BỘ
TƯ PHÁP
-------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số:
1076/QĐ-BTP
|
Hà
Nội, ngày 10 tháng 05 năm 2013
|
QUYẾT ĐỊNH
BAN HÀNH ĐỀ ÁN “PHÁT TRIỂN VÀ TĂNG CƯỜNG NĂNG LỰC ĐỘI NGŨ ĐẤU GIÁ VIÊN
GIAI ĐOẠN 2013 - 2015, ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN NĂM 2020”
BỘ TRƯỞNG BỘ TƯ PHÁP
Căn cứ Nghị định số 17/2010/NĐ-CP
ngày 04 tháng 3 năm 2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản;
Căn cứ Nghị định số 22/2013/NĐ-CP
ngày 13 tháng 3 năm 2013 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp;
Xét đề nghị của Cục trưởng Cục Bổ
trợ tư pháp,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Ban hành kèm theo Quyết định này Đề án “Phát triển
và tăng cường năng lực đội ngũ đấu giá viên giai đoạn 2013 - 2015, định hướng đến
năm 2020”.
Điều 2. Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày ký.
Điều 3. Cục trưởng Cục Bổ trợ tư pháp, Chánh Văn phòng Bộ,
Thủ trưởng các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp, Giám đốc Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương và các cơ quan, tổ chức có liên quan chịu trách nhiệm thi
hành Quyết định này.
Nơi nhận:
- Thủ tướng Chính phủ (để b/c);
- Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc(để b/c);
- Như Điều 3 (để thực hiện);
- Các Thứ trưởng (để biết);
- HĐND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;
- UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;
- Cổng thông tin Bộ Tư pháp;
- Lưu: VT, Cục BTTP.
|
BỘ
TRƯỞNG
Hà Hùng Cường
|
ĐỀ ÁN
PHÁT TRIỂN VÀ TĂNG CƯỜNG NĂNG LỰC ĐỘI NGŨ ĐẤU GIÁ VIÊN GIAI ĐOẠN 2013 -
2015, ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN NĂM 2020
(Ban hành kèm theo Quyết định số 1076/QĐ-BTP ngày 10 tháng 5 năm 2013 của Bộ
trưởng Bộ Tư pháp)
I. SỰ CẦN THIẾT
XÂY DỰNG ĐỀ ÁN
1. Cơ sở pháp lý
Thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020, trong thời gian qua Nhà nước ta đã không ngừng đổi mới, củng cố,
phát triển các tổ chức bổ trợ tư pháp, các chức danh bổ trợ tư pháp nói chung
và đội ngũ đấu giá viên nói riêng. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ
Chính trị đã khẳng định phương hướng: “Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ
tư pháp, nhất là cán bộ có chức danh tư pháp, theo hướng đề cao quyền hạn,
trách nhiệm pháp lý, nâng cao và cụ thể hóa tiêu chuẩn về chính trị, phẩm chất,
đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm, kiến thức xã hội đối với từng loại
cán bộ”; với một trong những nhiệm vụ cải cách tư pháp là : “Tiếp tục đổi mới nội
dung, phương pháp đào tạo cử nhân luật, đào tạo cán bộ nguồn của các chức danh
tư pháp, bổ trợ tư pháp; bồi dưỡng cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp theo hướng cập
nhật các kiến thức mới về chính trị, pháp luật, kinh tế, xã hội, có kỹ năng nghề
nghiệp và kiến thức thực tiễn, có phẩm chất, đạo đức trong sạch, dũng cảm đấu
tranh vì công lý, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa”.
Thể chế hóa Nghị quyết của Đảng, ngày
04/3/2010, Chính phủ ban hành Nghị định số 17/2010/NĐ-CP về bán đấu giá tài sản
(Nghị định 17), có hiệu lực từ ngày 01/7/2010. Nghị định 17 ra đời đánh dấu một
bước quan trọng trong quá trình hoàn thiện thể chế pháp luật về bán đấu giá, chủ
trương chuyên nghiệp hoá hoạt động bán đấu giá tài sản. Bên cạnh những kết quả
đạt được trong quá trình triển khai Nghị định 17, hoạt động bán đấu giá tài sản
vẫn còn có một số tồn tại, hạn chế, chưa theo kịp với nhu cầu và tình hình phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước. Một trong những nguyên nhân cơ bản ảnh hưởng
đến chất lượng và uy tín của dịch vụ bán đấu giá tài sản đó là đội ngũ đấu giá
viên còn thiếu, yếu về kỹ năng, nghiệp vụ, phần lớn chưa được đào tạo nghề và
chưa có nhận thức đầy đủ về trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp khi thực hiện công
việc bán đấu giá.
Từ năm 2011 đến nay, Bộ Tư pháp đã tiến
hành tổng rà soát đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ngành Tư pháp, trong đó
sơ bộ đánh giá thực trạng và phương hướng kiện toàn, nâng cao năng lực đội ngũ
đấu giá viên. Ngày 06/3/2012, Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Quyết định số
358/QĐ-BTP phê duyệt Quy hoạch phát triển nhân lực ngành Tư pháp giai đoạn 2011
- 2020. Một trong những mục tiêu đặt ra là đến năm 2020 nguồn nhân lực trong
các tổ chức bổ trợ tư pháp tăng lên con số 28.000 người, đảm bảo về chất lượng,
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp, trong đó có phát triển đội
ngũ đấu giá viên.
Xuất phát từ cơ sở pháp lý nêu trên,
việc xây dựng Đề án “Phát triển và tăng cường năng lực đội ngũ đấu giá viên
giai đoạn 2013 - 2015, định hướng đến năm 2020” nhằm củng cố, phát triển về số
lượng và chất lượng của đội ngũ này là yêu cầu hết sức cần thiết, chuẩn bị cho
việc xây dựng và ban hành Luật Đấu giá tài sản thời gian tới theo chương trình
xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội khóa XIII (dự kiến xây dựng từ năm 2014
và trình Quốc hội thông qua trong năm 2015).
2. Thực trạng đội ngũ đấu giá viên
2.1. Những kết quả đạt được
Hoạt động bán đấu giá tài sản trong gần
03 năm qua đã có những chuyển biến tích cực và đạt được một số kết quả nhất định,
góp phần tăng nguồn thu ngân sách cho nhiều địa phương, đóng góp vào quá trình
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Việc triển khai thi hành Nghị định 17
và các văn bản hướng dẫn nhìn chung nhận được sự quan tâm, ủng hộ của các
ngành, các cấp ở địa phương. Trình tự, thủ tục bán đấu giá tài sản bảo đảm chặt
chẽ và khách quan hơn, trong đó có bán đấu giá tài sản của nhà nước, tài sản là
quyền sử dụng đất, tài sản thi hành án..., tính chuyên nghiệp của hoạt động bán
đấu giá từng bước được nâng lên, nguồn nhân lực đấu giá ở các địa phương từng
bước được củng cố, chủ trương xã hội hóa tiếp tục được đẩy mạnh và vai trò quản
lý của nhà nước đối với tổ chức, hoạt động bán đấu giá tài sản tiếp tục được
tăng cường.
Số lượng đấu giá viên tăng lên đáng kể
sau khi Nghị định 17 có hiệu lực (từ ngày 01/7/2010). Hiện nay trong toàn quốc
số lượng đấu giá viên là 968 người. Số lượng đấu giá viên so với trước khi có
Nghị định 17 tăng 385 người, trung bình mỗi năm cấp chứng chỉ hành nghề đấu giá
cho 192 đấu giá viên tăng gấp gần 5 lần so với thời gian trước khi Nghị định số
17/2010/NĐ-CP có hiệu lực.
Về trình độ chuyên môn, đội ngũ đấu
giá viên đều có trình độ đại học trở lên, trong tổng số 968 đấu giá viên thì
893 đấu giá viên có bằng đại học, chiếm 92,2%, 22 đấu giá viên có trình độ thạc
sỹ (chiếm 2,3%) và 8 đấu giá viên có trình độ tiến sỹ (chiếm 5,5%). Phần lớn đấu
giá viên tốt nghiệp ngành luật (chiếm 52%, trong đó số luật sư đồng thời hành
nghề đấu giá: 141 người) hoặc ngành kinh tế (chiếm 39%). Độ tuổi trung bình của
đấu giá viên tương đối trẻ: 47% trong độ tuổi dưới 40, 46% trong độ tuổi từ 40
đến 59. Theo quy định của Nghị định 17, người muốn trở thành đấu giá viên phải
qua khóa đào tạo nghề đấu giá 03 tháng. Đến nay, Học viện Tư pháp đã tổ chức 06
khóa học tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, đào tạo 317 học viên tốt nghiệp
(tham khảo Phụ lục 1).
Về kỹ năng nghiệp vụ, bên cạnh số đấu
giá viên mới qua đào tạo nghề (190 người), phần lớn số lượng đấu giá viên hiện
nay tự học hỏi để trang bị kỹ năng cho mình hoặc thông qua bồi dưỡng, hướng dẫn
của nội bộ tổ chức bán đấu giá, trao đổi kinh nghiệm của các đấu giá viên lâu
năm.
2.2. Hạn chế, tồn tại
2.2.1. Phần lớn đấu giá viên chưa qua
đào tạo nghề, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu công
việc
Theo số liệu thống kê hàng năm của
các Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, hầu hết đấu giá viên được
cấp Thẻ đấu giá viên trước ngày 01/7/2010 (583 người) chưa qua đào tạo nghề đấu
giá, chưa được bồi dưỡng kỹ năng nghiệp vụ nên còn gặp lúng túng khi thực hiện
bán đấu giá các loại tài sản đặc thù như: quyền sử dụng đất, quyền khai thác
khoáng sản, hàng dự trữ quốc gia, tần số vô tuyến điện, hàng bắt giữ trên biển
v.v. Theo báo cáo của 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các địa phương
đều đề nghị Bộ Tư pháp hàng năm mở các lớp bồi dưỡng cho đấu giá viên để nâng
cao trình độ pháp luật và kỹ năng hành nghề.
Về chất lượng đội ngũ đấu giá viên
thì qua khảo sát 208 người thì có 51% ý kiến cho rằng đội ngũ đấu giá viên hiện
nay mới chỉ đáp ứng được một phần công việc được giao. Trước ngày 01/7/2010, đội
ngũ đấu giá viên chưa qua đào tạo nghề đấu giá, trong đó có 15% đấu giá viên
(88/583 người) có trình độ chuyên môn của ngành khác (không có chuyên môn pháp
lý) như kỹ sư xây dựng, công nghệ thông tin, ngoại ngữ, sư phạm, hàng hải, nông
nghiệp v.v. Ngoài ra, nhiều đấu giá viên còn yếu về chuyên môn, kiến thức pháp
luật, kỹ năng nghiệp vụ (cụ thể có khiếu nại về trình tự, thủ tục bán đấu giá
tài sản, về hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá, về hợp đồng bán đấu giá tài sản,
về giao tài sản bán đấu giá, về xử lý khoản tiền đặt trước...).
Trước khi Nghị định 17 được ban hành,
pháp luật về bán đấu giá tài sản quy định tiêu chuẩn, điều kiện trở thành đấu
giá viên ở nước ta còn đơn giản. Người có bằng đại học bất kỳ ngành đào tạo nào
cũng có thể trở thành đấu giá viên, đồng thời pháp luật không bắt buộc người muốn
trở thành đấu giá viên phải trải qua khóa đào tạo nghề đấu giá. Nghị định 17 ra
đời quy định tiêu chuẩn, điều kiện chặt chẽ hơn khi cấp Chứng chỉ hành nghề đấu
giá: tốt nghiệp đại học chuyên ngành luật hoặc kinh tế và phải tốt nghiệp khóa
đào tạo nghề 3 tháng. Tuy nhiên, nếu so sánh với yêu cầu của pháp luật ở một số
nước thì điều kiện để cấp Chứng chỉ hành nghề đấu giá ở nước ta chưa cao, chưa
chọn lọc được đội ngũ đấu giá viên có chất lượng (tham khảo Phụ lục 4 và Phụ lục
5).
2.2.2. Sự phân bổ đấu giá viên, tổ chức
bán đấu giá tài sản không đồng đều giữa các vùng, miền và việc sử dụng nguồn
nhân lực đấu giá còn hạn chế
Hiện nay, một bất cập khác nữa trong
việc phát triển về số lượng đấu giá viên là sự phân bổ đấu giá viên không đồng
đều giữa các địa phương, mất cân đối giữa khu vực thành thị và nông thôn, giữa
đồng bằng và miền núi, trung du. Sự phát triển đội ngũ đấu giá viên tập trung
chủ yếu ở hai thành phố lớn là Hà Nội có 135 đấu giá viên và TP. Hồ Chí Minh có
45 đấu giá viên (theo báo cáo số liệu chưa đầy đủ của địa phương). Nhiều địa
phương, số lượng đấu giá viên rất hạn chế, ví dụ Bình Phước, Lai Châu, Sơn La
chỉ có 01 đấu giá viên; Bắc Kạn, Điện Biên, Bình Thuận, Hậu Giang, Ninh Thuận,
Tây Ninh, Tuyên Quang có 02 đấu giá viên. Theo số liệu thống kê công việc năm
2012: 09 tỉnh có từ 10 đến 17 đấu giá viên, trung bình một đấu giá viên thực hiện
khoảng 20 hợp đồng bán đấu giá tài sản; 31 tỉnh có từ 04 đến 09 đấu giá viên và
trung bình 01 đấu giá viên thực hiện 46 hợp đồng; 21 tỉnh có từ 01 đến 03 đấu
giá viên và trung bình một đấu giá viên thực hiện 78 hợp đồng; tại Thành phố Hồ
Chí Minh trung bình một đấu giá viên thực hiện 23 hợp đồng.
Như vậy, đối với các tỉnh có số lượng
đấu giá viên hạn chế (từ 01 đến 03 đấu giá viên), trung bình một đấu giá viên
phải thực hiện bán đấu giá tài sản gấp gần 4 lần so với đấu giá viên tại Thành
phố Hồ Chí Minh, gấp 4 lần so với đấu giá viên tại các tỉnh có từ 10 đến 17 đấu
giá viên và gấp 2 lần so với các tỉnh có từ 04 đến 09 đấu giá viên. Theo báo
cáo của nhiều địa phương là các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa thì số lượng đấu
giá viên hiện nay chưa đủ đáp ứng được khối lượng công việc (tham khảo Phụ lục
2).
Bên cạnh đó, việc sử dụng nguồn nhân
lực đấu giá ở các địa phương còn hạn chế. Chính sách phát triển nguồn nhân lực
đấu giá chưa được hoạch định cụ thể, thống nhất từ trung ương đến địa phương.
Hiện nay, các cơ quan chức năng mới chỉ dừng lại ở sự định hướng, khuyến khích
các địa phương củng cố, kiện toàn nhân lực đấu giá chứ chưa có chiến lược, biện
pháp để phát triển nguồn nhân lực đấu giá.
Hiện nay, cả nước có 63 Trung tâm dịch
vụ bán đấu giá tài sản tại 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và có 192
doanh nghiệp bán đấu giá tài sản (gồm cả chi nhánh, văn phòng đại diện), phân bổ
tại 47 tỉnh, thành phố. Nhiều địa phương như Bạc Liêu, Bình Phước, Cao Bằng, Hà
Giang, Hưng Yên, Lai Châu ... chưa có doanh nghiệp bán đấu giá. Khi khảo sát về
số lượng, chất lượng tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp, 56% ý kiến của cán bộ
quản lý thuộc 35 Sở Tư pháp cho rằng vẫn còn thiếu tổ chức bán đấu giá chuyên
nghiệp tại địa phương; các tổ chức bán đấu giá phát triển chưa mạnh, thiếu tính
chuyên nghiệp. Ngoài ra, hiện nay chưa có số liệu thống kê cụ thể số lượng đấu
giá viên thực sự tiến hành đấu giá trong số 50% (534/968) người được cấp Chứng
chỉ hành nghề đấu giá đăng ký hành nghề tại Sở Tư pháp. Tuy nhiên, qua quá
trình quản lý có thể khẳng định rằng không phải tất cả số đấu giá viên đó có thể
sống bằng nghề đấu giá. Bởi lẽ, trong số đấu giá viên hành nghề có số lượng
không nhỏ là luật sư, những người có nguồn thu nhập từ hoạt động luật sư (tham
khảo Phụ lục 2 và Phụ lục 5).
2.2.3. Tình trạng vi phạm pháp luật
trong hoạt động bán đấu giá vẫn diễn ra với chiều hướng gia tăng
Thực tế thời gian qua các phương tiện
thông tin đại chúng phản ánh nhiều về vi phạm pháp luật của đấu giá viên trong
hoạt động bán đấu giá ở một số địa phương. Qua khảo sát đánh giá về hiện trạng
vi phạm pháp luật của đấu giá viên tại các tổ chức đấu giá (tham khảo Phụ lục
5) thì 61% ý kiến cho rằng một bộ phận đấu giá viên vẫn còn vi phạm và nguyên
nhân vi phạm hoạt động bán đấu giá là do không coi trọng đạo đức nghề nghiệp
(31% ý kiến được hỏi). Qua kết quả thanh tra năm 2008 và 2009, Thanh tra Bộ Tư
pháp tiến hành 4 cuộc thanh tra chuyên ngành, thì có 4 quyết định xử lý vi phạm
hành chính do các hành vi vi phạm của đấu giá viên[1], tức là bất kỳ cuộc thanh tra nào cũng phát
hiện vi phạm của đấu giá viên.
2.2.4. Công tác quản lý chưa hiệu quả,
thiếu cơ chế phối hợp, thiếu cơ chế tự quản của tổ chức hành nghề đấu giá
Công tác quản lý nhà nước về bán đấu
giá tài sản ở cấp Trung ương và địa phương mới chỉ tập trung vào việc xây dựng
thể chế, hướng dẫn nghiệp vụ bán đấu giá, tiến hành thanh tra, kiểm tra, thẩm
tra hồ sơ, cấp Chứng chỉ hành nghề đấu giá, theo dõi hoạt động của các tổ chức
bán đấu giá tài sản. Cơ quan quản lý chưa có cơ chế giám sát hoạt động nghề
nghiệp của đấu giá viên, chế độ kiểm tra chưa thường xuyên, sâu sát; thiếu
thông tin về hoạt động thường xuyên của đấu giá viên nên không nắm được cụ thể
tình hình hoạt động, đặc biệt là các đấu giá viên làm việc trong các doanh nghiệp
bán đấu giá tài sản.
Để có thể vừa thực hiện tốt chức năng
quản lý, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho đấu giá viên trong quá trình hoạt động,
thì sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức có liên quan là một yêu cầu cần thiết.
Hiện nay, quy định điều kiện để thành lập doanh nghiệp bán đấu giá tài sản còn
khá lỏng lẻo. Sở Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan cấp Giấy đăng ký kinh doanh cho
các doanh nghiệp bán đấu giá với điều kiện Giám đốc doanh nghiệp là đấu giá
viên, trong khi đó cơ chế phối hợp giữa Sở Kế hoạch và Đầu tư và Sở Tư pháp
không rõ ràng, chưa hiệu quả, do đó nhiều trường hợp Sở Tư pháp không nắm được
các thông tin về tổ chức đấu giá, về trình độ, năng lực của Giám đốc doanh nghiệp
và các đấu giá viên.
Một trong những nguyên tắc quản lý hiệu
quả đối với các nghề bổ trợ tư pháp là kết hợp quản lý nhà nước và tự quản của
tổ chức hành nghề. Hiện nay, Hiệp hội đấu giá chưa được thành lập, do vậy thiếu
cơ chế tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong hoạt động nghề nghiệp của
đội ngũ đấu giá viên. Hiệp hội đấu giá là tổ chức tự quản của đấu giá viên nhằm
bảo vệ quyền, lợi ích của đấu giá viên, giám sát việc tuân theo pháp luật, đạo
đức nghề nghiệp của đội ngũ đấu giá viên.
2.3. Nguyên nhân chủ yếu của những hạn
chế, tồn tại
2.3.1. Nguyên nhân khách quan
a) Hệ thống pháp luật về bán đấu giá
tài sản chưa đồng bộ, chính sách phát triển và tăng cường năng lực cho đội ngũ
đấu giá viên chưa thực sự được quan tâm, chú trọng
Hiện nay, thể chế pháp lý chưa tạo
nên chính sách thống nhất, đồng bộ để phát triển đội ngũ đấu giá viên chuyên
nghiệp. Các quy định của Nghị định 17 mới thể hiện một bước chuyên nghiệp hóa đội
ngũ đấu giá viên, hiệu lực còn thấp vì chỉ ở tầm Nghị định trong khi các quy định
khác liên quan đều được điều chỉnh bởi các Luật, Pháp lệnh. Chủ trương xã hội
hóa hoạt động đấu giá tài sản là đúng đắn nhưng chưa được thể chế hóa một cách
đầy đủ về điều kiện đảm bảo thực hiện (hỗ trợ cơ sở vật chất, bồi dưỡng kỹ
năng, kiến thức pháp lý để đảm bảo cho đấu giá viên hành nghề trong thực tế
...); thiếu văn bản có hiệu lực pháp lý cao ở tầm luật để điều chỉnh thống nhất
hoạt động bán đấu giá. Vì vậy, hiện tại chưa có cơ sở pháp lý đầy đủ để phát
triển đội ngũ đấu giá viên theo yêu cầu của xã hội.
Nhà nước chưa thực sự chú trọng tăng
cường năng lực cho đội ngũ đấu giá viên cả về nghiệp vụ, chuyên môn, kiến thức
pháp luật, đặc biệt chưa ban hành Quy tắc đạo đức nghề nghiệp của đấu giá viên
để khắc phục tình trạng vi phạm hiện nay.
b) Việc tổ chức triển khai các văn bản
đã ban hành chưa đồng bộ, chưa hiệu quả dẫn đến hạn chế thị trường dịch vụ đấu
giá
Các cơ quan chức năng ở địa phương hiểu
và áp dụng chưa thống nhất các văn bản pháp luật về bán đấu giá tài sản, gây trở
ngại, hạn chế hiệu quả của công tác bán đấu giá, đặc biệt là gây lúng túng, khó
khăn cho các đấu giá viên khi hành nghề dẫn đến hạn chế thị trường dịch vụ đấu
giá. Nghị định 17 yêu cầu mọi cuộc bán đấu giá tài sản đều do đấu giá viên điều
hành, trừ trường hợp Hội đồng bán đấu giá trong trường hợp đặc biệt. Tuy nhiên,
trong thực tế, Ủy ban nhân dân cấp huyện, cơ quan kiểm lâm, công an, quản lý thị
trường của một số địa phương vẫn thành lập Hội đồng bán đấu giá để bán đấu giá
quyền sử dụng đất hoặc tài sản là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính
không đúng quy định pháp luật. Hiện tượng này đã hạn chế đấu giá viên được tiếp
cận và cọ sát với đa dạng các loại vụ việc, tích lũy kinh nghiệm nghề nghiệp và
từng bước nâng cao trình độ hành nghề.
c) Chương trình đào tạo, bồi dưỡng và
đội ngũ giáo viên chưa đáp ứng yêu cầu
Triển khai thi hành Nghị định 17,
chương trình đào tạo nghề đấu giá đã được Bộ trưởng Bộ Tư pháp phê duyệt với thời
gian đào tạo 03 tháng, chương trình đào tạo tập trung chủ yếu rèn luyện kỹ năng
nghề nghiệp cho học viên, tăng cường thực tập tại các tổ chức bán đấu giá tài sản
và các buổi học tình huống đóng vai thực hành. Tuy nhiên, hiện nay, Học viện Tư
pháp chưa xây dựng được Bộ giáo trình đào tạo nghề đấu giá, tài liệu cho học
viên còn nhiều hạn chế. Ngoài ra, đội ngũ cán bộ tham gia giảng dạy, đào tạo
nghề đấu giá cũng còn bất cập. Hiện nay, có 06 giảng viên của Học viện Tư pháp
giảng dạy các khóa đào tạo nghề đấu giá, tuy đó là những người có phương pháp
sư phạm tốt nhưng chưa có nhiều kiến thức và kinh nghiệm về hoạt động bán đấu
giá. Tham gia giảng dạy có 50 giảng viên kiêm chức, là các chuyên gia pháp luật
và người làm công tác quản lý nhà nước về đấu giá tài sản, các đấu giá viên
giàu kinh nghiệm thực tiễn về hành nghề đấu giá. Tuy nhiên, những người này
chưa trải qua nghề giáo viên, nên chưa có phương pháp giảng dạy phù hợp[2].
d) Nhận thức của các ngành, các cấp
và của xã hội về vai trò của đấu giá viên còn hạn chế, chưa đầy đủ
Nhận thức của các ngành, các cấp về bản
chất, vai trò, ý nghĩa của dịch vụ bán đấu giá và về vai trò của đội ngũ đấu
giá viên đối với việc phát triển dịch vụ đấu giá trong nền kinh tế thị trường
còn chưa đầy đủ. Do đó, dịch vụ bán đấu giá, đội ngũ đấu giá viên chưa được các
cấp ủy đảng, các ngành, các cấp quan tâm, chăm lo phát triển ngang tầm với nhiệm
vụ đặt ra và nhu cầu xã hội. Số lượng các lớp tập huấn, bồi dưỡng nâng cao
trình độ nghiệp vụ, kỹ năng hành nghề ở địa phương còn rất hạn chế. Nguyên nhân
này tác động không nhỏ đến sự phát triển của hoạt động bán đấu giá và phát triển,
kiện toàn đội ngũ đấu giá viên ở các địa phương. Đội ngũ đấu giá viên ở nhiều địa
phương còn mỏng, chất lượng chưa cao.
Mặc dù đã có chủ trương xã hội hóa hoạt
động đấu giá, khuyến khích thành lập các doanh nghiệp bán đấu giá tài sản và
các Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản của nhà nước chuyển đổi sang mô hình
doanh nghiệp, song bước đầu nhà nước cần có chính sách hỗ trợ để các tổ chức
này thực sự có đủ năng lực để thực hiện nhiệm vụ chính trị của nhà nước và xã hội
đặt ra.
2.3.2. Nguyên nhân chủ quan
Trước ngày 01/7/2010, tất cả đấu giá
viên được cấp Thẻ đấu giá viên theo quy định của Nghị định số 05/2005/NĐ-CP đều
không phải qua khóa đào tạo nghề đấu giá, vì vậy một bộ phận không nhỏ đấu giá
viên còn yếu về nghiệp vụ, chủ yếu hành nghề theo kinh nghiệm, thói quen. Kiến
thức pháp luật hạn chế, chưa thường xuyên trau dồi, nâng cao trình độ chuyên
môn của mình, do đó, vẫn xảy ra sai sót dẫn đến khiếu nại trong hoạt động bán đấu
giá. Đấu giá viên chưa xem đây là một nghề, không thường xuyên làm việc tại tổ
chức đấu giá mà còn kiêm nhiệm nhiều công việc khác.
Nhiều đấu giá viên có nhận thức chưa
đầy đủ về nghề đấu giá, chưa thực sự coi trọng đạo đức nghề nghiệp khi hành nghề.
Một bộ phận đấu giá viên quá coi trọng lợi ích vật chất, chưa có bản lĩnh nghề
nghiệp vững vàng nên còn có tình trạng vi phạm pháp luật. Điều này đã tác động
rất lớn đến chất lượng đội ngũ đấu giá viên và hiệu quả hoạt động bán đấu giá
tài sản.
Tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp ở một
số tỉnh còn thiếu thốn về cơ sở vật chất, việc bố trí, sử dụng đấu giá viên
chưa hợp lý nên chưa phát huy được vai trò của đấu giá viên trong hoạt động nghề
nghiệp và chưa đáp ứng yêu cầu thực tế về hoạt động đấu giá hiện nay.
Bên cạnh đó, năng lực quản lý nhà nước
về hoạt động đấu giá nói chung và quản lý đấu giá viên nói riêng ở nhiều địa
phương còn hạn chế. Đội ngũ cán bộ làm công tác bổ trợ tư pháp còn mỏng, nhiều
tỉnh chỉ có từ 02 đến 03 cán bộ, chưa được đào tạo bồi dưỡng thường xuyên về kiến
thức, kỹ năng quản lý nhà nước đối với lĩnh vực còn mới mẻ này nên bộc lộ nhiều
hạn chế, bất cập, so với yêu cầu của công tác quản lý (tham khảo Phụ lục 3).
2.4. Dự báo nhu cầu
Đấu giá tài sản là loại hình dịch vụ
mới trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Trước thời điểm
01/7/2010, dịch vụ bán đấu giá tài sản được thực hiện theo quy định của Nghị định
số 05/2005/NĐ-CP và một số văn bản pháp luật liên quan. Hoạt động bán đấu giá
tài sản chưa thực sự sôi động, tài sản yêu cầu bán đấu giá không nhiều. Theo số
liệu báo cáo của các địa phương trong 04 năm (2005 - 2009) thì tổng số hợp đồng
đã ký là 24.555 hợp đồng, trung bình 1 năm là 6.138 vụ và tổng giá trị tài sản
bán được trên 9.423,03 tỷ đồng[3]. Kể từ thời điểm triển khai Nghị định 17, nhu cầu bán đấu
giá tài sản có xu hướng tăng lên và ngày càng đa dạng hơn. Theo số liệu báo cáo
từ tháng 10/2010 đến tháng 10/2012, tổng số hợp đồng đã ký là 28.444 với tổng
giá trị tài sản bán được là trên 32.328,6 tỷ đồng[4]. Như vậy, trong 02 năm số lượng hợp đồng và
giá trị tài sản bán được tăng gấp hơn 2 lần so với bán đấu giá thời điểm trước
năm 2010 (tham khảo Phụ lục 2).
Cùng với việc triển khai nhiều văn bản
pháp luật mới trong thời gian qua liên quan đến hoạt động bán đấu giá như: Luật
Khoáng sản, pháp luật về dự trữ quốc gia, đặc biệt tới đây khi thi hành Luật Xử
lý vi phạm hành chính; Luật Đất đai (sửa đổi) thì các loại tài sản bán đấu giá
không những tăng nhiều về số lượng mà còn phong phú, đa dạng hơn, bao gồm cả
quyền tài sản, quyền khai thác các dịch vụ. Vì vậy, nhu cầu về dịch vụ bán đấu
giá ngày càng gia tăng, doanh nghiệp bán đấu giá tài sản ngày càng phát triển dẫn
đến tính cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ này ngày càng quyết liệt, do đó đòi
hỏi chất lượng dịch vụ phải được nâng cao. Một trong các yêu cầu để đảm bảo chất
lượng dịch vụ đó là nâng cao năng lực của đội ngũ đấu giá viên, trình độ, kỹ
năng nghiệp vụ cần được nâng lên, có đủ phẩm chất và bản lĩnh nghề nghiệp, đáp ứng
nhu cầu của cá nhân, tổ chức trong xã hội. Qua khảo sát dự báo nhu cầu về bán đấu
giá ở các địa phương, dự tính đến năm 2015 số lượng đấu giá viên trong cả nước
cần tăng thêm khoảng 250 người, đồng thời số lượng đấu giá viên đã được cấp Chứng
chỉ hành nghề đấu giá và Thẻ đấu giá trước đây cũng cần phải thường xuyên được
bồi dưỡng.
II. QUAN ĐIỂM XÂY
DỰNG ĐỀ ÁN
1. Bảo đảm đúng chủ trương, đường lối
nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước, khắc phục được những hạn chế, bất
cập hiện nay của đội ngũ đấu giá viên, đưa ra được các mục tiêu, yêu cầu, giải
pháp thiết thực, khả thi nhằm phát triển về số lượng và tăng cường năng lực của
đội ngũ đấu giá viên.
2. Bảo đảm tính khoa học, tính kế thừa
và phù hợp với thực tiễn về tổ chức, hoạt động bán đấu giá tài sản hiện nay.
3. Tăng cường công tác quản lý vĩ mô
của Bộ Tư pháp đối với tổ chức và hoạt động bán đấu giá tài sản, trách nhiệm của
Sở Tư pháp và các sở, ngành ở địa phương trong công tác quản lý nhà nước về bán
đấu giá tài sản và đội ngũ đấu giá viên trên địa bàn .
III. MỤC TIÊU CỦA
ĐỀ ÁN
1. Phát triển nguồn nhân lực có chất
lượng cho hoạt động bán đấu giá tài sản, trong đó tập trung phát triển hợp lý đội
ngũ đấu giá viên có trình độ chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp,
phấn đấu đến năm 2015 cả nước có khoảng 1.200 đấu giá viên đáp ứng yêu cầu để
phát triển nghề đấu giá và dịch vụ bán đấu giá tài sản trong nền kinh tế thị
trường, góp phần tạo sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
trong giai đoạn 2013 - 2015.
Định hướng đến năm 2020 có khoảng
1700 đấu giá viên hành nghề trong các tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp có uy
tín và cung cấp dịch vụ bán đấu giá có chất lượng.
2. Đề xuất hoàn thiện một bước thể chế
pháp lý về bán đấu giá tài sản, nghiên cứu xây dựng Luật Đấu giá tài sản theo
hướng nâng cao tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề của đấu giá viên phù hợp với
thông lệ quốc tế và điều kiện cụ thể của Việt Nam, tăng cường quản lý nghề nghiệp,
đổi mới quản lý nhà nước trong giai đoạn 2013 - 2015 và định hướng đến năm
2020.
3. Nâng cao nhận thức của các tổ chức,
cá nhân có liên quan và toàn xã hội về vị trí, vai trò của nghề đấu giá và đấu
giá viên.
IV. NHIỆM VỤ VÀ GIẢI
PHÁP
1. Giai đoạn 2013 - 2015
1.1. Hoàn thiện thể chế pháp lý, tạo
điều kiện cho sự phát triển của đội ngũ đấu giá viên
1.1.1. Rà soát, đánh giá hệ thống
pháp luật hiện hành về bán đấu giá tài sản, đề xuất hoàn thiện một bước các quy
định pháp luật về bán đấu giá tài sản theo hướng nâng cao tiêu chuẩn, điều kiện
hành nghề của đấu giá viên, đổi mới công tác quản lý nghề đấu giá.
a) Rà soát, đánh giá hệ thống pháp luật
hiện hành, đề xuất sửa đổi, bổ sung, ban hành mới văn bản quy phạm pháp luật điều
chỉnh về bán đấu giá tài sản.
Thời gian thực hiện: Quý II/2013
Đơn vị chủ trì: Cục Bổ trợ tư pháp
Đơn vị phối hợp: Vụ Pháp luật Dân sự
- Kinh tế, Vụ Pháp luật Hình sự - Hành chính, Tổng cục Thi hành án dân sự, Cục
Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, Vụ Các vấn đề chung về xây dựng pháp luật,
Cục Công tác phía Nam, Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
b) Tiến hành sơ kết, đánh giá việc thực
hiện Nghị định 17 để phục vụ cho việc nghiên cứu xây dựng Luật Đấu giá tài sản.
Thời gian thực hiện: Quý IV/2013
Đơn vị chủ trì: Cục Bổ trợ tư pháp
Đơn vị phối hợp: Vụ Pháp luật Dân sự
- Kinh tế, Vụ Pháp luật Hình sự - Hành chính, Tổng cục Thi hành án dân sự, Cục
Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, Vụ Các vấn đề chung về xây dựng pháp luật,
Văn phòng Bộ, Cục Công tác phía Nam, Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương.
c) Nghiên cứu, xây dựng Luật Đấu giá
tài sản theo hướng nâng cao tiêu chuẩn đấu giá viên, tăng thời gian đào tạo nghề
và yêu cầu tập sự hành nghề đấu giá, quy định chặt chẽ hơn về quyền và trách
nhiệm của đấu giá viên, điều kiện hành nghề đấu giá, quản lý đấu giá viên khi
hành nghề; thực hiện xã hội hóa các Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản để tạo
sự cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng.
Thời gian thực hiện: Năm 2014 - 2015
Đơn vị chủ trì: Cục Bổ trợ tư pháp
Đơn vị phối hợp: Học viện Tư pháp, Viện
Khoa học pháp lý, Vụ Pháp luật Dân sự - Kinh tế, Vụ Pháp luật Hình sự - Hành
chính, Tổng cục Thi hành án dân sự, Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, Vụ
Các vấn đề chung về xây dựng pháp luật, Cục Công tác phía Nam, Sở Tư pháp các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương, các tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp.
1.1.2. Xây dựng và ban hành Quy tắc đạo
đức nghề đấu giá
Thời gian thực hiện: Năm 2014
Đơn vị chủ trì: Cục Bổ trợ tư pháp
Đơn vị phối hợp: Học viện Tư pháp,
Thanh tra Bộ và một số đơn vị thuộc Bộ Tư pháp.
1.1.3. Nghiên cứu thành lập thí điểm
Hội đấu giá tài sản tại một số địa phương
Thời gian thực hiện: năm 2013 - 2014
Đơn vị chủ trì: Cục Bổ trợ tư pháp
Đơn vị phối hợp: Vụ Tổ chức cán bộ, Sở
Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các tổ chức bán đấu giá
chuyên nghiệp.
1.2. Rà soát, củng cố đội ngũ đấu giá
viên, phát triển hợp lý đội ngũ đấu giá viên; đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng
nhằm nâng cao số lượng và chất lượng đội ngũ đấu giá viên
1.2.1. Thống kê, rà soát, phân loại đội
ngũ đấu giá viên, đánh giá nguồn nhân lực đấu giá. Xử lý thu hồi Chứng chỉ hành
nghề đấu giá theo quy định của Nghị định số 17.
Thời gian thực hiện: Quý II/2013 -
2014.
Đơn vị chủ trì: Cục Bổ trợ tư pháp
Đơn vị phối hợp: Vụ Kế hoạch - Tài
chính, Cục Công tác phía Nam, Sở Tư pháp, Sở Kế hoạch và Đầu tư các tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương, các tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp.
1.2.2. Thu hút người có năng lực,
trình độ tham gia hoạt động bán đấu giá tài sản tại địa phương, phát triển hợp lý
đội ngũ đấu giá viên trung bình từ 80 đến 100 đấu giá viên mỗi năm.
Đối với các địa phương hiện có số lượng
dưới 03 đấu giá viên thì phấn đấu mỗi năm phát triển thêm từ 01 đến 02 đấu giá
viên.
Thời gian thực hiện: 2013 - 2015
Đơn vị chủ trì: Cục Bổ trợ tư pháp
Đơn vị phối hợp: Các đơn vị liên quan
thuộc Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp và các sở, ngành liên quan của tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương và các tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp.
1.2.3. Đổi mới chương trình đào tạo
nghề đấu giá, xây dựng Bộ giáo trình về đào tạo nghề đấu giá và đưa vào sử dụng
thống nhất.
Thời gian thực hiện: 2013 - 2014
Đơn vị chủ trì: Học viện Tư pháp
Đơn vị phối hợp: Cục Bổ trợ tư pháp,
Vụ Tổ chức cán bộ, các tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp.
1.2.4. Xây dựng đội ngũ giảng viên có
chất lượng; tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho 60 giảng viên chuyên sâu về bán đấu
giá (các chuyên gia, đấu giá viên lâu năm trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản).
Thời gian thực hiện: 2013 - 2015
Đơn vị chủ trì: Học viện Tư pháp
Đơn vị phối hợp: Cục Bổ trợ tư pháp,
Vụ Tổ chức cán bộ, các tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp.
1.2.5. Tổ chức các lớp tập huấn kiến
thức pháp lý, đạo đức nghề nghiệp và kỹ năng cần thiết trong hoạt động bán đấu
giá tài sản cho đấu giá viên chưa qua lớp đào tạo nghề đấu giá; các lớp tập huấn
theo chuyên đề pháp luật liên quan đến bán đấu giá (quyền sử dụng đất, tài sản
thi hành án và một số loại tài sản khác).
Thời gian thực hiện: Quý III/2013 -
2015
Đơn vị chủ trì: Học viện Tư pháp, Cục
Bổ trợ tư pháp
Đơn vị phối hợp: Vụ Tổ chức cán bộ, Sở
Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các tổ chức bán đấu giá
chuyên nghiệp.
1.2.6. Biên soạn sổ tay nghiệp vụ bán
đấu giá tài sản, các tài liệu tham khảo phục vụ cho hoạt động hành nghề của đấu
giá viên.
Thời gian thực hiện: 2013 - 2015
Đơn vị chủ trì: Học viện Tư pháp
Đơn vị phối hợp: Cục Bổ trợ tư pháp,
Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các tổ chức bán đấu giá
chuyên nghiệp.
1.2.7. Tổ chức bồi dưỡng kỹ năng quản
lý, nghiệp vụ tài chính, pháp luật về bán đấu giá cho cán bộ của Sở Tư pháp các
địa phương làm công tác quản lý về bán đấu giá tài sản và cán bộ các sở, ngành
liên quan.
Thời gian thực hiện: 2013 - 2015
Đơn vị chủ trì: Cục Bổ trợ tư pháp
Đơn vị phối hợp: Sở Tư pháp các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương, các Sở, ngành liên quan tại địa phương.
1.3. Hỗ trợ kinh phí đào tạo nghề từ
ngân sách nhà nước đối với các tỉnh có điều kiện kinh tế - xã hội kém phát triển
hoặc có từ 01 đến 03 đấu giá viên trên địa bàn
Thời gian thực hiện: 2013 - 2015
Đơn vị chủ trì: Vụ Kế hoạch - Tài
chính; Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Đơn vị phối hợp: Học viện Tư pháp, Cục
Bổ trợ tư pháp, Vụ Tổ chức cán bộ, các sở, ngành liên quan tại địa phương
1.4. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh
tra, xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật của đấu giá viên
1.4.1. Tăng cường kiểm tra định kỳ
hàng năm hoặc đột xuất về tổ chức, hoạt động của tổ chức bán đấu giá, kiểm tra
việc hành nghề của đội ngũ đấu giá viên; kiểm tra nghiệp vụ bán đấu giá tại các
tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp, Hội đồng bán đấu giá tài sản.
Thời gian thực hiện: Năm 2013 - 2015
Đơn vị chủ trì: Cục Bổ trợ tư pháp
Đơn vị phối hợp: Các Sở Tư pháp các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương và các sở, ngành liên quan tại địa phương, các
tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp.
1.4.2. Tăng cường thanh tra về tổ chức,
hoạt động của tổ chức bán đấu giá, xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật của đội
ngũ đấu giá viên.
Thời gian thực hiện: Hàng năm, năm
2013 - 2015
Đơn vị chủ trì: Thanh tra Bộ
Đơn vị phối hợp: Cục Bổ trợ tư pháp,
Thanh tra Sở Tư pháp, các sở, ngành liên quan tại địa phương, các tổ chức bán đấu
giá chuyên nghiệp.
1.5. Nâng cao nhận thức của các tổ chức,
cá nhân có liên quan và xã hội về vị trí, vai trò của nghề đấu giá và đấu giá
viên
Phối hợp với cơ quan thông tin truyền
thông tổ chức các chương trình tuyên truyền pháp luật, hỏi đáp nghiệp vụ, tình
huống vụ việc về bán đấu giá tài sản; ban hành các ấn phẩm, đặc san tuyên truyền,
phổ biến, giới thiệu quy định pháp luật về bán đấu giá tài sản, tổ chức và hoạt
động bán đấu giá tài sản.
Thời gian thực hiện: Hàng năm, năm
2013 - 2015
Đơn vị chủ trì: Vụ Phổ biến, giáo dục
pháp luật
Đơn vị phối hợp: Cục Bổ trợ tư pháp,
Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Báo Pháp luật Việt Nam, Cục Công nghệ thông tin,
Nhà xuất bản Tư pháp.
2. Giai đoạn 2016-2020
2.1. Triển khai Luật Đấu giá tài sản
và nghiên cứu, xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Đấu giá tài sản nhằm
phát triển đội ngũ đấu giá viên theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại.
Thời gian thực hiện: Năm 2016 - 2018
Đơn vị chủ trì: Cục Bổ trợ tư pháp
Đơn vị phối hợp: Các đơn vị liên quan
thuộc Bộ Tư pháp, Ủy ban nhân dân và Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương, các tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp.
2.2. Tiếp tục phát triển đội ngũ đấu
giá viên ở các địa phương, mỗi năm khoảng 100 đấu giá viên.
Thời gian thực hiện: năm 2016 - 2020
Đơn vị chủ trì: Cục Bổ trợ tư pháp
Đơn vị phối hợp: Các đơn vị liên quan
thuộc Bộ Tư pháp, Ủy ban nhân dân và Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương, các tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp.
2.3. Thành lập Hiệp hội đấu giá toàn
quốc.
Thời gian thực hiện: Năm 2016 - 2017
Đơn vị chủ trì: Cục Bổ trợ tư pháp
Đơn vị phối hợp: Các đơn vị liên quan
thuộc Bộ Tư pháp, Ủy ban nhân dân và Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương, các tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp.
2.4. Tăng cường công tác quản lý nhà
nước, phát huy vai trò tự quản của tổ chức hiệp hội đấu giá tài sản.
Thời gian thực hiện: năm 2016 - 2020
Đơn vị chủ trì: Cục Bổ trợ tư pháp
Đơn vị phối hợp: Các đơn vị liên quan
thuộc Bộ Tư pháp, Ủy ban nhân dân và Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương, các tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp.
V. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Phân công trách nhiệm
1.1. Các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp
1.1.1. Cục Bổ trợ tư pháp chủ trì, phối
hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan tổ chức thực hiện Đề án; xây dựng chương
trình, kế hoạch tổng thể và kế hoạch chi tiết thực hiện Đề án hàng năm trình
Lãnh đạo Bộ phê duyệt; hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra, đánh giá kết quả thực hiện
Đề án.
1.1.2. Học viện Tư pháp đào tạo, bồi
dưỡng nâng cao năng lực đội ngũ đấu giá viên. Học viện Tư pháp chủ trì thực hiện
nhiệm vụ và phối hợp với Cục Bổ trợ tư pháp tổ chức thực hiện các nhiệm vụ, giải
pháp quy định tại Mục IV của Đề án này.
1.1.3. Vụ Kế hoạch - Tài chính
Vụ Kế hoạch - Tài chính chủ trì phối
hợp với Cục Bổ trợ tư pháp, các đơn vị liên quan thuộc Bộ Tư pháp thẩm định dự
toán kinh phí thực hiện Đề án.
Vụ Kế hoạch - Tài chính có trách nhiệm
bảo đảm kinh phí, cơ sở vật chất cho việc tổ chức thực hiện Đề án này.
1.1.4. Các đơn vị liên quan thuộc Bộ:
Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật, Thanh tra Bộ, Cục Công nghệ thông tin, Vụ Tổ
chức cán bộ, Vụ Pháp luật Dân sự - Kinh tế, Vụ Pháp luật Hình sự - Hành chính,
Vụ Các vấn đề chung về xây dựng pháp luật, Văn phòng Bộ, Tạp chí Dân chủ và
Pháp luật, Báo Pháp luật Việt Nam, Nhà xuất bản Tư pháp chủ trì, phối hợp với Cục
Bổ trợ tư pháp tổ chức thực hiện Đề án, thực hiện nhiệm vụ quy định tại Mục IV
Đề án này.
1.2. Sở Tư pháp
Sở Tư pháp chủ trì, phối hợp với các
cơ quan, đơn vị liên quan của địa phương xây dựng kế hoạch nâng cao năng lực đội
ngũ đấu giá viên trình Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt; rà soát, đánh giá đội
ngũ đấu giá viên, đề xuất Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tạo điều kiện hỗ trợ nhân lực,
cơ sở vật chất cho tổ chức đấu giá chuyên nghiệp; tăng cường quản lý, hướng dẫn
nghiệp vụ, thực hiện các biện pháp hỗ trợ phát triển đội ngũ đấu giá viên tại địa
phương; dự trù kinh phí trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt đảm bảo thực
hiện có hiệu quả nhiệm vụ quy định tại Mục IV Đề án và các nhiệm vụ khác thuộc
trách nhiệm của địa phương.
1.3. Tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp
1.3.1. Thực hiện quản lý trực tiếp,
chặt chẽ đội ngũ đấu giá viên; tạo điều kiện cho đội ngũ đấu giá viên trong quá
trình hoạt động nghề nghiệp, cử đấu giá viên của tổ chức tham gia đào tạo, bồi
dưỡng nghiệp vụ thường xuyên góp phần phát triển đội ngũ đấu giá viên chuyên
nghiệp.
1.3.2. Phối hợp với các cơ quan, đơn
vị liên quan tổ chức thực hiện nhiệm vụ tại Mục IV Đề án này.
2. Kinh phí thực hiện Đề án
2.1. Kinh phí triển khai thực hiện Đề
án được bảo đảm thực hiện bằng ngân sách nhà nước và các nguồn tài trợ, viện trợ
(nếu có).
2.2. Ngân sách Trung ương bảo đảm thực
hiện các nhiệm vụ của Bộ Tư pháp quy định tại Đề án này. Hàng năm, các đơn vị
chủ trì thực hiện nhiệm vụ trong Đề án, lập dự toán kinh phí gửi Cục Bổ trợ tư
pháp, Văn phòng Bộ để xem xét, tổng hợp gửi Vụ Kế hoạch - Tài chính thẩm định
trình Lãnh đạo Bộ phê duyệt.
2.3. Ngân sách địa phương bảo đảm thực
hiện các nhiệm vụ của Sở Tư pháp và các sở, ngành liên quan tại địa phương quy
định tại Đề án này.
3. Tổ chức kiểm tra, sơ kết, tổng kết,
chế độ thông tin, báo cáo
Định kỳ hàng năm hoặc khi có yêu cầu
của Bộ Tư pháp, các đơn vị liên quan thực hiện Đề án có nhiệm vụ thông tin, báo
cáo tiến độ, kết quả thực hiện Đề án về Bộ Tư pháp.
Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với các
cơ quan liên quan tiến hành kiểm tra, đánh giá tình hình thực hiện Đề án. Hàng
năm, tổ chức sơ kết nhằm đạt được các mục tiêu mà Đề án đặt ra.
Bộ Tư pháp chủ trì việc tổng kết thực
hiện Đề án vào cuối năm 2015./.
PHỤ LỤC 1
THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ ĐẤU GIÁ VIÊN*
Tiêu
chí
|
Đấu
giá viên được cấp Thẻ
đấu giá viên theo quy định Nghị
định số 05/2005/NĐ-CP
|
Đấu giá viên được cấp CCHN đấu giá viên theo quy định Nghị
định số 17/2010/NĐ-CP
|
Số lượng
|
583
người
|
385
người
|
Tuổi
|
Tuổi
trung bình
|
44,1
|
38,7
|
Dưới 40 tuổi
|
226
người (38,7%)
|
233
người (60,52%)
|
Từ 40 - 59 tuổi
|
324
người (55,57%)
|
120 người
(31,17%)
|
Từ 60 tuổi trở lên
|
33
người (5.66%)
|
32
người (8,31%)
|
Chuyên ngành
đào tạo
|
Luật
|
263
người (45,1%)
|
241
người (62,6%)
|
Kinh
tế
|
232
người (39,8%)
|
144
người (37,4%)
|
Ngành khác
|
88
người (15,1%)
|
|
Trình độ
|
Cử nhân
|
561
người
|
377
người
|
Thạc sỹ
|
17
người
|
5 người
|
Tiến
sỹ
|
5
người
|
3
người
|
Đấu
giá viên đã qua lớp đào tạo nghề đấu giá
|
|
190
người
|
Kỹ năng khác
|
Luật sư
|
|
141
người
|
Công chứng viên
|
|
8
người
|
Thanh tra viên chính
|
|
3
người
|
Điều tra viên
|
|
4
người
|
Chấp hành viên
|
|
5
người
|
Kiểm
sát viên
|
|
1 người
|
Thẩm
tra viên chính
|
|
2
người
|
Thẩm
phán
|
|
3 người
|
* Số liệu
thống kê tính đến 31/3/2013
PHỤ LỤC 2
SỐ LƯỢNG TỔ CHỨC BÁN ĐẤU GIÁ, ĐẤU GIÁ
VIÊN VÀ HỢP ĐỒNG BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN ĐÃ KÝ TRONG NĂM 2012
- Tổng số có 247 tổ chức bán đấu giá (63 Trung tâm dịch vụ bán đấu giá và 184 doanh nghiệp bán đấu giá)
- Tổng số đấu giá viên đăng ký hoạt động 534
(Trung tâm dịch vụ bán đấu giá có 221
đấu giá viên, Doanh nghiệp có 313 đấu giá viên)
- Tổng số Hợp đồng bán đấu giá
tài sản đã ký năm 2012: 15.891
Stt
|
Tỉnh, thành phố
|
Tổ
chức BĐG tài sản
|
Số lượng Đấu
giá viên
|
Số
hợp đồng đã ký trong
năm 2012
|
Số hợp đồng đã thực hiện năm 2012
|
Ghi
chú
|
Trung
tâm
|
Doanh
nghiệp
|
1
|
An Giang
|
4
|
3
|
7
|
399
|
223
|
|
2
|
Bà Rịa-Vũng Tàu
|
4
|
2
|
3
|
305
|
109
|
|
3
|
Bạc Liêu
|
1
|
3
|
0
|
254
|
37
|
|
4
|
Bắc Kạn
|
1
|
3
|
0
|
129
|
113
|
|
5
|
Bắc Giang
|
4
|
4
|
3
|
64
|
48
|
|
6
|
Bắc Ninh
|
5
|
4
|
9
|
161
|
76
|
|
7
|
Bến Tre
|
3
|
3
|
2
|
629
|
84
|
|
8
|
Bình Dương
|
8
|
2
|
2
|
177
|
97
|
|
9
|
Bình Định
|
5
|
6
|
7
|
220
|
163
|
|
10
|
Bình Phước
|
1
|
3
|
0
|
104
|
75
|
|
11
|
Bình Thuận
|
3
|
3
|
2
|
345
|
340
|
|
12
|
Cà Mau
|
2
|
2
|
1
|
298
|
48
|
|
13
|
Cao Bằng
|
1
|
3
|
0
|
53
|
48
|
|
14
|
Cần Thơ
|
3
|
3
|
0
|
223
|
87
|
|
15
|
Đà Nẵng
|
5
|
4
|
5
|
286
|
127
|
|
16
|
Đắk Lắk
|
3
|
3
|
6
|
1434
|
336
|
|
17
|
Đắk Nông
|
1
|
3
|
0
|
114
|
45
|
|
18
|
Điện Biên
|
1
|
2
|
0
|
53
|
51
|
|
19
|
Đồng Nai
|
1
|
4
|
0
|
245
|
87
|
|
20
|
Đồng Tháp
|
2
|
4
|
2
|
393
|
185
|
|
21
|
Gia Lai
|
1
|
2
|
0
|
230
|
82
|
|
22
|
Hà Giang
|
1
|
4
|
0
|
54
|
47
|
|
23
|
Hà Nam
|
2
|
4
|
2
|
73
|
69
|
|
24
|
Hà Nội
|
57
|
9
|
126
|
|
31
|
|
25
|
Hà Tĩnh
|
3
|
4
|
2
|
53
|
25
|
|
26
|
Hải Dương
|
3
|
6
|
4
|
213
|
195
|
|
27
|
Hải Phòng
|
6
|
6
|
10
|
148
|
116
|
|
28
|
Hòa Bình
|
2
|
4
|
1
|
119
|
74
|
|
29
|
Hồ Chí Minh
|
22
|
9
|
36
|
1067
|
423
|
|
30
|
Hậu Giang
|
1
|
1
|
0
|
139
|
25
|
|
31
|
Hưng Yên
|
1
|
3
|
0
|
79
|
62
|
|
32
|
Khánh Hòa
|
2
|
4
|
-
|
80
|
33
|
Ko có báo cáo số ĐGV của DN
|
33
|
Kiên Giang
|
4
|
2
|
4
|
187
|
59
|
|
34
|
Kon Tum
|
3
|
4
|
3
|
235
|
157
|
|
35
|
Lai Châu
|
1
|
1
|
0
|
6
|
5
|
|
36
|
Lào Cai
|
3
|
3
|
3
|
79
|
56
|
|
37
|
Lạng Sơn
|
1
|
4
|
0
|
49
|
39
|
|
38
|
Lâm Đồng
|
1
|
5
|
0
|
564
|
86
|
|
39
|
Long An
|
6
|
5
|
3
|
465
|
123
|
|
40
|
Nam Định
|
1
|
3
|
0
|
95
|
50
|
|
41
|
Nghệ An
|
6
|
4
|
7
|
543
|
380
|
|
42
|
Ninh Bình
|
2
|
3
|
1
|
86
|
68
|
|
43
|
Ninh Thuận
|
1
|
2
|
0
|
68
|
30
|
|
44
|
Phú Thọ
|
2
|
4
|
2
|
72
|
65
|
|
45
|
Phú Yên
|
5
|
3
|
5
|
159
|
86
|
|
46
|
Quảng Bình
|
1
|
3
|
0
|
57
|
50
|
|
47
|
Quảng Nam
|
2
|
3
|
2
|
122
|
88
|
|
48
|
Quảng Ngãi
|
2
|
4
|
3
|
92
|
44
|
|
49
|
Quảng Ninh
|
3
|
5
|
4
|
289
|
272
|
|
50
|
Quảng Trị
|
3
|
4
|
3
|
274
|
223
|
|
51
|
Sóc Trăng
|
1
|
3
|
0
|
153
|
13
|
|
52
|
Sơn La
|
1
|
1
|
0
|
79
|
63
|
|
53
|
Tây Ninh
|
6
|
2
|
6
|
753
|
145
|
|
54
|
Thái Bình
|
4
|
3
|
4
|
231
|
178
|
|
55
|
Thái Nguyên
|
1
|
2
|
0
|
127
|
95
|
|
56
|
Thanh Hóa
|
9
|
2
|
15
|
179
|
149
|
|
57
|
Thừa Thiên - Huế
|
3
|
5
|
6
|
414
|
396
|
|
58
|
Tiền Giang
|
2
|
2
|
1
|
980
|
143
|
|
59
|
Trà Vinh
|
2
|
2
|
1
|
695
|
155
|
|
60
|
Tuyên Quang
|
1
|
2
|
0
|
160
|
154
|
|
61
|
Vĩnh Long
|
4
|
4
|
-
|
392
|
45
|
Ko có báo cáo số ĐCV của DN
|
62
|
Vĩnh Phúc
|
6
|
7
|
10
|
92
|
73
|
|
63
|
Yên Bái
|
1
|
4
|
0
|
53
|
50
|
|
PHỤ LỤC 3
SỐ LƯỢNG CÁN BỘ LÀM CÔNG TÁC BỔ TRỢ TƯ
PHÁP TẠI SỞ TƯ PHÁP CÁC ĐỊA PHƯƠNG*
- Hiện cả nước có 56 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có Phòng Bổ trợ tư pháp: 7 tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương chưa có Phòng Bổ trợ
tư pháp;
- Số lượng cán bộ chuyên trách làm công tác Bổ trợ tư pháp là 165 người; số lượng cán bộ kiểm nghiệm
làm công tác Bổ trợ tư pháp là 17 người.
Stt
|
Tỉnh,
thành phố
|
Số
lượng cán bộ làm công tác quản lý BTTP
|
Ghi
chú
|
1
|
An Giang
|
2
|
|
2
|
Bà Rịa-Vũng Tàu
|
2
|
|
3
|
Bạc Liêu
|
3
|
Chưa
có Phòng BTTP Cán bộ kiểm nhiệm làm công tác BTTP
|
4
|
Bắc Kạn
|
3
|
|
5
|
Bắc Giang
|
3
|
|
6
|
Bắc Ninh
|
2
|
|
7
|
Bến Tre
|
4
|
|
8
|
Bình Dương
|
3
|
|
9
|
Bình Định
|
3
|
|
10
|
Bình Phước
|
2
|
|
11
|
Bình Thuận
|
2
|
|
12
|
Cà Mau
|
2
|
|
13
|
Cao Bằng
|
2
|
|
14
|
Cần Thơ
|
4
|
|
15
|
Đà Nẵng
|
5
|
|
16
|
Đắk Lắk
|
3
|
|
17
|
Đắk Nông
|
2
|
|
18
|
Điện Biên
|
3
|
|
19
|
Đồng Nai
|
3
|
|
20
|
Đồng Tháp
|
2
|
|
21
|
Gia Lai
|
5
|
Chưa
có Phòng BTTP Cán bộ kiêm nhiệm làm công tác BTTP
|
22
|
Hà Giang
|
3
|
|
23
|
Hà Nam
|
3
|
Chưa
có Phòng BTTP Cán bộ kiêm nhiệm làm
công tác BTTP
|
24
|
Hà Nội
|
7
|
|
25
|
Hà Tĩnh
|
4
|
|
26
|
Hải Dương
|
3
|
|
27
|
Hải Phòng
|
5
|
|
28
|
Hòa Bình
|
2
|
|
29
|
Hồ Chí Minh
|
11
|
|
30
|
Hậu Giang
|
2
|
|
31
|
Hưng Yên
|
2
|
|
32
|
Khánh Hòa
|
2
|
|
33
|
Kiên Giang
|
2
|
|
34
|
Kon Tum
|
1
|
Chưa
có Phòng BTTP
|
35
|
Lai Châu
|
1
|
Chưa
có Phòng BTTP
|
36
|
Lào Cai
|
3
|
|
37
|
Lạng Sơn
|
2
|
|
38
|
Lâm Đồng
|
3
|
|
39
|
Long An
|
3
|
|
40
|
Nam Định
|
2
|
|
41
|
Nghệ An
|
3
|
|
42
|
Ninh Bình
|
2
|
|
43
|
Ninh Thuận
|
3
|
|
44
|
Phú Thọ
|
3
|
|
45
|
Phú Yên
|
2
|
|
46
|
Quảng Bình
|
2
|
|
47
|
Quảng Nam
|
2
|
|
48
|
Quảng Ngãi
|
3
|
|
49
|
Quảng Ninh
|
2
|
|
50
|
Quảng Trị
|
2
|
Chưa có Phòng BTTP Cán bộ kiêm nhiệm làm công tác BTTP
|
51
|
Sóc Trăng
|
3
|
|
52
|
Sơn La
|
3
|
|
53
|
Tây Ninh
|
2
|
|
54
|
Thái Bình
|
4
|
|
55
|
Thái Nguyên
|
3
|
|
56
|
Thanh Hóa
|
5
|
|
57
|
Thừa Thiên - Huế
|
3
|
|
58
|
Tiền Giang
|
4
|
Chưa
có Phòng BTTP Cán bộ kiêm nhiệm làm công tác BTTP
|
59
|
Trà Vinh
|
2
|
|
60
|
Tuyên Quang
|
1
|
|
61
|
Vĩnh Long
|
3
|
|
62
|
Vĩnh Phúc
|
3
|
|
63
|
Yên Bái
|
3
|
|
* Số liệu
thống kê tính đến 31/3/2013
PHỤ LỤC 4
KINH NGHIỆM NƯỚC NGOÀI
Hiện nay nhiều quốc gia đã ban hành
luật về bán đấu giá tài sản với tư
cách là một đạo luật độc lập, tạo nền tảng để phát triển nghề đấu giá theo hướng
chuyên nghiệp.
Pháp luật về bán
đấu giá tài sản của một số nước quy định các điều kiện để trở thành đấu giá viên hết sức chặt chẽ. Họ phải qua đào lạo, tập sự hành nghề và trải qua kỳ thi đủ điều kiện mới được cấp Chứng chỉ/Giấy phép hành nghề (Trung Quốc, Pháp, Bang Florida Hoa Kỳ, Bang Alabama Hoa Kỳ
…), đồng thời tại một số
nước còn quy định khá rõ về trách nhiệm của đấu giá viên khi vi phạm đạo đức nghề nghiệp
và vi phạm pháp luật: quy định việc cần
thiết thành lập các tổ chức tự quản nghề nghiệp để theo dõi, hỗ trợ phát
triển nghề đấu giá và đấu giá viên như: Hiệp hội, Ủy ban quản lý hoạt động bán đấu giá.
1. Pháp luật về bán đấu giá
tài sản của Trung Quốc
Đấu giá viên là người trực tiếp chủ trì các cuộc đấu giá. Người muốn trở
thành đấu giá viên trước hết phải đáp ứng các điều kiện sau: có bằng tốt nghiệp
đại học và kinh nghiệm chuyên môn về
bán đấu giá; đã làm việc trong doanh nghiệp bán đấu giá từ 2 năm trở
lên; có tư cách đạo đức tốt. Để được công nhận chính thức là đấu giá viên, người đáp ứng những điều kiện trên phải tham gia kỳ
thi tuyển chọn đấu giá viên do Hiệp hội bán đấu giá tổ chức. Hiệp hội là một tổ chức hội có tư cách pháp nhân, được thành lập theo quy định của pháp luật và là tổ chức tự quản
trong lĩnh vực bán đấu giá, Hiệp hội thực hiện chức năng
giám sát các doanh nghiệp bán đấu giá và đấu
giá viên theo quy định của luật này và điều lệ của Hiệp hội. Những người đạt yêu cầu của kỳ thi sẽ
được Hiệp hội chứng chỉ đấu giá viên. Khi được cấp Chứng chỉ đấu giá, họ sẽ được
chủ trì các cuộc bán đấu giá tài sản.
2. Pháp luật về bán đấu giá tài sản của Pháp
Đấu giá là một nghề có uy tín và thu nhập tương đối
cao trong xã hội Cộng hòa Pháp. Họ là những người không chỉ
có kiến thức pháp luật, kiến thức về tài sản mà còn có kiến thức sâu rộng về thị trường, về giá trị tài sản và giá trị nghệ thuật, Người muốn trở
thành đấu giá viên phải có bằng luật
(cử nhân luật) và kiến thức lịch sử nghệ thuật (Đại học đại
cương 02 năm) và phải trải qua một kỳ thực tập đấu giá là
02 năm tại các cơ sở bán đấu giá tài
sản. Để được thực tập tại các cơ sở bán
đấu giá tài sản, người có nguyện vọng thực tập phải vượt
qua một kỳ thi đầu vào. Đây là một kỳ thi rất khó, trung bình chỉ có 10% trên tổng
số thí sinh thi đỗ.
Khi hành nghề đấu giá, đấu giá viên bị ràng buộc bởi nhiều nghĩa vụ do luật
định, phải có bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp. Vi phạm của đấu
giá viên tùy theo mức độ có thể do Hội
đồng đấu giá viên quốc gia thi hành kỷ
luật hoặc quy trách nhiệm theo Bộ luật Hình sự Pháp. Ngoài ra, trong Bộ luật Hình sự Pháp
cũng có điều khoản về tội thông đồng, dìm giá của những
người tham gia đấu giá, vậy nên, trong thực tế hiện tượng này xảy ra không nhiều[5].
3. Pháp luật về bán đấu giá
tài sản của bang Alabama (Hoa Kỳ)
Luật Đấu giá của
bang Alabama quy định rất chặt chẽ tiêu chuẩn để trở thành đấu giá viên. Người muốn trở thành đấu giá viên phải trải qua
khóa học gồm những môn sau đây: Kỹ năng trả giá theo từng bậc; Pháp
luật về đấu giá và đạo đức của đấu giá viên; Luật hợp đồng; Luật về người ủy quyền và đại
lý; Điều hành phiên bán đấu giá; Nghiệp vụ sổ sách và tài chính; Quảng cáo (thông báo) bán đấu giá; Bán đấu giá vật nuôi; Bán đấu giá bất động
sản; Bán đấu giá tại các cơ sở bán đấu giá; Bán đấu giá
nông trại; Bán đấu giá tài sản di chúc và nợ phá sản; Bán đấu giá máy móc và thiết bị; Bán đấu giá ôtô; Thanh lý tài
sản doanh nghiệp; Bán đấu giá đồ cổ và đấu giá để gây quỹ[6].
Đối với phần đào
tạo trên lớp, sinh viên được yêu cầu tham gia bán đấu giá trên thực tế. Việc thực tập bán đấu giá là một phần học có hướng dẫn
của nhà trường. Diện mạo cá nhân, cư xử lịch thiệp và kỹ
năng quảng cáo là yêu cầu cần thiết để gây ấn tượng mạnh
cho mọi người tham dự. Kinh nghiệm thực hành về sổ sách, ngân quỹ, dán nhãn và mua bán hàng hóa cũng
là nội dung được đào tạo.
4. Pháp luật về bán đấu giá tài sản của bang Florida (Hoa Kỳ)
Theo quy định của
pháp luật bang Florida (Hoa Kỳ)[7] những quy định
về đấu giá viên và quy định về tiêu
chuẩn nghề nghiệp đối với đấu
giá viên cũng được quy
định rất chặt chẽ. (Đạo luật Florida năm 2003, tại phần XXXII:
Quy định về nghề nghiệp, chương 468: Những nghề nghiệp
khác - Đấu giá viên.
Đấu giá viên là người được cấp phép theo quy định của Luật này và có giấy phép hành nghề đấu
giá viên của bang còn hiệu lực. Là người trực tiếp thực hiện việc bán đấu giá, đấu giá viên
cần phải trải qua quá trình đào tạo và tập sự nghề nghiệp. Trước khi trở thành đấu giá viên chính thức, đấu giá viên phải trải qua một giai đoạn tập
sự hay chức danh đấu giá viên tập sự. Người không được cấp
giấy phép đấu giá viên tập sự bao gồm: Người dưới 18 tuổi
hoặc người đã thực hiện bất cứ hành vi bất hợp pháp hoặc
phạm tội quả tang tại bang này
hoặc nơi khác mà việc phạm tội là cơ sở để áp
dụng các biện pháp kỷ luật theo quy định của pháp luật về đấu giá.
Ủy ban đấu giá trực thuộc là cơ quan quản lý hoạt động kinh
doanh và nghề nghiệp. Ủy ban gồm có
năm thành viên do Thống đốc bổ
nhiệm trên cơ sở quyết định của Thượng viện.
Hai trong số năm người này từng làm việc với tư cách là đấu giá viên
ít nhất là 5 năm trước khi họ được chỉ
định, một người trong số họ là Giám đốc
của Công ty đấu
giá và hai người trong số họ là người bên ngoài. Nhiệm kỳ của các thành viên là bốn năm. Ủy
ban có quyền thông qua các quy tắc
theo quy định và có trách nhiệm nhận đơn đề nghị của đấu giá viên, đấu giá viên tập sự, đơn xin cấp phép của Công ty bán đấu giá và có quyền cấp, sửa đổi, thu hồi các
loại giấy đó, đồng thời thực hiện các
công việc cần thiết khác để thực hiện
Luật. Người muốn có giấy phép hành nghề đấu giá viên đều phải trải qua kỳ thi viết do Ủy ban phê
chuẩn, Ủy ban sẽ kiểm tra kiến thức của người
đăng ký về pháp luật của bang liên quan tới các quy định của Bộ luật Thương mại liên bang về
bán đấu giá tài sản, pháp luật về đại lý và các quy
định của Luật này.
Trước khi trở thành một đấu giá
viên chính thức, đấu giá viên tập sự phải trải qua một thời gian tập sự rất nghiêm ngặt. Đấu giá viên tập sự sẽ chịu sự
hướng dẫn của một đấu giá viên chính thức. Nhưng không phải đấu giá viên chính thức
nào cũng được làm người hướng dẫn cho đấu giá viên tập sự. Đấu giá viên chính thức được phép hướng dẫn đấu giá
viên tập sự phải là người đã có giấy phép hành nghề có hiệu lực trong 3 năm liên tiếp, tính từ ngày đấu giá
viên đó được chỉ định làm người hướng
dẫn đấu giá viên tập sự. Một đấu giá viên không được hướng dẫn quá 3 đấu giá viên tập sự.
Đấu giá viên tập
sự là những người được đào tạo như một
đấu giá viên chính thức và dưới sự hướng
dẫn của đấu giá viên chính thức. Trong giai đoạn tập sự, đấu giá viên tập sự phải chịu sự hướng dẫn đào tạo của đấu
giá viên hướng dẫn theo đúng chương
trình đã được Ủy ban đấu giá Florida quy
định; phải tham gia tích cực vào các hoạt động bán đấu giá theo quy định của Ủy ban đấu giá Florida; phải lưu giữ hồ sơ cho từng cuộc bán đấu giá để làm cơ sở để xác nhận
sự tham gia của mình. Đấu giá viên tập sự không được phép thực hiện hoạt động bán đấu giá khi chưa có sự chấp thuận rõ ràng bằng văn bản của
người hướng dẫn. Đấu giá viên tập sự và đấu giá viên hướng
dẫn tập sự phải gửi báo cáo kết quả tập sự, hướng dẫn cho Ủy
ban đấu giá Florida. Đấu giá viên tập sự có
thể thay đổi đấu giá viên hướng dẫn được chỉ định
trong giấy phép trước đó bằng cách nộp đơn đề nghị cấp phép mới và một
khoản lệ phí cấp phép. Đấu giá viên tập sự không được thực hiện hoặc ký hợp đồng thực hiện việc bán đấu giá mà không có sự
chấp thuận rõ ràng của người giám sát là một đấu giá viên đồng ý nhận trách nhiệm
giám sát viên của đấu giá viên tập sự.
Sau khi đã có giấy phép đấu giá viên
tập sự, đã trải qua thời gian tập sự hành nghề một năm hoặc đã hoàn thành một khóa
đào tạo với ít nhất là tám mươi giờ hướng dẫn trên các tiêu chuẩn đã được Ủy ban đấu
giá Florida thông qua, đấu giá viên tập sự phải trải qua kỳ thi viết do Ủy ban đấu giá Florida phê chuẩn. Nội dung kiểm
tra kiến thức đấu giá viên tập sự bao gồm: Pháp luật của bang liên quan tới các
quy định của Bộ luật Thương mại liên bang về bán đấu giá tài sản, pháp luật về
đại lý và các quy định của Đạo luật của Florida về bán đấu giá tài sản; đặc biệt
là các quy định pháp luật về hợp đồng. Nếu được Ủy ban đấu giá Florida chấp thuận, đấu giá viên sẽ được cấp
giấy phép hành nghề đấu giá viên
chính thức và độc lập tham gia vào hoạt động bán đấu giá tài sản tại Florida. Giấy phép hành nghề của đấu giá viên tập sự
có thời hạn là hai năm và có thể được
gia hạn.
5. Pháp
Iuật về bán đấu giá tài
sản của Canada
Đạo luật về bán đấu
giá công khai của bang
Alberta- Canada quy định khá chặt chẽ về đấu giá viên và quy định về tiêu
chuẩn nghề nghiệp đối với đấu giá viên. Người được cấp Chứng
chỉ/Giấy phép hành nghề đấu giá viên là người làm đơn, có đủ các điều kiện quy định tại Đạo luật này, Quy chế và vì lợi ích của công cộng yêu cầu.
Chủ tịch cơ quan quản lý bán đấu giá tài sản có quyền cấp giấy phép cho người nộp đơn yêu cầu nếu xét thấy người làm đơn có đủ điều kiện theo quy định (không phải qua kỳ thi); yêu cầu
người làm đơn bổ sung thêm các thông
tin trong thời hạn quy định; yêu cầu
người làm đơn xác thực về thông tin cung cấp bằng bản khai
có tuyên thệ hoặc bằng các hình thức
khác; người được cấp phép muốn chấm dứt hoạt động có thời
hạn phải thông báo cho Chủ tịch qua thư bảo đảm và khi hoạt động trở lại cũng
phải thông báo.
Chủ tịch có quyền
tước hoặc đình chỉ sử dụng giấy phép, nếu người kinh doanh đấu giá vi phạm luật hoặc quy
chế, nếu lợi ích công cộng yêu cầu.
Ngoài ra, Đạo luật về bán đấu giá
công khai của bang Alberta- Canada còn quy định cụ thể đạo đức nghề nghiệp của đấu giá viên;
quy định về các quy tắc ứng xử của người kinh doanh bán đấu giá và người điều
hành bán đấu giá trong các hoạt động. Người vi phạm các quy định
tại Đạo luật này hoặc Quy chế bị phạt tiền đến 1000 đô la. Trong các trường hợp khác có thể
bị truy cứu trách
nhiệm hình sự. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là 2 năm.
6. Kinh nghiệm trong bán đấu giá bất động sản tại Hoa Kỳ
Bán đấu giá bất
động sản tại Hoa Kỳ chủ yếu là hình
thức bán đấu giá bằng lời nói trực tiếp, rất dứt khoát và căng thẳng. Những người nộp hồ sơ phải đặt
trước một khoản đặt cọc và nộp lệ phí đấu
giá. Giá khởi điểm là do người bán bất
động sản quyết định. Một vài điều khoản
của cuộc bán đấu giá khá chặt chẽ, đặc biệt là quy định đối với đấu giá
viên, nó giúp tăng hiệu quả của phiên đấu giá, tỷ lệ
không thành công thấp, giá bán được cao:
- Đấu giá viên có
quyền quyết định cao nhất trong toàn phiên đấu giá. Có quyền từ chối một sự trả
giá của người tham gia đấu giá;
- Đấu giá viên quyết định mức giá trị mà sự trả giá đã đạt đến mức tốt nhất;
- Đấu giá viên có quyền hủy cuộc bán đấu giá bất cứ lúc nào;
- Đấu giá viên
có thể tham khảo về giá trả giá của
người tham gia tới người có bất động sản đấu giá bất cứ
lúc nào khi phiên đấu giá đang diễn ra;
- Nếu có tranh
chấp nào về việc trả giá, đấu giá viên có thể sẽ đưa lại giá bất động sản về sự trả giá trước tranh chấp và bắt đầu tiếp;
- Nếu có tranh chấp về việc trả giá, đấu giá viên là trọng
tài phân xử và quyết định của họ là cuối cùng.
Có thể dễ dàng
nhận thấy, đấu giá viên là người duy nhất có quyền quyết định khi phiên đấu giá diễn ra. Là người cầm
cán cân, có khả năng giảm thiểu những tiêu cực trong việc "móc ngoặc giá", hoặc thương lượng trước của những người tham gia. Sau hơn 100 năm kinh nghiệm trong đấu giá tài sản,
đấu giá viên tại Hoa Kỳ dường như hạn chế được rất nhiều hành vi vi phạm của những người tham gia
và đem đến giá thị trường cho sản phẩm - thực hiện đúng ý
nghĩa lợi ích mà hình thức đấu giá có
thể mang lại.
Để thành công khi bán bất động sản tại Hoa Kỳ là chọn đúng tổ chức bán đấu giá. Khả năng tổ chức của họ, cùng với trình độ chuyên môn của đấu giá viên sẽ đem lại tỷ lệ thành công cao
cho phiên đấu giá.
Trình độ của đấu
giá viên cũng quyết định rất lớn trong hoạt động bán đấu
giá. Các trường đại học tại Hoa Kỳ và
các trang web chuyên về đào tạo giáo dục là nơi đào tạo ra
những người thực hiện đấu giá, họ nắm
chắc kiến thức về pháp luật, các kỹ
năng điều hành một phiên đấu giá, cũng như biết mọi điều có thể xảy ra tại một phiên đấu giá. Những người muốn tham gia đấu giá cùng
có cơ hội tìm hiểu về hình thức này rất dễ dàng, chỉ cần một mức
phí nhất định là họ có thể tham gia phiên như một hình thức tham dự. Thông tin về quy định dường như đã hoàn toàn minh bạch
với cả ba bên, người mua - người bán - tổ chức đấu giá. Điều này là chìa khóa quyết định sự thành công cho thị trường đấu giá bất động
sản tại Hoa Kỳ.
Tóm lại, qua tham khảo kinh nghiệm của
một số nước thì tiêu chuẩn, điều kiện để trở thành đấu giá
viên của Việt Nam cần thiết phải quy
định chặt chẽ hơn để nâng cao tính chuyên nghiệp và nâng
cao năng lực, trình độ, đảm bảo yêu cầu, chất lượng của hoạt
động đấu giá.
PHỤ LỤC 5
TỔNG HỢP KẾT QUẢ LẤY Ý KIẾN KHẢO SÁT
Cán bộ làm công tác quản lý, đấu giá viên, người sử dụng dịch
vụ
Tổng số phiếu thu về của 03 mẫu phiếu: 208
- Phiếu thu về dành cho cán
bộ làm công tác quản lý: 72
- Phiếu thu về dành cho đấu giá viên: 82
- Phiếu thu về dành cho người sử dụng dịch vụ: 54
Câu 1. Nhận xét thế nào về
số lượng tổ chức bán đấu
giá chuyên nghiệp ở địa phương
|
Cán
bộ làm công tác quản lý
|
Đấu
giá viên
|
Người
sử dụng dịch vụ
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Thiếu
|
40
|
56,3%
|
12
|
14.8%
|
9
|
17.3%
|
Đủ
|
24
|
33.8%
|
47
|
58.02%
|
29
|
55.8%
|
Thừa
|
7
|
9.9%
|
22
|
27.18%
|
14
|
26.9%
|
Câu 2. Doanh nghiệp bán đấu giá tài sản
|
Cán
bộ làm công tác quản lý
|
Đấu
giá viên
|
Người
sử dụng dịch vụ
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Đã có
|
52
|
76.5%
|
66
|
82.5%
|
38
|
74.5%
|
Chưa có
|
16
|
23.5%
|
14
|
17.5%
|
13
|
25.5%
|
Năng lực
hoạt động của các Doanh nghiệp bán đấu giá tại địa phương
|
Cán bộ làm công tác quản lý
|
Đấu
giá viên
|
Người
sử dụng dịch vụ
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Hoạt động chưa
tốt
|
32
|
54.2%
|
46
|
68.6%
|
22
|
52.4%
|
Hoạt động tốt
|
25
|
42.4%
|
15
|
22.4%
|
17
|
40.5%
|
Hoạt động rất
tốt
|
4
|
3.4%
|
6
|
9%
|
3
|
7.1%
|
Nguyên nhân tổ chức bán đấu giá hoạt động chưa tốt
|
Cán
bộ làm công tác quản lý
|
Đấu
giá viên
|
Người
sử dụng dịch vụ
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Thiếu sự quan
tâm của các ban, ngành, tổ chức địa
phương
|
16
|
13.4%
|
18
|
17.1%
|
21
|
34.4%
|
Tổ chức bán đấu giá chưa chủ dộng phối hợp với các sở, ban, ngành
|
31
|
26.05%
|
14
|
13.3%
|
7
|
11.5%
|
Hạn chế trong
việc tiếp cận thông tin pháp lý về hoạt động bán đấu giá
|
23
|
19.3%
|
28
|
26.7%
|
13
|
21.3%
|
Nhận thức đạo đức nghề nghiệp của đấu giá viên chưa cao
|
20
|
16.8%
|
15
|
14.3%
|
3
|
4.9%
|
Hệ thống pháp luật hiện hành về bán
đấu giá tài sản không đồng bộ, mâu
thuẫn.
|
29
|
24.45%
|
30
|
28.6%
|
17
|
27.9%
|
Câu 3. Điều kiện cơ sở vật chất của tổ chức bán đấu giá
|
Cán
bộ làm công tác quản lý
|
Đấu giá viên
|
Người
sử dụng dịch vụ
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Tốt
|
3
|
4.05%
|
22
|
27.8%
|
5
|
9.8%
|
Khá
|
20
|
27.02%
|
21
|
26.6%
|
10
|
19.6%
|
Trung bình
|
40
|
54.05%
|
28
|
35.4%
|
31
|
60.8%
|
Yếu kém
|
11
|
14.88%
|
8
|
10.2%
|
5
|
9.8%
|
Cơ sở vật chất của tổ
chức bán đấu giá khó khăn
|
Cán
bộ làm công tác quản lý
|
Đấu giá viên
|
Người
sử dụng dịch vụ
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Thiếu biên chế
|
22
|
22.7%
|
12
|
16.7%
|
9
|
13.2%
|
Chưa có trụ sở riêng
|
42
|
43.3%
|
30
|
41.7%
|
34
|
50%
|
Thiếu các trang thiết bị hỗ trợ công việc (Hội trường
tổ chức đấu giá, máy vi tính, máy chiếu, máy fax …)
|
33
|
34%
|
30
|
41.6%
|
25
|
36.8%
|
Câu 4. Hướng chuyển đổi
sang Doanh nghiêp bán đấu giá của Trung tâm Dịch vụ
bán đấu giá
|
Cán
bộ làm công tác quản lý
|
Đấu giá viên
|
Người
sử dụng dịch vụ
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Chưa có hướng chuyển đổi
|
46
|
68.7%
|
55
|
78.6%
|
|
|
Đã có hướng chuyển đổi (đang xây dựng
Đề án, đang định hướng....)
|
21
|
31.3%
|
15
|
21.4%
|
|
|
Câu 5. Thành lập Hội đồng bán đấu giá tài sản tại địa phương hiện nay
|
Cán
bộ làm công tác quản lý
|
Đấu giá viên
|
Người
sử dụng dịch vụ
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Đa số các trường hợp tuân thủ đúng quy định pháp luật
|
28
|
38.9%
|
23
|
28.75%
|
14
|
27.4%
|
Một số trường hợp tuân thủ đúng quy định pháp luật,
một số không
|
40
|
55.6%
|
44
|
55%
|
32
|
62.7%
|
Hoàn toàn
không đúng quy định pháp luật
|
4
|
5.5%
|
13
|
16.25%
|
5
|
9.9%
|
Thành lập Hội đồng bán đấu giá tài sản tại địa phương hiện nay không
đúng quy định pháp luật do:
|
Cán
bộ làm công tác quản lý
|
Đấu giá viên
|
Người
sử dụng dịch vụ
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Nhận thức chưa đầy đủ của Cơ quan có
thẩm quyền về công tác đấu giá tài sản
|
34
|
39.5%
|
41
|
44.6%
|
27
|
42.2%
|
Người thực biện thiếu hiểu biết pháp luật
|
13
|
15.1%
|
25
|
27.2%
|
12
|
18.7%
|
Hệ thống pháp luật quy định chưa đầy
đủ
|
26
|
30.2%
|
15
|
16.3%
|
18
|
28.1%
|
Do áp lực của cá nhân, tổ chức khác
|
13
|
15.2%
|
11
|
11.9%
|
7
|
11%
|
Câu 6. Nhận xét về số lượng đấu giá viên hiện nay tại tổ chức đấu giá
|
Cán
bộ làm công tác quản lý
|
Đấu giá viên
|
Người
sử dụng dịch vụ
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Thiếu
|
50
|
69.4%
|
12
|
15.2%
|
18
|
33.3%
|
Đủ
|
18
|
25%
|
65
|
82.3%
|
30
|
55.5%
|
Thừa
|
4
|
5.6%
|
2
|
2.5%
|
6
|
11.2%
|
Hướng phát triển số lượng đấu giá viên
|
Cán
bộ làm công tác quản lý
|
Đấu giá viên
|
Người
sử dụng dịch vụ
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Hàng năm cử người tham gia lớp đào tạo nghiệp vụ đấu giá và các lớp bồi dưỡng đấu giá
|
50
|
56.8%
|
40
|
66.7%
|
31
|
54.4%
|
Thuê người đã có kinh nghiệm và đã có Chứng chỉ hành nghề trong
lĩnh vực đấu giá
|
10
|
14.4%
|
3
|
5%
|
10
|
17.5%
|
Có các chính sách thu hút người hiệu quả
|
28
|
28.8%
|
17
|
28.3%
|
16
|
28.1%
|
Câu 7. Đánh giá năng lực đội ngũ đấu giá viên
hiện nay
|
Cán
bộ làm công tác quản lý
|
Đấu giá viên
|
Người
sử dụng dịch vụ
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Chưa đáp ứng được yêu cầu công việc
|
5
|
7.04%
|
3
|
3.7%
|
3
|
5.5%
|
Đáp ứng được một phần công việc
|
53
|
74.64%
|
30
|
37.03%
|
22
|
41.5%
|
Hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu công việc
|
13
|
18.32%
|
48
|
59.27%
|
28
|
23%
|
Năng lực
đội ngũ đấu giá viên chưa đáp ứng được yêu cầu công việc do:
|
Cán
bộ làm công tác quản lý
|
Đấu giá viên
|
Người
sử dụng dịch vụ
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Thiếu kiến thức pháp luật về bán đấu giá
|
21
|
28.4%
|
18
|
33.96%
|
7
|
15.9%
|
Thiếu kỹ năng
nghiệp vụ
|
32
|
43.2%
|
22
|
41.5%
|
14
|
31.8%
|
Không có sự hỗ trợ, tạo điều kiện từ phía Tổ chức
bán đấu giá
|
7
|
9.5%
|
0
|
0%
|
4
|
9.1%
|
Không có sự hỗ
trợ, tạo điều kiện từ phía cơ quan có thẩm quyền
|
14
|
18.9%
|
13
|
24.54%
|
12
|
43.2%
|
Câu 8. Hiện trạng vi phạm pháp luật của đấu giá viên tại các tổ chức bán đấu giá hiện nay
|
Cán
bộ làm công tác quản lý
|
Đấu giá viên
|
Người
sử dụng dịch vụ
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Thường xuyên vi phạm
|
5
|
7.1%
|
2
|
2.6%
|
1
|
1.9%
|
Thỉnh thoảng
vi phạm
|
41
|
58.6%
|
50
|
64.93%
|
32
|
60.4%
|
Không có vi phạm
|
22
|
34.3%
|
25
|
32.47%
|
20
|
37.7%
|
Hành vi vi phạm pháp
luật của đấu giá viên
|
Cán
bộ làm công tác quản lý
|
Đấu giá viên
|
Người
sử dụng dịch vụ
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Thông đồng với người có tài sản đấu giá
|
8
|
12.9%
|
14
|
21.9%
|
8
|
25%
|
Thông đồng với
người tham gia đấu giá
|
23
|
37.1%
|
17
|
26.6%
|
5
|
15.6%
|
Vi phạm trình tự thủ tục đấu giá
|
31
|
50%
|
33
|
32.47%
|
19
|
59.4%
|
Câu 9. Đạo đức nghề nghiệp của đấu giá viên
|
Cán
bộ làm công tác quản lý
|
Đấu giá viên
|
Người
sử dụng dịch vụ
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Không quan trọng
|
2
|
2.8%
|
1
|
1.3%
|
3
|
5.8%
|
Tương đối quan
trọng
|
12
|
16.7%
|
11
|
13.9%
|
5
|
9.6%
|
Rất quan trọng
|
58
|
80.5%
|
67
|
84.8%
|
44
|
84.6%
|
Ban hành quy tắc đạo đức nghề nghiệp của đấu giá viên
|
Cán
bộ làm công tác quản lý
|
Đấu giá viên
|
Người
sử dụng dịch vụ
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Cần thiết
|
59
|
89.4%
|
63
|
87.5%
|
46
|
92%
|
Không cần thiết
|
7
|
10 %
|
9
|
12.5%
|
4
|
8%
|
Câu 10.
Nguyên nhân vi phạm trong hoạt động bán đấu giá hiện
nay
|
Cán
bộ làm công tác quản lý
|
Đấu giá viên
|
Người
sử dụng dịch vụ
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Tổng số
|
Tỷ lệ
%
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Đấu giá viên
thiếu hiểu biết pháp luật
|
20
|
19.4%
|
30
|
29.4%
|
21
|
36.2%
|
Đấu giá viên
không coi trọng đạo đức nghề nghiệp
|
43
|
41.7%
|
30
|
29.4%
|
10
|
17.2%
|
Do áp lực của cá nhân, tổ chức khác
trong hoạt động bán đấu giá
|
40
|
38.9%
|
42
|
41.2%
|
27
|
46.6%
|
Câu 11.
Đánh giá thông tin hoạt
động bán đấu giá tài sản hiện nay
|
Cán
bộ làm công tác quản lý
|
Đấu giá viên
|
Người
sử dụng dịch vụ
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Thiếu thông
tin
|
27
|
34.6%
|
38
|
46.3%
|
16
|
34.04%
|
Đã đầy đủ
thông tin
|
10
|
12.8%
|
13
|
15.8%
|
13
|
27.6%
|
Thông tin chưa
đồng bộ, còn chồng chéo
|
41
|
52.6%
|
31
|
37.9%
|
18
|
38.36%
|
Câu 12. Hệ thống pháp luật hiện
hành quy định về bán đấu giá tài sản
|
Cán
bộ làm công tác quản lý
|
Đấu giá viên
|
Người
sử dụng dịch vụ
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Còn thiếu
|
60
|
85.7%
|
67
|
82.7%
|
51
|
96.2%
|
Đã đầy đủ
|
6
|
8.6%
|
14
|
17.3%
|
1
|
1.9%
|
Thừa
|
4
|
5.7%
|
0
|
0%
|
1
|
1.9%
|
Cần
thiết ban hành Luật đấu
giá
|
Cán
bộ làm công tác quản lý
|
Đấu giá viên
|
Người
sử dụng dịch vụ
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Có
|
58
|
84.1%
|
65
|
91.5%
|
44
|
91.7%
|
Không
|
5
|
15.9%
|
6
|
8.5%
|
4
|
8.3%
|
Câu 13. Sự phối hợp giữa các Sở,
ban, ngành ở địa phương trong quản lý hoạt động bán
đấu giá tài sản
|
Cán
bộ làm công tác quản lý
|
Đấu giá viên
|
Người
sử dụng dịch vụ
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Tổng số
|
Tỷ lệ
%
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Phối hợp tốt
|
14
|
19.7%
|
6
|
7.7%
|
8
|
15.7%
|
Bình thường
|
35
|
49.3%
|
44
|
56.4%
|
18
|
35.3%
|
Phối hợp chưa tốt
|
22
|
31%
|
28
|
35.9%
|
25
|
49%
|
Sở,
ban, ngành tại địa phương phối hợp chưa tốt do:
|
Cán
bộ làm công tác quản lý
|
Đấu giá viên
|
Người
sử dụng dịch vụ
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Chưa có quy chế
phối hợp
|
22
|
6.2%
|
17
|
29.3%
|
21
|
56.7%
|
Đã có quy chế phối hợp nhưng
các cơ quan chưa chủ động, tích cực trong việc phối hợp
|
10
|
43.07%
|
16
|
27.6%
|
5
|
13.5%
|
Các cơ quan chỉ thực hiện công việc theo chức
năng, ít quan tâm đến việc phối hợp với nhau
|
29
|
50.73%
|
25
|
43.1%
|
11
|
29.8%
|
Câu 14. Sự phối hợp giữa các Bộ, ngành, cơ quan Trung ương trong
quản lý hoạt động bán đấu
giá tài sản
|
Cán
bộ làm công tác quản lý
|
Đấu giá viên
|
Người
sử dụng dịch vụ
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Phối hợp tốt
|
4
|
6.2%
|
4
|
5.3%
|
2
|
3.8%
|
Bình thường
|
28
|
43.07%
|
38
|
50.7%
|
31
|
58.5%
|
Phối hợp chưa tốt
|
33
|
50.73%
|
33
|
44%
|
20
|
37.7%
|
Bộ, ngành, cơ quan Trung ương phối
hợp chưa tốt do:
|
Cán
bộ làm công tác quản lý
|
Đấu giá viên
|
Người
sử dụng dịch vụ
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Chưa có cơ chế phối hợp
|
22
|
36.06%
|
14
|
25%
|
11
|
26.2%
|
Đã có quy chế
phối hợp nhưng các cơ quan Trung ương chưa chủ động, tích cực trong
việc phối hợp
|
10
|
16.4%
|
5
|
8.93%
|
6
|
14.3%
|
Lợi ích của từng
Bộ, ngành ảnh hưởng, hạn chế việc
phối hợp
|
29
|
47.54%
|
37
|
66.07%
|
25
|
59.5%
|
Câu 15. Nâng cao hoạt động bán đấu giá tài sản hiện nay cần các giải pháp (đề nghị sắp xếp theo thứ tự ưu tiên)
|
Cán bộ
làm công tác quản lý
|
Đấu giá viên
|
Người
sử dụng dịch vụ
|
Tổng số
|
Thứ tự
|
Tổng số
|
Thứ tự
|
Tổng số
|
Thứ tự
|
Hoàn thiện thể chế pháp lý
|
37
|
1
|
55
|
1
|
22
|
1
|
Củng cố phát triển
tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp
|
86
|
3
|
191
|
4
|
68
|
4
|
Nâng cao năng
lực đội ngũ đấu giá viên
|
78
|
2
|
136
|
2
|
43
|
2
|
Tuyên truyền phổ biến pháp luật về bán đấu giá tài sản, nâng cao nhận thức xã hội
|
120
|
6
|
190
|
3
|
62
|
3
|
Tăng cường công tác theo dõi, kiểm tra của cơ quan quản lý nhà về
bán đấu giá tài sản
|
101
|
4
|
220
|
6
|
84
|
5
|
Xây dựng hệ thống thông tin pháp lý về bán đấu giá Tài
sản từ Trung ương đến địa phương
|
119
|
5
|
205
|
5
|
90
|
6
|
Thành lập Hiệp hội đấu giá
|
158
|
7
|
221
|
7
|
109
|
7
|
Câu 16. Cần thiết xây dựng chiến lược phát triển hoạt động bán đấu giá đến năm 2020
|
Cán
bộ làm công tác quản lý
|
Đấu giá viên
|
Người
sử dụng dịch vụ
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Cần thiết
|
42
|
61.8%
|
59
|
76.6%
|
39
|
75%
|
Không cần thiết
|
26
|
38.2%
|
18
|
23.4%
|
13
|
15%
|
Câu 17.
Thành lập Hiệp hội đấu giá ở nước ta trong những năm tới
|
Cán
bộ làm công tác quản lý
|
Đấu giá viên
|
Người
sử dụng dịch vụ
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Cần thiết
|
41
|
59.4%
|
49
|
65.3%
|
30
|
60%
|
Không cần thiết
|
28
|
40.6%
|
26
|
74%
|
20
|
40%
|
Giai đoạn thành lập Hiệp hội đấu giá
|
Cán
bộ làm công tác quản lý
|
Đấu giá viên
|
Người
sử dụng dịch vụ
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Trong 3 năm
|
16
|
33.3%
|
18
|
30.5%
|
15
|
39.5%
|
Trong 5 năm
|
26
|
54.2%
|
31
|
52.5%
|
21
|
55.3%
|
Trong 10 năm
|
6
|
12.5%
|
10
|
17%
|
2
|
5.2%
|
Câu 18. Ý kiến về việc phát triển số
lượng Đấu giá viên từ nay đến
năm 2020
|
Cán
bộ làm công tác quản lý
|
Đấu giá viên
|
Người
sử dụng dịch vụ
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
3000 Đấu giá viên
|
35
|
56.5%
|
40
|
65.6%
|
36
|
78.3%
|
5000 Đấu giá viên
|
22
|
35.5%
|
21
|
34,4%
|
9
|
19.6%
|
7000 Đấu giá viên
|
5
|
8%
|
0
|
0%
|
1
|
2.1%
|
Câu 19.
Nâng cao năng lực cho đội
ngũ đấu giá viên cần thực hiện
các hoạt động (sắp xếp theo thứ tự ưu tiên)
|
Cán
bộ làm công tác quản lý
|
Đấu giá viên
|
Người
sử dụng dịch vụ
|
Tổng số
|
Thứ tự
|
Tổng số
|
Thứ tự
|
Tổng số
|
Thứ tự
|
Thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng, tập huấn hàng năm về
nghiệp vụ bán đấu giá tài sản
|
39
|
1
|
66
|
1
|
30
|
2
|
Tổ chức Hội thảo, tọa đàm về bán đấu giá tài sản
|
65
|
3
|
90
|
3
|
39
|
3
|
Hoàn thiện giáo trình, chương trình
giảng dạy của khóa đào tạo nghề đấu giá
|
53
|
2
|
85
|
2
|
27
|
1
|
Câu 20. Chương trình đào tạo nghề
đấu giá cần kéo dài
|
Cán
bộ làm công tác quản lý
|
Đấu giá viên
|
Người
sử dụng dịch vụ
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Tổng số
|
Tỷ lệ %
|
Trong 3 tháng
|
21
|
30.9%
|
48
|
63.1%
|
28
|
57.1%
|
Trong 6 tháng
|
39
|
57.4%
|
27
|
35.5%
|
19
|
38.8%
|
Trong 9 tháng
|
8
|
11.7%
|
1
|
1.4%
|
2
|
4.1%
|