao.
(4) Xây dựng nền văn hóa và con
người Hậu Giang đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển bền vững theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Đổi mới
căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực, gắn với đẩy mạnh ứng dụng chuyển giao khoa học và công nghệ;
phát triển sự nghiệp y tế, nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân
dân; thực hiện tốt chính sách lao động, việc làm gắn với giảm nghèo
bền vững, bảo đảm an sinh xã hội.
(5) Nâng cao năng lực và hiệu quả quản
lý Nhà nước, quản lý xã hội; gắn phát triển kinh tế với giải quyết tốt
các vấn đề xã hội; củng cố tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; bảo đảm an
ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội; xây dựng bộ máy Nhà nước tinh gọn, vững
mạnh; đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp; nâng cao hiệu lực quản lý
nhà nước; xây dựng đội ngũ cán bộ công chức có phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ; ngăn chặn và đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí; chủ
động, tích cực tham gia vào liên kết vùng và hội nhập quốc tế.
3. Các chỉ
tiêu chủ yếu 5 năm 2016 - 2020
3.1. Lĩnh vực kinh tế
(1) Tốc độ tăng trưởng kinh tế GRDP
bình quân 5 năm (2016 - 2020) tăng trên 7%/năm, trong đó khu vực I: 3%, khu vực
II: 13,28%, khu vực III: 8,26%.
(2) Tổng sản phẩm GRDP theo giá
hiện hành đến năm 2020 đạt 42.771 tỷ đồng, tăng bình quân 14,78%/năm;
GRDP bình quân đầu người đến năm 2020 đạt 55 triệu đồng/người, tương đương
2.500 USD.
(3) Cơ cấu kinh tế đến năm 2020 là
dịch vụ - công nghiệp, xây dựng - nông nghiệp; chuyển dịch theo hướng giảm
tương đối tỷ trọng khu vực I từ 33,95% còn 24,34%, tăng tỷ trọng khu vực II
từ 21,18% lên 27,38% và khu vực III từ 44,87% lên 48,28 %.
(4) Tổng vốn đầu tư toàn xã hội trên
địa bàn trong 5 năm 2016 - 2020 theo giá thực tế từ 90.000 - 95.000 tỷ
đồng, tăng bình quân 7,95%/năm, bình quân mỗi năm khoảng 18.000 - 19.000 tỷ đồng.
Tổng vốn đầu tư toàn xã hội so với GRDP năm 2015 là 66,75% xuống còn
49,1% vào năm 2020.
(5) Thu ngân sách nhà nước trên địa
bàn 5 năm 28.000 - 30.000 tỷ đồng, tốc độ tăng bình quân 5,2%/năm. Trong đó
tổng thu ngân sách nhà nước năm 2020 là 6.500 tỷ đồng (thu nội địa là
1.350 tỷ đồng). Tỷ lệ nợ chính quyền địa phương trên tổng chi đến năm
2020 dưới 0,31%.
(6) Kim ngạch xuất nhập khẩu và
dịch vụ thu ngoại tệ năm 2020 đạt 920 triệu USD, tăng bình quân
12,68%/năm. Giá trị xuất khẩu đến năm 2020 đạt 700 triệu USD, tăng bình quân
10,76%/năm; nhập khẩu 220 triệu USD, tăng bình quân 20,5%/năm.
(7) Chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
bình quân 5 năm (2016 - 2020) dưới 7% (không vượt quá bình quân cả
nước).
3.2. Lĩnh vực văn hóa - xã hội
(8) Dân số trung bình đến năm 2020
khoảng 777.620 người; tỷ lệ tăng dân số trung bình 2‰, trong đó tỷ lệ
tăng dân số tự nhiên 10,7‰.
(9) Giảm tỷ lệ hộ nghèo bình quân mỗi
năm trên 2%.
(10) Số lao động được tạo việc
làm trong 5 năm là 75.000 lao động, mỗi năm bình quân 15.000 lao động. Đến
năm 2020 tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 50%; tỷ lệ thất nghiệp khu
vực thành thị còn 4,2%; tỷ lệ thiếu việc làm khu vực nông thôn còn
6%.
(11) Tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc
gia chiếm 80% tổng số trường, số sinh viên trên 10.000 người dân là 200
sinh viên; hoàn thành phổ cập trung học phổ thông.
(12) Tỷ lệ xã đạt chuẩn quốc gia về
y tế 100%; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng dưới 11%; số bác sĩ trên
10.000 người dân là 8 bác sĩ; số giường bệnh trên 10.000 người dân là 34,1
giường; tỷ lệ người dân tham gia các hình thức bảo hiểm y tế 84,3%;
tuổi thọ trung bình 76 tuổi.
(13) Số thuê bao điện thoại/100
dân là 97 điện thoại; số thuê bao Internet băng thông rộng/100 dân đạt 2
thuê bao; diện tích nhà ở bình quân/người 23 - 25 m².
(14) Xây dựng công nhận mới 16 xã
nông thôn mới, nâng tổng số xã nông thôn mới lên 28/54 xã, đạt 51,85%
tổng số xã.
3.3. Tài nguyên, môi trường và
phát triển bền vững
(15) Tỷ lệ che phủ rừng đạt 3%.
(16) Tỷ lệ dân số nông thôn được
cấp nước hợp vệ sinh 95%; tỷ lệ dân số thành thị được cấp nước
sạch 91%.
(17) Tỷ lệ thu gom chất thải rắn
ở đô thị 85%; tỷ lệ xử lý chất thải rắn y tế đạt tiêu chuẩn 100%;
tỷ lệ khu công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt
chuẩn 70%.
3.4. Lĩnh vực quốc phòng và an
ninh
(18) Xây dựng lực lượng quân sự, công
an chính quy, từng bước hiện đại, xây dựng lực lượng dân quân tự vệ đạt đúng
theo quy định của Quân khu. Hoàn thành tốt công tác huấn luyện, diễn tập,
giáo dục quốc phòng và công tác tuyển quân hàng năm.
(19) Đảm bảo an ninh chính trị, trật
tự an toàn xã hội, đẩy mạnh công tác cải cách tư pháp, kiềm chế sự gia
tăng của tội phạm; kéo giảm tai nạn giao thông.
III. Định
hướng và giải pháp phát triển các ngành, lĩnh vực
1. Nâng cao chất
lượng tăng trưởng, phát triển nhanh và bền vững
Tốc độ tăng trưởng hợp lý, bền vững,
hiệu quả và cạnh tranh. Đây là sự kết hợp giữa phát triển theo chiều rộng với kết
hợp phát triển theo chiều sâu, từ phát triển dựa vào tăng vốn đầu tư với nguồn
lao động giản đơn sang phát triển dựa trên yếu tố năng suất tổng hợp, tiến bộ
khoa học - công nghệ, nguồn nhân lực và đào tạo nghề cho lao động chất lượng
cao. Khai thác tốt nhất tiềm năng lợi thế do tiến trình hội nhập mang lại, giải
quyết hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội
và bảo vệ môi trường. Phát huy tối đa và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực.
Sản xuất nông nghiệp vẫn là nền tảng
cho phát triển và ổn định xã hội, công nghiệp làm mũi đột phá, đặc biệt là công
nghiệp ứng dụng khoa học công nghệ mới, công nghiệp chế biến phục vụ tốt cho
nông nghiệp và dịch vụ, công nghiệp hỗ trợ và những ngành sử dụng nhiều lao động.
Tiếp tục đầu tư phát triển mạnh thương mại, dịch vụ ở đô thị và vùng nông thôn,
phục vụ sản xuất và tiêu thụ, giải quyết việc làm và nâng cao đời sống nhân
dân. Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế GRDP bình quân 7,8%/năm.
Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
chuyển dịch nội bộ cơ cấu ngành, lĩnh vực, chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giảm dần tỷ trọng lao động khu vực nông nghiệp,
tăng lao động khu vực công nghiệp, xây dựng và thương mại dịch vụ. Cơ cấu lao
động giữa 3 khu vực I, II, III năm 2015 là 61% - 14,97% - 24,03%, đến năm
2020 là 51,5% - 17,23% - 31,27%.
Tiếp tục đổi mới, cải thiện môi trường
đầu tư kinh doanh, tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển các doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế, nhất là khu vực doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài, kinh tế hợp tác, doanh nghiệp nhỏ và vừa; bảo đảm cạnh
tranh bình đẳng. Tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh bình đẳng, minh bạch, ổn
định và thông thoáng…; chủ động tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, đề
xuất các cơ chế chính sách hỗ trợ sản xuất cho nông dân. Khai thông
và phát huy các nguồn lực, thu hút đầu tư, nhất là nguồn lực trong
dân. Gắn công nghiệp hóa, hiện đại hóa với kinh tế tri thức, hội
nhập sâu rộng vào chuỗi giá trị và mạng sản xuất toàn cầu; cải cách
hành chính; phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng
cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo; gắn
kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học,
công nghệ; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số công trình hiện
đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị.
2. Phát triển
nông nghiệp theo chiều sâu, công nghiệp hóa nông nghiệp, hiện đại hóa
nông thôn
Phát triển nông nghiệp theo hướng sản
xuất hàng hóa tập trung, ứng dụng công nghệ cao, nâng cao chất lượng sản phẩm,
đẩy mạnh xuất khẩu và tiêu thụ trong nước. Đẩy nhanh công nghiệp hóa nông nghiệp,
hiện đại hóa nông thôn để tăng năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh các sản
phẩm nông nghiệp; vận dụng, thực hiện chính sách tích tụ, tập trung ruộng đất để
hình thành các cơ sở, hộ gia đình có quy mô sản xuất lớn, tập trung; có chính
sách ưu tiên để thu hút mạnh các nguồn lực đầu tư phát triển nông nghiệp và
nông thôn. Phấn đấu đến năm 2020 thu nhập của người dân ở nông thôn đạt từ 35 -
40 triệu đồng/năm; có 80% diện tích lúa được tưới tiêu bằng trạm bơm; cơ giới
hóa khâu làm đất trên 90%, ứng dụng công nghệ vào thu hoạch và chế biến bảo quản
sau thu hoạch các loại nông sản chủ lực của tỉnh đạt 40% (riêng cây lúa 70%).
Hoàn thành kế hoạch Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới
theo kế hoạch. Triển khai hiệu quả đề án 1000. Nâng trình độ sản xuất cho
nông dân và nguồn nhân lực phục vụ nông nghiệp và phát triển nông thôn ngang tầm
khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Hoàn thành cơ bản biện pháp công trình và phi
công trình theo kịch bản biến đổi khí hậu - nước biển dâng, hạn chế đến mức thấp
nhất thiệt hại do thiên tai gây ra, chủ động phòng chống dịch bệnh trên cây trồng,
vật nuôi, hạn chế rủi ro cho nông dân.
Trong lĩnh vực nông - lâm - ngư
nghiệp đạt các chỉ tiêu cơ bản là giá trị gia tăng khu vực I bình quân
tăng 3%/năm. Cơ cấu giá trị sản xuất: Nông nghiệp 78% (tổng sản lượng thu hoạch
hàng năm khoảng 1,2 triệu tấn), lâm nghiệp 0,6% (tỉ lệ độ che phủ rừng 3%), thủy
sản 21,4%. Trong nông nghiệp: Trồng trọt 75%, chăn nuôi 20%, dịch vụ nông nghiệp
5%. Trong thủy sản: Khai thác 1,5%, nuôi trồng 98%, dịch vụ 0,5%. Tiếp tục nâng
chất các xã đạt 19/19 tiêu chí nông thôn mới, phấn đấu đến năm 2020 có 51,85%
số xã đạt tiêu chí nông thôn mới; 96% dân số nông thôn sử dụng nước hợp vệ
sinh, trong đó có 60% sử dụng nước sạch theo tiêu chuẩn Bộ Y tế. Chuyển dịch
mạnh lao động nông nghiệp sang khu vực II và III, cơ cấu lao động khu
vực I từ 61% năm 2015 xuống còn 51,5% vào năm 2020.
Bốn giải pháp phát triển nông nghiệp,
nông thôn mang tính bền vững là:
- Nhắm vào nông sản có lợi thế cạnh
tranh và giá trị cao: Trong giai đoạn 2016 - 2020 cần đẩy mạnh phát triển 10 đối
tượng cây trồng vật nuôi chủ lực của tỉnh đã được xác định.
- Phát triển công nghệ chế biến nông
sản hỗ trợ nông nghiệp: làm đa dạng hóa hàng hóa nông sản, chú trọng phân
khúc sản phẩm, gia tăng giá trị sản phẩm, công nghiệp phải gắn và hỗ trợ
nông nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến, kêu gọi đầu tư công nghiệp có trọng
tâm, đặc biệt là chế biến sản phẩm cây ăn trái.
- Nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể:
giải quyết được 3 khâu căn bản là cung ứng các hoạt động dịch vụ đầu vào cho sản
xuất; phát triển chế biến để nâng cao giá trị, đa dạng hóa sản phẩm và tiêu thụ
sản phẩm, giải quyết được đầu ra, có thị trường ổn định. Giai đoạn tới phát triển
HTX cần gắn liền với xây dựng nông thôn mới. Định hướng phát triển HTX trong thời
gian tới phải là HTX đa chức năng, tiêu thụ được sản phẩm của nông dân.
- Thay đổi tư duy sản xuất, lấy thị
trường làm định hướng mục tiêu.
Về nông nghiệp: Thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế
nông thôn, theo hướng xây dựng, hình thành các vùng sản xuất chuyên canh, tập
trung có sản lượng hàng hóa quy mô lớn, ổn định, trên cơ sở phát huy lợi thế tự
nhiên của từng loại cây trồng, vật nuôi; gắn kết tổ chức sản xuất, tiêu thụ
nông sản theo giá trị và theo quy trình sản xuất đối với các nông sản có thị
trường và hiệu quả kinh tế cao; tăng cường công tác chuyển giao công nghệ sản
xuất, bảo quản và chế biến.
Cây lúa:
Chuyển 3.570 ha đất lúa khác và đất lúa kém hiệu quả sang cây trồng khác và đất
phi nông nghiệp, ổn định diện tích 77.200 ha đất lúa, diện tích gieo trồng
205.500 ha; năng suất bình quân cả năm 6,2 tấn/ha (tăng 0,4 tấn/ha so với năm
2011 - 2015); đảm bảo sản lượng đạt 1,2 triệu tấn/năm (tương đương 2011 -
2015). Hoàn chỉnh vùng lúa chất lượng cao 32.000 ha theo tiêu chí cánh đồng lớn,
trong đó có từ 5.000 - 10.000 ha sản xuất, chế biến chuyên theo đơn đặt hàng của
thị trường đặc thù cao cấp.
Cây mía:
Giảm diện tích còn 10.000 ha, năng suất bình quân 115 tấn/ha, sản lượng
1.150.000 tấn, tăng thu nhập cho nông dân trồng mía từ 1,5 lần trở lên so với
năm 2011 - 2015.
Cây ăn quả: Cải tạo 7.000 ha vườn tạp, chuyển đổi đất lúa xen vườn, trong đó 50%
cây có múi, còn lại là các cây ăn quả khác phù hợp đất đai thổ nhưỡng và theo
nhu cầu của thị trường. Ổn định diện tích cây bưởi 05 roi 2.000 - 2.500 ha;
cây cam sành 6.000 - 8.000 ha; cây chanh không hạt 2.000 ha chủ yếu phục vụ cho
cải tạo vườn tạp và xen canh; cây quýt đường 1.000 ha và cây khóm cầu đúc 2.000
- 2.500 ha, cây xoài 3.000 ha nhằm khai thác lợi thế đặc sản của từng địa
phương;
Cây rau, màu: Nhóm cây rau màu được xác định là loại luân canh chủ lực cần được ưu
tiên đầu tư phát triển mạnh trong thời gian tới. Cây bắp diện tích 5.000 ha,
năng suất bình quân 6,5 tấn/ha, sản lượng 32,5 ngàn tấn. Rau đậu thực phẩm các
loại: 15.000 ha, sản lượng 225.000 tấn.
Ngành chăn nuôi: Đẩy mạnh phát triển chăn nuôi theo hướng tập trung an toàn sinh học,
nâng giá trị sản xuất ngành chăn nuôi trong tổng giá trị sản xuất ngành nông
nghiệp theo giá trị hiện hành đạt 19 - 20% vào năm 2020. Dự kiến đến năm 2020
quy mô đàn trâu ổn định 2.000 con, đàn bò 2.500 con, đàn heo 200.000 con (tăng
60.000 con), đàn gà 1,5 triệu con (tăng 300.000 con), đàn thủy cầm 3,8 triệu
con (tăng 900.000 con). Sản lượng thịt các loại 47.518 tấn (tăng 10.644 tấn) và
sản lượng trứng gia cầm đạt 190 triệu quả (tăng 42 triệu quả). Phấn đấu đàn heo
nuôi tập trung theo hướng gia trại, trang trại (quy mô từ 30 con trở lên)
chiếm 70% tổng đàn, gia cầm 70% tổng đàn, đàn vịt chạy đồng có kiểm soát đạt
100%. Bên cạnh đó quy hoạch cơ sở giết mổ tập trung đến năm 2020, di dời hoặc
chuyển đổi nghề toàn bộ 49 cơ sở hiện có, bố trí mới 10 cụm.
Ngành thủy sản: Phát huy lợi thế về nuôi trồng thủy sản nước ngọt, tạo động lực tăng
trưởng và thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu sản xuất khu vực nông, lâm, thủy sản và
kinh tế nông thôn. Phấn đấu tổng sản lượng thủy sản đạt 206.000 tấn vào năm
2020, tốc độ tăng trưởng bình quân 15 - 16% năm. Diện tích nuôi trồng thủy sản
đến năm 2020 là 11.000 ha tăng 4.000 ha so với năm 2015. Trong đó, chuyên canh
5.000 ha (Cá tra 360 ha), diện tích nuôi kết hợp 6.000 ha, lồng vèo 7.500 chiếc.
Kết hợp hài hòa giữa khai thác với bảo vệ nguồn lợi thủy sản nước ngọt trên địa
bàn tỉnh, hạn chế đến mức thấp nhất và xử lý nghiêm các hoạt động khai thác có
tính chất hủy diệt. Duy trì sản lượng khai thác thủy sản đến năm 2020 khoảng
3.000 tấn.
Ngành lâm nghiệp: Diện tích ổn định cho sản xuất lâm nghiệp là 4.468 ha. Diện tích quy
hoạch không ổn định cho sản xuất lâm nghiệp là 1.204 ha, đây là diện tích rừng
trồng phân tán của các hộ gia đình. Về phát triển rừng, trồng rừng và cây
phân tán 4.800 ha trên tổng diện tích tự nhiên của tỉnh là 160.245 ha
(đạt 3%), trong đó trồng mới 155 ha và trồng lại rừng sau khai thác 1.273 ha;
trồng cây phân tán 3,822 triệu cây. Khai thác rừng trồng 1.316 ha, sản lượng dự
kiến 65.775 m³.
Phát triển Khu nông nghiệp ứng dụng
công nghệ cao: Ban hành Quy định về chính sách ưu đãi
và hỗ trợ đầu tư vào Khu Nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao Hậu Giang. Triển
khai thực hiện quy hoạch và xây dựng giai đoạn 1 (2015-2020) tập trung đầu tư hạ
tầng kỹ thuật đồng bộ cho Khu vực trung tâm (275,49ha) đưa vào vận hành và đầu
tư hạ tầng thiết yếu phục vụ cho khu vực phía Bắc sông Nước Trong và phía Nam
kênh Tô Ma của khu vực sản xuất nông nghiệp ứng dụng cộng nghệ cao (2.880ha);
chủ động tìm thị trường tiêu thụ cho các sản phẩm công nghệ cao bước
đầu của khu.
Phát triển kinh tế tập thể: Triển khai hiệu quả đề án nâng cao chất lượng kinh tế hợp
tác. Số lượng hợp tác xã tăng bình quân 10%/năm, số lượng xã viên hợp tác xã
tăng 7%/ năm, giá trị sản xuất kinh doanh khu vực kinh tế tập thể tăng bình
quân 10% năm. Thu nhập bình quân của người lao động và các xã viên trong hợp
tác xã đảm bảo cao hơn so với thu nhập bình quân chung của tỉnh. Khuyến khích
và tạo điều kiện cho các hợp tác xã mở rộng quy trình sản xuất, kinh doanh,
liên kết, hợp nhất, sát nhập thêm các hợp tác xã có quy mô lớn hơn theo hướng mở
rộng dịch vụ phục vụ đa dạng trong nông nghiệp.
Phát triển hạ tầng nông nghiệp, nông
thôn: Các dự án, công trình thủy lợi phải kết hợp phục vụ đa mục tiêu, trước tiên
phục vụ sản xuất, kết hợp giao thông thủy bộ, phòng chống thiên tai, biến đổi
khí hậu, quốc phòng,… Xây dựng đồng bộ hệ thống giao thông nông thôn theo
hướng chất lượng; đảm bảo mục tiêu đáp ứng đầy đủ điện sử dụng rộng rãi trong
công tác thủy lợi, khâu thu hoạch và sau thu hoạch,… Về bố trí ổn định dân cư
nông thôn, phấn đấu đến 2020 bố trí sắp xếp ổn định cuộc sống cho 7.975 hộ nằm
trong khu vực có điều kiện sinh hoạt và sản xuất khó khăn; xây dựng mới các hệ
thống cấp nước tập trung quy mô lớn có công nghệ xử lý nước hiện đại đảm bảo
tiêu chuẩn quốc gia; về vệ sinh môi trường nông thôn đến năm 2020 có 75% số hộ
có nhà tiêu hợp vệ sinh; hầu hết số hộ có chuồng trại chăn nuôi hợp quy cách, xử
lý được chất thải.
Về xây dựng nông thôn mới: Xã nông thôn mới phải thể hiện các đặc trưng: có kinh tế phát triển, đời
sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng nâng cao; có kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội hiện đại, có phương thức sản xuất phù hợp và tiên tiến,
lồng ghép các chương trình, dự án để phát huy hiệu quả các nguồn
lực, gắn phát triển nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp - tiểu thủ
công nghiệp - dịch vụ nông thôn; điểm dân cư nông thôn được xây dựng theo quy
hoạch, xã hội nông thôn ổn định, văn hóa, giàu bản sắc dân tộc; trình độ dân
trí được nâng cao; môi trường sinh thái được bảo vệ; nâng cao sức mạnh của hệ
thống chính trị ở xã, ấp dưới sự lãnh đạo của Đảng; phấn đấu đến 2020 có 51,85%
số xã (28/54 xã) đạt 19/19 tiêu chí, số xã còn lại đạt 10 - 13 tiêu chí.
3. Phát triển
công nghiệp - xây dựng
Về phát triển công nghiệp: Giai đoạn 2016 - 2020, công nghiệp tiếp tục được xác định là ngành
giữ vai trò đột phá trong quá trình phát triển, do đó phải tận dụng các nguồn lực
đầu tư trong và ngoài nước, để tập trung phát triển mạnh công nghiệp chế biến
nông sản, thủy sản có lợi thế cạnh tranh và phát triển một số hàng tiêu dùng
có khả năng tiêu thụ nội địa và xuất khẩu.
Giá trị sản xuất công nghiệp theo giá
so sánh 2010 đến năm 2020 là 36.725 tỷ đồng, tăng bình quân 14,2%/năm. Tỷ lệ hộ
sử dụng điện đến năm 2020 đạt 99%, trong đó: Khu vực thành thị 100% và khu vực
nông thôn là 97%. Sản lượng tiêu thụ điện bình quân đầu người đến năm 2020 là
2.063 KWh/người (năm 2015 là 831 KWh/người).
Nâng cao chất lượng, hiệu quả
hoạt động của các khu, cụm công nghiệp tập trung và cụm công nghiệp - tiểu
thủ công nghiệp dựa trên cơ sở tiềm năng, thế mạnh của từng khu, cụm công nghiệp,
trước hết phải đầu tư hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng thiết yếu, nhà ở công
nhân, đẩy nhanh tiến độ thu hút đầu tư, nâng cao hiệu quả sử dụng đất công nghiệp
và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Tăng cường đối thoại với các nhà đầu tư, kịp
thời trợ giúp, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các doanh nghiệp.
Đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác
vận động, thu hút đầu tư; tăng cường quảng bá thông tin, hình ảnh khu, cụm công
nghiệp của tỉnh đến các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Từng bước xây dựng đội
ngũ cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư chuyên nghiệp, hiệu quả. Xây dựng, hoàn
thiện danh mục dự án kêu gọi đầu tư của tỉnh trên cơ sở quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế - xã hội vùng đồng bằng sông Cửu Long, của tỉnh, quy hoạch phát
triển ngành, sản phẩm chủ lực và đảm bảo tính khả thi của từng dự án.
Về lĩnh vực xây dựng: Thực hiện tốt công tác quy hoạch, kiến trúc, đổi mới và nâng cao hiệu
quả công tác quy hoạch xây dựng và đô thị, từng bước cụ thể hóa và tăng cường
công tác thanh kiểm tra việc thực hiện các đồ án quy hoạch đã được phê duyệt.
Tiếp tục triển khai Quyết định số
1306/QĐ-UBND ngày 12 tháng 8 năm 2011 của UBND tỉnh Hậu Giang về việc phê duyệt
Kế hoạch phát triển đô thị trên địa bàn tỉnh Hậu Giang giai đoạn đến năm 2020,
tổng số đô thị trên địa tỉnh đạt 19 đô thị, trong đó: đô thị loại II là 01 đô
thị, đô thị loại III là 02 đô thị, đô thị loại IV là 11 đô thị, đô thị loại V
là 05 đô thị, tỷ lệ đô thị hóa 26,5%.
Về phát triển nhà ở đô thị và nông
thôn: tiếp tục triển khai Chương trình phát triển nhà ở trên địa bàn tỉnh đến
năm 2020, theo đó phấn đấu diện tích bình quân đạt 23 - 25 m²sàn/người, trong
đó, khu vực nông thôn bình quân đạt 19 - 22 m²sàn/người, khu vực thành thị bình
quân đạt 27 - 29 m²sàn/người. Trong giai đoạn 2016 - 2020 phấn đấu hỗ trợ cho
5.612 hộ gia đình người có công với cách mạng theo Quyết định số 22/2013/QĐ-TTg
ngày 26/4/2013 của Thủ tướng Chính phủ hỗ trợ người có công cách mạng
về nhà ở. Hỗ trợ cho khoảng 11.758 hộ nghèo có khó khăn về nhà ở theo Quyết
định số 167/2008/QĐ-TTg (giai đoạn 2), đồng thời, tiếp tục rà soát, đẩy nhanh
tiến độ thực hiện các dự án nhà ở trên địa bàn tỉnh cho phù hợp với tình hình
thực tế.
Đối với các khu dân cư nông thôn,
hoàn thành các quy hoạch các tuyến, điểm dân cư nông thôn; các trung tâm xã,
trung tâm cụm xã phù hợp với đặc điểm kinh tế - xã hội của từng địa phương qua
đó kết hợp bằng nhiều nguồn vốn khác nhau, kêu gọi nhiều thành phần kinh tế
tham gia đầu tư từng bước xây dựng xã nông thôn mới theo hướng văn minh - hiện
đại.
Khuyến khích và tạo điều kiện cho các
nhà đầu tư, đầu tư xây dựng nhà ở có lồng ghép nhà ở cho đối tượng xã hội, nhà
cho người có thu nhập thấp, nhà cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ
trang.
Tăng cường công tác quản lý nhà nước
về chất lượng công trình xây dựng như: điều kiện năng lực các đơn vị tư vấn, chất
lượng sản phẩm công trình xây dựng, giúp cho các chủ đầu tư có điều kiện lựa chọn
các đơn vị tư vấn có năng lực theo quy định khi thực hiện dự án đầu tư; nắm
tình hình hoạt động các đơn vị tư vấn để có kế hoạch chấn chỉnh và hỗ trợ các
đơn vị tháo gỡ những khó khăn vướng mắc hoàn thành kế hoạch xây dựng cơ bản
hàng năm của tỉnh; thường xuyên kiểm tra, chấn chỉnh kịp thời các nhà thầu xây
dựng và các đơn vị tư vấn về năng lực hoạt động trong lĩnh vực xây dựng, cần xử
lý nghiêm các trường hợp có hành vi vi phạm sau khi đã được cơ quan chức năng
nhắc nhở.
4. Nâng cao
chất lượng dịch vụ, thương mại và đẩy mạnh xuất khẩu
Tăng cường kêu gọi đầu tư, từng bước
hiện đại hóa kết cấu hạ tầng thương mại - dịch vụ, nhất là mạng lưới chợ, các dịch
vụ vận chuyển, thông tin…; kết hợp giữa thương mại truyền thống với thương mại
hiện đại, tạo thành mạng lưới phân phối hàng hóa và cung ứng dịch vụ đáp ứng được
nhu cầu sản xuất và tiêu dùng đến tận vùng sâu. Đẩy mạnh xã hội hóa đầu tư phát
triển chợ, nhất là chợ ở xã nông thôn mới, tập trung nâng quy mô và chất
lượng phục vụ của các chợ đã có. Nâng cao chất lượng các loại hình
dịch vụ nhất là khách sạn, nhà hàng, ăn uống, vận tải, viễn thông,
ngân hàng, bảo hiểm, logictic..., để hội nhập sâu vào kinh tế vùng,
kinh tế quốc tế, nhất là khi Việt Nam gia nhập Hiệp hội đối tác kinh
tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Tổng mức bán lẻ hàng hóa bán lẻ và
doanh thu dịch vụ đến năm 2020 là 45.900 tỷ đồng, tăng bình quân 9%/năm. Thương
nghiệp giảm từ 79% năm 2015 xuống còn 75% năm 2020, dịch vụ tăng từ 9% lên 12%,
khách sạn nhà hàng tăng từ 12% lên 13%; khu vực ngoài quốc doanh chiếm 99,5%,
khu vực quốc doanh chiếm 0,5%.
Chính sách phát triển thương mại của
tỉnh tập trung chủ yếu khai thác thị trường nội địa, thị trường xuất khẩu tiềm
năng cụ thể: cung ứng nguyên liệu hàng hóa, dịch vụ; các yếu tố đầu vào cho sản
xuất và tiêu thụ sản phẩm hàng hóa sản xuất trên địa bàn tỉnh gắn với thị trường
khu vực, cả nước và nước ngoài. Kêu gọi đầu tư trung tâm thương mại ở
huyện, thị xã, thành phố. Tập trung phát triển thị trường nông thôn để chế biến
tiêu thụ hàng nông - lâm - thủy sản.
Nâng cao sản lượng cũng như chất lượng
các sản phẩm nông, lâm ngư nghiệp của các hợp tác xã, tổ hợp tác để đưa vào các
siêu thị, cửa hàng thực phẩm tiện ích… Xây dựng thương hiệu, xúc tiến thương mại
và mở rộng thị trường cho các sản phẩm tiềm năng. Hỗ trợ và tạo điều
kiện để các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất, các làng nghề và hộ nông dân tham
gia, giới thiệu sản phẩm ở trong và ngoài nước. Tổ chức hội chợ, triển lãm định
kỳ, nhằm thu hút doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh tham gia, tạo điều kiện cho
các nhà đầu tư mới tiếp cận đối với các hàng hóa nông sản, nhất là 10 mặt hàng
nông sản chủ lực của tỉnh.
Đẩy mạnh xuất khẩu và nhập khẩu. Mục
tiêu tăng nhập khẩu từ nay đến 2020 là để tăng chất lượng sản phẩm, tạo ra hàng
hoá xuất khẩu nhiều hơn và chất lượng cao hơn. Khi tỉnh đã thu hút được đầu tư
nước ngoài vào các KCN thì phần lớn nhập khẩu vào các KCN là để phục vụ xuất khẩu.
Kim ngạch xuất khẩu 700 triệu USD (các khu, cụm công nghiệp 550 triệu
USD), tăng bình quân 10,76%/năm, trong đó thủy sản, nông sản vẫn là mặt hàng
chủ yếu chiếm 90 - 92%. Nhập khẩu 220 triệu USD (các khu cụm công nghiệp 80
triệu USD), tăng bình quân 20,55%/năm, chủ yếu là nhập khẩu máy móc thiết bị,
công nghệ chiếm trên 85%, còn lại là nguyên liệu phục vụ sản xuất chiếm 13 -
15%.
Tăng nhanh khối lượng vận tải cả đường
bộ và đường thủy. Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia phát triển
dịch vụ vận tải, trên cơ sở tiếp tục phát triển hạ tầng giao thông
trong tỉnh và kết nối với các tỉnh trong khu vực.
Hiện đại hóa, đa dạng hóa các loại
hình phục vụ, đáp ứng các yêu cầu ứng dụng công nghệ thông tin, nhanh chóng đưa
dịch vụ Internet về tận các điểm bưu điện văn hóa xã. Phát triển mạng lưới,
khai thác tốt các thiết bị sẵn có, đầu tư nâng cấp một số thiết bị hiện đại ở một
số khâu quan trọng đối với hoạt động viễn thông ở Bưu điện trung tâm và Bưu điện
văn hóa xã nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ bưu chính, viễn thông và công nghệ
thông tin.
Khai thác các cụm, tuyến du lịch sinh
thái, du lịch văn hóa và di tích lịch sử trong tỉnh, xã hội hoá dịch vụ du lịch,
từng bước xây dựng đồng bộ hệ thống hạ tầng du lịch; tăng cường công tác quảng
bá, xúc tiến du lịch; chú trọng đào tạo phát triển nguồn nhân lực du lịch. Phấn
đấu đến năm 2020, đưa du lịch từng bước trở thành một trong những ngành kinh tế
quan trọng đóng góp cho sự phát triển kinh tế tỉnh, giải quyết việc làm và tăng
thu nhập cho người dân. Tạo điều kiện hỗ trợ phát triển các dịch vụ khác như y
tế, văn hóa, thể thao, giáo dục, tư vấn, bảo hiểm…Phấn đấu tốc độ tăng trưởng
kinh tế ngành dịch vụ giai đoạn 2016 - 2020 tăng bình quân từ 8,26%/năm.
5. Huy động nguồn
lực cho đầu tư phát triển
Có chính sách đồng bộ nhằm huy động tối
đa các nguồn lực của các thành phần kinh tế để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội. Khai thác tối đa và sử dụng có hiệu quả nguồn lực
trong và ngoài nước để tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế -
xã hội, làm nền tảng vững chắc cho phát triển kinh tế - xã hội với tốc độ tăng
trưởng nhanh, bền vững, phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường, ứng phó với
biến đổi khí hậu và xây dựng nông thôn mới; chuyển dịch nhanh và bền vững
cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động nông nghiệp, nông thôn. Tổng vốn đầu tư toàn xã
hội trên địa bàn trong 5 năm 2016 - 2020 theo giá thực tế từ 90.000 -
95.000 tỷ đồng, tăng bình quân 7,95%/năm, gấp 1,47 lần so 5 năm trước (5
năm trước là 61.610 tỷ đồng), bình quân mỗi năm khoảng 18.000 - 19.000 tỷ đồng.
Trong đó vốn có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước và trái phiếu Chính
phủ từ 14 - 15 nghìn tỷ đồng, đầu tư khu vực doanh nghiệp có vốn nhà
nước 3.526 tỷ đồng, đầu tư trực tiếp nước ngoài 7.387 tỷ đồng, nguồn
vốn tư nhân và dân cư khoảng 62.693 tỷ đồng. Tổng vốn đầu tư toàn xã
hội so với GRDP năm 2015 là 66,7% xuống còn 49,1% vào năm 2020.
Định hướng đầu tư cho lĩnh vực kinh
tế chiếm 50%, lĩnh vực xã hội 48,7%, còn lại đầu tư cho lĩnh vực quốc phòng -
an ninh (trong đó: ngành giao thông 27%, nông nghiệp và phát triển nông thôn
13%, y tế 13%, giáo dục và đào tạo 12%, công nghiệp - thương mại 9%, QLNN
(hạ tầng trụ sở hành chính) 10%, văn hóa - thể thao - du lịch 7%,
lĩnh vực phúc lợi xã hội 3%. Tập trung đầu tư cho kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội, nhất là hạ tầng giao thông và các công trình trọng
điểm, bức xúc của địa phương. Xác định danh mục ngành, lĩnh vực ưu tiên đầu
tư, bao gồm xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, đào tạo phát triển nguồn
nhân lực có trình độ công nghệ, kỹ thuật cao, đầu tư phát triển dịch vụ y tế và
phúc lợi xã hội, đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn, khoa học công nghệ
và nâng cao năng lực quản lý và hiện đại hóa quản lý nhà nước. Không tiếp tục
phân bổ vốn đầu tư mới vào các ngành mà khu vực tư nhân có khả năng và sẵn sàng
đầu tư kinh doanh như dịch vụ thương mại, khách sạn, nhà hàng, kinh doanh bất động
sản và một số ngành, lĩnh vực khác.
Xây dựng và thực hiện qui chế vận động,
xúc tiến đầu tư trực tiếp nước ngoài để phát triển các ngành, nghề ưu tiên phát
triển, nhằm đẩy nhanh tốc độ tái cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Xây dựng
tiêu chí cụ thể về đánh giá, thẩm định, lựa chọn nhà đầu tư và dự án đầu tư nước
ngoài.
Vận dụng thực hiện các cơ chế, chính
sách, tạo môi trường thông thoáng, ưu đãi đặc biệt để các doanh nghiệp tự bổ
sung vốn, thu hút vốn đầu tư trong dân cư. Coi trọng thu hút cả nội lực và ngoại
lực, sử dụng tốt các nguồn lực cho đầu tư phát triển, nhất là nguồn vốn từ đất
đai, từ các doanh nghiệp có tiềm lực mạnh, từ các nguồn vốn đầu tư khác trên thị
trường vốn. Xác định các công trình, các địa bàn ưu tiên và quy mô ưu tiên để
kêu gọi vốn đầu tư của mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước.
Thực hiện chủ trương xã hội hóa
trong việc xây dựng và kiên cố hóa hệ thống giao thông nông thôn và thủy lợi;
ngân sách nhà nước sẽ hỗ trợ một phần để đầu tư xây dựng các công trình giao thông
nông thôn, ưu tiên các công trình, dự án bức xúc. Đổi mới và nâng cao hiệu quả
hoạt động của quỹ đầu tư phát triển của tỉnh; áp dụng rộng rãi các hình thức đầu
tư các công trình kết cấu hạ tầng theo các phương thức BT, BOT, PPP.
Tranh thủ thu hút các nguồn hỗ trợ của
Trung ương, vốn vay, vốn tài trợ nước ngoài (ODA) để đầu tư xây dựng mới và cải
tạo hoàn chỉnh mạng lưới điện, xây dựng các khu xử lý rác thải, hệ thống cấp,
thoát nước ở các đô thị trung tâm và cung cấp nước sạch cho vùng nông thôn.Tập
trung thực hiện các biện pháp thiết thực, hiệu quả để đẩy nhanh việc thu hút,
giải ngân vốn đầu tư đối với các dự án đầu tư nước ngoài có hiệu quả. Tiếp tục
tranh thủ dẫn luồng vốn ODA từ phía các Bộ, ngành Trung ương, Chính phủ các nước
và tham gia các Hội nghị xúc tiến vận động vốn NGO của các tổ chức phi chính phủ
do Bộ ngành, Trung ương tổ chức; quan tâm vận động, khuyến khích, thu hút lượng
kiều hối, nhằm góp phần hoàn thiện cơ sở hạ tầng…
Tăng cường quản lý các dự án đầu
tư xây dựng và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư phát triển thuộc
ngân sách nhà nước, lựa chọn các dự án phải đảm bảo hiệu quả kinh
tế - xã hội. Các cấp có thẩm quyền và người quyết định đầu tư chịu trách nhiệm
kiểm soát chặt chẽ phạm vi, quy mô của từng dự án đầu tư theo đúng mục tiêu,
lĩnh vực và chương trình đã được phê duyệt và phù hợp với nguồn vốn đã
được bố trí kế hoạch đầu tư công trung hạn 5 năm 2016 -2020.
Thực hiện công khai hóa, minh bạch
hóa thông tin về đầu tư; tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện tốt các hoạt động
giám sát của cộng đồng đối với các dự án đầu tư công; xác lập cụ thể quyền và
trách nhiệm của cộng đồng trong vai trò giám sát đối với đầu tư công. Thực
hiện quản lý vốn đầu tư phát triển thuộc NSNN đúng qui định Luật
Đầu tư công và các văn bản hướng dẫn có liên quan trong việc triển
khai kế hoạch đầu tư trung hạn 5 năm, phù hợp nguồn vốn. Tập trung
vốn đầu tư thực hiện các dự án quan trọng đã được lựa chọn, khắc
phục đầu tư dàn trải, phân tán, thiếu đồng bộ, kém hiệu quả.
6. Tài chính
- Tiền tệ
Quản lý chặt chẽ thu chi ngân sách
nhà nước. Thực hành tiết kiệm chống lãng phí, tăng cường huy động vốn và nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cho phát triển kinh tế xã hội, phấn đấu trong 5
năm thu ngân sách nhà nước đạt từ 28.000 - 30.000 tỷ đồng, trong đó, thu nội
địa từ 5.500 - 6.000 tỷ đồng. Phát triển hệ thống ngân hàng hiện đại; tích cực
xử lý nợ xấu, kiểm soát có hiệu quả và nâng cao chất lượng tín dụng; tạo điều
kiện thuận lợi để các tổ chức, cá nhân tiếp cận nguồn vốn ngân hàng để phát triển
sản xuất kinh doanh. Triển khai có hiệu quả các chương trình, chính sách tín dụng
theo chỉ đạo của Trung ương;
Tích cực khai thác quỹ đất tạo vốn
đưa vào ngân sách. Quản lý chặt các nguồn thu và tăng thu một cách hợp lý để
các thành phần kinh tế có khả năng tái đầu tư và nhà nước có nguồn
thu vượt ưu tiên bố trí vào đầu tư phát triển. Khuyến khích công tác xã hội
hóa các lĩnh vực: giao thông, y tế, giáo dục, môi trường, văn hóa - thể thao,
chợ…. Thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư của tư nhân, doanh
nghiệp trong nước và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thông qua các hình thức
BOT, BT, BTO, PPP.
Tiếp tục triển khai các giải pháp
tháo gỡ khó khăn trong quan hệ tín dụng, giữa tổ chức tín dụng với khách hàng,
tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng
theo đúng quy định của pháp luật, đồng thời góp phần hỗ trợ doanh nghiệp và người
dân duy trì, phát triển sản xuất - kinh doanh.
Triển khai có hiệu quả các chương
trình, chính sách tín dụng theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Các tổ chức tín dụng bám sát chủ trương phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh, nâng cao vai trò, vị trí chi phối, dẫn dắt thị trường;
đảm bảo các ngân hàng thương mại Nhà nước và các Ngân hàng thương mại có cổ phần
chi phối của Nhà nước thật sự là lực lượng chủ lực, chủ đạo trong việc đáp ứng
các nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế của tỉnh.
7. Đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực và đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng,
chuyển giao khoa học và công nghệ
Giáo dục:
Phấn đấu đến năm 2020, các chỉ số cơ
bản về phát triển giáo dục và đào tạo của tỉnh ngang bằng với các chỉ số trung
bình của cả nước, với những chỉ tiêu chủ yếu đến năm 2020 là: tỷ lệ huy
động nhà trẻ 20%, mẫu giáo 90% (trong đó, trẻ 5 tuổi vào mẫu giáo đạt 100%), tiểu
học trên 99%, trung học cơ sở 95%, trung học phổ thông 70%, số trường đạt chuẩn
quốc gia 80%, giữ vững phổ cập tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập trung học cơ sở
và công nhận phổ cập bậc trung học trên phạm vi toàn tỉnh, tỷ lệ sinh viên/vạn
dân 200 sinh viên.
Thực hiện có hiệu quả các chương
trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và
đào tạo; xây dựng nền giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại, xã hội hóa và hội
nhập quốc tế. Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy và học; tăng cường đào tạo, đào
tạo lại, từng bước chuẩn hóa và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên; tập
trung đầu tư tăng cường cơ sở vật chất trường, lớp, dụng cụ dạy và học; tạo
chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng giáo dục đào tạo. Đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục
và đào tạo. Rà soát, sắp xếp lại quy hoạch mạng lưới các trường đại học, cao đẳng,
trung học chuyên nghiệp và dạy nghề. Tập trung cải tiến, nâng cao chất
lượng đào tạo của các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy
nghề trong và ngoài công lập. Ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo ở
vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; mở thêm các trường nội trú,
bán trú và có chính sách hỗ trợ nhà ở và đời sống giáo viên; chỉ đạo xây dựng
và thực hiện các đề án phát triển giáo dục đến năm 2020.
Thực hiện đổi mới các yếu tố cơ bản
tác động phát triển phẩm chất, năng lực người học và cải thiện chất lượng giáo
dục thông qua đội ngũ nhà giáo, phương pháp tổ chức dạy học và thực hiện lồng
ghép các nội dung giáo dục pháp luật, nhân cách, lối sống cho học sinh, sinh
viên.
Nâng cao năng lực quản lý nhà nước về
giáo dục và đào tạo, tăng cường kiểm tra, giám sát, tạo môi trường cạnh tranh
lành mạnh trong giáo dục và đào tạo. Đổi mới tổ chức và hoạt động của nhà trường,
nhất là trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề.
Đào tạo nguồn nhân lực
Tăng cường đào tạo nghề theo nhu cầu
thực tế của thị trường và yêu cầu, địa chỉ cụ thể của người sử dụng lao động.
Triển khai thực hiện theo lộ trình việc phân bổ chi ngân sách nhà nước cho hoạt
động dạy nghề đối với các cơ sở dạy nghề công lập theo kết quả đầu ra, mở rộng
áp dụng cơ chế đặt hàng, giao nhiệm vụ dạy nghề đối với các cơ sở dạy nghề
(không phân biệt hình thức sở hữu) từ nguồn ngân sách nhà nước; nghiên cứu việc
chuyển một số cơ sở dạy nghề công lập thành đơn vị cung cấp dịch vụ công, tự chủ,
tự chịu trách nhiệm và tự bù đắp chi phí và hoạt động theo mô hình doanh nghiệp
xã hội. Xây dựng và vận hành hệ thống thông tin thị trường lao động trong tỉnh,
nâng cao năng lực dự báo dựa trên các tín hiệu của thị trường. Tiếp tục mở rộng
quy mô đào tạo mới và đào tạo lại đội ngũ lao động, nâng tỷ lệ lao động qua đào
tạo lên 50% vào năm 2020; khuyến khích khu vực tư nhân, doanh nghiệp tham gia dạy
nghề; khuyến khích doanh nghiệp, tự đào tạo lao động phục vụ nhu cầu của doanh
nghiệp và các doanh nghiệp có liên quan khác.
Thực hiện định kỳ đào tạo lại đội ngũ
cán bộ quản lý, quản trị kinh doanh đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế,
thu hút lao động có trình độ, năng lực, phẩm chất vào bộ máy quản lý nhà nước của
tỉnh, đồng thời thay thế những người làm việc kém hiệu hiệu quả.
Nâng cao chất lượng đào tạo nguồn
nhân lực có trình độ cao, cán bộ quản lý giỏi và công nhân kỹ thuật lành nghề;
đào tạo nguồn nhân lực cho nông thôn để thực hiện phát triển nông nghiệp và xây
dựng nông thôn mới; chuyển giao các kỹ thuật và quy trình sản xuất mới cho các
hộ nông dân; nhân rộng các mô hình tốt trong đào tạo nghề cho lao động nông
thôn, đào tạo nghề cho các làng nghề, các vùng sản xuất chuyên canh, tạo cơ hội
việc làm cho lao động nông thôn.
Khoa học công nghệ
Vận dụng tốt các cơ chế, chính sách để
phát huy vai trò của khoa học và công nghệ, xem khoa học và công nghệ là đòn bẩy
của quá trình tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng; nâng
cao năng suất lao động, gắn các mục tiêu, nhiệm vụ khoa học và công nghệ với
các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của từng ngành và từng cấp;
kế hoạch ứng dụng và phát triển khoa học và công nghệ là một nội dung của quy
hoạch, kế hoạch phát triển ngành, địa phương. Chú trọng triển khai thực hiện dự
án “Nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng hóa của doanh nghiệp tỉnh Hậu
Giang giai đoạn 2012-2015 và tầm nhìn đến 2020” từng bước nâng cao mức đóng góp
của năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng GRDP của tỉnh.
Tiếp tục đổi mới tổ chức, cơ
chế quản lý, cơ chế hoạt động và phương thức xây dựng nhiệm vụ khoa
học và công nghệ, bảo đảm tính thực tiễn, khoa học và liên ngành.
Tăng tỷ lệ nhiệm vụ khoa học và công nghệ có khả năng ứng dụng và
thương mại hóa. Khuyến khích, hỗ trợ hình thành, phát triển các tổ
chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ trong doanh nghiệp, cơ
sở ươm tạo công nghệ, doanh nghiệp khoa học và công nghệ, quỹ phát
triển khoa học và công nghệ. Coi trọng mô hình hợp tác công - tư trong
lĩnh vực khoa học và công nghệ như các hình thức hợp tác nghiên cứu
ứng dụng, đổi mới công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực.
Tăng cường thu hút nguồn lực đầu
tư phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ của tỉnh. Đẩy mạnh
phong trào sáng tạo, hoạt động dịch vụ kỹ thuật, chuyển giao công
nghệ, sở hữu trí tuệ, kết nối trung tâm thông tin và ứng dụng khoa học
công nghệ với các sàn giao dịch khu vực và quốc gia.
Chú trọng công tác tiêu chuẩn, đo
lường, chất lượng; áp dụng hệ thống quản lý theo tiêu chuẩn quốc tế
ISO; các nghiên cứu về khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên
với các hướng công nghệ ưu tiên của tỉnh: công nghệ sinh học phục vụ
nông nghiệp, y học, bảo vệ môi trường, bảo tồn, lưu trữ và khai thác
nguồn gen quí hiếm của tỉnh; công nghệ thông tin; công nghệ cao; công
nghệ sản xuất sạch, thân thiện với môi trường.
Thiết lập cơ sở dữ liệu thông
tin, thống kê khoa học và công nghệ; nhân rộng mô hình phổ biến kiến
thức khoa học và công nghệ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội,
giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới.
8. Chăm sóc
sức khỏe nhân dân
Hoàn thiện mô hình tổ chức và sắp xếp
lại hệ thống y tế ở tất cả các tuyến; đầu tư tư từng bước, có trọng điểm và
hoàn thiện dần các công trình y tế trên địa bàn toàn tỉnh theo đúng quy hoạch.
Giảm tỷ lệ mắc bệnh, tử vong và tàn tật;
khống chế các bệnh truyền nhiễm, các bệnh gây dịch thường gặp và mới nổi, không
để dịch lớn xảy ra. Giữ vững thành quả thanh toán bại liệt, loại trừ uốn ván sơ
sinh, loại trừ bệnh sởi, mở rộng việc sử dụng vắc xin để phòng ngừa các bệnh
khác. Hạn chế, tiến tới kiểm soát các yếu tố nguy cơ của các bệnh không lây nhiễm,
bệnh tật học đường, các bệnh liên quan đến môi trường, lối sống hành vi, an
toàn vệ sinh thực phẩm, dinh dưỡng. Đẩy mạnh chăm sóc sức khỏe theo hướng toàn
diện, chú trọng dự phòng tích cực và chủ động, sàng lọc phát hiện sớm và điều
trị kịp thời bệnh tật.
Nâng cao chất lượng dịch vụ khám bệnh,
chữa bệnh và phục hồi chức năng ở tất cả các tuyến; giảm tình trạng quá tải ở
các bệnh viện tuyến trên. Đẩy nhanh tốc độ phát triển y tế chuyên sâu cùng với
y tế phổ cập, mở rộng dịch vụ khám chữa bệnh cho y tế cơ sở. Tăng cường kết hợp
y học hiện đại với y học cổ truyền, dự phòng và điều trị. Phát triển hệ thống y
tế tư nhân/ngoài công lập, phối hợp công - tư, phấn đấu đạt tỷ lệ 34,1 giường bệnh/vạn
dân vào năm 2020 (trong đó có 5,19 giường bệnh tư).
Tập trung đầu tư nâng cao chất lượng
hoạt động của hệ thống y tế, trọng tâm là y tế tuyến cơ sở, trong đó quan tâm
nâng cao chất lượng khám và điều trị bệnh, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ y tế
gắn với rèn luyện, nâng cao y đức, nâng cao năng lực quản lý điều hành, phát
huy cơ sở vật chất, thiết bị đã đầu tư, nâng cấp cơ sở vật chất các bệnh viện
chuyên khoa, bệnh viện tuyến huyện, phòng khám khu vực, nâng cấp trạm y tế xã đạt
chuẩn, từng bước mua sắm các trang thiết bị y tế hiện đại, nâng cao chất lượng
công tác phòng, chống dịch bệnh, tăng cường quản lý giá thuốc. Củng cố, phát
triển và nâng cao năng lực mạng lưới y tế cơ sở, mạng lưới y tế dự phòng; phát
triển đội ngũ nhân viên y tế ấp; từng bước tổ chức xây dựng và phát triển mạng
lưới bác sỹ gia đình, chăm sóc sức khỏe tại nhà, chăm sóc sức khỏe cho người
cao tuổi.
Nâng cao chất lượng dân số, duy trì mức
sinh thấp hợp lý, đáp ứng nhu cầu kế hoạch hóa gia đình của người dân, tăng khả
năng tiếp cận dịch vụ sức khỏe sinh sản có chất lượng, kiểm soát chỉ số giới
tính khi sinh; tăng cường lồng ghép các yếu tố về dân số vào hoạch định chính
sách, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở các cấp, ngành.
Đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính
ngành y tế, tăng nhanh đầu tư công cho y tế, phát triển bảo hiểm y tế toàn dân;
điều chỉnh phân bổ và sử dụng nguồn tài chính y tế hiệu quả.
Bảo đảm cung ứng đủ thuốc, vắc xin,
sinh phẩm y tế và trang thiết bị y tế có chất lượng với giá cả hợp lý đáp ứng
nhu cầu phòng bệnh, chữa bệnh của nhân dân; quản lý, sử dụng thuốc và trang thiết
bị hợp lý, an toàn và hiệu quả.
Nâng cao năng lực quản lý, hoàn thiện
hệ thống pháp luật, chính sách y tế; đẩy mạnh cải cách hành chính, phát triển hệ
thống thông tin y tế; tăng cường giám sát, đánh giá, thanh tra, kiểm tra đáp ứng
nhu cầu đổi mới và phát triển ngành y tế
Tuyên truyền, giáo dục và vận động
nhân dân thực hiện tốt vệ sinh môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm, phòng chống
dịch, không để xảy ra dịch bệnh. Nâng cao hiệu quả bảo hiểm y tế, đẩy mạnh các
hình thức bảo hiểm y tế toàn dân, quan tâm người có công với cách mạng, người
nghèo, cận nghèo và các đối tượng bảo trợ xã hội.
9. Phát triển
văn hóa, thể thao, du lịch, thông tin và truyền thông
Phát triển văn hóa: tích cực triển
khai chương trình thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành
Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam
đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Tập trung đổi mới, nâng cao hiệu
lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị
trường, hội nhập quốc tế và sự bùng nổ của công nghệ thông tin và truyền thông.
Tăng cường công tác thanh tra văn hóa, gắn với trách nhiệm tổ chức và cá nhân
khi để xảy ra sai phạm. Giải quyết các vấn đề cơ bản, cấp bách về cơ sở vật chất
cho các thiết chế văn hóa, ban hành cơ chế chính sách, huy động nguồn lực cho
phát triển văn hóa. Triển khai một số dự án, đề án có tính cấp bách, ưu tiên nhằm
phát triển sự nghiệp văn hóa tỉnh Hậu Giang đến năm 2020 như: đầu tư xây dựng
Trung tâm Văn hóa tỉnh, Thư viện tỉnh, Bảo tàng tỉnh, rạp chiếu phim, hậu cứ
Đoàn ca múa nhạc dân tộc... Bên cạnh đó là nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động
của các thiết chế văn hóa hiện có như hệ thống Trung tâm Văn hóa cấp huyện, xã;
hệ thống thư viện, phòng đọc sách, nhà truyền thống…
Bảo tồn và phát huy có hiệu quả các
giá trị văn hóa truyền thống như đờn ca tài tử, hát dân ca, hát ru…. và những
di sản văn hóa liên quan đến đồng bào dân tộc Khmer. Đầu tư tôn tạo các di tích
lịch sử - văn hóa để tiếp tục phục vụ giáo dục truyền thống như các di tích: lịch
sử Chiến thắng Chương Thiện, chiến thắng Tầm Vu, Đền thờ Bác Hồ, căn cứ Tỉnh ủy
Cần Thơ, Khu trù mật Vị Thanh - Hỏa Lựu…
Phấn đấu đến 2020 có 75% xã, phường,
thị trấn đạt chuẩn văn hóa, tỷ lệ gia đình văn hóa trên 80%, có 100% Trung tâm
Văn hóa cấp huyện được nâng cấp, bổ sung thêm trang thiết bị, nguồn nhân lực;
hoàn thiện hệ thống thư viện huyện, thị xã, thành phố vào năm 2020, 20% dân số
trong tỉnh sử dụng các dịch vụ của thư viện công cộng; Thư viện tỉnh được xây dựng
mới theo hướng hiện đại hoá, tin học hoá, số hoá 20% tài liệu quý hiếm; Thư viện
cấp huyện được xây dựng biệt lập và ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động.
Phấn đấu 90% di tích lịch sử cấp quốc
gia được trùng tu, sửa chữa chống xuống cấp và 70% di tích lịch sử cấp tỉnh, thắng
cảnh còn lại được trùng tu, tôn tạo vào năm 2020 nhằm đáp ứng nhu cầu phục vụ
khách tham quan và thực hiện nhiệm vụ giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ. Phấn
đấu đến năm 2020 nâng cấp 01 di tích cấp tỉnh lên cấp quốc gia và xếp hạng 02
di tích đạt di tích cấp tỉnh.
Tiếp tục thực hiện tốt phong trào
Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa. Nâng cao chất lượng công tác
tuyên truyền phục vụ nhiệm vụ chính trị; tuyên truyền và phục vụ kịp thời các
ngày lễ, kỷ niệm, trọng tâm là các hoạt động văn hóa - thể thao mừng Đảng - mừng
Xuân, các ngày kỷ niệm lớn hàng năm. Tổ chức và phối hợp tổ chức hội thi, hội
diễn hàng năm và định kỳ. Tham gia các kỳ liên hoan, hội thi, hội diễn cấp khu
vực và toàn quốc phấn đấu duy trì đạt thứ hạng cao. Chú trọng và nâng cao chất
lượng các chương trình nghệ thuật, tác phẩm, sản phẩm văn hóa nghệ thuật. Xây dựng
Đoàn Ca múa nhạc dân tộc tỉnh nâng dần tính chuyên nghiệp.
Thể thao: Phát triển phong trào thể dục thể thao quần chúng rộng khắp, khuyến
khích mọi người tự chọn cho mình một môn thể thao ưa thích để luyện tập, làm
cho việc tập luyện thể dục thể thao trở thành nếp sống hàng ngày. Phấn đấu đến
năm 2020 số người tập luyện thể dục thể thao thường xuyên đạt trên 33% dân số
toàn tỉnh. Duy trì, củng cố và phát triển các loại hình, mô hình hoạt động thể
dục thể thao cơ sở như câu lạc bộ thể dục thể thao, gia đình thể thao, đến năm
2020 số gia đình thể thao đạt 25% tổng số hộ. Tăng cường vận động toàn xã hội
tham gia xã hội hóa thể dục thể thao; xây dựng cơ sở vật chất, phục vụ tập luyện,
thi đấu thể dục, thể thao. Tổ chức quản lý và khai thác có hiệu quả cơ sở
đã đầu tư, đáp ứng nhu cầu tập luyện và thi đấu thể dục thể thao.
Xây dựng chiến lược phát triển thể
thao thành tích cao theo hướng chuyên nghiệp hóa phù hợp với đặc điểm phát triển
kinh tế xã hội của tỉnh, khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư vào
thể thao thành tích cao. Xây dựng hệ thống đào tạo vận động viên năng khiếu các
môn ở các tuyến mang tính khoa học và hiện đại. Áp dụng khoa học công nghệ
trong việc nâng cao chất lượng hiệu quả công tác tuyển chọn, đào tạo đội ngũ vận
động viên tài năng thể thao trẻ của tỉnh, từng bước thực hiện chuyên nghiệp hóa
một số môn thể thao thuộc thế mạnh và truyền thống của tỉnh như bóng rổ, điền
kinh, vovinam, Judo, ghe ngo, Teawondo, Karatedo, cờ vua và nâng cao chất lượng
các đội tuyển tham dự các giải khu vực, toàn quốc và quốc tế đạt kết quả tốt.
Tăng cường đầu tư phát triển cơ sở vật
chất - kỹ thuật thể dục thể thao của tỉnh góp phần hoàn thiện, nâng cao chất lượng
các thiết chế phục vụ đào tạo vận động viên, phục vụ phát triển thể dục thể
thao quần chúng, thể dục thể thao trường học, thể dục thể thao giải trí, …. Từng
bước nâng cấp hoàn thiện các công trình thể thao hiện có ở cấp tỉnh và các huyện,
thị xã, thành phố. Xây dựng 01 sân vận động khoảng 10.000 chỗ để nhân dân có điều
kiện vui chơi, luyện tập thể dục thể thao.
Du lịch:
Tiếp tục triển khai để đưa Nghị quyết số 09-NQ/TU ngày 10 tháng 6 năm 2014 của
Tỉnh ủy Hậu Giang về phát triển du lịch tỉnh Hậu Giang đến năm 2020 và tầm nhìn
đến năm 2030 đi vào cuộc sống. Kêu gọi đầu tư và khai thác hợp lý các loại hình
du lịch mà Hậu Giang có thế mạnh như du lịch các di tích lịch sử văn hóa, du lịch
trên sông, du lịch sinh thái miệt vườn, du lịch nông nghiệp nông thôn, du lịch
cộng đồng trong đó tập trung vào các khu du lịch trọng điểm, đặc biệt là du lịch
cộng đồng tại vùng khóm Cầu Đúc; vùng quýt đường Long Trị; Khu Bảo tồn thiên
nhiên Lung Ngọc Hoàng; Trung tâm Nông nghiệp Mùa Xuân; Khu du lịch sinh thái
Việt Úc - Hậu Giang, bảo tồn, phát huy và khai thác có hiệu quả cơ sở hạ
tầng xung quanh Chợ nổi Ngã Bảy, đầu tư, nâng cấp Chợ nổi Ngã Bảy phục vụ phát
triển du lịch sông nước miệt vườn phù hợp với đề tài khoa học cấp tỉnh đã được
UBND tỉnh phê duyệt. Xây dựng và khai thác tuyến du lịch trên kênh Xáng Xà No,
đặc biệt là đoạn thuộc địa bàn thành phố Vị Thanh. Phát huy giá trị các làng
nghề phục vụ du lịch, trước mắt tập trung vào các làng nghề truyền thống đã có
thương hiệu. Ưu tiên đầu tư cho các làng nghề nổi tiếng, gần các khu, điểm du lịch,
sản xuất các sản phẩm thủ công mỹ nghệ. Quy hoạch xây dựng các siêu thị, các điểm
mua sắm, phố đi bộ. Chú trọng khai thác các tài nguyên du lịch nhân văn phi vật
thể như: các lễ hội dân gian, đờn ca tài tử, cải lương, các làn điệu dân ca và
hò đối đáp. Đầu tư hệ thống nhà hàng đạt chuẩn phục vụ khách du lịch; khuyến
khích phát triển các món ăn đặc trưng của Hậu Giang như: cháo lòng Cái Tắc, các
món chế biến từ cá thát lát, cá rô đồng, các món ăn có sử dụng nguyên liệu là
các loại trái cây đặc sản của Hậu Giang như khóm Cầu Đúc, bưởi năm roi Phú Hữu,
quýt đường Long Trị, cam sành Ngã Bảy.
Nâng cấp, phát triển hạ tầng du lịch
và cơ sở vật chất phục vụ du lịch; ưu tiên kêu gọi đầu tư xây dựng các khách sạn
từ 2 sao trở lên, phấn đấu đến năm 2020, toàn tỉnh có 03 khách sạn từ 2 sao trở
lên; phát triển và nâng cao dịch vụ vận tải, chú trọng đầu tư hạ tầng giao
thông; khuyến khích các doanh nghiệp tham gia hoạt động lữ hành và vận chuyển
hành khách. Đến năm 2020 thu hút 336.000 lượt khách đến tỉnh (gấp 1,68 lần
năm 2015), trong đó có 6.000 lượt khách quốc tế và 330.000 lượt khách nội địa.
Công tác gia đình: Phát huy giá trị truyền thống tốt đẹp, xây dựng gia đình no ấm, hạnh
phúc, văn minh, tiến bộ. Xây dựng và nhân rộng các mô hình gia đình văn hóa
tiêu biểu, có nề nếp, ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo, vợ chồng hòa
thuận, anh chị em đoàn kết, thương yêu nhau. Tiếp tục duy trì việc tổ chức Ngày
Gia đình Việt Nam hàng năm, trong đó biểu dương những nhân tố tiêu biểu, điển
hình.
Phát triển thông tin truyền
thông: Ưu tiên ứng dụng công nghệ thông tin trong quản
lý nhà nước, xây dựng Chính quyền điện tử nhằm tăng hiệu quả hoạt động của 100%
các cơ quan nhà nước, phục vụ người dân và doanh nghiệp tốt hơn. Qua đó, hình
thành phương thức làm việc khoa học, hiện đại cho nền hành chính công tại địa
phương; giúp người dân và doanh nghiệp giảm chi phí tối đa trong quá trình lao
động sản xuất cũng như góp phần đáng kể vào việc nâng cao chất lượng sống cho cộng
đồng dân cư trên địa bàn. Đến năm 2020 số điện thoại/100 dân là 97 máy (cố định
và di động). Số thiết bị internet năm 2020 tăng 12,8% so với năm 2010 (8.532
thiết bị). Số người sử dụng internet năm 2020 tăng 50% so với năm 2015 (28.000
người), trong đó số thuê bao internet băng thông rộng /100 dân đạt 2 thuê
bao. Cuối năm 2016, hoàn thành số hóa truyền hình trên đại bàn tỉnh Hậu Giang
theo Quyết định số 2451/QĐ-TTg của Thủ tường Chính phủ.
Xây dựng mô hình cung cấp dịch vụ
hành chính công tập trung hiệu quả, nhằm đơn giản hóa các thủ tục hành chính,
rút ngắn thời gian quy trình giải quyết hồ sơ, tạo môi trường thông thoáng
trong thu hút đầu tư, tạo sự thân thiện, tin tưởng của người dân đối với chính
quyền.
Khuyến khích, phát triển nguồn nhân lực
công nghệ thông tin chất lượng cao để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của việc ứng
dụng công nghệ thông tin, tiến tới đạt chuẩn quốc tế; thúc đẩy và phát triển
công nghiệp công nghệ thông tin, phát triển mạnh doanh nghiệp viễn thông, công
nghệ thông tin vừa và nhỏ. Ưu tiên các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ thông
tin trong quản lý điều hành, nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ và hiệu quả
hoạt động.
Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng
công nghệ thông tin đồng bộ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo
an ninh, quốc phòng địa phương. Chú trọng ứng dụng công nghệ thông tin trong việc
xây dựng nông thôn mới, cải cách thủ tục hành chính. Tiếp tục hiện đại hóa, đa
dạng hóa các loại hình phục vụ, đáp ứng các yêu cầu ứng dụng công nghệ thông
tin, nhanh chóng đưa dịch vụ Internet tốc độ cao về đến ấp.
Phát triển mạng lưới, khai thác tốt
các thiết bị sẵn có, đầu tư nâng cấp một số thiết bị hiện đại ở một số khâu
quan trọng đối với hoạt động viễn thông ở Bưu điện trung tâm và Bưu điện văn
hóa xã nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ bưu chính, viễn thông và công nghệ
thông tin. Cải tiến phương pháp quản lý và phục vụ của ngành nhằm đảm bảo thông
tin liên lạc thông suốt trong, ngoài tỉnh và quốc tế. Tăng cường đảm bảo an
toàn an ninh thông tin mạng. Hoàn thiện tuyến cáp quang, đường truyền tốc độ
cao. Ngầm hóa cáp tại các khu đô thị, khu dân cư và khu công nghiệp.
Phát triển mạng thông tin di động
theo hướng sử dụng chung cơ sở hạ tầng giữa các doanh nghiệp (nhà trạm, trụ
anten, mạng truyền dẫn…), đảm bảo tiết kiệm, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư và đảm
bảo mỹ quan đô thị. Phát triển mạng truy nhập quang trên địa bàn toàn tỉnh theo
mô hình mạng NGN (Khách hàng được cung cấp dịch vụ băng rộng và truy nhập đa
dịch vụ).
Xây dựng chính quyền điện tử tỉnh Hậu
Giang: xây dựng cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông đồng bộ, hiện
đại, có tính bảo mật cao, đáp ứng cho tất cả các sở, ngành, huyện, thị xã,
thành phố, xã, phường, thị trấn. Đẩy mạnh xây dựng các hệ thống thông tin quản
lý điều hành, cơ sở dữ liệu chuyên ngành, cung cấp các dịch vụ công trực tuyến
để giúp người dân giao tiếp với chính quyền, chính quyền giao tiếp với doanh
nghiệp...một cách hiện đại, an toàn và tiện ích.
Xây dựng Trung tâm dịch vụ hành chính
công: Trung tâm dịch vụ hành chính công cấp tỉnh, cấp huyện nơi duy nhất giải
quyết mọi thủ tục hành chính của tỉnh, huyện. Trên cơ sở bộ máy chính quyền tại
địa phương, sắp xếp, bố trí nguồn nhân lực gọn nhẹ, tinh thông, có chuyên môn
nghiệp vụ vững vàng, có văn hóa chính trị trong ứng xử với người dân.
Nâng cao chất lượng công tác tuyên
truyền phục vụ nhiệm vụ chính trị; nâng cấp hoàn thiện hệ thống thông tin phục
vụ sự chỉ đạo, điều hành, quản lý của các cơ quan nhà nước. Cung cấp thông tin
và dịch vụ hành chính công phục vụ người dân và doanh nghiệp trên cơ sở đẩy mạnh
ứng dụng công nghệ thông tin.
10. Thực
hiện các chính sách an sinh, phúc lợi xã hội
Lao động - việc làm: Thực hiện đồng bộ các chính sách, giải pháp tạo thêm việc làm mới, duy
trì và mở rộng thị trường xuất khẩu lao động, thực hiện có hiệu quả Chương
trình mục tiêu quốc gia về việc làm. Tiếp tục kiện toàn và mở rộng quy mô hệ thống
cộng tác viên thực hiện công tác giới thiệu việc làm trong toàn tỉnh; tổ chức
sàn giao dịch việc làm tại Trung tâm và các điểm giao dịch việc làm tại các địa
phương. Tiếp tục phối hợp với các doanh nghiệp đẩy mạnh công tác xuất khẩu lao
động, thực hiện kế hoạch hỗ trợ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài
theo hợp đồng. Đẩy mạnh công tác đào tạo ngoại ngữ dự nguồn cho xuất khẩu lao động
(XKLĐ) ở các thị trường có thu nhập cao như Nhật Bản, Hàn Quốc và tăng cường
công tác thông tin tư vấn thu hút số lao động có trình độ thấp tham gia XKLĐ ở
các thị trường dễ tính như Malaysia. Giải quyết việc làm mới cho 75.000 lao động,
trong đó có 250 lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
Tiếp tục cho vay vốn theo các dự án hỗ
trợ việc làm từ nguồn vốn quỹ Quốc gia giải quyết việc làm, nhằm tạo việc làm mới
đạt kế hoạch đề ra. Hướng dẫn, kiểm tra kịp thời công tác đăng ký, lập thủ tục
cấp phép cho lao động người nước ngoài làm việc trên địa bàn tỉnh.
Tổ chức điều tra thu thập thông tin
cung lao động, khai thác tốt các thị trường lao động, dữ liệu cung cầu lao động;
thực hiện tốt các quy định của Pháp luật về chế độ Bảo hiểm thất nghiệp. Tiếp tục
triển khai thực hiện có hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến Pháp luật cho
người lao động và người sử dụng lao động trong các loại hình doanh nghiệp. Triển
khai kiểm tra, giám sát đánh giá chỉ tiêu tạo việc làm mới và cho vay vốn từ
Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm. Tăng cường công tác quản lý Nhà nước về lao động,
việc làm, bảo hiểm xã hội. Thường xuyên theo dõi, nắm bắt tình hình về biến động
lao động, việc làm để có những giải pháp chỉ đạo kịp thời.
Các ngành và địa phương nghiên
cứu sử dụng kết quả điều tra cung, cầu lao động làm cơ sở phục vụ nhu
cầu phát triển kinh tế - xã hội cũng như phục vụ Chương trình MTQG
xây dựng nông thôn mới của tỉnh. Phối hợp kịp thời và tổ chức tốt các hoạt
động điều tra các vụ việc tai nạn lao động; đăng ký trang thiết bị, vật tư có
yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động; phối hợp với người sử dụng lao động tổ
chức huấn luyện An toàn, vệ sinh lao động cho người lao động trong doanh nghiệp.
Xây dựng kế hoạch và triển khai thực hiện Chương trình Quốc gia về An toàn vệ
sinh lao động và hưởng ứng tuần lễ Quốc gia về An toàn vệ sinh lao động, phòng
chống cháy nổ hàng năm.
Đào tạo nghề: tiếp tục đổi mới công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn, nhất
là lao động nghèo và bộ đội xuất ngũ, theo hướng chất lượng, hiệu quả,
gắn đào tạo nghề với giải quyết việc làm ổn định. Tăng cường công
tấc xuất khẩu lâo động. Nâng cao năng lực hoạt động của các cơ sở đào tạo,
trung tâm dạy nghề và trung tâm giáo dục thường xuyên trên địa bàn tỉnh.
Đổi mới công tác giảm nghèo: tăng cường đối thoại với hộ nghèo, kiểm tra, giám sát chuyên đề,
nhằm đảm bảo việc tổ chức thực hiện các chế độ, chính sách đối
với hộ nghèo, người nghèo được công khai, đầy đủ kịp thời. Tạo điều
kiện thuận lợi cho người nghèo, hộ nghèo tiếp cận và thụ hưởng chính sách, dịch
vụ xã hội theo quy định. Tiếp tục phân cấp kinh phí về địa phương để tổ chức
Chương trình giảm nghèo, có ưu tiên cho địa bàn khó khăn, có tỷ lệ nghèo cao và
tập trung tại các xã nông thôn mới, vùng đông đồng bào dân tộc thiểu
số, phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo bình quân hàng năm trên 2%, riêng
trong dân tộc thiểu số giảm từ 3 - 4%/năm.
Chính sách đối với người có
công: Thực hiện tốt chính sách ưu đãi người có công với
cách mạng: Tiếp tục vận động Quỹ “Đền ơn đáp nghĩa”, xây dựng, sửa chữa nhà
tình nghĩa hỗ trợ cho đối tượng chính sách, chi trả trợ cấp, đảm bảo đúng chế độ,
đúng đối tượng, kịp thời gian và đến tận tay người được hưởng, góp phần ổn định
đời sống người có công. Tiếp tục rà soát, tiếp nhận và giải quyết hồ sơ người
có công, tăng cường quản lý hồ sơ người có công trên địa bàn tỉnh. Đẩy mạnh thực
hiện các phong trào chăm sóc người có công. Tổ chức tốt các hoạt động thăm hỏi,
tặng quà cho thương, bệnh binh, thân nhân liệt sĩ, gia đình có công với cách mạng
và các đối tượng xã hội khác nhân dịp Tết Nguyên đán và kỷ niệm ngày Thương
binh liệt sỹ 27/7. Tăng cường tuyên truyền vận động toàn dân và các tổ chức
đóng góp, ủng hộ quỹ Đền ơn đáp nghĩa. Vận động các ngành, các cấp, các đoàn thể
quan tâm, giúp đỡ bằng nhiều nguồn lực nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần cho người có công. Phổ biến chính sách chế độ đối với người có công, kịp thời
giải quyết những vướng mắc và hạn chế ở mức độ thấp nhất đơn thư khiếu kiện. Tổ
chức tốt công tác điều dưỡng cho người có công, hoàn thành Đề án Hỗ trợ người
có công với cách mạng về nhà ở. Phấn đấu trên 95% các xã, phường, thị trấn
trên địa bàn tỉnh làm tốt công tác chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ và
người có công. Phấn đấu số hộ người có công có mức sống trung bình trở lên từ
90% - 95%. Công nhận xã, phường làm tốt công tác chăm sóc thương binh, gia đình
liệt sĩ và người có công đạt 100%. Thực hiện tốt công tác Mộ - Nghĩa
trang liệt sĩ, tiếp tục bố trí nguồn vốn đối ứng từ ngân sách địa
phương cùng ngân sách Trung ương đầu tư xây dựng các công trình tưởng
niệm, ghi công liệt sĩ tại các xã anh hùng.
Bảo trợ xã hội: triển khai thực hiện Kế hoạch phát triển nghề công tác xã hội giai đoạn
2011 - 2020, Đề án trợ giúp xã hội và phục hồi chức năng cho người tâm thần,
người rối nhiễu tâm trí dựa vào cộng đồng; tổ chức tốt các hoạt động tiếp nhận,
nuôi dưỡng và chăm sóc đối tượng tâm thần tại Trung tâm, thực hiện đầy đủ kịp
thời các chế độ đối với đối tượng bảo trợ xã hội và các ngày xã hội trong năm.
Thực hiện tốt Chương trình hành động quốc gia về người cao tuổi Việt Nam đến
năm 2020. Tích cực vận động đóng góp của xã hội để xây dựng Trung tâm công tác
xã hội tỉnh, Trung tâm Dưỡng lão tỉnh, Trường Dạy trẻ mồ côi tỉnh, Trường
Nuôi dạy trẻ khuyết tật tỉnh. Tiếp tục triển khai các chương trình hỗ trợ, giải
quyết nhà ở cho các nhóm đối tượng gặp khó khăn về nhà ở.
Tăng nhanh tỷ lệ dân số được tham gia
các loại hình bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm
tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
Tăng cường công tác bảo vệ, chăm
sóc trẻ em: Tổ chức tốt các hoạt động trợ giúp cho trẻ
em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn và trẻ em sống trong các hộ gia đình nghèo.
Tăng cường các hoạt động phòng, chống xâm hại tình dục, tai nạn thương tích;
chăm sóc sức khoẻ và dinh dưỡng cho trẻ em.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền,
giáo dục, phòng chống tệ nạn xã hội trong cộng đồng:
làm tốt công tác phối hợp giữa các ban ngành, đoàn thể trong quản lý, xử lý vi
phạm; dạy nghề, tạo việc làm, hỗ trợ vốn cho các đối tượng hoàn lương tái hoà
nhập cộng đồng có cuộc sống ổn định; công tác kiểm tra, xử lý vi phạm cần được
triển khai thường xuyên, chặt chẽ, tạo tính răn đe chung, tích cực trong công
tác đấu tranh triệt phá các tụ điểm mại dâm, ma tuý và các loại tệ nạn xã hội
khác. Duy trì và tiếp tục phát triển phong trào xây dựng xã, phường, thị trấn
lành mạnh, không có tệ nạn ma tuý, mại dâm. Thực hiện tốt công tác tiếp nhận,
quản lý, giáo dục, chữa trị và tổ chức dạy nghề cho các đối tượng, phối hợp chặt
chẽ trong việc thực hiện cai nghiện tại Trung tâm và cộng đồng, quản lý sau cai
nghiện hiệu quả, hạn chế tái nghiện.
Chú trọng công tác bình đẳng giới: thực hiện lồng ghép giới trong chính sách phát triển nguồn nhân lực,
trong công tác tổ chức cán bộ cơ cấu hợp lý công chức nữ tham gia lãnh đạo quản
lý. Xác định tỷ lệ nữ tham gia lãnh đạo các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị
- xã hội hàng năm nhằm thực hiện công tác tạo nguồn và quy hoạch dài hạn cán bộ
quản lý, lãnh đạo nữ với chỉ tiêu cụ thể và giải pháp thực hiện. Tổ chức thực
hiện các chỉ tiêu đảm bảo việc làm, chỉ tiêu tuyển dụng lao động nữ. Các ngành
chức năng cần phối hợp chặt chẽ trong việc tăng cường đào tạo nghề và khả năng
tiếp cận các nguồn lực kinh tế cho phụ nữ. Thực hiện công tác lồng ghép giới
trong Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo, giải quyết việc làm. Tăng cường
hoạt động truyền thông về bình đẳng giới và bạo lực gia đình trên các phương tiện
truyền thông đại chúng; nâng cao chất lượng các chuyên trang, chuyên mục và đa
dạng hóa các hình thức thông tin tuyên truyền giáo dục các chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước về bình đẳng giới, về các nội dung giáo dục gia đình,
xây dựng hình ảnh người phụ nữ và nam giới thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
Thực hiện đúng chính sách tôn
giáo của Đảng và Nhà nước: tạo điều kiện cho các
tổ chức tôn giáo phát triển, hoạt động đối ngoại phù hợp với đường lối tôn giáo
gắn bó với lợi ích của dân tộc và Tổ quốc, đồng hành với Nhà nước và dân tộc.
Làm tốt công tác mặt trận, đoàn kết tôn giáo, phát huy truyền thống yêu nước của
đồng bào theo đạo. Giải quyết tốt các vấn đề của công tác tôn giáo nhằm thực hiện
thắng lợi công cuộc đổi mới, vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng
văn minh. Bảo đảm được đời sống tín ngưỡng, tôn giáo, gắn với vấn đề dân tộc,
nông dân và dân nghèo đô thị, đặc biệt là vùng nông thôn kém phát triển và dân
tộc.
11. Quản lý
tài nguyên; bảo vệ môi trường; chủ động phòng, chống thiên tai, ứng phó với
biến đổi khí hậu
Quy hoạch, quản lý và khai thác, sử dụng
hợp lý, hiệu quả và bền vững các nguồn tài nguyên. Ngăn chặn và từng bước khắc
phục sự xuống cấp của môi trường tự nhiên. Hạn chế tiến tới ngăn chặn căn bản
tình trạng ô nhiễm môi trường của các cơ sở sản xuất, khu, cụm công nghiệp, khu
đô thị, làng nghề, các lưu vực sông. Chủ động xây dựng, triển khai và kiểm tra,
giám sát việc thực hiện các chương trình, kế hoạch ứng phó với biến đổi khí hậu,
phòng, chống thiên tai; đầu tư thích đáng cho các công trình trọng điểm, các
chương trình ứng phó biến đổi khí hậu. Thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm chủ
động phòng, chống, hạn chế tác động của triều cường, ngập lụt, xâm nhập mặn do
nước biển dâng.
Đẩy mạnh xã hội hoá và nâng cao nhận
thức của toàn xã hội về công tác bảo vệ môi trường; tăng cường công tác kiểm
tra, thanh tra, xử lý nghiêm các cơ sở gây ô nhiễm môi trường; tiếp tục trồng
cây xanh dọc theo các tuyến đường và trồng cây chống sạt lở, hình thành các
tuyến đường sinh thái, vận động nhân dân tham gia cải tạo và xử lý ô nhiễm
môi trường tại nơi ở, trên các dòng sông, kênh mương, đồng ruộng.
Đến năm 2020 phấn đấu có 90% cơ sở sản
xuất công nghiệp nhận thức được lợi ích của việc áp dụng sản xuất sạch hơn
trong công nghiệp và 50% cơ sở áp dụng sản xuất sạch hơn, có quy trình
sản xuất tiên tiến, thân thiện với môi trường.
12. Liên kết
vùng và hội nhập quốc tế
- Tiếp tục tranh thủ sự quan tâm chỉ
đạo của Trung ương; sự chia sẻ, hợp tác, liên kết, giúp đỡ, góp ý của các tỉnh,
thành phố bạn trong cả nước, cộng đồng doanh nghiệp, nhà khoa học, nhà báo, nhà
văn nghệ sỹ, các tôn giáo, bạn bè quốc tế và người Việt Nam ở nước ngoài.
- Tích cực tham gia thực hiện mạnh
mẻ liên kết vùng đồng bằng sông Cửu Long và tăng cường hợp tác phát triển với
các tỉnh, thành phố, doanh nghiệp, đặc biệt là thành phố Hồ Chí Minh cả về
kinh tế - khoa học công nghệ - văn hóa - du lịch và quốc phòng - an
ninh; sự liên kết này phải đặt trong mối tương quan, hỗ trợ lẫn nhau,
tạo được sự đồng bộ, đồng thuận trong phát triển.
- Đẩy mạnh hội nhập quốc tế,
tăng cường hợp tác với các đối tác có kim ngạch xuất khẩu cao, chủ
động quan hệ và mở rộng thị trường để tạo điều kiện thuận lợi
trong cạnh tranh tiêu thụ sản phẩm nông lâm, thủy sản, đồng thời học
hỏi kinh nghiệm trong sản xuất, kinh doanh.
- Phát triển mối quan hệ hợp tác giữa
huyện Phụng Hiệp với huyện Gangjin-gun, Hàn Quốc; tiếp tục tìm hiểu, thiết lập
quan hệ hữu nghị, hợp tác với một số đối tác phù hợp; phát huy vai trò và huy động
nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài góp phần xây dựng và phát triển của tỉnh
nhà. Tích cực tham gia thực hiện liên kết vùng đồng bằng sông Cửu Long và tăng
cường hợp tác phát triển với các tỉnh, thành phố, doanh nghiệp, đặc biệt là
thành phố Hồ Chí Minh.
13. Quản lý
Nhà nước, cải cách hành chính, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và phòng chống
tham nhũng
Tập trung hoàn thiện tổ chức, bộ máy,
nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả, chất lượng hoạt động của hệ thống chính
trị. Tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả Chương trình tổng thể cải cách
hành chính; cải tiến quy trình, thủ tục hành chính và mối quan hệ phối hợp giữa
các sở, ngành, địa phương. Nâng cao chất lượng hội họp, nâng cao chất lượng ban
hành văn bản, đặc biệt là văn bản pháp quy. Tiếp tục nâng cao chất lượng công
tác phổ biến, giáo dục pháp luật.
Tăng cường công tác thanh tra để
phát hiện, chấn chỉnh, xử lý kịp thời các thiếu sót, vi phạm trong
hoạt động quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội của các cơ
quan nhà nước cũng như việc chấp hành chính sách, pháp luật của các
tổ chức, cá nhân; thực hiện có hiệu quả các giải pháp phòng ngừa
tham nhũng, tích cực phát hiện và xử lý nghiêm đối với các hành vi
tham nhũng phát sinh; chủ động tổ chức thực hiện tốt công tác tiếp
công dân, xử lý đơn thư, giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các vụ
việc khiếu nại, tố cáo của công dân ngay tại cơ sở, địa phương, hạn
chế tối đa phát sinh khiếu nại, tố cáo đông người, phức tạp, vượt
cấp. Quá trình thực hiện cần chú trọng bảo vệ các lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, thực
hiện đầy đủ các biện pháp bảo vệ người tố cáo, bảo đảm an ninh
trật tự, góp phần giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế -
xã hội.
14. Bảo đảm
quốc phòng, an ninh
Triển khai thực hiện Nghị quyết Trung
ương 8 (khóa XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; tăng cường
quốc phòng, an ninh đảm bảo an ninh trật tự; đẩy mạnh thực hiện các biện pháp đấu
tranh, phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội, kiềm chế và kéo giảm tai nạn giao
thông; đẩy mạnh phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc.
Tiếp tục thực hiện Nghị quyết
số 28-NQ/TW ngày 25/10/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI)
về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Xây dựng củng cố
thế trận an ninh nhân dân và nền quốc phòng toàn dân vững chắc,
thường xuyên vận hành cơ chế hoạt động tạo tiềm lực để tập trung
sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn dân thực hiện
nhiệm vụ đảm bảo an ninh, trật tự an toàn xã hội trong tình hình
mới.
Đẩy mạnh các biện pháp đấu
tranh phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội, quyết tâm kiềm chế sự
gia tăng của tội phạm, kéo giảm tai nạn giao thông, đảm bảo an toàn,
phòng chống cháy nổ.
Tăng cường công tác xây dựng Đảng,
xây dựng lực lượng vũ trang trong sạch, vững mạnh, có sức chiến đấu cao, hoàn
thành tốt nhiệm vụ; đầu tư xây dựng trụ sở, doanh trại, từng bước xây dựng hoàn
chỉnh cơ quan Công an, Quân sự cấp huyện, xã; chăm lo đời sống vật chất, tinh
thần cho lực lượng vũ trang. Triển khai quy hoạch và đầu tư xây dựng các hạng mục
công trình theo Đề án quy hoạch xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh Hậu Giang đến
năm 2020, chủ động xử lý các tình huống, làm thất bại mọi âm mưu chống phá của
các thế lực thù địch.
IV. Các chương
trình thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2016 - 2020)
Để phát huy tiềm năng, thế mạnh
của tỉnh, nhằm hoàn thành Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2016 -
2020, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Hậu Giang lần
thứ XIII, những giải pháp mang tính đột phá của tỉnh được thực hiện
thông qua việc xây dựng 04 Chương trình hành động sau:
1. Chương
trình đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa nông
nghiệp, gắn với xây dựng nông thôn mới.
2. Chương
trình đào tạo nguồn nhân lực, phát triển khoa học - công nghệ và giáo dục - đào
tạo.
3. Chương
trình thực hiện các chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, giải quyết việc
làm và giảm nghèo bền vững.
4. Chương
trình cải cách hành chính, xây dựng hệ thống chính quyền và phòng chống
tham nhũng, lãng phí.
Phần ba
TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Sở Kế hoạch và Đầu tư chịu trách nhiệm
phối hợp với các sở, ngành, địa phương tham mưu cho UBND tỉnh triển khai và điều
hành thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020 theo kế
hoạch hàng năm. Hàng năm sơ kết tình hình thực hiện và kiến nghị UBND tỉnh những
vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện; tham mưu cho UBND tỉnh điều chỉnh,
bổ sung kế hoạch phù hợp tình hình thực tế của địa phương.
Các sở, ngành theo chức năng, nhiệm vụ
xây dựng các chỉ tiêu Kinh tế - Xã hội và vận dụng thực hiện các cơ chế,
chính sách hiện hành, làm căn cứ tính toán kế hoạch 5 năm 2016 - 2020 và các
giải pháp điều hành của ngành mình đạt hiệu quả cao nhất, gửi Sở Kế hoạch và Đầu
tư, Văn phòng UBND tỉnh theo dõi, tham mưu UBND tỉnh chỉ đạo, điều hành.
UBND huyện, thị xã, thành phố,
căn cứ Kế hoạch 5 năm của tỉnh và Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ của địa
phương để cụ thể hóa kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020 phù
hợp với tình hình thực tế, làm cơ sở xây dựng kế hoạch hàng năm từ nay đến năm
2020.
Các cấp ủy Đảng lãnh đạo kịp thời, chặt
chẽ, đảm bảo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương,
đơn vị, phải quán triệt đầy đủ Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ
tỉnh Hậu Giang lần thứ XIII, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm
2016 - 2020 của tỉnh, nhằm huy động sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính
trị và nhân dân, để thực hiện đạt kết quả cao nhất.
Các sở, ban, ngành, đoàn thể và các địa
phương nghiên cứu kiến nghị với UBND tỉnh, Trung ương những cơ chế, chính sách,
bổ sung các luật, văn bản dưới luật, nhằm tạo hành lang pháp lý thông thoáng
phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020 hiệu quả và bền vững./.