ỦY
BAN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
-------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
--------------
|
Số:
1310/QĐ-UBND
|
Hà
Nội, ngày 20 tháng 03 năm 2009
|
QUYẾT ĐỊNH
BAN HÀNH ĐỀ ÁN NÂNG CAO CHỈ SỐ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA THÀNH
PHỐ HÀ NỘI GIAI ĐOẠN 2009-2010
ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Căn cứ Luật Tổ chức HĐND và
UBND ngày 26/11/2003;
Căn cứ Thông báo số 63-TB/TU ngày 24/12/2008 của Thành ủy Hà Nội v/v Kết luận Hội
nghị giao ban Thường trực Thành ủy – HĐND – UBND Thành phố với lãnh đạo các quận,
huyện, thành phố trực thuộc quý IV/2008
Xét đề nghị của Giám đốc Sở Kế hoạch và đầu tư,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Ban
hành kèm theo Quyết định này Đề án nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh của
Thành phố Hà Nội giai đoạn 2009-2010.
Điều 2.
Căn cứ vào các giải pháp trong Đề án này và các nhiệm vụ được giao theo chức
năng của mình, từng sở, ban, ngành, UBND quận, huyện xây dựng và triển khai Kế
hoạch hành động nhằm cải thiện môi trường đầu tư và sản xuất kinh doanh trong
lĩnh vực, địa bàn quản lý, xác định rõ từng mục tiêu, nhiệm vụ, biện pháp thực
hiện cụ thể và phân công người chịu trách nhiệm từng phần việc.
Trước ngày 20 của tháng cuối
quý, các sở, ngành, UBND các quận, huyện đánh giá kết quả thực hiện Đề án của
Thành phố và Kế hoạch hành động của ngành mình, cấp mình, báo cáo UBND Thành phố.
Giao Văn phòng UBND Thành phố và
Sở Kế hoạch và Đầu tư làm đầu mối theo dõi, đôn đốc, tổng hợp tình hình thực hiện
các nhiệm vụ của Đề án được phân công cho các sở, ban, ngành, báo cáo UBND
Thành phố.
Điều 3.
Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày ký.
Chánh Văn phòng UBND Thành phố,
Giám đốc các sở, ban, ngành của Thành phố Hà Nội, Chủ tịch UBND các quận, huyện
và các thành phố: Hà Đông, Sơn Tây, và thủ trưởng các đơn vị liên quan chịu
trách nhiệm thi hành quyết định này.
Nơi nhận:
- Thủ tướng Chính phủ (để báo cáo);
- Thường trực TU (để báo cáo);
- Thường trực HĐND TP (để báo cáo);
- CT, các PCT UBND TP;
- Các sở, ban, ngành, UBND các quận, huyện;
- VCCI, Hội Công Thương TP, Hiệp hội DN V&N TP;
- Các báo, đài thuộc TP;
- C,PVP, các phòng CV;
- Lưu.
|
TM.
ỦY BAN NHÂN DÂN
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH
Nguyễn Huy Tưởng
|
ĐỀ ÁN
NÂNG CAO CHỈ SỐ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA THÀNH PHỐ HÀ NỘI GIAI
ĐOẠN 2009-2010
(Ban hành kèm theo Quyết định số 1310/QĐ-UBND ngày 20/3/2009 của UBND
Thành phố Hà Nội)
I. GIỚI THIỆU
VỀ CHỈ SỐ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CẤP TỈNH (PCI)
1. Khái niệm
và các chỉ số cấu thành PCI
PCI là tên viết tắt bằng tiếng
Anh của các từ Provincial Competitiveness Index – chỉ số năng lực cạnh tranh cấp
tỉnh. PCI được tính toán nhằm “đánh giá chất lượng điều hành kinh tế cấp tỉnh
dựa trên môi trường kinh doanh để thúc đẩy sự phát triển của khu vực kinh tế tư
nhân (KTTN) thông qua cảm nhận của các doanh nghiệp dân doanh được điều tra”
ở mỗi tỉnh, thành phố. Chỉ số PCI là thành công đầu tiên trong việc triển khai
nghiên cứu môi trường đầu tư, môi trường sản xuất kinh doanh ở các tỉnh, thành
phố trong cả nước dựa trên đánh giá của doanh nghiệp. Chỉ số PCI được Phòng
công nghiệp và thương mại Việt Nam (VCCI) công bố chính thức từ năm 2005. Tuy
nhiên, việc đánh giá, xếp hạng về PCI cho tất cả 64 tỉnh, thành phố trong cả nước
chỉ được tiến hành hàng năm bắt đầu từ năm 2006. Cũng từ năm 2006, PCI được
tính toán trên cơ sở 10 chỉ số thành phần:
1. Chi phí gia nhập thị trường:
chỉ số thành phần này đo lường thời gian một doanh nghiệp cần để đăng ký
kinh doanh, xin cấp đất và nhận được mọi loại giấy phép, hoàn tất mọi thủ tục cần
thiết để bắt đầu tiến hành hoạt động kinh doanh.
2. Tiếp cận đất đai và sự ổn
định trong sử dụng đất: chỉ số thành phần này được tính toán căn cứ vào
tình trạng doanh nghiệp có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay không, có đủ mặt
bằng để đáp ứng nhu cầu mở rộng kinh doanh hay không, đánh giá của doanh nghiệp
về chính sách chuyển đổi đất nông nghiệp của địa phương, về rủi ro trong việc bị
thu hồi đất hay thay đổi các điều kiện thuê đất, về sự công bằng trong cơ chế
giải quyết tranh chấp liên quan đến đất đai.
3. Tính minh bạch: chỉ số
thành phần này đánh giá khả năng doanh nghiệp có thể tiếp cận được những kế hoạch
của tỉnh và văn bản pháp lý cần thiết cho công việc điều hành kinh doanh của
mình, sự bình đẳng trong tiếp cận thông tin của các tài liệu này, sự cập nhật
thông tin về chính sách, quy định mới cho doanh nghiệp, tính tiên liệu của việc
triển khai thực hiện những chính sách, quy định đó và độ mở của trang web tỉnh.
4. Chi phí thời gian để thực
hiện các quy định của nhà nước: chỉ số thành phần này đo lường thời gian mà
các doanh nghiệp phải bỏ ra khi thực hiện các thủ tục hành chính, cũng như mức
độ thường xuyên và thời gian doanh nghiệp phải tạm dừng kinh doanh để các cơ
quan pháp luật của tỉnh thực hiện việc thanh tra, kiểm tra.
5. Chi phí không chính thức:
chỉ số thành phần này đo lường mức chi phí không chính thức doanh nghiệp phải
trả và những trở ngại do những chi phí này gây nên cho hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp.
6. Ưu đãi đối với DNNN và môi
trường cạnh tranh: chỉ số thành phần này đo lường sự cảm nhận của các doanh
nghiệp dân doanh về mức độ ưu tiên của chính quyền tỉnh đối với các DNNN và về
chính sách cổ phần hóa của tỉnh, về thái độ của chính quyền tỉnh đối với khu vực
tư nhân, về số lượng DNNN và khả năng tiếp cận vốn của các DNNN trong tỉnh.
7. Tính năng động và tiên
phong của lãnh đạo tỉnh: chỉ số thành phần này đo lường tính sáng tạo, sáng
suốt của chính quyền tỉnh trong quá trình thực thi chính sách Trung ương cũng
như trong việc đưa ra những sáng kiến riêng nhằm phát triển khu vực kinh tế tư
nhân.
8. Chính sách phát triển khu
vực kinh tế tư nhân: chỉ số thành phần này dùng để đánh giá các chất lượng
các dịch vụ công của tỉnh để cung cấp thông tin thị trường, hỗ trợ tìm kiếm đối
tác kinh doanh, dịch vụ công nghệ cho doanh nghiệp.
9. Đào tạo lao động: chỉ số
này đánh giá những nỗ lực của chính quyền tỉnh trong việc giải quyết sự thiếu hụt
về lao động có tay nghề qua đào tạo tại địa phương.
10. Thiết chế pháp lý: chỉ
số thành phần này dùng để đánh giá mức độ tin tưởng của doanh nghiệp đối với
các thiết chế pháp lý tại địa phương, đặc biệt là việc sử dụng thiết chế pháp
lý để giải quyết tranh chấp công bằng và hiệu quả.
Năm 2008 Báo cáo PCI đưa thêm chỉ
số “Cơ sở hạ tầng” vào nghiên cứu với lý do là cơ sở hạ tầng yếu kém sẽ giảm lợi
thế cạnh tranh quốc gia cũng như cạnh tranh của mỗi tỉnh. Chỉ số “Cơ sở hạ tầng”
bao gồm đánh giá về 4 lĩnh vực: Chất lượng và khả năng đáp ứng của hạ tầng các
khu công nghiệp; Chi phí vận tải; Chi phí và tính ổn định của viễn thông, năng
lượng; Điều kiện hạ tầng kỹ thuật chính (cảng biển, sân bay). Bên cạnh các loại
hình cơ sở hạ tầng truyền thống như nêu trên, chỉ số “CNTT và truyền thông” được
xem như một loại hình cơ sở hạ tầng ngày càng có thế mạnh trong thúc đẩy giao dịch
kinh doanh.
Hai chỉ số này được phân tích
song song cùng với chỉ số PCI (gồm 10 chỉ số thành phần) trong năm 2008 và các
năm tiếp theo. Tuy vậy, chỉ số “cơ sở hạ tầng” khác với chỉ số PCI ở chỗ chỉ số
đầu tiên không phải là thước đo đánh giá chất lượng điều hành kinh tế của địa
phương, mà chỉ coi là một công cụ phần nào giúp các nhà lãnh đạo tỉnh đưa ra
các ưu tiên về chính sách phát triển.
2. Phương
pháp thu thập số liệu và xây dựng chỉ số PCI
Quy trình xây dựng chỉ số PCI
bao gồm 3 bước chính: Thu thập số liệu, Xử lý dữ liệu để xây dựng các chỉ số
thành phần, Xây dựng chỉ số tổng hợp PCI.
Quá trình thu thập số liệu để
xây dựng chỉ số PCI được tiến hành chủ yếu dựa trên việc điều tra doanh nghiệp
trong cả nước với phương pháp điều tra gián tiếp bằng cách gửi bộ câu hỏi điều
tra qua bưu điện đến các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp được chọn để gửi phiếu
điều tra thông qua việc phân tổ và chọn mẫu khá khoa học từ danh sách các doanh
nghiệp đang nộp thuế ở các địa phương để đảm bảo tính đại diện của mẫu điều
tra.
Sau khi nhận được trả lời của
doanh nghiệp (cũng qua đường bưu điện), các chuyên gia xử lý số liệu thông
qua việc sử dụng trợ giúp kỹ thuật của công cụ toán thống kê để giảm thiếu sai
số gây ra bởi tỷ lệ phản hồi chưa cao của các doanh nghiệp. Các thông tin thu
được thông qua điều tra doanh nghiệp này được sử dụng để tạo thành “dữ liệu mềm”.
Ngoài những thông tin khảo sát, nghiên cứu PCI còn thu nhập số liệu thông qua
xin ý kiến chuyên gia, sử dụng bộ câu hỏi so sánh, và dùng một số số liệu thống
kê để tính toán một số chỉ số tạo thành “dữ liệu cứng” nhằm giúp hiệu chỉnh những
sai lệch trong đánh giá của các doanh nghiệp trong tính toán một số chỉ số.
Sau khi thu thập và xử lý số liệu,
việc tính toán để xây dựng chỉ số PCI được thực hiện bằng cách chuẩn hóa
điểm các chỉ tiêu của 64 tỉnh/thành phố theo thang điểm 1 – 10, sau đó tính điểm
số của các chỉ số thành phần, tính toán trọng số cho mỗi chỉ số thành phần và
tính toán chỉ số PCI tổng hợp cuối cùng.
3. Một số
nhận xét về PCI
PCI là một nghiên cứu, đánh giá
việc thực hiện chính sách của chính quyền địa phương đối với khu vực KTTN chủ yếu
dựa trên những cảm nhận của chính các doanh nghiệp dân doanh được điều tra. Như
ý kiến của các nhà nghiên cứu, chỉ số PCI không chỉ nhằm xếp hạng thứ tự các tỉnh,
thành, mà tìm ra “nguyên nhân tại sao trên cùng một quốc gia, một số tỉnh lại
vượt trội hơn những tỉnh khác về tốc độ tăng trưởng kinh tế và sự phát triển
năng động của khu vực KTTN”.
Bằng phương pháp điều tra xã hội
học kết hợp với các thuật toán kinh tế, PCI đã khái quát được bức tranh môi trường
đầu tư, môi trường sản xuất kinh doanh của mỗi địa phương, chỉ ra được những mặt
mạnh, mặt yếu trong xây dựng và thực thi chính sách phát triển KTTN của từng tỉnh,
thành phố và có giá trị tham khảo bổ ích cho các nhà hoạch định chính sách, các
nhà kinh tế.
Mặc dù có nhiều hành động, được
đông đảo dư luận quan tâm và được nhiều đối tượng khác nhau sử dụng kết quả
(nhà nghiên cứu, nhà chính trị, người quản lý, tổ chức quốc tế, các nhà đầu tư
…), PCI cũng còn một số hạn chế như:
(1) –Tên gọi Chỉ số năng lực cạnh
tranh cấp tỉnh là không chuẩn xác, do thực chất nghiên cứu PCI chỉ tập trung
đánh giá chất lượng điều hành kinh tế để thúc đẩy sự phát triển của khu vực
KTTN.
Theo quan niệm của Diễn đàn Kinh
tế Thế giới (WEF) – tổ chức quốc tế nghiên cứu và công bố Báo cáo hàng năm về
Năng lực cạnh tranh của quốc gia – thi năng lực cạnh tranh (của quốc gia, địa
phương, doanh nghiệp và sản phẩm) là sự tích hợp của nhiều yếu tố, phụ thuộc
vào 9 tiêu chí chủ yếu: thể chế kinh tế; hệ thống cơ sở hạ tầng; năng lực kinh
tế vĩ mô; hệ thống giáo dục và y tế phổ thông; trình độ giáo dục đại học; hiệu
quả vận hành của cơ chế thị trường; mức độ sẵn sàng về công nghệ; mức độ hài
lòng doanh nghiệp và mức độ sáng tạo[1].
Do vậy, tên gọi như PCI dễ gây ra hiểu nhầm cho người đọc.
(2) – Một số chỉ tiêu chưa phản
ánh khách quan, đúng các nỗ lực của chính quyền địa phương trong việc hỗ trợ
phát triển doanh nghiệp tư nhân hay nói cách khác, yếu tố của điều kiện truyền
thống còn ảnh hưởng kết quả của một số chỉ tiêu.
Ví dụ: Để đánh giá sự ổn định của
mặt bằng sản xuất, câu hỏi B.5 đề cập đến chỉ tiêu thời gian thuê đất của doanh
nghiệp. Đây là một vấn đề quan trọng vì liên quan đến mặt bằng sản xuất, đến khối
lượng vốn đầu tư của doanh nghiệp nằm trên mảnh đất đó. Do chính sách nhà nước
hiện nay chưa quy định rõ ràng các quyền gắn liền với Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất có còn hiệu lực không khi Giấy chứng nhận hết hạn, nên ít nhiều đã gây
ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý nhà đầu tư, tạo ra sự lo lắng về rủi ro bị thu hồi
đất. Sự không rõ ràng về tương lai lô đất cũng ảnh hưởng xấu đến giá trị thương
mại của nó, gây khó khăn cho nhà đầu tư khi muốn huy động vốn. Những hạn chế
này sẽ tác động càng lớn theo thời hạn còn lại của Giấy chứng nhận.
Tuy nhiên, để đánh giá mức độ ổn
định của mặt bằng sản xuất, việc đề nghị doanh nghiệp cung cấp thông tin về khoảng
thời gian còn lại của Giấy chứng nhận sẽ có thể bóp méo sự nỗ lực của chính quyền
địa phương. Các doanh nghiệp ở các tỉnh kém phát triển hơn thường có câu trả lời
tốt hơn về vấn đề này, mà nguyên nhân không phải do chính quyền tỉnh đó nỗ lực
hơn mà do những điều kiện “truyền thống” như các doanh nghiệp hoạt động trên đất
của gia đình có xu hướng phổ biến hơn tại các tỉnh kém phát triển, do vậy sẽ có
quyền sử dụng vô thời hạn theo quy định tại Điều 66, Luật Đất đai 2003.
(3) – Số liệu “cứng” sử dụng
không thống nhất theo thời gian, thường bị lạc hậu (ví dụ như trong tính toán
PCI của năm 2008 sử dụng những số liệu của Tổng cục Thống kê công bố từ Điều
tra doanh nghiệp năm 2005 và 2006). Mặc dù, những chỉ tiêu đánh giá điều kiện
truyền thống không thể thay đổi nhanh chóng, song số liệu lạc hậu sẽ ảnh hưởng
tới chất lượng và giảm tính thuyết phục của kết quả.
(4) – Do đặc thù của phương pháp
thu thập thông tin thông qua điều tra xã hội học và do tỷ lệ phản hồi của các
doanh nghiệp điều tra chưa cao[2],
có một “độ vênh” đáng kể giữa những nỗ lực của chính quyền địa phương trong cải
thiện môi trường đầu tư và đánh giá của doanh nghiệp về những kết quả của nỗ lực
đó. Trong nhiều trường hợp, những doanh nghiệp cảm thấy “bị thiệt thòi” nhất
trong cạnh tranh để phát triển ở địa phương chính là những doanh nghiệp nhiệt
tình nhất trong việc trả lời phiếu điều tra, còn những doanh nghiệp thấy tương
đối hài lòng với môi trường đầu tư và kinh doanh trên địa bàn lại kém hào hứng
trong việc tham gia vào các cuộc điều tra dạng này.
Tuy còn có những hạn chế, song
PCI vẫn là một dự án nghiên cứu nghiêm túc, có nhiều kết quả được áp dụng hiệu
quả trong thực tế. Một số tỉnh đã xây dựng các chương trình, kế hoạch để cải
thiện môi trường đầu tư của địa phương, trong đó đặc biệt chú trọng các biện
pháp cải thiện các chỉ số thành phần của PCI được công bố.
II. ĐÁNH GIÁ
THỰC TRẠNG ĐIỀU HÀNH CỦA HÀ NỘI PHỤC VỤ CHO PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP QUA CHỈ SỐ
PCI
1. Xếp hạng
của Thành phố theo chỉ số PCI
Thực hiện chủ trương của Đảng,
Nhà nước trong phát triển các thành phần kinh tế, Thủ đô Hà Nội đã đổi mới toàn
diện từ tư duy đến hành động, từ chỉ đạo đến điều hành và là một trong những địa
phương đi đầu trong phát triển kinh tế tư nhân. Tuy nhiên, trên cơ sở đánh giá
của khối doanh nghiệp tư nhân, kết quả điều tra khảo sát của VCCI-VNCI cho thấy
PCI của Hà Nội xếp thứ hạng chưa cao, nhiều chỉ số, chỉ tiêu thành phần có điểm
số khá thấp, xếp ở nhóm trung bình, tương đối thấp hoặc thậm chí là rất thấp.
Năm 2006, Hà Nội xếp vị trí 38/64, năm 2007 Thành phố cải thiện được 13 bậc, xếp
vị trí 27/64; năm 2008 lại giảm 4 bậc, tụt xuống vị trí 31/64. Chỉ số PCI của
Hà Tây mặc dù đã có được cải thiện trong 1-2 năm gần đây, nhưng truyền thống là
khá thấp: năm 2008 chỉ số PCI của Hà Tây chỉ xếp vị trí thứ 55/64, năm 2007 là
41/64 và năm 2006 là 62/64.
Đặc biệt, năm 2008 mặc dù đã có
sự kiện điều chỉnh địa giới hành chính của Hà Nội (từ tháng 8/2008) nhưng các số
liệu khảo sát do nhóm nghiên cứu thu thập được thực chất là của năm 2007 và một
số tháng đầu năm 2008 (do phiếu điều tra gửi đến các doanh nghiệp ngay sau Tết
Nguyên đán và các phiếu trả lời được thu về chậm nhất cũng chỉ 1-2 tháng sau
đó), khi đó tỉnh Hà Tây vẫn chưa sáp nhập và một số đơn vị hành chính khác của
Hà Nội ngày nay vẫn thuộc về các tỉnh Vĩnh Phúc và Hòa Bình. Vì vậy, PCI năm
2008 vẫn được tính riêng cho Hà Nội và Hà Tây (cũ). So với 64 tỉnh , thành phố
trong cả nước, năm 2008 trong bảng xếp hạng về PCI, Hà Nội đứng thứ 31, còn Hà
Tây đứng thứ 55[3].
Cụ thể vị trí các chỉ số thành phần của PCI Hà Nội như sau:
• Chi phí gia nhập thị trường: xếp
vị trí 41/64, tăng 22 bậc so với năm 2007 (tỉnh Hà Tây 54/64)
• Tiếp cận và sự ổn định trong sử
dụng đất: 64/64, giữ nguyên so với năm 2007 (tỉnh Hà Tây: 50/64)
• Tính minh bạch và tiếp cận
thông tin: 23/64, giảm 7 bậc so với năm 2007 (tỉnh Hà Tây: 56/64)
• Chi phí thời gian thực hiện
các quy định của Nhà nước, tăng 6 bậc so với năm 2007: 34/64 (tỉnh Hà Tây:
56/64)
• Chi phí không chính thức:
48/64, tăng 16 bậc so với năm 2007 (tỉnh Hà Tây: 22/64)
• Ưu đãi đối với doanh nghiệp
nhà nước: 50/64, tăng 11 bậc so với năm 2007 (tỉnh Hà Tây: 37/64)
• Tính năng động và tiên phong của
chính quyền Thành phố: 46/64, giảm 18 bậc so với năm 2007 (tỉnh Hà Tây: 34/64)
• Chính sách phát triển khu vực
KTTN: 5/64, tăng 1 bậc so với năm 2007 (tỉnh Hà Tây: 30/64)
• Đào tạo lao động: 23/64, giảm
1 bậc so với năm 2007 (tỉnh Hà Tây: 61/64)
• Thiết chế pháp lý: 60/64, giảm
15 bậc so với năm 2007 (tỉnh Hà Tây: 56/64)
Chỉ số Cơ sở hạ tầng của Hà Nội
xếp hạng thứ 10/64; Hà Tây xếp thứ 54/64; còn theo chỉ số Công nghệ thông tin
và truyền thông, Hà Nội xếp thứ 2/64, Hà Tây xếp thứ 13/64.
2. Thực trạng
điều hành của Thành phố qua đánh giá của DNTN
2.1. Một số kết quả
Trong thời gian qua Thành phố Hà
Nội đã nỗ lực, cố gắng trong việc cải thiện môi trường đầu tư sản xuất kinh
doanh: năm 2007, 2008 Thành phố đã ban hành các chính sách mới như: quyết định
số 15/2007/QĐ-UBND ngày 23/01/2007 ban hành Quy định về đấu thầu lựa chọn nhà đầu
tư dự án có sử dụng đất trên địa bàn Thành phố Hà Nội; Quyết định số
22/2007/QĐ-UBND ngày 09/02/2007 ban hành Quy định về quy trình giải quyết một số
thủ tục hành chính trong quản lý các dự án đầu tư sử dụng nguồn vốn ngoài Ngân
sách nhà nước trên địa bàn Thành phố Hà Nội … nhằm tạo thuận lợi phát triển
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Trong năm 2008, dù trong bối cảnh
kinh tế khó khăn, nhưng nhiều chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, như tốc độ tăng trưởng
GDP, GDP bình quân đầu người, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, số lượng doanh
nghiệp thành lập mới đạt mức tăng trưởng khá …. Tổng sản phẩm nội địa GDP giai
đoạn từ 2001 đến nay (năm 2000 Luật Doanh nghiệp được ban hành) bình quân tăng
11,4%, trong đó 2 năm 2006 – 2007 tăng trung bình 11,81%; năm 2008 sau khi Hà Nội
mở rộng địa giới hành chính tăng 10,58%. GDP bình quân đầu người năm 2007 đạt
31,8 triệu đồng (theo giá thực tế), tăng 2,8 lần so với năm 2000 (nếu tính theo
giá so sánh 1994 thì tăng khoảng 1,74 lần). Thu hút vốn đầu tư nước ngoài có kết
quả nổi bật. Trong 2 năm gần đây Hà Nội là 1 trong 3 địa phương dẫn đầu cả nước
về thu hút FDI: chỉ riêng hai năm 2006, 2007 đã thu hút 4,8 tỷ USD, năm 2008 là
5 tỷ USD. Kinh tế tư nhân được khuyến khích, phát triển mạnh. Đến nay, trên địa
bàn có trên 71.000 doanh nghiệp đăng ký hoạt động, chủ yếu là doanh nghiệp vừa
và nhỏ, trong đó từ sau khi Luật Doanh nghiệp ban hành đến nay đã có 64.400
doanh nghiệp mới đăng ký.
Một số chỉ số thành phần của PCI
Hà Nội năm 2008 đã tăng bậc đáng kể so với năm 2007, chứng tỏ các doanh nghiệp
đã ghi nhận được những cố gắng của …………..
2.2. Một số hạn chế
Tuy có những kết quả đáng kể như
nêu trên, song nhìn chung đánh giá của các doanh nghiệp dân doanh về những cải
thiện trong môi trường đầu tư và kinh doanh ở Hà Nội là chưa tốt. Một số khía cạnh
có kết quả khả quan, theo đánh giá của nhiều doanh nghiệp, xuất phát từ tính đặc
thù, truyền thống của Hà Nội từ trước đến nay: trên 35% doanh nghiệp được hỏi
cho rằng chất lượng làm việc của các cơ quan nhà nước với doanh nghiệp không tốt
lên trong những năm qua. Có tới 5 trong tổng 10 chỉ số thành phần của PCI Hà Nội
bị xếp vào loại thấp và tương đối thấp (gồm Tiếp cận và sự ổn định trong sử dụng
đất, Thiết chế pháp lý, Ưu đãi đối với doanh nghiệp nhà nước, Chi phí không
chính thức và Tính năng động và tiên phong của chính quyền Thành phố). Đặc biệt,
có 3 chỉ số tụt hạng lớn so với năm 2007 là Tính năng động và tiên phong của
chính quyền Thành phố (giảm 18 bậc), Thiết chế pháp lý (giảm 15 bậc), Tính minh
bạch và tiếp cận thông tin (giảm 7 bậc). Chỉ số Tiếp cận và sự ổn định trong sử
dụng đất vẫn giữ nguyên ở mức xếp hạng cuối cùng trong 64 tỉnh, thành phố qua 2
năm (chỉ số này của tỉnh Hà Tây năm 2008 cũng ở mức xếp hạng thấp: 50/64). Một
số chỉ số khác đã có sự cải thiện, tăng bậc xếp hạng so với năm 2007 nhưng vẫn ở
mức xếp hạng thấp là Chi phí không chính thức: 48/64, tăng 16 bậc so với năm
2007 (tỉnh Hà Tây: 22/64) và Ưu đãi đối với doanh nghiệp nhà nước: 50/64, tăng
11 bậc so với năm 2007 (tỉnh Hà Tây: 37/64). Từ những thay đổi trong xếp hạng của
các chỉ số thành phần này, có thể thấy những hạn chế mà Hà Nội cần tập trung khắc
phục trong điều hành là:
- Tính năng động, sáng tạo của
Thành phố trong việc giải quyết các vướng mắc cho doanh nghiệp bị đánh giá thấp.
Thành phố còn chưa chủ động vận dụng hiệu quả những quy định của Trung ương để
tạo điều kiện thuận lợi hơn cho doanh nghiệp. Điều này một mặt giúp Thành phố
không thuộc nhóm các tỉnh, thành phố “vượt rào”, luôn thực hiện đúng các chính
sách của Trung ương, nhưng cũng chính là nguyên nhân mà doanh nghiệp đánh giá
thấp tính năng động, sáng tạo của Hà Nội. Còn tới hơn 50% doanh nghiệp không đồng
tình với nhận định rằng chính quyền Thành phố đã sáng tạo và sáng suốt trong việc
giải quyết những trở ngại đối với cộng đồng doanh nghiệp. Thông thường, khi có
điểm chưa rõ ràng trong một quy định nào đó của Trung ương, nhiều doanh nghiệp
cho rằng Thành phố sẽ hoãn việc ra quyết định và xin ý kiến từ các cơ quan
Trung ương liên quan và không ít trường hợp cho rằng các cán bộ Thành phố sẽ giải
thích theo hướng bất lợi cho doanh nghiệp. Ngay cả việc triển khai tốt trong
khuôn khổ các quy định của Trung ương, Hà Nội cũng không được đánh giá cao (chỉ
xếp thứ 56/64). Chỉ số Tính năng động và tiên phong của chính quyền Thành phố bị
sụt giảm và xếp ở mức thấp là nguyên nhân làm cho chỉ số PCI chung của Hà Nội
năm 2008 giảm do đây là chỉ số thành phần có trọng số cao.
- Thiết chế pháp lý của
Thành phố phục vụ cho việc giải quyết tranh chấp hoặc là nơi mà các doanh nghiệp
có thể khởi kiện các hành vi tham nhũng của cán bộ công quyền còn thiếu và yếu.
Chỉ hơn 48% số doanh nghiệp trả lời thường xuyên sử dụng thiết chế pháp lý để
giải quyết tranh chấp. Còn tới hơn 80% số doanh nghiệp cho rằng hệ thống pháp
lý không thường xuyên tạo ra cơ chế để doanh nghiệp có thể khởi kiện hành vi
tham nhũng của cán bộ công quyền.
- Việc cung cấp thông tin cho
doanh nghiệp, công khai các văn bản, các cơ chế, chính sách của Thành phố vẫn
còn nhiều bất cập. Những nỗ lực của Thành phố bước đầu đạt được những kết
quả mang tính kỹ thuật, như xây dựng Cổng giao tiếp điện tử, các trang web của
các sở, ngành, …, song việc duy trì, cập nhật liên tục, đầy đủ thông tin còn
chưa tốt, hiệu quả cung cấp thông tin cho doanh nghiệp còn chưa cao. Các doanh
nghiệp còn rất khó tiếp cận đến những tài liệu, như quy hoạch, kế hoạch, các cơ
chế, chính sách của Thành phố …. Còn có hơn 36% số doanh nghiệp tham gia điều
tra cho rằng việc phải có “mối quan hệ” để có được các tài liệu kế hoạch của Hà
Nội là quan trọng và rất quan trọng. Đánh giá theo tiêu chí khả năng tiếp cận
các tài liệu, văn bản, năm 2008 Hà Nội xếp vị trí rất thấp – 63/64.
Trong quá trình xây dựng kế hoạch,
các văn bản pháp quy, các quy định …, các cơ quan Thành phố chưa thường xuyên
tham khảo ý kiến của doanh nghiệp hoặc tham khảo, nhưng còn mang tính hình thức:
chỉ có 1,2% số doanh nghiệp trả lời cho rằng Hà Nội thường xuyên trao đổi ý kiến
với doanh nghiệp về những thay đổi trong quy định của pháp luật. Việc chưa tạo
điều kiện để các doanh nghiệp tham gia tích cực vào quá trình xây dựng các kế
hoạch, quy định … không những làm giảm tính khả thi trong thực hiện các chính
sách, mà còn làm nhiều doanh nghiệp hiểu biết ít hơn về những chương trình, cơ
chế hỗ trợ, làm giảm đi những nỗ lực của Thành phố trong con mắt của doanh nghiệp.
Những hạn chế này làm giảm tính minh bạch, tính công bằng, sự ổn định trong việc
thực thi các quy định của Nhà nước và Thành phố, làm khó khăn cho doanh nghiệp
trong dự đoán chính sách, là điểm mà doanh nghiệp của Hà Nội truyền thống đánh
giá thấp so với các địa phương khác (năm 2008 xếp vị trí 55/64).
- Tiếp cận đất đai, mặt bằng
sản xuất kinh doanh là một trong những vấn đề nan giải của doanh nghiệp Hà Nội.
Phần lớn các doanh nghiệp đánh giá thấp về khả năng tiếp cận, cũng như tính ổn
định của mặt bằng sản xuất đang sử dụng. Nhiều vấn đề trong lĩnh vực đất đai của
Thành phố xếp ở vị trí nhóm cuối, như tỷ lệ doanh nghiệp có Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, mức độ đền bù thỏa đáng nếu bị thu hồi đất, điều kiện và thời hạn
thuê đất …. Phát triển các khu, cụm công nghiệp triển khai còn chậm và bất cập,
chưa bảo đảm hạ tầng kỹ thuật dịch vụ liên quan trực tiếp phục vụ doanh nghiệp,
cũng như các dịch vụ xã hội thiết yếu cho người lao động. Có tới gần 65% doanh
nghiệp tại Hà Nội tham gia điều tra cho rằng thiếu mặt bằng hạn chế khả năng mở
rộng kinh doanh của họ.
- Chi phí thời gian mà doanh
nghiệp sử dụng để thực hiện các quy định hành chính của Nhà nước trong quá
trình hoạt động tại Hà Nội vẫn còn khá lớn so với các địa phương khác. Những
thủ tục liên quan đến các loại giấy phép, đến đất đai … còn khá phức tạp và kéo
dài, gây mất nhiều thời gian, công sức của doanh nghiệp. Theo đánh giá của
doanh nghiệp, năm 2008 Hà Nội vẫn có gần 25% số doanh nghiệp phải mất hơn 1
tháng để bắt đầu kinh doanh (trong khi ở tỉnh xếp thứ nhất – Tiền Giang, chỉ có
6,7% số doanh nghiệp đánh giá như vậy), còn tới gần 1/5 số doanh nghiệp gặp khó
khăn để có đủ các loại giấy phép cần thiết. Thời gian đăng ký kinh doanh bổ
sung của doanh nghiệp Hà Nội vẫn còn khá dài so với ở các tỉnh khác: trung bình
doanh nghiệp Hà Nội mất 10 ngày trong khi ở Hải Phòng hay Đà Nẵng chỉ mất 7
ngày. Thời gian thực sự để doanh nghiệp có mặt bằng kinh doanh còn khá dài so với
các địa phương khác. Tỷ lệ này khá cao so với báo cáo của các cơ quan Hà Nội chứng
tỏ thời gian bổ sung, hoàn thiện hồ sơ của doanh nghiệp (thời gian mà doanh
nghiệp tính vào chi phí, trong khi các cơ quan nhà nước không thống kê) là khá
lớn. Điều này bắt nguồn từ hệ thống cơ sở pháp lý còn chưa đầy đủ, rõ ràng, gây
khó khăn cho cả doanh nghiệp và cả cán bộ trực tiếp thụ lý; việc hỗ trợ hướng dẫn
doanh nghiệp trong giải quyết các vấn đề liên quan chưa được thực hiện tốt; sự
hiểu biết của doanh nghiệp về luật pháp và các quy định của Nhà nước còn chưa đầy
đủ.
Các quy trình giải quyết thủ tục
hành chính khác của nhiều cơ quan địa phương vẫn còn phức tạp, dẫn đến thời
gian doanh nghiệp mất đi vẫn còn khá lớn. Các hướng dẫn và thủ tục cụ thể liên
quan đến hóa đơn giá trị gia tăng, gia hạn các chứng chỉ về môi trường, vệ sinh
thực phẩm, an toàn cháy nổ, bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội…, những thủ tục mà
các doanh nghiệp thường phải giải quyết định kỳ trong quá trình hoạt động vẫn
là những mối bận tâm hàng đầu của doanh nghiệp. Có đến hơn 86% số doanh nghiệp
tham gia điều tra cho rằng thời gian làm việc với chính quyền địa phương không
giảm đi trong 2 năm qua.
- Theo đánh giá của doanh nghiệp
tư nhân, thái độ tiếp xúc, làm việc của một bộ phận cán bộ, công chức còn
chưa thực sự đúng mực, theo tinh thần “phục vụ doanh nghiệp”. Đặc biệt, còn
có tới trên 61% doanh nghiệp tham gia điều tra cho rằng cán bộ Thành phố sử dụng
các quy định riêng của địa phương với mục đích trục lợi. Mặc dù thời gian qua
có nhiều chủ trương của Thành phố trong việc đẩy mạnh phát triển khu vực kinh tế
tư nhân, song nhìn nhận đối với vai trò của khu vực kinh tế tư nhân ở nhiều nơi
còn chưa khách quan, chưa tương xứng với vai trò của khu vực kinh tế này trong
phát triển Thủ đô. Đây là lý do làm các doanh nghiệp tư nhân đánh giá chưa cao
về thái độ của các cơ quan Thành phố (còn tới 62% doanh nghiệp không đồng ý với
nhận định rằng thái độ của Thành phố đối với khu vực tư nhân là tích cực).
- Môi trường phát triển cho
các doanh nghiệp dân doanh còn chưa thực sự thuận lợi, vẫn còn những hàng
rào cản trở sự cạnh tranh bình đẳng với các thành phần kinh tế khác. Một số cơ
chế, chính sách hỗ trợ của Thành phố chưa đi đến được các doanh nghiệp tư nhân,
đặc biệt các doanh nghiệp nhỏ và vừa, mà chỉ có các doanh nghiệp nhà nước hoặc
doanh nghiệp cổ phần hóa được tiếp cận. Do vậy, các chính sách hỗ trợ của Hà Nội,
các dịch vụ công được cung cấp liên quan đến việc cung cấp thông tin thị trường,
hỗ trợ tìm kiếm đối tác kinh doanh và đầu tư, dịch vụ công nghệ chưa phát huy
được hiệu quả trong đa số các doanh nghiệp (chỉ có trên dưới 30% doanh nghiệp
cho rằng các dịch vụ công này có chất lượng tốt).
- Việc doanh nghiệp trả chi
phí không chính thức vẫn là vấn đề khá phổ biến và do đã tồn tại khá lâu,
nên 1/5 số doanh nghiệp điều tra coi đó là chuyện bình thường và không cản trở
hoạt động kinh doanh của họ. Thời gian qua Chính phủ và Thành phố đã thực hiện
nhiều giải pháp nhằm phòng, chống tham nhũng, song vấn đề tồn tại vẫn còn khá
gay gắt. Theo đánh giá của doanh nghiệp, ở Thành phố còn các quy định mà qua đó
cán bộ có thể trục lợi cho bản thân, gây khó khăn cho doanh nghiệp; hơn 4/5
doanh nghiệp điều tra phải trả chi phí không chính thức cho cán bộ công chức
(chỉ số này Hà Nội xếp vị trí 63/64).
- Quá trình sắp xếp, đổi mới
doanh nghiệp nhà nước thực hiện còn chậm, còn tới gần 82% số doanh nghiệp
tham gia điều tra đánh giá không cao về nỗ lực thực hiện cổ phần hóa của Hà Nội.
Một số cơ chế, chính sách của Thành phố đối với các doanh nghiệp cổ phần hóa,
theo đánh giá của doanh nghiệp điều tra, còn chưa tạo ra môi trường cạnh tranh
công bằng, gây khó khăn cản trở đối với hoạt động và phát triển doanh nghiệp tư
nhân (vẫn còn tới gần 48% doanh nghiệp cho rằng Thành phố ưu đãi các doanh nghiệp
nhà nước hơn).
III. MỘT SỐ
GIẢI PHÁP CẢI THIỆN MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ VÀ SẢN SUẤT KINH DOANH, NÂNG CAO THỨ TỰ XẾP
HẠNG PCI CỦA THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Thời gian qua, Thành phố đã nỗ lực
triển khai đồng bộ các giải pháp nâng cao sức cạnh tranh, nhưng năm 2008 chỉ số
PCI của Hà Nội chỉ xếp vị trí 31 (mặc dù tăng lên 9 bậc so với năm 2006 là năm
Thành phố xếp vị trí thấp nhất, nhưng lại giảm 4 bậc so với năm 2007). Tuy có
những tiến bộ trên một số mặt, song tốc độ cải cách của Thành phố còn chưa đáp ứng
yêu cầu; sự quyết tâm cao của lãnh đạo Thành phố còn chưa được cụ thể hóa, chuyển
biến thành hành động và kết quả công việc của từng cán bộ công chức trong các
cơ quan quản lý nhà nước, đặc biệt ở cấp cơ sở. Sự cần thiết phải thực hiện cải
cách càng trở nên cấp bách hơn sau khi Hà Nội được mở rộng địa giới hành chính.
Việc sáp nhập với tỉnh Hà Tây và một số đơn vị hành chính của tỉnh Vĩnh Phúc và
Hòa Bình một mặt mở ra những nguồn tiềm năng to lớn, song mặt khác cũng đem lại
không ít những khó khăn, thách thức.
Thời gian tới, để đưa Hà Nội là
một trong những địa phương đi đầu của cả nước về hiệu quả điều hành phát triển
kinh tế của chính quyền cấp tỉnh, các cấp, các ngành cần tiếp tục thực hiện chỉ
đạo của Bí thư Thành ủy Hà Nội: “rà soát lại mọi thủ tục, quy định, khắc phục
tất cả những gì là trì trệ, quan liêu, tiêu cực để cải thiện môi trường kinh
doanh, thu hút đầu tư”, cụ thể hóa và thực hiện chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước; triển khai tích cực Đề án “Cải thiện môi trường đầu tư và sản
xuất kinh doanh của Thành phố”.
Việc đề ra và thực hiện các giải
pháp để tạo môi trường đầu tư và sản xuất kinh doanh thuận lợi nhất cho doanh
nghiệp ở Hà Nội, qua đó cải thiện các chỉ số PCI phải đảm bảo đúng luật và hiệu
quả. Do đó, trước hết cần tập trung cải thiện các chỉ tiêu, chỉ số thành phần
còn bị đánh giá thấp. Cụ thể, các sở, ban, ngành, quận, huyện của Hà Nội cần tập
trung thực hiện một số giải pháp như sau:
3.1. Những giải pháp chung
3.1.1. Tăng cường thông
tin, tuyên truyền về kế hoạch và các giải pháp của Thành phố nhằm cải thiện PCI
để một mặt tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận với các thông tin về
chính sách của Thành phố, mặt khác góp phần nâng cao nhận thức, tinh thần trách
nhiệm của đội ngũ cán bộ công chức Thành phố và tạo đồng thuận trong xã hội.
3.1.2. Nâng cao nhận thức,
trách nhiệm của lãnh đạo và đội ngũ cán bộ công chức trong việc hỗ trợ doanh
nghiệp
- Tăng cường tuyên truyền, phổ
biến các chính sách của Đảng, Nhà nước và của Thành phố về phát triển kinh tế ngoài
quốc doanh, vai trò quan trọng của khu vực dân doanh trong phát triển kinh tế
xã hội Thủ đô. Phối hợp với các Hiệp hội, các doanh nghiệp lớn xây dựng các
chương trình quảng bá vị trí và những đóng góp của các doanh nghiệp tư nhân
trong kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội. Tạo sự chuyển biến mạnh trong đội
ngũ cán bộ công chức về trách nhiệm, tác phong thực hiện công vụ; chuyển nhận
thức và hành động hàng ngày từ “quản lý doanh nghiệp” sang “phục vụ
doanh nghiệp”. Đổi mới hình thức quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp theo
hướng từ “tiền kiểm” sang “hậu kiểm” và tăng tính tự chịu trách nhiệm cho doanh
nghiệp.
- Khẩn trương củng cố, kiện toàn
bộ máy quản lý nhà nước từ Thành phố đến quận, huyện, xã, phường. Tăng cường hiệu
quả phối kết hợp giữa các cơ quan trong quá trình xây dựng, ban hành, thực hiện
các cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch. Thực hiện tốt phân cấp
quản lý kinh tế xã hội, phân cấp ngân sách giữa chính quyền các cấp.
- Nâng cao tính chuyên nghiệp,
năng lực và phẩm chất đội ngũ cán bộ công chức phù hợp với chức năng, nhiệm vụ.
Tăng cường tổ chức các lớp tập huấn định kỳ, thường xuyên cập nhật những chủ
trương, văn bản pháp luật mới ban hành nhằm củng cố kiến thức chuyên môn của
các cán bộ công chức, đặc biệt đội ngũ cán bộ trực tiếp làm việc với nhân dân
và doanh nghiệp.
- Triển khai có hiệu quả các
chương trình hành động của Thành phố về thực hiện Luật phòng, chống tham nhũng.
Nghiên cứu ban hành và thực hiện nghiêm túc Quy định về chế độ trách nhiệm người
đứng đầu và cán bộ, công chức các đơn vị trong thực thi công vụ. Thường xuyên
kiểm tra, giám sát để phát hiện, chấn chỉnh kịp thời và xử lý nghiêm những cán
bộ công chức thiếu trách nhiệm khi giải quyết công việc hoặc có hành vi sách
nhiễu doanh nghiệp.
3.1.3. Tập trung đẩy mạnh
cải cách thủ tục hành chính nhằm giảm tối đa chi phí thời gian của doanh nghiệp
để khởi sự kinh doanh và trong thực hiện các quy định của nhà nước
- Tiếp tục rà soát, không
ngừng hoàn thiện, đơn giản hóa các thủ tục hành chính một cách toàn diện, triệt
để theo hướng minh bạch, quy định rõ ràng thời gian nhận và xử lý hồ sơ, trách
nhiệm của các cơ quan chức năng; kịp thời xử lý vướng mắc, tạo tâm lý yên tâm
cho doanh nghiệp. Quan tâm trước hết đến các quy trình, thủ tục trong lĩnh vực
quy hoạch, đất đai, đầu tư xây dựng, thành lập doanh nghiệp … Lãnh đạo các sở,
ngành, quận, huyện xem xét, giải quyết kịp thời các vướng mắc của doanh nghiệp
theo thẩm quyền. Nếu thuộc thẩm quyền của cấp trên, các cấp, các ngành cần phối
hợp với doanh nghiệp kiến nghị Thành phố hay Trung ương giải quyết.
- Không ngừng củng cố, nâng cao
chất lượng giải quyết thủ tục hành chính theo mô hình “một cửa”, “một
đầu mối liên thông” ở các đơn vị của Thành phố. Quy định rõ và có chế tài
kiểm soát việc thực hiện nghiêm thời hạn các cơ quan Thành phố phải trả lời,
cung cấp đầy đủ thông tin cho người dân và doanh nghiệp.
- Tập trung xây dựng và thực hiện
các kế hoạch cụ thể, quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan chủ
trì, phối hợp trong việc hoàn thiện những thủ tục hành chính quan trọng:
+ Thủ tục thành lập doanh
nghiệp: các đơn vị: Sở Kế hoạch và Đầu tư, Cục Thuế, Công an Thành phố tiếp
tục chủ động nghiên cứu, thực hiện sáng tạo các hướng dẫn của bộ, ngành Trung
ương trong phối hợp giữa các cơ quan quản lý đăng ký kinh doanh, đăng ký mẫu dấu
và đăng ký mã số thuế. Đồng thời khẩn trương nghiên cứu hoàn thiện hệ thống văn
bản hướng dẫn, giúp doanh nghiệp dễ dàng nắm bắt, hiểu rõ quy trình thủ tục, giảm
thời gian mà doanh nghiệp phải sửa chữa, hoàn thiện hồ sơ giấy tờ. Rà soát, đề
xuất hợp lý hóa các khâu tổ chức, cải tiến loại bỏ những khâu công việc, thủ tục
bất hợp lý, giảm bớt các giấy tờ không cần thiết thông qua việc tăng cường ứng
dụng tin học hóa trong các khâu thủ tục thành lập doanh nghiệp. Tăng cường cơ sở
vật chất các cơ quan giải quyết thủ tục đăng ký kinh doanh.
+ Về các loại giấy phép: các
sở, ngành Thành phố rà soát các giấy phép, giấy chứng nhận, quyết định chấp nhận
…, xóa bỏ những loại không cần thiết, hiệu quả quản lý không cao. Giao Sở Tư
pháp là đầu mối của Thành phố theo dõi quá trình xây dựng, ban hành các quy định
liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp, có trách nhiệm báo cáo ngay cho UBND
Thành phố về những trường hợp ban hành “giấy phép con” hoặc các quy định vi phạm
Luật Doanh nghiệp của các cấp, các ngành để kịp thời giải quyết.
- Về thủ tục khai, nộp thuế:
Cục Thuế Hà Nội tăng cường hướng dẫn, giải đáp chính sách thuế, thủ tục nộp thuế,
kịp thời giải đáp các vướng mắc cho doanh nghiệp trong thực hiện các chứng từ,
kê khai, báo cáo trong quá trình hoạt động … Phối hợp chặt chẽ với Tổng cục Thuế,
Bộ Tài chính, các hiệp hội đào tạo về chế độ kế toán gắn với tập huấn về chính
sách thuế, thủ tục thuế, cung cấp thông tin cho người nộp thuế dưới nhiều hình
thức (tờ rơi, trang web, đối thoại, tập huấn …). Rà soát xóa bỏ các thủ tục, hồ
sơ gây khó khăn phiền hà, giảm bớt thời gian chờ đợi giải quyết công việc của
người nộp thuế. Tổ chức triển khai tốt và nghiêm túc quy chế giải quyết các yêu
cầu, thủ tục hành chính cho người nộp thuế theo cơ chế 1 cửa để tạo thuận lợi
nhất cho người nộp thuế.
Thực hiện thường xuyên việc đào
tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, bảo đảm cán bộ thuế có trình độ, kiến thức,
kỹ năng quản lý thuế tiên tiến, đồng thời có đạo đức nghề nghiệp, văn hóa ứng xử
tốt. Kiện toàn và tăng cường hệ thống kiểm tra nội bộ trong toàn ngành thuế để
kiểm soát và giảm thiểu đi đến xóa bỏ hành vi gây phiền hà sách nhiễu doanh
nghiệp.
Tăng cường ứng dụng công nghệ
tin học vào các khâu quản lý thuế. Đẩy nhanh việc xây dựng và phát triển hệ thống
ứng dụng tin học với sự hợp tác của các đơn vị trong và ngoài nước, áp dụng
công nghệ hiện đại trong công tác quản lý và chỉ đạo điều hành tại Cục thuế
Thành phố và Chi cục thuế các quận, huyện, tiến tới thực hiện kê khai thuế điện
tử, nộp thuế điện tử.
3.1.4. Đẩy mạnh việc công
khai, minh bạch hóa thông tin cho doanh nghiệp
- Phổ biến, công khai các văn bản
pháp quy do các cơ quan Trung ương ban hành, các quy hoạch, kế hoạch và các văn
bản của Thành phố trên Cổng giao tiếp điện tử Thành phố, trang web của các đơn vị
và tại địa điểm làm thủ tục để nhà đầu tư, doanh nghiệp dễ tiếp cận, không mất
thời gian tìm kiếm. Cập nhật kịp thời và đầy đủ thông tin về các văn bản quy phạm
pháp luật trên Công báo điện tử của Thành phố. Đặc biệt quan tâm cập nhật các
quy định và hướng dẫn thủ tục hành chính liên quan đến đầu tư, đất đai, các cơ
chế chính sách, thông tin về các dự án kêu gọi đầu tư, các dự án đấu thầu lựa
chọn chủ đầu tư.
- Thể chế hóa và tăng cường thực
hiện cơ chế lấy ý kiến đóng góp của các doanh nghiệp trước khi ban hành những
văn bản pháp luật liên quan trực tiếp đến nghĩa vụ và quyền lợi hợp pháp của
doanh nghiệp. Tạo dựng cơ chế thông tin 2 chiều thường xuyên, tăng cường các Diễn
đàn trao đổi giữa chính quyền với doanh nghiệp; xây dựng và đổi mới hoạt động của
Cổng giao tiếp điện tử Thành phố thành phương tiện trao đổi thông tin hiệu quả
giữa Thành phố với người dân và doanh nghiệp.
- Sở Công Thương phối hợp với
các hiệp, hội ngành nghề xây dựng hệ thống cung cấp thông tin tổng hợp cho
doanh nghiệp. Triển khai phân loại thông tin, hướng dẫn chi tiết, cụ thể về các
lĩnh vực kinh doanh, hàng hóa xuất khẩu, những địa chỉ các cơ quan cấp các giấy
chứng nhận …; xây dựng và cập nhật thường xuyên hệ thống thông tin các doanh
nghiệp, cũng như hoạt động của các doanh nghiệp trên địa bàn, tạo cơ sở để các
doanh nghiệp tự tìm để liên kết trong sản xuất kinh doanh. Tổ chức hội thảo các
chuyên đề giúp doanh nghiệp lĩnh hội thông tin kịp thời về chính sách, chế độ
pháp lý trong kinh doanh. Chú trọng phổ biến những kiến thức về hội nhập kinh tế
quốc tế liên quan đến các hiệp định kinh tế - thương mại – đầu tư song phương
và đa phương mà Việt Nam đã ký kết. Hướng dẫn doanh nghiệp xuất khẩu các biện
pháp “để tự bảo vệ” khi có những tranh chấp thương mại (kiện chống phá giá ….).
- Tổ chức việc tiếp nhận các vướng
mắc, kiến nghị của doanh nghiệp một cách đơn giản, dễ dàng, thông qua nhiều
hình thức, như qua trang tin điện tử của Thành phố, qua báo chí, qua thư, công
văn phản ánh, đường dây nóng, thư điện tử, qua đối thoại trực tiếp giữa chính
quyền với doanh nghiệp hay các hiệp hội …, nhằm tạo thuận lợi cho doanh nghiệp
trực tiếp phản ánh, kiến nghị với cơ quan quản lý nhà nước, người có thẩm quyền
về những khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp. Lãnh đạo Thành phố, các sở,
ngành liên quan tổ chức thường xuyên đối thoại trực tiếp, gặp gỡ doanh nghiệp để
kịp thời nắm bắt được và giải quyết những vấn đề bức xúc của doanh nghiệp.
Nghiên cứu tổ chức các cuộc giao lưu trực tuyến định kỳ hàng năm giữa lãnh đạo
Thành phố và cộng đồng doanh nghiệp nhân ngày Doanh nhân Việt Nam thông qua
truyền hình, qua mạng internet. Tạo mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa chính
quyền, lãnh đạo với cộng đồng doanh nghiệp. Cải tiến về nội dung, chất lượng
các chương trình tôn vinh doanh nhân và doanh nghiệp, xây dựng các giải thưởng
về chất lượng quản lý doanh nghiệp. Xây dựng Hà Nội thành chính quyền “thân
thiện và đồng hành cùng doanh nghiệp”.
3.2. Giải pháp cụ thể
3.2.1. Tạo chuyển biến mạnh
mẽ trong giải quyết vấn đề mặt bằng sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp
- Các sở, ngành tập trung rà
soát, đẩy nhanh xây dựng và hoàn thiện các quy hoạch, xác định đây là giải pháp
cấp bách để mở đường cho việc giải quyết mặt bằng sản xuất kinh doanh cho doanh
nghiệp, thu hút đầu tư phát triển. Khẩn trương xây dựng, ban hành và công bố
công khai các chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch
chung xây dựng của Thành phố và quận, huyện. Đây sẽ là cơ sở quan trọng để
doanh nghiệp tham khảo và xây dựng chiến lược phát triển của công ty cũng như sản
phẩm của doanh nghiệp. Có kế hoạch bổ sung quỹ đất để hình thành các khu, cụm
công nghiệp; gắn quy hoạch phát triển công nghiệp với phát triển các lĩnh vực hỗ
trợ đầu tư như đào tạo và cung ứng nguồn nhân lực, nhà ở, nhu cầu vui chơi giải
trí ….
Thực hiện tốt việc phân cấp lập,
thẩm định, phê duyệt và quản lý quy hoạch xây dựng chi tiết, Tranh thủ sự giúp
đỡ của các chuyên gia nước ngoài và Trung ương để hoàn thành và trình phê duyệt
sớm các quy hoạch xây dựng quan trọng của Thành phố. Nghiên cứu đổi mới quy
trình, cơ chế để triển khai nhanh công tác quy hoạch, gắn xây dựng quy hoạch với
thu hút các nhà đầu tư triển khai xây dựng các khu vực ưu tiên phát triển.
- Sở Tài nguyên và Môi trường rà
soát lại quỹ đất, lập và hướng dẫn lập quy hoạch, kế hoạch chi tiết sử dụng đất
đến cấp xã và công khai các quy hoạch, quỹ đất còn chưa sử dụng nhằm minh bạch
hóa việc tiếp cận nguồn lực đất đai, mặt bằng sản xuất, đảm bảo cơ sở cho việc
giao đất, cho thuê đất nhằm giúp cho các doanh nghiệp dân doanh bình đẳng trong
việc tiếp cận đất đai phục vụ sản xuất.
Kiên quyết thực hiện chủ trương
thu hồi đất sử dụng không hiệu quả, không đúng mục đích. Định kỳ hàng năm các cấp
cơ sở rà soát, kiểm tra việc thực hiện các dự án đầu tư, sử dụng quỹ đất nhà nước
giao trên địa bàn; phân loại và báo cáo Thành phố để kịp thời xử lý những trường
hợp dự án không hoặc chậm triển khai.
- Tạo chuyển biến mạnh trong giải
quyết thủ tục hành chính liên quan đến lĩnh vực đất đai, loại bỏ những thủ tục
rườm rà, trùng lắp, không cần thiết. Rà soát các quy định về thủ tục hành chính
trong cấp và cho thuê đất, kết hợp giải quyết những vấn đề mà doanh nghiệp thường
vướng mắc trong lĩnh vực đất đai (thời hạn sử dụng đất, tính pháp lý của chủ sở
hữu, người sử dụng đất ….). Đẩy nhanh tiến độ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho doanh nghiệp. Tăng cường sự phối hợp giữa cơ quan cấp Thành phố và cấp
quận/huyện, xã/phường trong việc giải quyết đất đai cho doanh nghiệp. Xây dựng
cơ chế ưu tiên giải quyết đất đai thống nhất, tránh tình trạng doanh nghiệp được
giải quyết ở một cấp, song lại gặp khó khăn ở cấp hành chính khác. Khẩn trương
ban hành cơ chế đền bù rõ ràng, minh bạch, quy định rõ mức độ trách nhiệm của
các cấp chính quyền trong việc hỗ trợ nhà đầu tư thỏa thuận đền bù với người
dân. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các Trung tâm quỹ đất của Thành phố, của
các quận, huyện để thực hiện đền bù giải phóng mặt bằng, tạo quỹ đất “sạch” cho
doanh nghiệp. Tổ chức giáo dục tuyên truyền sâu rộng người dân về các quyền lợi
và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.
- Đẩy nhanh tiến độ hình thành
và phát triển thị trường bất động sản chính thức, đồng thời với việc xây dựng,
hoàn thiện các cơ chế, chính sách liên quan. Thực hiện có hiệu quả việc đấu thầu
lựa chọn nhà đầu tư dự án có sử dụng đất trên địa bàn Thành phố. Định kỳ công bố
công khai danh mục các dự án đầu tư có sử dụng đất mà Thành phố kêu gọi đầu tư
(cả về địa điểm, diện tích đất, cơ chế ưu đãi….), tạo điều kiện thuận lợi cho
doanh nghiệp tiếp cận chính thức đến quỹ đất phát triển sản xuất kinh doanh của
Thành phố.
- Xây dựng cơ chế chính sách, tạo
điều kiện khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia vào xây dựng và phát triển
hạ tầng các khu công nghiệp theo quy hoạch; tạo điều kiện thuận lợi để các
doanh nghiệp nhanh chóng xây dựng nhà xưởng, lấp đầy các khu, cụm công nghiệp.
Công khai quy trình trên trang web của Thành phố và một số sở, ban, ngành liên
quan; đồng thời rút ngắn thời gian, giảm chi phí trong việc hoàn tất thủ tục hồ
sơ giao đất, cho thuê đất trong các khu công nghiệp cho các doanh nghiệp.
Khuyến khích, định hướng cho
doanh nghiệp đầu tư vào khu, cụm công nghiệp tập trung để có điều kiện đầu tư hạ
tầng đồng bộ phục vụ và hỗ trợ tốt cho doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Đảm bảo
tốt việc cung cấp cho doanh nghiệp về điện, nước, xử lý chất thải và dịch vụ
thông tin liên lạc theo hướng hiện đại, tiện ích cao.
3.2.2. Đẩy mạnh công tác
đào tạo nguồn nhân lực
- Hoàn thiện quy hoạch mạng lưới
hệ thống trường dạy nghề trên địa bàn làm cơ sở đẩy mạnh công tác xã hội hóa,
kêu gọi các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển các trường dạy nghề
trên địa bàn. Khuyến khích, ưu tiên xây dựng các trường có đầy đủ trang thiết bị
phục vụ đào tạo những ngành nghề sử dụng công nghệ cao đáp ứng được yêu cầu
phát triển của Thành phố. Phối hợp với Trung ương, tăng cường hợp tác với các tổ
chức nước ngoài để đào tạo, nâng cao, bồi dưỡng phát triển đội ngũ giáo viên dạy
nghề.
- Xây dựng kế hoạch đào tạo nhân
lực cho cả lực lượng lao động sẵn có và lực lượng lao động dự bị, đáp ứng được
yêu cầu hiện tại, đồng thời phù hợp với định hướng ưu tiên phát triển các ngành
sử dụng công nghệ cao, trình độ cao của Thành phố. Chương trình đào tạo cần
nghiên cứu xây dựng và phát triển trên cơ sở nhu cầu lao động của từng ngành
kinh tế, tập trung vào chương trình dạy nghề, giúp phần nào giảm gánh nặng cho
doanh nghiệp.
- Phối hợp với các hiệp hội
doanh nghiệp, các cơ quan Trung ương, các Viện, Trường đại học triển khai các
chương trình hỗ trợ đào tạo lãnh đạo cấp cao cho các doanh nghiệp Hà Nội, trang
bị tầm nhìn và những kiến thức mới trong môi trường toàn cầu hóa, cung cấp những
công cụ và thông lệ tốt đang được các công ty, tập đoàn kinh tế thế giới áp dụng.
Xây dựng chương trình và tổ chức các khóa đào tạo giám đốc điều hành cho doanh
nghiệp với sự tham gia của các chuyên gia, các giám đốc điều hành có kinh nghiệm
và uy tín trong khu vực và trong nước.
- Tiếp tục tích cực triển khai
Chương trình trợ giúp đào tạo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Hỗ
trợ kinh phí đào tạo, cập nhật và bổ sung kiến thức cho các nhân viên, người
lao động trong doanh nghiệp nhỏ và vừa. Quá trình đào tạo lao động ngoài việc
hướng dẫn kỹ năng chuyên môn cần chú ý giáo dục ý thức, kỷ luật lao động, hiểu
biết của người lao động về quyền lợi và nghĩa vụ hợp pháp của mình.
3.2.3. Nâng cao chất lượng
và đa dạng hóa các dịch vụ công hỗ trợ doanh nghiệp
- Nâng cao hơn nữa tính
chuyên nghiệp, năng động, hiệu quả của các trung tâm xúc tiến thương mại, xúc
tiến đầu tư và xúc tiến du lịch của Thành phố. Có kế hoạch xúc tiến hướng
vào thị trường và sản phẩm cụ thể, lấy đối tượng khách hàng là doanh nghiệp làm
trọng tâm. Tăng cường liên kết, phối kết hợp giữa các cơ quan xúc tiến thương mại,
xúc tiến đầu tư, xúc tiến du lịch của Thành phố với các hiệp hội ngành hàng, tổ
chức quốc gia và quốc tế (VCCI, Armcham, EuroCham…), Thương vụ Việt Nam, cơ
quan đại diện ngoại giao Việt Nam ở nước ngoài, các cơ quan truyền thông đại
chúng và doanh nghiệp. Phối hợp với các bộ, ngành, các tỉnh, thành phố trong cả
nước, các tổ chức xúc tiến đầu tư thương mại du lịch của các nước trong khu vực
và quốc tế, tổ chức các hội chợ thương mại kết hợp với hội chợ du lịch, xúc tiến
đầu tư.
Tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở
hạ tầng phục vụ công tác xúc tiến thương mại: kho ngoại quan, hạ tầng CNTT để xử
lý thông tin thương mại, phục vụ giao dịch trực tuyến …. Tập trung xây dựng các
trung tâm hội chợ triển lãm, hội nghị quốc tế chuyên nghiệp có quy mô lớn,
trang bị hiện đại, gắn liền với các khu dịch vụ phụ trợ khác.
Các sở, ngành cùng một tờ báo của
Thành phố triển khai thực hiện chuyên trang nhằm hỗ trợ thông tin về kế hoạch
xúc tiến quảng bá thương mại – dịch vụ - đầu tư cho doanh nghiệp.
- Khuyến khích tạo điều kiện
phát triển các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh trên địa bàn: đào tạo, kế toán, tư
vấn tài chính và thuế, tư vấn quản lý …. Triển khai xây dựng các chương trình,
dự án hỗ trợ của Thành phố xác định rõ các mục tiêu ưu tiên và nguồn lực thực
hiện theo hướng nhà nước hỗ trợ gián tiếp đối với các chương trình, dự án; các
nhà cung cấp dịch vụ (hiệp hội, trường học, viện nghiên cứu …) trực tiếp thực
hiện. Khuyến khích tổ chức áp dụng phương thức đấu thầu lựa chọn đối tác thực
hiện: các nhà cung cấp dịch vụ có đủ năng lực sẽ tham gia đấu thầu và tham gia
thực hiện chương trình, dự án.
Xây dựng và thực hiện các chương
trình hỗ trợ doanh nghiệp về quản trị kinh doanh, bồi dưỡng, nâng cao kiến thức,
kỹ năng và thông tin, từng bước nâng cao năng lực quản lý của các doanh nghiệp,
đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Nghiên cứu triển khai thành lập Quỹ
tư vấn dành cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, hỗ trợ phí thuê các chuyên gia trong
nước và ngoài nước trong tư vấn xây dựng chiến lược kinh doanh, chiến lược sản
phẩm, nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước; nghiên cứu nâng cao hiệu quả hệ
thống sản xuất hoặc bố trí dây chuyền sản xuất, nghiên cứu nâng cao chất lượng
sản phẩm; nghiên cứu hoàn thiện cơ cấu tổ chức, hệ thống quản lý sản xuất; thiết
lập hệ thống kế toán theo đúng tiêu chuẩn quốc tế; xây dựng, quản lý và quảng
bá thương hiệu doanh nghiệp …. Trong đó ưu tiên hỗ trợ những doanh nghiệp hoạt
động trong các ngành dịch vụ mũi nhọn, các ngành công nghiệp chủ lực của Thành
phố. Triển khai hiệu quả dự án “Vườn ươm doanh nghiệp” trong một số ngành ưu
tiên phát triển của Thành phố.
- Thúc đẩy phát triển thị trường
khoa học công nghệ, nghiên cứu mô hình liên kết hiệu quả giữa các trường,
viện nghiên cứu với các doanh nghiệp trong việc xác định nhu cầu, triển khai và
chuyển giao ứng dụng kết quả nghiên cứu. Đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tư, sớm
xây dựng cơ sở vật chất nghiên cứu khoa học, hạ tầng cung cấp, trao đổi, mua
bán thông tin và công nghệ trên địa bàn. Tổ chức và tham dự định kỳ các chợ thiết
bị và công nghệ tại Hà Nội và các tỉnh, đồng thời xây dựng phát triển chợ công
nghệ ảo trên mạng.
Triển khai đánh giá trình độ thiết
bị công nghệ các doanh nghiệp trên địa bàn, tập trung trước tiên vào một số
ngành, lĩnh vực ưu tiên phát triển của Thành phố, làm cơ sở xây dựng Chiến lược
công nghệ cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Hỗ trợ doanh nghiệp trong việc tư vấn về
các loại hình, trình độ công nghệ. Nghiên cứu ban hành Quy chế quản lý việc nhập
khẩu các máy móc thiết bị phù hợp với thực tiễn phát triển của các doanh nghiệp,
yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của Thành phố. Hỗ trợ và tham gia cùng doanh
nghiệp tổ chức thẩm định các máy móc, thiết bị nhập khẩu.
Tuyên truyền nâng cao nhận thức
của các doanh nghiệp về vai trò của việc đổi mới kỹ thuật, ứng dụng công nghệ mới
để nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ và tính cạnh tranh của doanh nghiệp.
Phối hợp với các bộ, ngành Trung ương, các tổ chức, hiệp hội ngành nghề để thúc
đẩy triển khai thực hiện Chương trình hỗ trợ nâng cao năng lực kỹ thuật, công
nghệ cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
- Triển khai Chương trình hỗ
trợ phát triển tài sản trí tuệ của doanh nghiệp theo Quyết định số 68/2005/QĐ-TTg
ngày 04/4/2005 của Thủ tướng Chính phủ, xây dựng hệ thống quản lý quyền sở hữu
trí tuệ, đăng ký chất lượng, nhãn mác, in mã số, mã vạch sản phẩm. Tuyên truyền,
nâng cao nhận thức, hỗ trợ đào tạo các doanh nghiệp về xây dựng, khai thác,
phát triển và bảo vệ tài sản trí tuệ; ưu tiên các doanh nghiệp có sản phẩm chiến
lược, có tiềm năng xuất khẩu của Thành phố.
- Hỗ trợ các doanh nghiệp thực
hiện hệ thống tiêu chuẩn chất lượng quốc tế (ISO, TQM …). Khuyến khích các doanh
nghiệp ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý điều hành; ứng dụng hệ thống
quản lý theo mục tiêu; nghiên cứu, áp dụng thành tựu khoa học công nghệ và các
phương pháp quản lý tiên tiến.
- Tăng cường hiệu quả, hiệu lực
của công tác quản lý thị trường, chống các hiện tượng buôn bán hàng lậu,
hàng giả, lừa đảo trong kinh doanh, vi phạm bản quyền và gian lận thương mại …,
đảm bảo cạnh tranh lành mạnh, nhằm tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp
theo các cam kết WTO.
- Củng cố, nâng cao hiệu quả
hoạt động của các tổ chức tư pháp, cơ quan thi hành án trên địa bàn. Phối hợp
với các cơ quan Trung ương đào tạo, xây dựng đội ngũ luật sư có trình độ để có
thể giúp đỡ, tư vấn doanh nghiệp trong các vụ kiện thương mại quốc tế.
IV. TỔ CHỨC
THỰC HIỆN
1. Căn cứ vào các giải pháp
trong Đề án này và các nhiệm vụ được giao theo chức năng của mình, từng sở,
ban, ngành, UBND quận, huyện xây dựng và triển khai Kế hoạch hành động nhằm cải
thiện môi trường đầu tư và sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực, địa bàn quản lý,
xác định rõ từng mục tiêu, nhiệm vụ, biện pháp thực hiện cụ thể và phân công
người chịu trách nhiệm từng phần việc.
Trước ngày 20 của tháng cuối
quý, các sở, ngành, UBND các quận, huyện đánh giá kết quả thực hiện Đề án của
Thành phố và Kế hoạch hành động của ngành mình, cấp mình, báo cáo UBND Thành phố.
Giao Văn phòng UBND Thành phố và
Sở Kế hoạch và Đầu tư làm đầu mối theo dõi, đôn đốc, tổng hợp tình hình thực hiện
các nhiệm vụ của Đề án được phân công cho các sở, ban, ngành, báo cáo UBND
Thành phố.
2. UBND Thành phố đề nghị các hiệp
hội doanh nghiệp và các doanh nghiệp trên địa bàn tích cực hợp tác, tăng cường
đối thoại với các cấp chính quyền, tạo cơ chế thông tin hiệu quả, góp phần xây
dựng bộ máy các cơ quan quản lý nhà nước của Hà Nội thành chính quyền thân thiện
và đồng hành cùng doanh nghiệp, cùng đóng góp vào sự phát triển và phồn vinh của
Thủ đô.
|
TM.
ỦY BAN NHÂN DÂN
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH
Nguyễn Huy Tưởng
|
PHÂN CÔNG MỘT SỐ NHIỆM VỤ
TRỌNG TÂM
TRIỂN KHAI ĐỀ ÁN NÂNG CAO CHỈ SỐ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA
THÀNH PHỐ HÀ NỘI GIAI ĐOẠN 2009 – 2010
(Ban hành kèm theo Quyết định số 1310/QĐ-UBND ngày 20/3/2009 của UBND Thành
phố Hà Nội)
STT
|
Đơn
vị chủ trì
|
Nội
dung công việc
|
1
|
Cục Thuế Thành phố Hà Nội
|
- Tăng cường hướng dẫn, giải
đáp chính sách thuế, thủ tục nộp thuế, kịp thời giải đáp các vướng mắc cho
doanh nghiệp: thực hiện các chứng từ, kê khai, báo cáo trong quá trình hoạt động
…
- Rà soát xóa bỏ các thủ tục,
hồ sơ gây khó khăn phiền hà, giảm bớt thời gian chờ đợi giải quyết công việc
của người nộp thuế.
- Thực hiện đào tạo và đào tạo
lại đội ngũ cán bộ, bảo đảm cán bộ thuế có trình độ, kiến thức, kỹ năng quản
lý thuế tiên tiến, đồng thời có đạo đức nghề nghiệp, văn hóa ứng xử tốt.
- Tăng cường ứng dụng công nghệ
thông tin vào các khâu quản lý thuế
|
2
|
Sở Kế hoạch và Đầu tư
|
- Phối hợp hiệu quả với Cục
thuế Hà Nội, Công an Thành phố để cải tiến quy trình, rút ngắn thời gian đăng
ký thành lập mới và đăng ký bổ sung của doanh nghiệp.
- Thực hiện tốt việc công bố
danh mục các dự án và đôn đốc tổ chức đấu thầu lựa chọn chủ đầu tư các dự án
có sử dụng đất trên địa bàn.
- Phát triển Trung tâm hỗ trợ
doanh nghiệp nhỏ và vừa thành một cơ quan đầu mối hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và
vừa đủ mạnh, có tính chuyên nghiệp cao, nâng cao hiệu quả hoạt động hỗ trợ
doanh nghiệp.
- Tiếp tục tích cực triển khai
Chương trình trợ giúp đào tạo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Phối hợp với các hiệp hội doanh nghiệp, các cơ quan Trung ương, các viện
nghiên cứu, trường đại học triển khai các chương trình hỗ trợ đào tạo lãnh đạo
cấp cao cho các doanh nghiệp Hà Nội.
- Mở rộng các hình thức “Vườn
ươm doanh nghiệp”, của Thành phố trong một số lĩnh vực, ngành nghề.
|
3
|
Sở Xây dựng
|
- Chủ động hướng dẫn, kiểm tra
công tác thẩm định thiết kế cơ sở tại các quận, huyện.
- Thực hiện kiểm tra quản lý hệ
thống chất lượng, thi công đảm bảo trật tự, an toàn và vệ sinh môi trường
theo kế hoạch; hướng dẫn chủ đầu tư tổ chức kiểm tra và chứng nhận sự phù hợp
chất lượng công trình xây dựng
- Nâng cao chất lượng, tăng cường
hướng dẫn công tác cấp phép xây dựng để tạo điều kiện cho các tổ chức, công
dân xây dựng đúng quy hoạch. Kết hợp tăng cường kiểm tra, giám sát xây dựng
theo giấy phép xây dựng và phối hợp xử lý kiên quyết, dứt điểm các vi phạm
TTXD theo đúng quy định
|
4
|
Sở Tài chính
|
- Định kỳ rà soát, điều chỉnh
lại cơ chế đền bù GPMB theo thẩm quyền của Thành phố, đồng thời kiến nghị
Trung ương cho phép điều chỉnh những quy định không phù hợp với thực tế của
Thành phố, tạo điều kiện thuận lợi thực hiện GPMB theo quy hoạch, phục vụ
phát triển kinh tế xã hội của Thành phố.
|
5
|
Sở Quy hoạch kiến trúc
|
- Tập trung rà soát, đẩy nhanh
xây dựng và hoàn thiện các quy hoạch xây dựng của Thành phố và quận, huyện.
- Kịp thời cung cấp thông tin,
giải quyết các thủ tục hành chính trong quy hoạch xây dựng liên quan đến các
dự án đầu tư cho doanh nghiệp.
|
6
|
Sở Tài nguyên và Môi trường
|
- Đẩy nhanh tiến độ hình thành
và phát triển thị trường bất động sản chính thức, đồng thời với việc xây dựng,
hoàn thiện các cơ chế, chính sách liên quan.
- Rà soát lại quỹ đất, lập và
hướng dẫn lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết đến cấp xã và công
khai các quy hoạch, quỹ đất còn chưa sử dụng.
- Rà soát, cải tiến các thủ tục
và quy trình giải quyết thủ tục hành chính liên quan đến giao đất, cho thuê đất
cho doanh nghiệp, giải quyết kịp thời các vướng mắc của doanh nghiệp liên
quan đến đất đai.
|
7
|
Sở Công Thương
|
- Tăng cường hơn nữa công tác
xúc tiến thương mại, nâng cao hiệu quả, lấy kết quả xuất khẩu của doanh nghiệp
làm thước đo cho hoạt động hỗ trợ của Thành phố.
- Khuyến khích tạo điều kiện
phát triển thị trường dịch vụ hỗ trợ kinh doanh trên địa bàn: đào tạo, kế
toán, tư vấn tài chính và thuế, tư vấn quản lý …
- Kịp thời cập nhật cung cấp
thông tin giới thiệu năng lực sản xuất và sản phẩm hàng hóa, dịch vụ của các
doanh nghiệp trên địa bàn. Cung cấp thông tin, dự báo về tình hình cung cầu,
giá cả thị trường giúp doanh nghiệp chủ động việc tổ chức sản xuất kinh
doanh.
- Tổ chức xây dựng đề cương
trình Thành phố phê duyệt và rà soát, bổ sung các quy hoạch phát triển của Thủ
đô mở rộng; Quy hoạch tổng thể phát triển công nghiệp giai đoạn đến 2020, tầm
nhìn tới 2030; Quy hoạch tổng thể phát triển khu công nghiệp, cụm công nghiệp,
điểm công nghiệp làng nghề đến năm 2020, tầm nhìn 2030; Quy hoạch tổng thể
phát triển thương mại giai đoạn đến năm 2020, tầm nhìn tới 2030 ….
- Thực hiện Đề án liên kết 3
nhà “khoa học – quản lý – doanh nghiệp” thúc đẩy phát triển các ngành công
nghiệp chủ lực của Thành phố. (2009 – 2010).
- Duy trì hoạt động đối thoại
thường xuyên với doanh nghiệp để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp trong sản
xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu; hỗ trợ các doanh nghiệp, làng nghề xây dựng,
phát triển và quản lý thương hiệu.
- Tăng cường hiệu quả, hiệu lực
của công tác quản lý thị trường
|
8
|
Ban quản lý khu công nghiệp
và chế xuất
|
- Xây dựng cơ chế chính sách,
tạo điều kiện khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia vào xây dựng và
phát triển hạ tầng các khu công nghiệp theo quy hoạch. Công khai quy trình
trên trang web của Thành phố và một số sở, ban, ngành liên quan; đồng thời
rút ngắn thời gian, giảm chi phí trong việc hoàn tất thủ tục hồ sơ giao đất,
cho thuê đất trong các khu công nghiệp cho các doanh nghiệp.
|
9
|
Sở Lao động – Thương binh
và Xã hội
|
- Hoàn thiện quy hoạch mạng lưới
hệ thống trường dạy nghề trên địa bàn làm cơ sở đẩy mạnh công tác xã hội hóa.
- Phối hợp với Trung ương,
tăng cường hợp tác với các tổ chức nước ngoài để đào tạo, nâng cao, bồi dưỡng
phát triển đội ngũ giáo viên dạy nghề.
- Phối hợp cùng các hiệp hội,
các tổ chức công đoàn tổ chức các hội thảo, cung cấp thông tin về các quy định
liên quan đến lao động, nhằm điều chỉnh hiệu quả quan hệ “chủ doanh nghiệp –
người lao động”.
- Nâng cao hiệu quả hoạt động
của Trung tâm giới thiệu việc làm, của Sàn giao dịch việc làm Thành phố.
|
10
|
Sở Khoa học và Công nghệ
|
- Tuyên truyền nâng cao nhận
thức của các doanh nghiệp về vai trò của việc đổi mới kỹ thuật, ứng dụng công
nghệ mới để nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ và tính cạnh tranh của
doanh nghiệp. Hỗ trợ doanh nghiệp trong việc tư vấn về các loại hình, trình độ
công nghệ.
- Triển khai Chương trình hỗ
trợ phát triển tài sản trí tuệ của doanh nghiệp theo Quyết định số
68/2005/QĐ-TTg ngày 04/4/2005 của Thủ tướng Chính phủ.
- Hỗ trợ các doanh nghiệp thực
hiện hệ thống tiêu chuẩn chất lượng quốc tế (ISO, TQM …), xây dựng hệ thống
quản lý quyền sở hữu trí tuệ, đăng ký chất lượng, nhãn mác, in mã số, mã vạch
sản phẩm.
|
11
|
Ngân hàng Nhà nước – Chi
nhánh Thành phố Hà Nội
|
- Thực hiện nghiêm túc các nội
dung Chỉ thị số 06/2008/CT-NHNN ngày 31/12/2008 của NHNN Việt Nam về thực hiện
các biện pháp nhằm góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh, lưu thông hàng hóa,
ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội.
- Tiếp tục theo dõi chặt chẽ,
đánh giá tình hình kinh tế và diễn biến thị trường tiền tệ trên địa bàn để
báo cáo, đề xuất các giải pháp, phương án ứng phó, hạn chế tác động bất lợi của
khủng hoảng tài chính thế giới đến hệ thống ngân hàng.
- Phối hợp với Trung ương mở rộng
hệ thống Trung tâm thông tin tín dụng trên địa bàn.
- Tăng cường phối hợp với các
tổ chức nước ngoài (JBIC, EU, KAWF …) để huy động nguồn vốn hỗ trợ cho các
doanh nghiệp trên địa bàn.
- Khuyến khích, hỗ trợ các
ngân hàng mở rộng mạng lưới chi nhánh, huy động vốn để phục vụ kịp thời nguồn
vốn, dịch vụ tín dụng đảm bảo ổn định lãi suất hết vòng đời sản phẩm, chu kỳ
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Hỗ trợ doanh nghiệp cách thức
quản lý tài chính hiệu quả, tiến tiến, nâng cao tính minh bạch, lập các sổ
sách tài chính đầy đủ theo đúng quy định…
|
12
|
Sở Thông tin và Truyền
thông
|
- Xây dựng và đổi mới hoạt động
của Cổng giao tiếp điện tử Thành phố thành phương tiện trao đổi thông tin hiệu
quả giữa Thành phố với người dân và doanh nghiệp.
- Phối hợp với Văn phòng UBND
Thành phố tổ chức các cuộc giao lưu trực tuyến định kỳ giữa lãnh đạo Thành phố
với doanh nghiệp và người dân.
- Tăng cường thông tin, tuyên
truyền về kế hoạch và các giải pháp của Thành phố nhằm cải thiện môi trường đầu
tư và sản xuất kinh doanh.
|
13
|
Sở Tư pháp
|
- Xây dựng kế hoạch củng cố,
nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức tư pháp, cơ quan thi hành án trên
địa bàn.
- Là đầu mối của Thành phố
theo dõi quá trình xây dựng, ban hành các quy định liên quan đến hoạt động của
doanh nghiệp, có trách nhiệm báo cáo ngay cho UBND Thành phố về những trường
hợp ban hành “giấy phép con” hoặc các quy định vi phạm Luật Doanh nghiệp, gây
phiền hà cho doanh nghiệp của các cấp, các ngành để kịp thời giải quyết
|
14
|
Văn phòng UBND Thành phố
|
- Tổ chức đối thoại thường
xuyên giữa lãnh đạo Thành phố với các doanh nghiệp và hiệp hội doanh nghiệp
- Cập nhật kịp thời, thường
xuyên Công báo điện tử của Thành phố.
- Là đầu mối theo dõi, đôn đốc,
tổng hợp tình hình thực hiện các nhiệm vụ của Đề án được phân công cho các sở,
ban, ngành, báo cáo UBND Thành phố định kỳ hàng quý.
|
15
|
UBND các quận, huyện
|
- Xây dựng và triển khai Kế hoạch
hành động nhằm cải thiện môi trường đầu tư và sản xuất kinh doanh trong địa bàn
quản lý, xác định rõ từng mục tiêu, nhiệm vụ, biện pháp thực hiện và phân
công người chịu trách nhiệm từng phần việc cụ thể.
|
1 http://www.doanhnghiep24g.com.vn/cms/detail.php?id=4753
2 Năm 2006 VCCI gửi phiếu điều tra tới 31.186 doanh nghiệp
trong cả nước và nhận được trả lời của gần 6.300 doanh nghiệp (bằng 20,45% số
doanh nghiệp được hỏi); năm 2007 có 6.700 doanh nghiệp trả lời trong tổng số
31.900 doanh nghiệp được hỏi (bằng 21%); năm 2008 có 7.820 doanh nghiệp trả lời
trong tổng số khoảng 30.100 doanh nghiệp được hỏi (bằng 26%). Tỷ lệ doanh nghiệp
trên địa bàn Hà Nội được hỏi và tham gia trả lời còn ít hơn nhiều, tương ứng
cho các năm là: năm 2006 có 100 DN trả lời trên tổng số 800 phiếu hỏi được phát
đi (12,5%), năm 2007 là 120/1200 (10%), năm 2008 là 180/1200 (15%).
[3] Năm 2008 điểm của Hà Nội: 53,74, xếp hạng trung bình;
Hà Tây: 45,09, xếp hạng tương đối thấp