HIỆP ĐỊNH
VỀ TRỢ CẤP VÀ CÁC BIỆN PHÁP ĐỐI KHÁNG
Các
Thành viên, bằng Hiệp định này, thoả thuận như sau:
1.1Theo Hiệp định
này, trợ cấp được coi là tồn tại nếu:
(a)(1) có sự đóng
góp về tài chính của chính phủ hoặc một cơ quan công cộng trên lãnh thổ của một
Thành viên ( theo Hiệp định này sau đây gọi chung là “chính phủ”) khi:
(i) chính phủ
thực tế có chuyển trực tiếp các khoản vốn (ví dụ như cấp phát, cho vay, hay góp
cổ phần), có khả năng chuyển hoặc nhận nợ trực tiếp (như bảo lãnh tiền vay);
(ii) các khoản
thu phải nộp cho chính phủ đã được bỏ qua hay không thu (ví dụ: ưu đãi tài
chính như miễn thuế )[1];
(iii) chính phủ
cung cấp hàng hoá hay dịch vụ không phải là hạ tầng cơ sở chung, hoặc mua hàng
;
(iv) chính phủ
góp tiền vào một cơ chế tài trợ, hay giao hoặc lệnh cho một tổ chức tư nhân thực
thi một hay nhiều chức năng đã nêu từ điểm (i) đến (iii) trên đây, là những
chức năng thông thường được trao cho chính phủ và công việc của tổ chức tư nhân
này trong thực tế không khác với những hoạt động thông thuờng của chính phủ.
hoặc
(a) (2) có bất
kỳ một hình thức hỗ trợ thu nhập hoặc trợ giá nào theo nội dung Điều XVI của
Hiệp định GATT 1994;
và
(b) một lợi ích
được cấp bởi điều đó.
1.2. Trợ cấp
theo định nghĩa tại khoản khoản 1 phải chịu sự điều chỉnh của các quy định tại
Phần II hoặc các quy định tại Phần III hoặc Phần V chỉ khi đó là một trợ cấp
riêng theo các quy định tại Điều 2.
2.1. Để xác định
liệu một trợ cấp theo định nghĩa tại khoản 1 Điều 1 có được áp dụng riêng cho
một doanh nghiệp hay một nhóm các doanh nghiệp hay ngành sản xuất ( theo Hiệp
định này gọi là “các doanh nghiệp nhất định") trong phạm vi quyền hạn của
cơ quan có thẩm quyềncấp trợ cấp hay không, các nguyên tắc sau sẽ được áp dụng:
(a) Khi cơ quan
có thẩm quyền cấp trợ cấp hay luật mà cơ quan đó thực hiện hạn chế rõ ràng diện
các doanh nghiệp nhất định được hưởng trợ cấp , thì các trợ cấp đó sẽ mang tính
riêng biệt.
(b) Khi cơ quan
có thẩm quyền cấp trợ cấp hay luật mà cơ quan đó thực hiện đặt ra các tiêu chuẩn
khách quan hoặc điều kiện[2] được trợ cấp hay
giá trị khoản trợ cấp, thì không được coi là có tính riêng biệt nếu khả năng
nhận trợ cấp được mặc nhiên áp dụng và các tiêu chuẩn, điều kiện đó được tuân
thủ chặt chẽ. Các tiêu chuẩn hoặc điều kiện đó phải được thể hiện một cách rõ
ràng trong luật, quy định hoặc tài liệu chính thức khác, để có thể nhận biết được.
(c) Cho dù bề
ngoài không mang tính riêng biệt do kết qủa của việc áp dụng các nguyên tắc nêu
tại điểm (a) và (b), nhưng nếu có lý do để tin rằng, trợ cấp đó trên thực tế mang
tính riêng biệt, thì có thể xem xét đến các yếu tố khác. Các yếu tố đó là: chỉ
một số lượng có hạn các doanh nghiệp được hưởng trợ cấp trợ cấp nhiều hơn cho
một số doanh nghiệp nhất định, cấp số tiền trợ cấp chênh lệch lớn cho một số
doanh nghiệp nhất định và việc này được cơ quan có thẩm quyền thực hiện một cách
tuỳ tiện khi quyết định trợ cấp[3]. Khi áp dụng
điểm này, cần tính đến mức độ của việc đa dạng hoá các hoạt động kinh tế trong phạm
vi quyền hạn của cơ quan có thẩm quyền cấp trợ cấp, cũng như cần tính tới khoảng
thời gian hoạt động của chương trình trợ cấp.
2.2. Trợ cấp áp
dụng hạn chế đối với các doanh nghiệp nhất định hoạt động tại một vùng địa lý
xác định thuộc quyền hạn của cơ quan có thẩm quyền cấp trợ cấp phải được coi là
mang tính riêng biệt. Việc chính quyền ở tất cả các cấp quy định hay thay đổi
thuế suất áp dụng chung không được coi là trợ cấp riêng biệt theo Hiệp định
này.
2.3. Bất kỳ trợ
cấp nào thuộc phạm vi điều chỉnh của Điều 3 sẽ được coi là trợ cấp riêng.
2.4.Việc xác định
tính riêng biệt của trợ cấp theo các quy định của Điều này phải được chứng minh
rõ ràng trên cơ sở bằng chứng thực tế.
PHẦN II: TRỢ CẤP BỊ CẤM
3.1. Trừ khi có
quy định khác tại Hiệp định nông nghiệp, các khoản trợ cấp sau đây theo định nghĩa
tại Điều 1 sẽ bị cấm:
(a) quy định khối
lượng trợ cấp, theo luật hay trong thực tế[4], dù
là một điều kiện riêng biệt hay kèm theo những điều kiện khác, căn cứ vào kết
quả thực hiện xuất khẩu, kể cả những khoản trợ cấp minh hoạ tại Phụ lục I[5];
(b) quy định khối
lượng trợ cấp, dù là một điều kiện riêng biệt hay kèm theo những điều kiện khác,
ưu tiên sử dụng hàng nội địa hơn hàng ngoại.
3.2. Mỗi Thành
viên sẽ không cấp hay duy trì những khoản trợ cấp nêu tại khoản 1
Các chế tài
4.1. Mỗi khi một
Thành viên có lý do để tin rằng một khoản trợ cấp bị cấm đang được một Thành
viên khác áp dụng hay duy trì, thì Thành viên đó có thể yêu cầu được tham vấn
với Thành viên kia.
4.2. Yêu cầu tham
vấn nêu tại khoản 1 phải kèm theo một bản trình bày chứng cứ hiện có về sự tồn
tại và tính chất của trợ cấp nói trên.
4.3. Khi có yêu
cầu tham vấn theo quy định tại khoản 1, Thành viên bị coi là đang áp dụng hay duy
trì trợ cấp bị cấm sẽ tiến hành tham vấn trong thời gian sớm nhất có thể được.
Mục tiêu tham vấn là nhằm làm rõ sự thật tình và đi đến một thoả thuận chung
giữa các bên.
4.4. Nếu
trong vòng 30 ngày[6] kể từ ngày có yêu cầu tham
vấn mà không đạt được một giải pháp được các bên chấp nhận, thì bất kỳ Thành
viên nào tham gia tham vấn cũng có thể đưa vấn đề ra Cơ quan giải quyết tranh
chấp (DSB "DSB") để ngay lập tức thành lập một ban hội thẩm , trừ khi
DSB nhất trí quyết định không thành lập ban hội thẩm để giải quyết vấn đề đó.
4.5. Ngay khi
được thành lập, ban hội thẩm có thể yêu cầu sự trợ giúp của Nhóm Chuyên gia thường
trực[7] ( theo Hiệp định gọi tắt là
"PGE") để đánh giá xem biện pháp đang được nêu ra có phải là trợ cấp bị
cấm không. Nếu được yêu cầu, PGE sẽ tiến hành xem xét ngay các chứng cứ về sự
tồn tại và tính chất của biện pháp được nêu ra và sẽ tạo cơ hội để Thành viên
đang áp dụng hay duy trì biện pháp đó chứng minh rằng biện pháp đó không phải
là trợ cấp bị cấm. Trong thời hạn do ban hội thẩm quy định, PGE sẽ báo cáo kết
luận lên ban hội thẩm. Kết luận của PGE về việc biện pháp được nêu ra có phải
là trợ cấp cấm hay không sẽ được ban hội thẩm chấp nhận mà không được phép sửa
đổi
4.6. Ban hội thẩm
sẽ nộp báo cáo cuối cùng cho các bên tranh chấp. Báo cáo sẽ được gửi cho các Thành
viên trong vòng 90 ngày, kể từ ngày ban hội thẩm được thành lập và các điều
khoản tham chiếu được chấp nhận
4.7. Nếu biện
pháp nêu ra được xác định là trợ cấp bị cấm, ban hội thẩm sẽ khuyến nghị Thành viên
đang duy trì trợ cấp bỏ ngay trợ cấp đó. Ban hội thẩm sẽ nêu rõ trong khuyến
nghị thời hạn để bỏ biện pháp đó.
4.8. Trong vòng
30 ngày kể từ khi ban hội thẩm gửi báo cáo cho tất cả các Thành viên, DSB sẽ
thông qua báo cáo, trừ khi một bên tranh chấp thông báo chính thức với DSB về
quyết định kháng cáo của mình hoặc DSB nhất trí quyết định không thông qua bản
báo cáo đó.
4.9. Khi báo cáo
của ban hội thẩm bị kháng cáo, Cơ quan Phúc thẩm sẽ có quyết định trong vòng 30
ngày kể từ khi bên tranh chấp chính thức thông báo ý định kháng cáo. Khi Cơ
quan Phúc thẩm thấy rằng không thể có được báo cáo trong vòng 30 ngày, Cơ quan
đó sẽ thông báo bằng văn bản cho DSB về lý do chậm trễ cùng với thời gian dự
kiến sẽ nộp báo cáo. Trong mọi trường hơp, thời hạn giải quyết kháng cáo không
được quá 60 ngày. Báo cáo phúc thẩm sẽ được DSB thông qua và các bên liên quan
chấp nhận một cách vô điều kiện trừ khi, trong vòng 20 ngày kể từ ngày gửi báo
cáo tới các Thành viên[8], DSB nhất trí quyết
định không thông qua báo cáo phúc thẩm.
4.10. Trong trường
hợp khuyến nghị của DSB không được thực thi trong thời hạn được ban hội thẩm đề
ra, tính từ ngày thông qua báo cáo của ban hội thẩm hoặc báo cáo của Cơ quan
Phúc thẩm, DSB sẽ cho phép Thành viên có khiếu nại áp dụng biện pháp đối kháng
phù hợp[9] trừ khi DSB nhất trí quyết định từ
chối yêu cầu được áp dụng biện pháp đó.
4.11. Trong trường
hợp một bên tranh chấp yêu cầu trọng tài theo khoản 6 Điều 22 của Thoả thuận về
giải quyết tranh chấp (DSU), thì trọng tài viên sẽ xác định xem biện pháp đối
kháng có thích hợp hay không[10].
4.12. Để giải
quyết các tranh chấp theo Điều này, ngoại trừ những thời hạn được quy định cụ thể
tại Điều này, thời hạn quy định để giải quyết các tranh chấp đó sẽ chỉ bằng một
nửa thời hạn quy định trong DSU.
Không một Thành
viên nào thông qua việc sử dụng bất kỳ trợ cấp nào nêu tại khoản 1 và 2 của
Điều 1 để gây ra tác động có hại đến quyền lợi của Thành viên khác, cụ thể như:
(a) gây tổn hại
cho một ngành sản xuất của một Thành viên khác[11];
(b) làm vô hiệu
hay gây phương hại đến những quyền lợi mà Thành viên khác trực tiếp hoặc gián
tiếp được hưởng từ Hiệp định GATT 1994, đặc biệt là những quyền lợi có được từ
những nhân nhượng đã cam kết theo Điều 2 của Hiệp định GATT 1994[12];
(c) gây tổn hại
nghiêm trọng tới quyền lợi của một Thành viên khác[13].
Điều này không
áp dụng với những trợ cấp được áp dụng với nông sản quy định tại Điều 12 Hiệp
định nông nghiệp.
6.1 Theo điểm
(c) của Điều 5, tổn hại nghiêm trọng được coi là tồn tại trong trường hợp:
(a) tổng trị giá
trợ cấp[14]cho một sản phẩm vượt quá 5%[15];
(b) trợ cấp để
bù cho sự thua lỗ kéo dài trong hoạt động kinh doanh của một ngành sản xuất;
(c) trợ cấp để
bù cho các hoạt động kinh doanh thua lỗ của một doanh nghiệp, trừ khi đó là một
biện pháp nhất thời một lần và không lặp lại với doanh nghiệp đó và được cấp
chỉ thuần tuý để cho phép có thời gian tìm kiếm một giải pháp lâu dài và tránh
phát sinh một vấn đề xã hội gay gắt;
(d) trực tiếp
xoá nợ như xoá một khoản nợ Nhà nước hay cấp kinh phí để thanh toán nợ[16].
6.2 Cho dù có
các quy định tại khoản 1, sẽ không coi là có tổn hại nghiêm trọng nếu Thành viên
áp dụng trợ cấp chứng minh được rằng việc trợ cấp được nêu ra không dẫn đến bất
kỳ tác động nào nêu tại khoản 3.
6.3 Tổn hại nghiêm
trọng hiểu theo nghĩa của của điểm (c) Điều 5 có thể phát sinh trong bất kỳ
trường hợp nào khi:
(a) trợ cấp làm
triệt thoái hay ngăn cản nhập khẩu các sản phẩm tương tự của một Thành viên khác
vào thị trường Thành viên đang áp dụng trợ cấp;
(b) trợ cấp đã
làm triệt thoái hay ngăn cản xuất khẩu các sản phẩm tương tự của một Thành viên
khác từ thị trường của một nước thứ ba;
(c) trợ cấp đã
làm hạ giá ở mức độ lớn của một sản phẩm được trợ cấp so với giá của sản phẩm
tương tự của một Thành viên khác trên cùng một thị trường hay gây ra ép giá, đè
giá hay giảm doanh số đáng kể trên cùng một thị trường.
(d) trợ cấp đã
làm tăng thị phần trên thị trường thế giới của Thành viên đang áp dụng trợ cấp
với một sản phẩm hoặc mặt hàng chưa chế biến được trợ cấp[17]so với mức thị phần trung bình của Thành viên đó trong
ba năm trước đó hoặc trợ cấp như vậy duy trì một tốc độ tăng đều trong thời kỳ
được trợ cấp.
6.4 Theo điểm
3(b), sự triệt thoái hay ngăn cản xuất khẩu bao gồm bất kỳ trường hợp nào đã chứng
minh được, tuỳ thuộc quy định của khoản 7, rằng có sự thay đổi tương quan thị
phần bất lợi cho một sản phẩm tương tự không được trợ cấp (trong một thời gian
đủ mang tính đại diện để chứng minh cho một xu thế tiến triển thị trường của
sản phẩm liên quan, mà trong tình huống bình thường cũng phải tối thiểu là một
năm). “Sự thay đổi tương đối thị phần” bao gồm bất kỳ một tình huống nào sau đây:
(a) có sự tăng thị phần của sản phẩm được trợ cấp; (b) thị phần của sản phẩm
được trợ cấp vẫn được giữ vững trong hoàn cảnh mà nếu không có trợ cấp sẽ bị
giảm; (c) thị phần của sản phẩm được trợ cấp suy giảm, nhưng với tốc độ chậm hơn
so với trường hợp không có trợ cấp.
6.5 Theo điểm
3(c), hạ giá bao gồm những trường hợp, mà trong đó việc hạ giá này được chứng tỏ
qua so sánh giá hàng được trợ cấp với giá của sản phẩm tương tự không được trợ
cấp cung cấp vào cùng một thị trường. So sánh phải được tiến hành với cùng mức
giao thương và với thời gian so sánh được, có tính toán đúng đến bất kỳ nhân tố
nào khác tác động đến việc so sánh giữa các loại giá. Tuy nhiên, nếu so sánh
trực tiếp không thể thực hiện được, có thể chứng minh có sự hạ giá trên cơ sở
đơn giá xuất khẩu.
6.6 Mỗi Thành
viên trên thị trường được coi là có sự tổn hại nghiêm trọng sẽ, theo các quy
định của khoản 3 - Phụ lục V, sẵn sàng cung cấp cho các bên tranh chấp theo các
quy định tại Điều 7 và cho ban hội thẩm được thành lập theo khoản 4 Điều 7, mọi
thông tin liên quan có thể có về sự thay đổi thị phần của các bên tranh chấp cũng
như những thông tin về giá sản phẩm liên quan tới tranh chấp.
6.7 Không được
coi là có sự triệt thoái hay ngăn cản dẫn tới tổn hại nghiêm trọng nêu tại khoản
3, khi có bất kỳ trường hợp nào dưới đây tồn tại[18]
trong thời kỳ được xem xét:
(a) cấm hay hạn
chế xuất khẩu một sản phẩm tương tự từ Thành viên có khiếu nại hay nhập khẩu từ
Thành viên có khiếu nại vào một thị trường một nước thứ ba có liên quan;
(b) chính phủ
một nước nhập khẩu áp dụng độc quyền thương mại hay thương mại nhà nước đối với
sản phẩm liên quan quyết định chuyển việc nhập khẩu, vì những lý do phi thuơng mại,
từ nước có khiếu nại sang nhập khẩu từ một hay nhiều nước khác;
(c) có thiên tai,
đình công, đình trệ giao thông hay những hoàn cảnh bất khả kháng khác tác động
đáng kể đến sản xuất, chất lượng hay giá cả của sản phẩm dành cho xuất khẩu từ
Thành viên có khiếu nại;
(d)có sự thoả
thuận hạn chế xuất khẩu từ Thành viên có khiếu nại;
(e) tự nguyện
giảm khối lượng hàng xuất khẩu liên quan của nước có khiếu nại (bao gồm , nhưng
không giới hạn bởi, trường hợp các hãng thuộc Thành viên có khiếu nại chủ động phân
bố lại việc xuất khẩu sản phẩm đó vào các thị trường khác);
(f) không tuân
theo các tiêu chuẩn hay yêu cầu quy định của nước nhập khẩu.
6.8 Khi không
có những tình huống nêu tại khoản 7, tổn hại nghiêm trọng có thể được xác định trên
cơ sở các thông tin mà ban hội thẩm được cung cấp hay có được, kể cả những thông
tin được cung cấp theo các quy định của Phụ lục V.
6.9 Điều này không
áp dụng đối với trợ cấp được duy trì với nông phẩm theo quy định tại Điều 13
Hiệp định nông nghiệp.
7.1.Trừ những
trường hợp quy định tại Điều 13 Hiệp định nông nghiệp, bất kỳ khi nào một Thành
viên có lý do để tin rằng một khoản trợ cấp nêu tại Điều 1 được một Thành viên khác
áp dụng hay duy trì, dẫn đến thiệt hại, làm vô hiệu hoá, suy giảm hoặc gây tổn
hại nghiêm trọng cho một ngành sản xuất của mình, Thành viên này có thể yêu cầu
tham vấn với Thành viên kia.
7. 2 Yêu cầu tham
vấn nêu tại khoản 1 phải nêu rõ bằng chứng hiện có về (a) sự tồn tại và tính
chất của một khoản trợ cấp đã nêu, và (b) thiệt hại gây ra cho ngành sản xuất
trong nước, hay sự vô hiệu hoá, suy giảm hoặc tổn hại nghiêm trọng[19]gây ra với quyền lợi của Thành viên yêu cầu tham vấn.
7. 3 Khi có yêu
cầu tham vấn theo khoản 1, Thành viên được coi là đang áp dụng hay duy trì trợ
cấp sẽ tiến hành tham vấn trong thời gian sớm nhất có thể . Mục đích của tham
vấn là nhằm làm rõ thực tế tình hình và đạt được một giải pháp giữa các bên.
7.4 Nếu việc tham
vấn không đạt được giải pháp giữa các bên trong vòng 60 ngày[20],bất kỳ Thành viên tham vấn nào cũng có thể đưa vấn
đề ra DSB và yêu cầu lập ban hội thẩm giải quyết trừ khi DSB nhất trí quyết định
không thành lập ban hội thẩm. Thành phần và nhiệm vụ của ban hội thẩm sẽ được
xác định trong vòng 15 ngày kể từ ngày ban được thành lập.
7.5 Ban hội thẩm
sẽ xem xét lại vấn đề và có báo cáo gửi các bên tranh chấp. Báo cáo sẽ được gửi
tới mọi Thành viên trong vòng 120 ngày kể từ ngày ban hội thẩm được thành lập
và điều khoản tham chiếu của ban được xác định.
7.6 Trong vòng
30 ngày kể từ ngày ban hội thẩm có báo cáo gửi các Thành viên, báo cáo sẽ được
DSB thông qua[21] trừ khi có một trong các bên
đang tranh chấp chính thức thông báo cho DSB về quyết định của mình sẽ kháng
cáo hoặc DSB nhất trí không thông qua báo cáo.
7.7 Khi một bản
báo cáo của ban hội thẩm bị kháng cáo, Cơ quan Phúc thẩm sẽ ra quyết định trong
vòng 60 ngày kể từ ngày bên kháng cáo chính thức thông báo ý định kháng cáo.
Khi không có điều kiện quyết định trong vòng 60 ngày, Cơ quan Phúc thẩm sẽ thông
báo bằng văn bản cho DSB lý do chậm trễ cùng với thời hạn dự kiến sẽ gửi báo
cáo. Trong mọi trường hợp, thủ tục giải quyết kháng cáo cũng không quá 90 ngày.
Báo cáo phúc thẩm sẽ được DSB thông qua vô điều kiện và được các bên tranh chấp
chấp nhận trừ khi DSB nhất trí không thông qua báo cáo đó trong vòng 20 ngày kể
từ ngày gửi báo cáo tới các Thành viên[22].
7.8 Khi báo cáo
của Ban hội thẩm hay báo cáo của Cơ quan phúc thẩm được thông qua xác định có
tồn tại bất kỳ trợ cấp nào dẫn tới những tác động có hại tới quyền lợi của một
Thành viên khác theo nội dung của Điều 5, thì Thành viên cấp hay duy trì trợ
cấp sẽ có những biện pháp thích hợp để loại bỏ tác động có hại đó hoặc loại bỏ
trợ cấp.
7.9 Trong trường
hợp một Thành viên không thực hiện những biện pháp thích hợp để loại bỏ tác
động nghịch đó hoặc loại bỏ trợ cấp trong vòng 6 tháng kể từ ngày DSB thông qua
báo cáo hội thẩm hay báo cáo phúc thẩm, và khi không có thoả thuận về đền bù,
thì DSB cho phép bên khiếu nại có biện pháp đối kháng, tương xứng với mức độ và
tính chất của tác động có hại đã xác định được, trừ khi nhất trí quyết định từ
chối yêu cầu đó.
7.10 Trong trường
hợp một bên tranh chấp yêu cầu trọng tài theo quy định tại khoản 6 Điều 22 của
DSU, trọng tài sẽ xác định xem biện pháp đối kháng có tương xứng với mức độ và
tính chất của tác động nghịch đã được xác định là có tồn tại không.
8.1 Những trợ
cấp dưới đây được coi là không thể đối kháng[23]:
(a) trợ cấp không
mang tính chất riêng biệt nêu tại Điều 2;
(b) trợ cấp mang
tính chất riêng biệt như nêu tại Điều 2 nhưng đáp ứng mọi điều kiện nêu tại các
điểm 2(a), 2(b) hoặc 2(c) dưới đây.
8.2 Cho dù có
các quy định tại Phần III và V, những trợ cấp dưới đây là những trợ cấp không thể
đối kháng:
(a) hỗ trợ cho
các hoạt động nghiên cứu do các hãng hay các cơ sở đào tạo cao học hoặc cơ sở
nghiên cứu thông qua ký hợp đồng với các hãng thực hiện. Nếu[24],[25],[26]:
- sự hỗ trợ không chiếm[27]
quá 75% chi phí cho nghiên cứu công nghiệp[28] hoặc
50% chi phí cho phát triển sản phẩm tiền cạnh tranh[29],[30].
và với điều kiện là sự trợ giúp như vậy được
hạn chế hoàn toàn trong:
(i) chi phí nhân sự (các nhà nghiên cứu,
kỹ thuật viên và cán bộ hỗ trợ chi sử dụng cho hoạt động nghiên cứu);
(ii) chi phí công cụ, thiết bị, đất
đai và nhà cửa hoàn toàn và thường xuyên (trừ khi được sử dụng vào mục đích
thương mại) sử dụng cho hoạt động nghiên cứu;
(iii) chi phí tư vấn và các dịch vụ tương
đương chỉ sử dụng hoàn toàn cho hoạt động nghiên cứu, kể cả thanh toán cho
nghiên cứu thuê bên ngoài, hiểu biết kỹ thuật, bản quyền, v. v. ;
(iv) chi phí bổ sung phụ trội phát
sinh trực tiếp là hoạt động nghiên cứu;
(v) các chi phí điều hành khác (như
là vật liệu, vật tư được cung cấp và các thứ tương tự) phát sinh trực tiếp từ
hoạt động nghiên cứu;
(b) trợ giúp cho
các vùng khó khăn trên lãnh thổ của một Thành viên theo chương trình chung phát
triển vùng[31] và không mang tính chất riêng
biệt (hiểu theo nghĩa của Điều 2) trong phạm vi vùng đủ điều kiện được hưởng
trợ cấp với điều kiện là:
(i) mỗi vùng khó khăn phải được xác định
ranh giới một cách rõ ràng về địa lý với đặc điểm kinh tế và hành chính có thể
làm rõ được;
(ii) vùng đó được coi là một vùng
khó khăn trên cơ sở những tiêu chí vô tư và khách quan[32],
nêu rõ ràng những khó khăn của vùng đó phát sinh từ những nhân tố không chỉ mang
tính chất nhất thời; các tiêu thức đó phải được nêu rõ trong luật, quy định hay
những văn bản chính thức khác để có thể cho phép kiểm tra;
(iii) các tiêu trí đó bao gồm việc
xác định mức độ phát triển kinh tế dựa vào ít nhất một trong những yếu tố sau:
- một trong các chỉ tiêu thu nhập tính
theo đầu người hoặc thu nhập hộ gia đình theo đầu người hoặc tổng sản phẩm quốc
gia (GDP) tính theo đầu người và chỉ tiêu đó không được vượt quá 85% thu nhập
trung bình của vùng lãnh thổ liên quan;
- chỉ số thất nghiệp, phải là mức thất
nghiệp không dưới 110% mức thất nghiệp trung bình của vùng lãnh thổ liên quan;
và được tính toán trong thời kỳ 3 năm; tuy nhiên cách tính đó có thể là một yếu
tố phức hợp hay bao gồm nhiều yếu tố khác.
(c) hỗ trợ nhằm
xúc tiến nâng cấp những phương tiện hạ tầng hiện có[33]cho
phù hợp với yêu cầu mới về môi trường do luật pháp, hay các quy định đặt ra,
làm cho các hãng phải chịu khó khăn hoặc gánh nặng tài chính lớn hơn, với điều
kiện sự hỗ trợ đó:
(i) là một biện pháp nhất thời không kéo
dài; và
(ii) giới hạn không quá 20% chi phí nâng cấp;
và
(iii) không bao gồm chi phí thay thế và vận
hành khoản đầu tư đã hỗ trợ, những chi phí này phải hoàn toàn do các hãng tự
chịu; và
(iv) phải có liên hệ trực tiếp tới hay tương
ứng với các chương trình giảm tiếng ồn và ô nhiễm của doanh nghiệp, và không
bao gồm bất kỳ khoản tiết kiệm chi phí sản xuất nào có thể đạt được; và
(v) được cấp cho mọi doanh nghiệp có thể ứng
dụng thiết bị mới hay quy trình sản xuất mới.
8.3.Việc thực
hiện Chương trình trợ cấp quy định tại khoản 2 phải được thông báo trước cho ủy
ban theo các quy định tại Phần VII. Mọi thông báo như vậy phải đủ mức rõ ràng để
các Thành viên khác có thể đánh giá được tính phù hợp của chương trình với các
điều kiện và tiêu trí quy định tại khoản 2. Các Thành viên hàng năm cũng sẽ thông
báo cho ủy ban những cập nhật mới nhất của các thông báo trên, và những điều
chỉnh trong các chương trình đó, cụ thể là cung cấp thông tin về tổng số chi
phí toàn cầu cho mỗi chương trình đó. Các Thành viên khác có quyền yêu cầu thông
tin về những trường hợp cụ thể được trợ cấp theo những chương trình đã thông
báo[34].
8.4. Khi một Thành
viên có yêu cầu, Ban Thư ký sẽ xem xét lại thông báo được thực hiện theo khoản
3, và khi cần thiết có thể yêu cầu Thành viên đang áp dụng trợ cấp cung cấp
thêm thông tin về các chương trình đã thông báo đang được rà soát. Ban Thư ký
sẽ báo cáo kết luận của mình cho ủy ban. Khi có yêu cầu, ủy ban sẽ nhanh chóng
rà soát kết luận của Ban Thư ký (hoặc nếu trước đó không có yêu cầu Ban Thư ký
rà soát, thì xem xét chính bản thông báo), nhằm xác định xem các điều kiện và
tiêu chí nêu tại khoản 2 có được đáp ứng không. Thủ tục quy định tại khoản này
phải hoàn thành chậm nhất vào phiên họp thường lệ đầu tiên của ủy ban tiếp theo
ngày tiếp nhận thông báo về chương trình trợ cấp, với điều kiện thông báo được
tiếp nhận không dưới hai tháng trước phiên họp thường kỳ của ủy ban. Khi có yêu
cầu, thủ tục rà soát nêu tại khoản này cũng được áp dụng đối với những điều
chỉnh đáng kể của chương trình đã được thông báo cập nhật hàng năm nêu tại
khoản 3.
8.5. Khi
một Thành viên có yêu cầu, sự xác định của Uỷ ban nêu tại khoản 4, hoặc khi ủy ban
không xác định được, cũng như sự vi phạm các điều kiện đã được nêu trong thông
báo với mỗi trường hợp riêng biệt sẽ được đưa ra trọng tài giải quyết và quyết định
của trọng tài là ràng buộc. Trừ khi có quy định khác tại khoản này, thì DSU sẽ
được áp dụng đối với thủ tục trọng tài được tiến hành theo khoản này.
9.1.Trong quá
trình thực hiện chương trình nêu tại khoản 2 Điều 8, cho dù chương trình đã phù
hợp với các tiêu chí quy định tại khoản đó, nhưng nếu một Thành viên có lý do để
tin rằng chương trình này đã dẫn tới những những tác hại nghiêm trọng cho ngành
sản xuất trong nước của Thành viên đó, tới mức có thể gây thiệt hại khó có thể
khắc phục được, thì Thành viên đó có thể yêu cầu tham vấn với Thành viên đang
áp dụng hoặc duy trì trợ cấp.
9.2. Khi
có yêu cầu tham vấn nêu tại khoản 1, Thành viên đang áp dụng hay duy trì chương
trình trợ cấp được nêu ra sẽ tiến hành tham vấn trong thời gian sớm nhất có thể.
Mục đích của việc tham vấn là nhằm làm rõ sự việc và để đạt tới một giải pháp
có thể được các bên chấp nhận.
9.3. Nếu không
đạt được giải pháp có thể chấp nhận trong vòng 60 ngày kể từ ngày yêu cầu tham
vấn theo quy định tại khoản 2 thì thành viên yêu cầu tham vấn có thể đưa vấn đề
ra trước ủy ban để giải quyết .
9.4.Khi một vấn
đề được đưa ra trước ủy ban, ủy ban sẽ lập tức xem xét sự việc liên quan và các
bằng chứng về tác động nêu tại khoản 1. Nếu xác định có tác động như vậy, thì
ủy ban có thể khuyến nghị với Thành viên đang áp dụng trợ cấp điều chỉnh chương
trình trợ cấp sao cho triệt tiêu được tác động đó. ủy ban phải có kết luận
trong vòng 120 ngày kể từ ngày vấn đề được đưa ra trước ủy ban như quy định tại
khoản 3. Trong trường hợp các khuyến nghị nói trên không được tuân thủ trong
vòng 6 tháng, ủy ban sẽ cho phép Thành viên yêu cầu được áp dụng những biện
pháp đối kháng tương xứng với tính chất và mức độ của tác động đã được xác định.
Các Thành viên
sẽ thực hiện những biện pháp cần thiết để bảo đảm rằng việc đánh thuế đối kháng[36] với bất kỳ sản phẩm nào của bất kỳ Thành viên
nào nhập khẩu vào lãnh thổ của một Thành viên khác phù hợp với các quy định của
Điều VI Hiệp định GATT 1994 và phù hợp với các các quy định của Hiệp định này.
Các loại thuế đối kháng chỉ được áp dụng căn cứ trên cơ sở điều tra đã được
khởi tố và thực hiện[37] phù hợp với các quy
định của Hiệp định này và Hiệp định về nông nghiệp.
11.1Trừ trường
hợp quy định tại khoản 6, việc điều tra để xác định sự tồn tại, mức độ và tác
động của việc được coi là trợ cấp sẽ được khởi xướng trên cơ sở đề nghị bằng
văn bản của hoặc thay mặt cho một ngành sản xuất trong nước.
11. 2 Đề
nghị nêu tại khoản 1 phải bao gồm những bằng chứng về sự tồn tại của: (a)
khoản trợ cấp và nếu có thể nêu rõ cả giá trị trợ cấp, (b) thiệt hại theo
nghĩa của Điều VI Hiệp định GATT 1994 được giải thích theo Hiệp định này, và (c)
mối quan hệ nhân quả giữa nhập khẩu được trợ cấp với thiệt hại được cho là đã
xảy ra. Một sự khẳng định giản đơn, không thuộc về bản chất thì không thể được
coi là đủ để đáp ứng các yêu cầu của khoản này. Đơn yêu cầu sẽ phải bao gồm
những thông tin mà người yêu cầu có được một cách hợp lý về những nội dung sau
đây:
(i) Căn cứ của người yêu cầu và mô
tả về khối lượng và trị giá của sản xuất trong nước về sản phẩm tương tự của
người yêu cầu . Khi đơn yêu cầu được nộp nhân danh một ngành sản xuất trong
nước, thì đơn yêu cầu đó sẽ xác định ngành sản xuất trong nước bằng một danh
sách những nhà sản xuất trong nước sản xuất sản phẩm tương tự (hoặc hiệp hội
những nhà sản xuất trong nước về sản phẩm tương tự) và trong chừng mực có thể,
mô tả khối lượng và trị giá sản xuất trong nước của sản phẩm tương tự mà những
nhà sản xuất này sản xuất ra
(ii) mô tả đầy đủ về sản phẩm bị coi
là được trợ cấp, tên nước hay những nước xuất xứ hoặc xuất khẩu sản phẩm đó,
căn cứ của mỗi nhà xuất khẩu hay nhà sản xuất nước ngoài đã biết và một danh
sách những người nhập khẩu sản phẩm đó đã biết.
(iii) bằng chứng về sự tồn tại, số lượng
và tính chất của trợ cấp.
(iv) bằng chứng về thiệt hại được coi
là đã xảy ra đối với ngành sản xuất trong nước do sản phẩm nhập khẩu được trợ
cấp gây ra do tác động của trợ cấp; bằng chứng đó phải có những thông tin về sự
thay đổi trong khối lượng nhập khẩu hàng có trợ cấp, tác động của nhập khẩu đó
với giá cả những sản phẩm tương tự trên thị trường trong nước và những tác động
của hàng nhập khẩu đó đối với ngành sản xuất trong nước, được chứng minh bằng
những yếu tố cùng chỉ số có liên quan thể hiện tình trạng của ngành sản xuất
trong nước, như các vấn đề nêu tại các khoản 2 và 4 Điều 15.
11.3 Cơ quan
có thẩm quyền phải kiểm tra lại tính đúng đắn và đầy đủ của bằng chứng được
cung cấp trong đơn để xác định xem bằng chứng đó có đủ để bắt đầu điều tra
không.
11.4 Việc
điều tra theo quy định tại khoản 1 sẽ không được bắt đầu trừ khicơ quan có thẩm
quyền, trên cơ sở xem xét mức độ đồng tình hay phản đối của những nhà sản xuất trong
nước những sản phẩm tương tự với yêu cầu đã xác định rằng đơn yêu cầu đã được
nộp bởi[38] hoặc nhân danh ngành sản xuất trong
nước[39]. Đơn yêu cầu được coi là được nộp bởi
hoặc nhân danh một ngành sản xuất trong nước nếu được những nhà sản xuất có
chung khối lượng sản xuất chiếm trên 50% của tổng lượng sản xuất sản phẩm tương
tự của những nhà sản xuất thể hiện sự ủng hộ hay phản đối đơn yêu cầu. Tuy
nhiên, việc điều tra sẽ không được tiến hành nếu tiếng nói của các nhà sản xuất
trong nước ủng hộ đơn đó không vượt quá 25% tổng khối lượng của ngành sản xuất
sản phẩm tương tự trong nước.
1.5Cơ quan có
thẩm quyền sẽ tránh không công bố đơn yêu cầu bắt đầu điều tra, trừ khi đã có quyết
định bắt đầu điều tra.
11.
6 Trong trường hợp đặc biệt, khi cơ quan có thẩm quyền quyết định điều tra
mà không nhận được đơn của và nhân danh một ngành sản xuất trong nước yêu cầu
tiến hành điều tra, thì Cơ quan có thẩm quyền chỉ bắt đầu điều tra nếu đã có đủ
bằng chứng về một trợ cấp, thiệt hại và mối quan hệ nhân quả như đã nêu tại
khoản 2 để chứng minh rằng việc bắt đầu tiến hành điều tra này là cần thiết.
11. 7 Bằng
chứng của cả việc trợ cấp lẫn thiệt hại sẽ được xem xét cùng một lúc: (a)
khi ra quyết định có bắt đầu điều tra không và (b) sau đó trong tiến
trình điều tra, bắt đầu vào một ngày không chậm hơn ngày sớm nhất mà một biện
pháp tạm thời có thể được áp dụng theo quy định của Hiệp định này.
11.8 Trong
trường hợp sản phẩm không được nhập khẩu trực tiếp từ nước xuất xứ mà được xuất
khẩu vào Thành viên nhập khẩu thông qua một nước trung gian, các quy định của Hiệp
định này vẫn được áp dụng đầy đủ, và (những) giao dịch đó vẫn được coi là được
tiến hành trực tiếp giữa nước xuất xứ và Thành viên nhập khẩu theo Hiệp định
này.
11.9.Đơn yêu cầu
nêu tại khoản 1 bị từ chối và việc điều tra bị chấm dứt ngay lập tức khi cơ quan
có thẩm quyền có liên quan thấy không đủ bằng chứng về việc tồn tại một trợ cấp
hay tổn hại để tiến hành điều tra. Trong trường hợp trợ cấp chỉ ở mức tối thiểu
(de minimis) hoặc khối lượng nhập khẩu được trợ cấp hiêệ tại hoặc trong
tương lai, hoặc thiệt hại là không đáng kể, thì việc điều tra sẽ được chấm dứt
ngay lập tức. Theo khoản này, khối lượng trợ cấp được coi là ở mức tối thiểu
nếu thấp hơn 1% ị giá trị của sản phẩm.
11. 10. Việc điều
tra không được làm ảnh hưởng đến thủ tục thông quan.
11. 11 Trừ trường hợp đặc
biệt, thủ tục điều tra phải được kết thúc trong thời hạn một năm, và trong mọi
trường hợp không quá 18 tháng, kể từ ngày bắt đầu.
12.1Những Thành
viên quan tâm và tất cả các bên quan tâm đến việc điều tra thuế đối kháng được
thông báo về những thông tin mà các cơ quan có thẩm quyền yêu cầu và được tạo
mọi cơ hội để cung cấp mọi bằng chứng bằng văn bản mà họ cho là có liên quan
đến cuộc điều tra.
12.1.1Nhà xuất
khẩu, nhà sản xuất nước ngoài và các Thành viên quan tâm nhận được phiếu hỏi
được sử dụng trong điều tra về thuế đối kháng sẽ có ít nhất 30 ngày để trả lời[40]. Bất kỳ yêu cầu gia hạn trả lời thêm 30 ngày nữasẽ
được chú trọng đúng mức, và, khi có lý do chính đáng Cơ quan có thẩm quyền sẽ
được chấp nhận vào bất cứ khi nào có thể thực hiện được.
12.1.2Tùy thuộc
vào yêu cầu bảo vệ các thông tin không phổ biến, những bằng chứng được một
Thành viên quan tâm hoặc một bên có quan tâm gửi tới bằng văn bản sẽ được sẵn
sàng cung cấp nhanh chóng cho các Thành viên quan tâm hay các bên hữu quan tham
gia vào cuộc điều tra.
12.1.3 Ngay khi
mở cuộc điều tra, các cơ quan có thẩm quyền sẽ cung cấp bản đầy đủ đơn yêu cầu
điều tra quy định tại khoản 1 Điều 11 tới các nhà xuất khẩu đã biết[41] và tới các cơ quan có thẩm quyền của nước xuất khẩu
liên quan và khi có yêu cầu, sẽ cung cấp cho các bên quan tâm liên quan. Các
bên cần chú trọng thích đáng việc giữ gìn thông tin không phổ biến quy định tại
khoản 4.
12. 2 Các Thành
viên và các bên quan tâm, khi giải trình được, cũng có quyền cung cấp những
thông tin miệng. Sau khi cung cấp những thông tin miệng đó, các Thành viên và
các bên quan tâm phải nộp thông tin đó bằng văn bản. Quyết định của các cơ quan
có thẩm quyền điều tra chỉ được dựa vào những thông tin và lập luận ghi trong
hồ sơ của mình và đã sẵn sàng cung cấp cho các Thành viên và các bên quan tâm
tham gia điều tra, có tính đến một cách đầy đủ yêu cầu bảo vệ thông tin không phổ
biến.
12. 3 Khi có điều
kiện, các cơ quan có thẩm quyền sẽ tạo cơ hội đúng lúc cho các Thành viên và
các bên có quan tâm được biết mọi thông tin liên quan tới phần trình bầy của mình,
nếu không phải là những thông tin không phổ biến quy định tại khoản 4, và là
những thông tin được các cơ quan có thẩm quyền sử dụng trong điều tra về thuế
đối kháng, và để chuẩn bị trình bày trên cơ sở thông tin đó.
12.4 Mọi thông
tin mang tính chất bí mật (ví dụ nếu bị tiết lộ sẽ tạo thêm lợi thế cạnh tranh
đáng kể cho một đối thủ cạnh tranh hoặc gây ra tác hại cho cá nhân đã cung cấp
thông tin đó hay cho một người là nguồn để nhà cung cấp có được thông tin đó),
hoặc thông tin được các bên trong cuộc điều tra cung cấp trên cơ sở tin bí mật,
và có lý do chính đáng để cơ quan có thẩm quyền coi là thông tin bí mật. Các
thông tin đó không được tiết lộ nếu không có sự cho phép cụ thể của bên cung
cấp[42].
12.4.1Cơ quan
có thẩm quyền sẽ yêu cầu các Thành viên và các bên quan tâm cung cấp bản tóm tắt
không mang tính chất bí mật về các thông tin bí mật đó. Bản cung cấp sẽ mô tả
chi tiết đến mức cần thiết để cho phép hiểu một cách đúng mức về nội dung thông
tin đã cung cấp được baỏ mật. Trong trường hợp ngoại lệ này, các Thành viên
hoặc bên nói trên có thể chỉ ra rằng thông tin đó không thể tóm tắt được. Trong
trường hợp ngoại lệ đó, bản trình bày về lý do không thể tóm tắt thông tin phải
được cung cấp.
12.4.2 Nếu Cơ
quan có thẩm quyền thấy rằng yêu cầu cầu giữ bí mật thông tin không được bảo đảm
và nếu người cung cấp thông tin không đồng ý cho công bố thông tin hoặc không
cho phép tiết lộ dưới hình thức tóm tắt hoặc khái quát thông tin, Cơ quan có
thẩm quyền có thể bỏ qua thông tin đó trừ khi có nguồn thích đáng chứng minh thoả
đáng rằng thông tin đó là đúng[43].
12. 5 Trừ
trường hợp nêu tại khoản 7, trong quá trình điều tra, cơ quan có thẩm quyền có thể
tự mình xác định tính chính xác của thông tin được các Thành viên hay các bên
cung cấp mà căn cứ vào đó cơ quan có thẩm quyền đã đưa ra các kết luận của
mình.
12. 6 Cơ
quan có thẩm quyền đang điều tra có thể tiến hành điều tra trên lãnh thổ của Thành
viên khác khi cần thiết, với điều kiện là phải thông báo kịp thời cho Thành
viên hữu quan biết và trừ khi Thành viên đó phản đối việc điều tra. Tiếp nữa cơ
quan có thẩm quyền có thể tiến hành điều tra tại trụ sở của một công ty và có
thể xem xét bản lưu chứng từ của một công ty nếu: (a) được công ty đó
đồng ý và (b) Thành viên liên quan được thông báo và không phản đối. Thủ
tục nêu tại phụ lục VI áp dụng đối với các cuộc điều tra tại trụ sở một công ty.
Theo yêu cầu bảo vệ thông tin không phổ biến, cơ quan có thẩm quyền phải sẵn
sàng cung cấp kết quả điều tra, hoặc tiết lộ nội dung về cuộc điều tra, theo
quy định tại khoản 8, cho các công ty có liên quan và sẵn sàng cung cấp kết quả
đó cho người nộp đơn yêu cầu điều tra.
12. 7Trong trường
hợp bất kỳ Thành viên hoặc bên có quan tâm nào từ chối cho phép tiếp cận hoặc
không cung cấp những thông tin cần thiết trong thời hạn hợp lý hoặc cản trở
đáng kể việc điều tra, thì quyết định ban đầu hay cuối cùng, mang tính khẳng
định hay phủ định sẽ được đưa ra trên cơ sở các sự việc thực tế sẵn có.
12. 8 Trước
khi ra quyết định cuối cùng, cơ quan có thẩm quyền sẽ thông báo cho mọi Thành viên
và bên có quan tâm về những sự việc chủ yếu đã được xem xét và là cơ sở để quyết
định việc có áp dụng một biện pháp chính thức. Thông báo đó sẽ dành một thời
gian đủ để các bên bảo vệ quyền lợi của họ.
12. 9.Theo Hiệp
định này, thuật ngữ "các bên quan tâm" bao gồm:
(i) nhà xuất khẩu hay nhà sản xuất nước ngoài
hoặc nhà nhập khẩu một sản phẩm là đối tượng của cuộc điều tra, hoặc hiệp hội
sản xuất kinh doanh mà đa số các thành viên là những nhà sản xuất hay xuất khẩu
hoặc nhập khẩu sản phẩm đó; và
(ii) một nhà sản xuất một sản phẩm tương
tự tại Thành viên nhập khẩu hoặc hiệp hội sản xuất kinh doanh mà đa số các thành
viên sản xuất sản phẩm tương tự trên lãnh thổ của Thành viên nhập khẩu.
Danh mục này không
ngăn cản các Thành viên cho phép các bên trong nước hay nước ngoài khác với các
đối tượng nêu trên được coi là bên quan tâm.
12. 10. Cơ quan
có thẩm quyền sẽ tạo cơ hội cho người sử dụng trong ngành sản xuất sản phẩm
đang được điều tra, và cho các tổ chức đại diện cho người tiêu dùng trong trường
hợp sản phẩm được bán lẻ rộng rãi, được cung cấp thông tin liên quan đến cuộc
điều tra về trợ cấp, thiệt hại và mối quan hệ nhân quả.
12. 11. Cơ quan
có thẩm quyền sẽ xem xét một cách hợp lý bất kỳ khó khăn nào mà các bên quan tâm
gặp phải, nhất là các doanh nghiệp nhỏ, trong việc cung cấp thông tin được yêu
cầu, và sẽ dành cho họ sự trợ giúp khi có thể.
12. 12 Thủ tục
nêu trên không nhằm ngăn cản cơ quan có thẩm quyền của một Thành viên khẩn trương
tiến trình điều tra, ra quyết định ban đầu hay cuối cùng, mang tính chất khẳng
định hay phủ định hoặc ngăn cản việc áp dụng những biện pháp tạm thời hay cuối
cùng, phù hợp với các quy định của Hiệp định này.
13.1 Ngay sau
khi đơn yêu cầu theo quy định của Điều 11 được chấp nhận, và tại bất kỳ thời điểm
nào trước khi mở cuộc điều tra, Thành viên có sản phẩm có thể là đối tượng của
cuộc điều tra sẽ được mời tham vấn với mục đích làm sáng tỏ tình hình về những
vấn đề nêu tại khoản 2 Điều 11và đạt được giải pháp do hai bên thoả thuận.
13.2 Hơn nữa,
trong giai đoạn điều tra, Thành viên có sản phẩm có thể là đối tượng của cuộc điều
tra đó sẽ được tạo cơ hội hợp lý để tiếp tục tham vấn, nhằm mục đích làm rõ
tình hình thực tế và đi đến một giải pháp do hai bên cùng thoả thuận[44].
13.3 Trên tinh
thần không gây ảnh hưởng đến nghĩa vụ tạo cơ hội hợp lý để tham vấn, các quy
định về tham vấn này không nhằm ngăn cản các cơ quan có thẩm quyền của một Thành
viên khẩn trương tiến trình điều tra, đi đến những quyết định ban đầu hay cuối
cùng, mang tính định khẳng định hay phủ định hoặc ngăn cản việc áp dụng những
biện pháp tạm thời hay cuối cùng, theo các quy định của Hiệp định này.
13.4Thành viên
dự định mở cuộc điều tra hoặc đang tiến hành một cuộc điều tra, khi được yêu
cầu, sẽ cho phép (những) Thành viên có sản phẩm là đối tượng bị điều tra được
tiếp cận các bằng chứng không không phổ biến, kể cả các bản tóm tắt không phổ
biến của các thông số bí mật đang được sử dụng để bắt đầu hoặc tiến hành điều
tra.
Theo Phần V, bất
kỳ phương pháp nào được Cơ quan có thẩm quyền đang điều tra sử dụng trong tính
toán mức lợi ích mà người nhận trợ cấp được hưởng theo khoản 1 Điều 1 phải được
quy định trong luật quốc gia hoặc được nêu trong văn bản hướng dẫn thi hành của
Thành viên liên quan và việc vận dụng vào mỗi trường hợp cụ thể phải minh bạch
và được giải thích thích đáng. Hơn nữa, phương pháp tính toán phải phù hợp với
các hướng dẫn sau đây.
(a) việc chính
phủ góp vốn cổ phần không được coi là một lợi ích, trừ khi quyết định đầu tư có
thể bị coi là không phù hợp với thực tiễn hoạt động đầu tư thông thường (kể cả
việc cấp vốn đầu tư có nhiều rủi ro) của các đầu tư tư nhân trên lãnh thổ Thành
viên;
(b) một khoản
vay từ nguốn vốn chính phủ sẽ không được coi là đem lại lợi ích, trừ khi có sự chênh
lệch giữa khoản tiền mà công ty được vay trả cho chính phủ với số tiền lẽ ra
phải trả cho một khoản vay thương mại tương tự có thể có được khi vay vốn trên
thị trường. Trong trường hợp có sự chênh lệch, lợi ích là mức chênh lệch giữa
hai khoản phải trả đó;
(c) bảo lãnh vay
của chính phủ sẽ không được coi là đem lại lợi ích, trừ khi có sự chênh lệch
giữa khoản tiền mà công ty được bảo lãnh vay trả cho khoản vay được chính phủ
bảo lãnh với số tiền lẽ ra phải trả cho một khoản vay thương mại tương tự trong
trường hợp không có sự bảo lãnh của chính phủ; Trong trường hợp này nguồn lợi
là khoản chênh lệch giữa hai khoản tiền phải trả, có tính đến sự chênh lệch về
lệ phí.
(d) việc chính
phủ cung cấp hàng hoá hay dịch vụ hoặc mua hàng sẽ không được coi là đem lại
lợi ích, trừ khi việc cung cấp đó được thanh toán với một số tiền ít hơn mức
thích đáng hoặc thanh toán tiền mua hàng cao hơn mức thích đáng. Thanh toán thích
đáng sẽ được xác định trong tương quan với điều kiện thị trường phổ biến đối
với hàng hoá hoặc dịch vụ tại nước cung cấp hay tiến hành mua (kể cả giá, chất
lượng, tính sẵn có, điều kiện thị trường, vận chuyển hay các điều kiện khác về
mua và bán).
15.1 Việc xác
định thiệt hại theo Điều VI Hiệp định GATT 1994 phải dựa trên bằng chứng khẳng định
và với nội dung xem xét khách quan đồng thời (a) khối lượng nhập khẩu hàng có
trợ cấp và tác động của nhập khẩu được trợ cấp đối với giá cả trên thị trường
trong nước của sản phẩm tương tự[46] và (b) tác
động tiếp theo của việc nhập khẩu đó với các ngành sản xuất trong nước của các
sản phẩm đó.
15.2 Đối với khối
lượng nhập khẩu hàng hoá được trợ cấp, cơ quan có thẩm quyền đang điều tra sẽ
xét xem có sự tăng trưởng đáng kể nhập khẩu hàng hoá có trợ cấp hay không, hoặc
tính theo mức tuyệt đối hay tương đối, khối lượng sản xuất hoặc tiêu thụ tại
Thành viên nhập khẩu. Đối với tác động của hàng hoá nhập khẩu được trợ cấp lên
giá, cơ quan có thẩm quyền đang điều tra sẽ xét xem có sự giảm giá đáng kể do
hàng nhập khẩu được trợ cấp hay không so với giá của sản phẩm tương tự tại Thành
viên nhập khẩu, hoặc tác động của việc nhập khẩu đó có ép giá tới mức đáng kể
hay ngăn cản giá hàng tăng lên, so với sự thay đổi giá cả bình thường nếu trong
trường hợp khác hay không. Cũng không nhất thiết là một hay nhiều nhân tố đã kể
trên đây sẽ có vai trò quyết định đối với việc xem xét nói trên.
15.3 Khi hàng
nhập khẩu từ hai hay nhiều nước cùng là đối tượng điều tra chịu thuế đối kháng,
cơ quan có thẩm quyền đang điều tra có thể đánh giá tác động gộp của nhập khẩu từ
các nước đó chỉ khi đã xác định được (a) tổng số trợ cấp được áp dụng liên
quan tới nhập khẩu từ từng nước cao hơn mức tối thiểu (de minimis) nêu
tại khoản 9 Điều 11và khối lượng nhập khẩu từ từng nước đó không phải là không
đáng kể và (b) căn cứ vào những điều kiện cạnh tranh giữa hàng nhập khẩu
với nhau và điều kiện cạnh tranh giữa hàng nhập khẩu và hàng trong nước dẫn đến
việc đánh giá gộp các tác động của hàng nhập khẩu là thích hợp.
15.4 Việc xem
xét tác động của hàng nhập khẩu được trợ cấp đối với ngành sản xuất trong nước sẽ
bao gồm cả việc đánh giá mọi yếu tố và chỉ tiêu kinh tế liên quan ảnh hưởng tới
tình trạng của ngành, kể cả sự sụt giảm sản lượng, số lượng bán ra, thị phần,
lợi nhuận hay năng suất, thu hồi vốn đầu tư hay tỷ lệ khai thác công suất hiện
tại hoặc tiềm tàng trong tương lai; những yếu tố ảnh hưởng giá cả trong nước;
những tác động tiêu cực đối với luân chuyển vốn, lượng hàng dự trữ, việc làm,
tiền lương, sự tăng trưởng, khả năng tăng vốn hay đầu tư, và trong trường hợp
liên quan tới nông nghiệp, sẽ đánh giá việc các chương trình hỗ trợ của chính
phủ có vì thế mà thêm nặng gánh hay không. Danh sách nêu trên chưa phải là tất
cả và cũng không nhất thiết là một hay nhiều nhân tố đã kể trên đây có vai trò
quyết định đối với việc xem xét nói trên.
15.5 Phải chỉ
ra được rằng hàng nhập khẩu được trợ cấp, chính vì sự trợ cấp[47] đó đã gây thiệt hại nói trong Hiệp định này. Việc
chứng minh mối quan hệ nhân quả giữa hàng nhập khẩu được trợ cấp và sự tổn hại
đối với một ngành sản xuất trong nước sẽ được dựa trên kết quả xem xét mọi bằng
chứng liên quan trước cơ quan có thẩm quyền. Cơ quan có thẩm quyền cũng xem xét
bất kỳ yếu tố nào đã biết đến ngoài việc nhập khẩu được trợ cấp nhưng cũng gây
thiệt hại đến ngành sản xuất trong nước, và những thiệt hại do các yếu tố đó
gây ra sẽ không được coi là do việc nhập khẩu được trợ cấp. Những yếu tố có thể
liên quan như đề cập ở trên sẽ bao gồm, nhưng không giới hạn bởi, khối lượng và
giá cả hàng cùng chủng loại không được trợ cấp, giảm nhu cầu hay thay đổi cơ
cấu tiêu thụ, việc hạn chế thương mại và cạnh tranh giữa các nhà sản xuất trong
và ngoài nước, sự phát triển của công nghệ và khả năng xuất khẩu và năng suất
của ngành sản xuất trong nước.
15.6 Tác động
của nhập khẩu được trợ cấp phải được đánh giá trong tương quan với sản lượng sản
xuất trong nước một sản phẩm tương tự khi số liệu cho phép xác định sản lượng
sản xuất đó trên cơ sở những chỉ tiêu như quy trình sản xuất, tình hình bán ra
và lợi nhuận của nhà sản xuất. Nếu việc xác định sản lượng đó không thể thực
hiện được, tác động của nhập khẩu được trợ cấp sẽ được đánh giá thông qua việc
xem xét sản lượng của một nhóm hoặc chủng loại nhỏ hẹp nhất của sản phẩm, bao
gồm cả sản phẩm tương tự mà qua đó có thể có được thông tin cần thiết cho việc
đánh giá.
15.7 Việc xác
định mối đe doạ gây ra thiệt hại vật chất sẽ được dựa trên sự thật chứ không dựa
trên sự suy đoán, quy kết hay khả năng xa xôi. Sự thay đổi hoàn cảnh có thể tạo
ra một tình huống theo đó một trợ cấp có thể gây ra thiệt hại phải được nhận
thấy trước một cách rõ ràng và sát thực. Khi ra một quyết định về mối đe doạ
gây thiệt hại vật chất, cơ quan có thẩm quyền đang điều tra sẽ xem xét, nhưng
không giới hạn bởi những yếu tố sau đây:
(i) tính chất của trợ cấp và những tác động
về mặt thương mại có khả năng xảy ra;
(ii) sự gia tăng đáng kể tỷ lệ nhập khẩu
hàng được trợ cấp vào thị trường trong nước cho thấy khả năng nhập khẩu tăng mạnh;
(iii) khả năng của một nhà xuất khẩu đã sẵn
sàng, hay sắp hoặc đã tăng lên đáng kể cho thấy khả năng gia tăng xuất khẩu sản
phẩm được trợ cấp đến thị trường Thành viên nhập khẩu, có tính đến sự hiện diện
những khả năng của những thị trường xuất khẩu khác trong tiếp nhận năng lực
xuất khẩu bổ sung;
(iv) việc xem xét liệu nhập khẩu đang xâm
thị với mức giá sẽ có khả năng gây tác động ép giá hay loại trừ trên thị trường
trong nước, và có khả năng tăng nhu cầu nhập khẩu thêm nữa hay không; và
(v) lượng dự trữ của sản phẩm đang được điều
tra.
Không nhất thiết
là một hay nhiều nhân tố đã kể trên đây sẽ có vai trò quyết định, nhưng tổng
thể các nhân tố đó sẽ phải dẫn đến kết luận rằng việc tiếp tục trợ cấp rất dễ
xảy ra và có thể gây ra tổn hại vật chất, trừ khi một hành động bảo vệ được thực
thi.
15.8 Đối với những
trường hợp khi mà sự tổn thất bị đe doạ bởi hàng nhập khẩu được trợ cấp, việc
áp dụng thuế đối kháng sẽ được xem xét và quyết định.
16.1 Trong Hiệp
định này, ngoại trừ trường hợp được quy định tại khoản 2, thuật ngữ “ngành sản
xuất trong nước” được hiểu là nói đến những nhà sản xuất cùng một sản phẩm
tương tự hay những nhà sản xuất có sản lượng chung chiếm đa số trong tổng sản
xuất trong nước của những sản phẩm đó, trừ khi nhà sản xuất liên quan[48] tới những nhà xuất khẩu hoặc nhập khẩu hoặc chính
họ là nhà nhập khẩu những sản phẩm được coi là hàng nhập khẩu được trợ cấp hay
nhà nhập khẩu những sản phẩm tương tự từ một nước khác, và trong trường hợp
này, thuật ngữ “ngành sản xuất trong nước” được hiểu là các nhà sản xuất
còn lại.
16.2 Trong những
hoàn cảnh đặc biệt, lãnh thổ của một Thành viên có thể được phân định thành hai
hay nhiều thị trường cạnh tranh và các nhà sản xuất trong phạm vi mỗi thị
trường có thể được coi là một ngành sản xuất riêng biệt nếu (a) các nhà sản xuất
trong phạm vi thị trường đó bán toàn bộ hay hầu như toàn bộ sản lượng sản phẩm
của họ trên thị trường đó, và (b) nhu cầu của thị trường đó không được đáp ứng
ở mức độ đáng kể từ nguồn sản xuất ngoài thị trường đó trên cùng lãnh thổ . Trong
những trường hợp này, có thể xác định có tổn hại ngay cả khi phần lớn ngành sản
xuất trong nước không bị tổn hại, với điều kiện là có sự tập trung nhập khẩu
được trợ cấp vào một thị trường riêng biệt như vậy và hơn nữa là nhập khẩu được
trợ cấp đó đang gây ra tổn hại cho những nhà sản xuất dại diện cho toàn bộ hay
hầu như toàn bộ nền sản xuất trên thị trường đó.
16.3 Khi ngành
sản xuất trong nước được hiểu là nói đến những nhà sản xuất trong một địa bàn
nào đó, ví dụ như thị trường nói tại khoản 2, thuế đối kháng chỉ đánh vào những
những sản phẩm đã nêu và được giao cho tiêu dùng trong địa bàn đó. Khi luật hiến
pháp của Thành viên nhập khẩu không cho phép đánh thuế đối kháng dựa trên cơ sở
nêu trên, Thành viên nhập khẩu có thể đánh thuế đối kháng không hạn chế chỉ khi
(a) nhà xuất khẩu trước đó đã có cơ hội để ngừng xuất khẩu hàng vào địa bàn đó
với giá có trợ cấp, hoặc là có sự bảo đảm quy định tại Điều 18 nhưng đã không
khẩn trương đưa ra sự đảm bảo đó và (b) thuế đối kháng này không được chỉ đánh
vào sản phẩm của những nhà sản xuất cụ thể cung cấp hàng cho khu vực này.
16.4 Khi hai hay
nhiều nước, theo quy định tại điểm 8 (a) Điều XXIV Hiệp định GATT 1994, đã đạt
tới trình độ hội nhập đến mức có những đặc điểm của một thị trường chung, thống
nhất, ngành sản xuất của toàn bộ khu vực đó sẽ được coi là ngành sản xuất trong
nước như nêu tại khoản 1 và khoản 2.
16.5 Các quy định
của khoản 6 Điều 15 sẽ được áp dụng đối với Điều này.
17.1 Các biện
pháp tạm thời chỉ được áp dụng khi:
(a) việc điều
tra được bắt đầu tiến hành phù hợp với các quy định của Điều 11, đã có thông báo
công khai về việc điều tra này và các Thành viên và các bên quan tâm đã được
tạo cơ hội thích đáng dể cung cấp thông tin và nhận xét;
(b) đã xác định
sơ bộ rằng có tồn tại trợ cấp và việc nhập khẩu được trợ cấp đã gây tổn hại cho
ngành sản xuất trong nước; và
(c) Cơ quan có
thẩm quyền liên quan cho rằng các biện pháp đó là cần thiết để ngăn chặn thiệt
hại xảy ra trong quá trình điều tra.
17.2 Các biện
pháp tạm thời có thể dưới hình thức thuế đối kháng tạm thời được bảo đảm bằng việc
đặt cọc tiền tương đương với giá trị trợ cấp được tạm tính.
17.3 Các biện
pháp tạm thời không được áp dụng trước quá 60 ngày, kể từ ngày bắt đầu điều
tra.
17.4 Các biện
pháp tạm thời chỉ được giới hạn trong thời gian ngắn nhất có thể, không vượt quá
bốn tháng.
17.5 Các quy định
có liên quan tại Điều 19 phải được tuân thủ trong quá trình áp dụng các biện
pháp tạm thời.
Cam kết
18.1 Quá trình
điều tra[49] có thể bị đình chỉ hay chấm dứt mà
không áp dụng các biện pháp tạm thời hay thuế đối kháng ngay khi nhận được cam
kết tự nguyện với nội dung:
(a) chính phủ
của Thành viên xuất khẩu chấp nhận xoá bỏ hay hạn chế trợ cấp hoặc có những biện
pháp khác có cùng kết quả; hoặc
(b) nhà xuất khẩu
đồng ý xem xét lại giá sao cho Cơ quan có thẩm quyền đang điều tra thấy rằng
biện pháp trợ cấp không còn gây ra thiệt hại. Việc tăng giá theo các cam kết
này không cần cao quá mức cần thiết để triệt tiêu khối lượng trợ cấp. Có thể
chấp nhận mức tăng giá thấp hơn khối lượng trợ cấp nếu thấy đã thích đáng để
khắc phục thiệt hại gây ra cho ngành sản xuất trong nước.
18.2. Không được
yêu cầu cam kết hay chấp nhận cam kết trừ khi cơ quan có thẩm quyền của Thành
viên đang nhập khẩu đã có sự xác định ban đầu là có trợ cấp và có thiệt hại do
trợ cấp gây ra và trong trường hợp cam kết do nhà xuất khẩu thực hiện, đã được
Thành viên đang xuất khẩu thoả thuận.
18.3 Các cam kết
không cần thiết phải được chấp nhận nếu cơ quan có thẩm quyền của Thành viên
nhập khẩu thấy việc chấp nhận của mình là không thực tế, ví dụ nếu số lượng các
nhà xuất khẩu hiện tại hoặc tiềm tàng quá lớn hoặc có những lý do khác, kể cả
lý do thuộc chính sách chung. Nếu có trường hợp như vậy phát sinh và khi có
điều kiện thực hiện, cơ quan có thẩm quyền sẽ cho nhà xuất khẩu biết lý do tại
sao việc chấp nhận cam kết là không thực tế, và ở mức độ có thể, sẽ tạo điều
kiện cho các nhà xuất khẩu trình bày ý kiến của mình.
18.4 Nếu cam kết
được chấp nhận, nhưng Thành viên xuất khẩu mong muốn hoặc Thành viên đang nhập
khẩu quyết định hoàn thành cuộc điều tra thì cuộc điều tra sẽ được tiếp tục đến
khi hoàn thành. Trong trường hợp cuộc điều tra đi đến kết luận không thuận đối
với trợ cấp và sự tổn hại, bản cam kết sẽ tự động mất hiệu lực, ngoại trừ
trường hợp kết luận đó chủ yếu là do có bản cam kết. Trong trường hợp đó, cơ
quan có thẩm quyền liên quan có thể yêu cầu cam kết tiếp tục có hiệu lực một thời
gian hợp lý phù hợp với các quy định của Hiệp định này. Trong trường hợp xác
định là có trợ cấp và tổn hại thì cam kết vẫn tiếp tục có hiệu lực, theo những
điều khoản của nó và các quy định của Hiệp định này.
18.5 Cơ quan có
thẩm quyền của Thành viên đang nhập khẩu có thể gợi ý đưa ra cam kết về giá, nhưng
nhà xuất khẩu không bị buộc phải đưa ra cam kết đó. Việc chính phủ Thành viên
hay nhà xuất khẩu không đưa ra đề nghị có cam kết hoặc không chấp nhận lời đề
nghị đó thì trong mọi trường hợp sẽ không ảnh hưởng đến việc xem xét đánh giá
về vụ việc đó. Tuy nhiên, cơ quan có thẩm quyền được tự do xác định rằng mối đe
doạ gây tổn hại sẽ càng trở nên hiện thực nếu việc nhập khẩu được trợ cấp vẫn
được tiếp tục duy trì.
18. 6. Cơ quan
có thẩm quyền của Thành viên nhập khẩu có thể yêu cầu bất kỳ chính phủ hay nhà
xuất khẩu nào có cam kết đã được chấp nhận cung cấp định kỳ thông tin liên quan
tới việc thực hiện cam kết và cho phép kiểm tra lại các số liệu liên quan. Trong
trường hợp vi phạm cam kết, thì căn cứ vào Hiệp định này và các quy định của
Hiệp định, cơ quan có thẩm quyền của Thành viên nhập khẩu có thể áp dụng ngay
những biện pháp tạm thời trên cơ sở thông tin tối đa có được. Trong trường hợp
đó, có thể đánh thuế đối kháng chính thức, theo Hiệp định này, đối với hàng nhập
khẩu đã được đưa vào tiêu thụ không quă 90 ngày trước khi biện pháp tạm thời
được áp dụng, ngoại trừ việc đánh giá mang tính hồi tố này không áp dụng đối
với hàng nhập khẩu được đưa vào trước khi có sự vi phạm cam kết.
19.1 Nếu, sau
khi đã cố gắng hợp lý để hoàn thành việc tham vấn, một Thành viên xác định chắc
chắn rằng có trợ cấp và mức trợ cấp, và rằng thông qua trợ cấp, hàng nhập khẩu được
trợ cấp đã gây ra tổn hại, thì Thành viên đó có thể đánh thuế đối kháng theo
quy định của Điều này, trừ khi việc trợ cấp được rút bỏ.
19.2 Khi mọi yêu
cầu để có thể áp dụng thuế đối kháng đã được thoả mãn, thì quyết định có đánh
thuế đối kháng hay không và số tiền thuế đối kháng sẽ thu phải bằng mức trợ cấp
hay thấp hơn mức trợ cấp, do cơ quan có thẩm quyền của Thành viên nhập khẩu đưa
ra. Các Thành viên mong muốn rằng việc đánh thuế đối kháng trên lãnh thổ của
tất cả các Thành viên sẽ không cứng nhắc và rằng mức thuế đối kháng nên thấp
hơn tổng mức trợ cấp, nếu mức thuế đối kháng thấp hơn này là đủ để khắc phục
thiệt hại với ngành sản xuất trong nước, và mong muốn rằng thủ tục lập ra cho
phép các cơ quan có thẩm quyền tính toán đầy đủ đến và thể hiện được tính đại
diện quyền lợi của mọi bên trong nước[50] liên
quan mà quyền lợi của họ có thể bị tổn hại do việc áp dụng thuế đối kháng.
19.3 Khi thuế
đối kháng được áp dụng đối với bất kỳ sản phẩm nào, thuế đối kháng phải được đánh,
với mức thuế phù hợp với từng trường hợp, trên cơ sở không phân biệt đối xử với
sản phẩm nhập khẩu từ mọi nguồn đã kết luận là có trợ cấp và gây ra thiệt hại,
trừ hàng nhập khẩu từ những nguồn đã từ bỏ việc áp dụng trợ cấp hay từ những
nguồn đã có cam kết theo quy định của Hiệp định này và đã được chấp nhận. Bất
kỳ nhà xuất khẩu nào có hàng xuất khẩu phải chính thức chịu thuế đối kháng
nhưng chưa bị điều tra với lý do không phải là từ chối hợp tác trong điều tra,
sẽ có quyền yêu cầu được tiến hành xem xét lại khẩn trương để cơ quan có thẩm quyền
đang điều tra xác định ngay một mức thuế suất đối kháng cụ thể áp dụng đối với
nhà xuất khẩu đó.
19.4 Không đánh
thuế đối kháng[51] đối với hàng nhập khẩu vượt
quá số tiền trợ cấp đã được kết luận là có tồn tại, tính theo đơn vị của sản
phẩm được trợ cấp và xuất khẩu.
20.1 Các biện
pháp tạm thời và thuế đối kháng sẽ chỉ được áp dụng đối với các sản phẩm đưa vào
tiêu thụ sau thời điểm quyết định được đưa ra theo quy định của khoản 1 Điều 17
và khoản 1 Điều 19 có hiệu lực, tuỳ thuộc vào những ngoại lệ quy định tại Điều
này.
20.2 Khi đã xác
định được có tổn hại ( không phải là mối đe doạ về một tổn hại hoặc về việc gây
chậm trễ cho việc thiết lập một ngành sản xuất trong nước), hoặc trong trường
hợp đã xác định được có mối đe doạ gây tổn hại mà nếu không có biện pháp tạm
thời thì hàng nhập khẩu được trợ cấp đã có thể bị xác định là có gây ra tổn hại,
thuế đối kháng có thể được tính hồi tố đối với thời gian đã áp dụng biện pháp
tạm thời, nếu có.
20.3 Nếu mức thuế
đối kháng ở mức cao hơn giá trị đã đặt cọc bảo đảm bằng tiến mặt hay bằng bảo
lãnh, sẽ không thu thêm số chênh lệch nữa. Ngược lại nếu mức thuế đối kháng thấp
hơn giá trị đã đặt cọc bằng tiền mặt hoặc bằng bảo lãnh, thì khoản chênh lệch
sẽ được hoàn trả ngay.
20.4 Trừ trường
hợp quy định tại khoản 2, khi đã xác định được là có mối đe doạ thiệt hại hay
thực sự gây chậm trễ cho việc thiết lập một ngành sản xuất trong nước (nhưng
thiệt hại chưa xảy ra) thuế đối kháng chính thức chỉ được áp dụng kể từ ngày
xác định là có đe doạ gây thiệt hại hoặc thực gây chậm trễ, và bất kỳ khoản bảo
đảm đặt cọc bằng tiền mặt nào trong thời gian áp dụng các biện pháp tạm thời sẽ
được hoàn trả và các bảo lãnh sẽ được giải toả ngay.
20.5 Khi có xác
định cuối cùng là không có trợ cấp và thiệt hại thì bất kỳ khoản bảo đảm nào đã
đặt cọc bằng tiền mặt trong thời gian áp dụng các biện pháp tạm thời sẽ được
hoàn trả và bất kỳ bảo lãnh, bảo đảm sẽ được giải toả nhanh chóng.
20.6 Trong
những hoàn cảnh nghiêm trọng khi hàng hóa trợ cấp đã được nêu ra, cơ quan có
thẩm quyền thấy rằng thiệt hại là khó có thể khắc phục được do nhập khẩu với
khối lượng lớn trong một thời gian ngắn sản phẩm đã được trợ cấp không phù hợp
các quy định của GATT 1994 và của Hiệp định này và thấy cần thiết để ngăn ngừa
tình trạng đó tái diễn, thì cơ quan có thẩm quyền có thể tính hồi tố thuế đối
kháng đối với hàng nhập khẩu này, thuế đối kháng chính thức có thể được tính
đối với hàng nhập khẩu đã đưa vào tiêu dùng trước đó nhưng không quá 90 ngày kể
từ ngày bắt đầu áp dụng biện pháp tạm thời.
21.1 Thuế đối
kháng sẽ có hiệu lực chỉ khi và ở chừng mực cần thiết để đối kháng lại việc trợ
cấp đang gây ra thiệt hại.
21.2 Cơ quan có
thẩm quyền sẽ xem xét lại nhu cầu có tiếp tục đánh thuế đối kháng không, khi tự
mình thấy cần hoặc theo yêu cầu của bên quan tâm có bằng chứng thực tế chứng minh
nhu cầu cần xem xét lại việc đánh thuế với điều kiện là đã có một thời gian hợp
lý kể từ khi áp dụng thuế đối kháng. Các bên quan tâm có quyền yêu cầu cơ quan
có thẩm quyền xem xét xem liệu việc tiếp tục áp dụng thuế đối kháng có còn cần
thiết để đối với việc triệt tiêu tác dụng trợ cấp hay không, liệu tổn hại có
khả năng tiếp diễn hoặc tái hiện hay không nếu như thuế đối kháng đã ngừng hoặc
thay đổi. Nếu sau khi xem xét lại theo khoản này, cơ quan có thẩm quyền quyết
định rằng thuế đối kháng không còn cơ sở, thì thuế đối kháng sẽ được chấm dứt
ngay lập tức.
21.3 Cho dù có
quy định tại khoản 1 và 2, thuế đối kháng sẽ được kết thúc vào ngày không chậm quá
năm năm, kể từ ngày được áp dụng (hoặc kể từ ngày rà soát gần nhất theo quy định
tại khoản 2, nếu việc rà soát bao gồm cả thuế và tổn hại, hoặc theo quy định
của khoản này) trừ trường hợp trước khi đến ngày đó, cơ quan có thẩm quyền khi
tự mình tiến hành rà soát, hoặc theo yêu cầu có đầy đủ bằng chứng hợp lệ của
hoặc thay mặt cho ngành công nghiệp trong nước, được đưa ra trong một thời gian
hợp lý trước ngày kết thúc thời hạn, quyết định rằng việc ngừng đánh thuế có
khả năng làm cho trợ cấp và tổn hại tiếp diễn hoặc tái diễn[52]. Trong thời gian chờ kết luận của việc xem xét đó,
có thể tiếp tục duy trì thuế đối kháng.
21.4 Các quy định
của Điều 12 về bằng chứng và thủ tục áp dụng đối với việc rà soát phải được
thực hiện theo Điều này. Việc xem xét như vậy sẽ được tiến hành khẩn trương và
thông thuờng sẽ được kết luận trong vòng 12 tháng, kể từ ngày bắt đầu rà soát.
21.5 Các quy định
của Điều này sẽ được áp dụng tương thích đối với các cam kết được chấp nhận
theo quy định của Điều 18.
22.1 Khi các cơ
quan có thẩm quyền thấy rằng có đủ bằng chứng để bắt đầu việc điều tra về trợ
cấp theo Điều 11, cơ quan có thẩm quyền sẽ công bố và thông báo cho (các) Thành
viên có sản phẩm là đối tượng của việc điều tra này cũng như thông báo cho các
bên quan tâm khác, mà cơ quan có thẩm quyền biết được.
22.2 Công bố về
việc bắt đầu tiến hành điều tra hoặc cung cấp dưới hình thức một bản báo cáo
riêng[53], phải bao gồm những nội dung chính
sau đây:
(i) tên nước xuất khẩu và sản phẩm liên
quan;
(ii) ngày bắt đầu tiến hành điều tra ;
(iii) mô tả về trợ cấp sẽ bị điều tra;
(iv) tóm tắt những yếu tố tạo nên cơ sở cho
rằng có thiệt hại xảy ra;
(v) địa chỉ giao dịch để liên hệ với người
đại diện của Thành viên quan tâm và bên có quan tâm;
(vi) thời hạn cho phép các Thành viên quan
tâm hay các bên quan tâm có thể trình bày quan điểm.
22.3 Việc xác
định sơ bộ hoặc cuối cùng là có hay không có trợ cấp quyết định chấp nhận cam kết
nói tại Điều 18, cũng như việc xác định cam kết hết hiêu lực hay kết thúc việc
áp dụng thuế đối kháng, sẽ được thông báo công khai. Thông báo hay bản báo cáo
riêng thay thế phải có đủ những chi tiết về kết quả điều tra và kết luận của cơ
quan có thẩm quyền điều tra về cả vấn đề áp dụng luật lẫn nội dung vụ việc mà
cơ quan có thẩm quyền điều tra coi là quan trọng. Thông báo và báo cáo nói trên
sẽ được gửi tới (những) Thành viên có sản phẩm đang được điều tra hay đối tượng
trong cam kết cũng như được gửi tới bên liên quan mà cơ quan có thẩm quyền biết.
22.4 Thông báo
công bố việc áp dụng các biện pháp tạm thời hoặc nếu không bằng một báo cáo riêng
biệt, phải giải thích chi tiết quyết định sơ bộ về sự tồn tại của trợ cấp và
tổn hại, và phải đề cập thực chất vấn đề và luật dẫn tới việc chấp nhận hay bác
bỏ một lập luận . Bản thông báo hay báo cáo đó sẽ lưu ý đúng mức tới yêu cầu
bảo vệ thông tin bí mật, và phải bao hàm những nội dung cụ thể sau đây:
(i) tên nhà cung cấp hoặc, khi điều này không
thực tế, tên nước cung cấp có liên quan;
(ii) mô tả sản phẩm ở nước đáp ứng nội dung
khai báo hải quan;
(iii) trị giá trợ cấp đã xác định được và
cơ sở đã được dùng để xác định có trợ cấp;
(iv) các cân nhắc có liên quan tới sự xác
định có tổn hại như đã nêu tại Điều 15;
(i) những lý do chính đã dẫn tới kết luận.
22.5 Công bố
về kết thúc hay đình chỉ điều tra trong trường hợp điều tra đã xác định là có
trợ cấp và dẫn tới đánh thuế đối kháng hay chấp nhận cam kết, hoặc nếu không
phải là một công bố dưới hình thức một báo cáo riêng biệt, sẽ có mọi thông tin
có liên quan về những vấn đề áp dụng luật hoặc nội dung vụ việc và lý do dẫn
tới áp dụng biện pháp cuối cùng hay chấp nhận cam kết, có lưu ý đúng mức đến
yêu cầu bảo vệ thông tin không phổ biến. Đặc biệt, công bố hay báo cáo sẽ có
những thông tin nói tại khoản 4, cũng như lý do dẫn đến chấp nhận hay bác bỏ
lập luận hoặc khiếu nại liên quan của các Thành viên quan tâm và của người xuất
khẩu và người nhập khẩu.
22.6 Thông báo
công khai về việc kết thúc hay đình chỉ điều tra sau khi chấp nhận cam kết theo
Điều 18, hoặc dưới hình thức một bản báo cáo riêng biệt, sẽ bao gồm phần nội
dung không mang tính chất bí mật của bản cam kết đó.
22.7 Các quy định
của Điều này được áp dụng, với những điều chỉnh thích hợp, nếu có, với việc bắt
đầu và kết thúc việc rà soát nói tại Điều 21 và đối với những quyết định nói
tại Điều 20 về hồi tố đối với thuế đối kháng.
Trong trường hợp
luật pháp quốc gia của một Thành viên có những quy định về các biện pháp thuế
đối kháng thì thành viên đó sẽ duy trì các cơ quan xét xử tư pháp, trọng tài
hoặc hành chính nhằm mục đích xem xét lại một cách nhanh chóng các quyết định
hành chính liên quan tới việc xác định cuối cùng việc có hay không có trợ cấp
hoặc thiệt hại cũng như kết quả xem xét lại việc xác định đó theo Điều 21. Các
cơ quan xét xử và thủ tục này phải độc lập với cơ quan có thẩm quyền chịu trách
nhiệm đánh giá hay rà soát những vấn đề là đối tượng nói đến ở đây, và sẽ tạo
cơ hội cho tất cả các bên liên quan đã tham gia vào thủ tục hành chính và chịu
tác động trực tiếp hay đơn lẻ của quyết định hành chính đó, được tham dự vào
việc rà soát.
24.1. Nay thành
lập Uỷ ban về trợ cấp và các biện pháp đối kháng gồm đại diện của mỗi Thành
viên. Uỷ ban tự bầu ra Chủ tịch và họp ít nhất mỗi năm hai lần ngoài các cuộc
họp theo yêu cầu của bất kỳ Thành viên nào theo quy định của Hiệp định này. Uỷ
ban sẽ thực hiện những trách nhiệm theo quy định của Hiệp định này hoặc do các
Thành viên giao phó, và tạo điều kiện để các Thành viên có cơ hội tham vấn bất
kỳ vấn đề gì liên quan tới việc triển khai Hiệp định này và thực hiện các mục
tiêu của Hiệp định. Ban Thư ký WTO sẽ là Ban thư ký cho Uỷ ban.
24.2 Uỷ ban có
thể thành lập các cơ quan trực thuộc nếu thấy phù hợp.
24.3 Uỷ ban sẽ
thành lập một Nhóm các Chuyên gia Thường trực (PGE) gồm năm cá nhân độc lập, có
trình độ bậc cao trong lĩnh vực trợ cấp và quan hệ thương mại. Uỷ ban sẽ bầu chọn
các chuyên gia và mỗi năm sẽ thay thế một thành viên trong nhóm. Nhóm PGE có
thể được yêu cầu hỗ trợ ban hội thẩm, như quy định tại khoản 5 Điều 4. Uỷ ban
cũng có thể yêu cầu họ cho ý kiến tư vấn về sự tồn tại hoặc tính chất của bất
kỳ trợ cấp nào.
24.4 PGE có thể
được bất kỳ Thành viên nào tham vấn và có thể có ý kiến tư vấn về tính chất của
bất kỳ loại trợ cấp nào mà một Thành viên dự kiến duy trì hay áp dụng mới. ý
kiến tư vấn đó không được phổ biến và không được sử dụng khi tiến hành thủ tục
tố tụng nêu tại Điều 7.
24.5 Khi thực
hiện chức năng của mình, Uỷ ban và các cơ quan trực thuộc đều có thể tham vấn
và tìm thông tin từ bất kỳ nguồn nào được coi là cần thiết. Tuy nhiên trước khi
Uỷ ban hay cơ quan trực thuộc tìm thông tin trong phạm vi thẩm quyền của một
Thành viên, Thành viên đó sẽ được thông báo trước.
25.1 Các Thành
viên thoả thuận rằng, không gây ảnh hưởng đến các quy định tại khoản 1 Điều XVI
Hiệp định GATT 1994, sẽ nộp thông báo về trợ cấp không chậm hơn ngày 30 tháng 6
hàng năm và sẽ tuân thủ các quy định từ khoản 2 đến khoản 6.
25.2 Các
Thành viên sẽ thông báo về mọi khoản trợ cấp nêu tại khoản 1 Điều 1, thuộc loại
trợ cấp riêng biệt theo nghĩa của Điều 2, được duy trì hay áp dụng trên lãnh
thổ của mình.
25.3 Nội dung
thông báo phải đủ chi tiết cụ thể để các Thành viên khác có thể đánh giá tác động
thương mại của nó và hiểu về hoạt động của chương trình trợ cấp được thông báo.
Về phương diện này và không làm ảnh hưởng đến nội dung và hình thức bản các câu
hỏi về trợ cấp[54], các Thành viên sẽ đảm bảo
rằng thông báo sẽ gồm những thông tin sau đây:
(i) hình thức trợ cấp (ví dụ như các khoản
thu hoặc cấp, cho vay, ưu đãi về thuế);
(ii) trợ cấp tính theo đơn vị hoặc khi không
thể tính cụ thể được, là tổng trị giá hay số tiền trợ cấp cả năm ngân sách dành
cho trợ cấp (nếu có thể nêu mức trợ cấp trung bình tính theo đơn vị đã thực
hiện năm trước);
(iii) mục tiêu hoặc mục đích về mặt chính
sách của trợ cấp;
(iv) thời hạn trợ cấp và/ hoặc thời hạn khác
gắn liền với trợ cấp;
(v) số liệu thống kê cho phép đánh giá tác
động thương mại của trợ cấp.
25.4 Khi các điểm
cụ thể nêu tại khoản 3 không được đề cập trong thông báo, thì cần có giải thích
lý do ngay trong thông báo đó
25.5 Nếu trợ cấp
được áp dụng đối với sản phẩm cụ thể hay một khu vực kinh doanh cụ thể, thì thông
báo phải được kết cấu theo sản phẩm hay khu vực đó.
25.6 Thành viên
nào thấy rằng trên lãnh thổ của mình không áp dụng các biện pháp nào cần phải
thông báo theo quy định tại khoản 1 Điều XVI GATT 1994 và theo Hiệp định này,
sẽ thông báo cho Ban Thư ký bằng văn bản.
25.7 Các Thành
viên thừa nhận rằng việc thông báo một biện pháp không làm tổn hại đến tính
chất pháp lý của biện pháp đó theo Hiệp định GATT 1994 và theo Hiệp định này,
hiệu lực của nó theo Hiệp định này, hay ảnh hưởng đến tính chất của biện pháp
đó.
25.8 Bất kỳ lúc
nào các Thành viên cũng có thể gửi văn bản yêu cầu cung cấp thông tin về tính
chất và mức độ của bất kỳ trợ cấp nào được một Thành viên khác áp dụng hay duy
trì (kể cả trợ cấp được nêu tại Phần IV), hay yêu cầu giải thích về lý do một
biện pháp cụ thể được coi không phải là đối tượng phải thông báo.
25.9 Các Thành
viên khi được yêu cầu sẽ cung cấp thông tin được yêu cầu một cách đầy đủ và
khẩn trương nhất có thể, và khi được yêu cầu sẽ sẵn sàng cung cấp bổ sung thông
tin cho Thành viên có yêu cầu. Đặc biệt, thông tin sẽ được cung cấp chi tiết
đến mức có thể cho phép Thành viên yêu cầu có thể đánh giá được tính phù hợp
với nội dung của Hiệp định này. Bất kỳ Thành viên nào thấy rằng những thông tin
này chưa được cung cấp thì có thể đưa vấn đề ra trước Uỷ ban.
25.10 Bất kỳ Thành
viên nào khi thấy một biện pháp được một Thành viên khác áp dụng có tác động
như là trợ cấp nhưng không được thông báo phù hợp với các quy định của khoản 1
Điều XVI Hiệp định GATT 1994 và Điều khoản này, thì có thể nêu vấn đề này với
Thành viên đó. Nếu sau đó biện pháp được coi là trợ cấp không được thông báo
nhanh chóng, thì Thành viên đã nêu trên có thể đưa vấn đề về biện pháp được cho
là trợ cấp đó ra Uỷ ban .
25.11 Các Thành
viên sẽ thông báo không chậm trễ cho Uỷ ban về mọi hành động tạm thời hay chính
thức được thực hiện liên quan tới thuế đối kháng. Mọi báo cáo sẽ được cung cấp
sẵn sàng tại Ban Thư ký để các Thành viên khác kiểm tra. Các Thành viên cũng sẽ
nộp báo cáo định kỳ nửa năm, về các biện pháp về thuế đối kháng đã áp dụng trong
nửa năm qua. Báo cáo nửa năm sẽ được nộp theo mẫu tiêu chuẩn được thoả thuận
trước .
25.12 Mỗi Thành
viên sẽ thông báo cho Uỷ ban (a) cơ quan nào của mình có thẩm quyền mở và tiến
hành điều tra nêu tại Điều 11 và (b) thủ tục trong nước điều chỉnh việc mở và
tiến hành điều tra đó.
26.1 Tại phiên
họp đặc biệt định kỳ ba năm một lần, Uỷ ban sẽ xem xét các thông báo mới và đầy
đủ nhận được theo quy định tại khoản 1 Điều XVI Hiệp định GATT 1994 và khoản 1
Điều 25 của Hiệp định này. Các thông báo được nộp trong những năm giữa hai
phiên họp (thông báo cập nhật) sẽ được xem xét tại mỗi phiên họp thường kỳ.
26.2 Uỷ ban sẽ
xem xét các báo cáo đã nộp theo quy định tại khoản 11 Điều 25 tại mỗi phiên họp
thường kỳ.
27.1 Các Thành
viên thừa nhận rằng trợ cấp có thể đóng vai trò quan trọng trong các chương
trình phát triển của các Thành viên đang phát triển.
27.2 Những quy
định cấm tại điểm1 (a) Điều 3 sẽ không áp dụng đối với:
(a) các Thành viên đang phát triển nêu tại
phụ lục VII.
(b) các Thành viên đang phát triển khác, trong
thời gian tám năm kể từ ngày hiệp định WTO có hiệu lực, tuỳ thuộc vào các quy
định tại khoản 4.
27.3 Những quy
định cấm tại điểm 1(b) Điều 3 sẽ không áp dụng với các Thành viên đang phát triển
trong thời gian năm năm, và sẽ không áp dụng với các Thành viên chậm phát triển
nhất trong thời gian tám năm, kể từ ngày hiệp định WTO có hiệu lực.
27.4 Các Thành
viên đang phát triển nêu tại điểm 2(b), sẽ loại bỏ dần trợ cấp xuất khẩu trong
vòng 8 năm và tốt nhất là nên làm từng bước. Tuy nhiên, một Thành viên đang
phát triển sẽ không tăng mức trợ cấp xuất khẩu[55]
của mình và sẽ loại bỏ trợ cấp đó trong thời gian ngắn hơn thời hạn nêu tại khoản
này nếu việc sử dụng trợ cấp như vậy không phù hợp với nhu cầu phát triển của
mình. Nếu một Thành viên đang phát triển thấy cần áp dụng trợ cấp đó vượt quá
thời hạn tám năm, thì không chậm hơn một năm trước khi kết thúc thời hạn tám
năm đã quy định, thì Thành viên đó sẽ tham vấn cho Uỷ ban, sau khi xem xét mọi
nhu cầu kinh tế, tài chính và phát triển liên quan của Thành viên đó, Uỷ ban sẽ
xác định việc gia hạn có đủ cơ sở không. Nếu Uỷ ban xác định rằng việc gia hạn
là có cơ sở, thì Thành viên đó sẽ tiến hành tham vấn hàng năm với Uỷ ban để xác
định tính cần thiết phải duy trì trợ cấp đó. Nếu Uỷ ban không xác định được
tính cần thiết, thì Thành viên đó sẽ loại bỏ trợ cấp xuất khẩu vẫn còn áp dụng
trong vòng hai năm, kể từ ngày hết thời hạn cho phép.
27.5 Một Thành
viên đang phát triển đã đạt được trình độ cạnh tranh trong xuất khẩu với bất kỳ
sản phẩm xuất khẩu nào sẽ xoá bỏ dần trợ cấp xuất khẩu đối với sản phẩm đó
trong thời hạn hai năm. Tuy nhiên, với một Thành viên đang phát triển nêu tại
phụ lục VII và đã đạt được tính cạnh tranh trong xuất khẩu một hoặc nhiều sản
phẩm, trợ cấp xuất khẩu với sản phẩm đó sẽ được xoá bỏ trong vòng tám năm.
27.6 Được coi
là có tính cạnh tranh trong một sản phẩm nếu Thành viên đang phát triển đã xuất
khẩu sản phẩm này chiếm ít nhất 3,5% thị phần của thương mại thế giới về sản phẩm
đó trong hai năm liên tục. Tính cạnh tranh trong xuất khẩu được coi là đã có
(a) trên cơ sở thông báo của Thành viên đang phát triển là họ đã đạt được tính
cạnh tranh trong xuất khẩu, hoặc là (b) trên cơ sở tính toán của Ban Thư ký
theo yêu cầu của Thành viên khác. Theo khoản này, một sản phẩm được định nghĩa
là tương ứng với nhóm hàng theo hệ thống HS. Uỷ ban sẽ xem xét lại việc thực
hiện điều khoản này trong năm năm kể từ ngày hiệp định WTO có hiệu lực.
27.7 Các quy định
của Điều 4 sẽ không áp dụng đối với các Thành viên đang phát triển trong trường
hợp trợ cấp xuất khẩu phù hợp với các quy định từ khoản 2 tới khoản 5. Trong
trường hợp đó, sẽ áp dụng các quy định liên quan của Điều 7.
27.8 Một khoản
trợ cấp được một nước đang phát triển áp dụng sẽ không bị suy đoán là gây ra
thiệt hại nghiêm trọng theo điều kiện của khoản 1 Điều 6, theo định nghĩa của
Hiệp định này. Thiệt hại nghiêm trọng nói tại khoản 9 phải có bằng chứng khẳng
định theo các quy định của các khoản từ 3 tới 8 Điều 6.
27.9 Đối với những
trợ cấp có thể đối kháng được một Thành viên là nước đang phát triển áp dụng
hay duy trì, nhưng không thuộc loại được nêu tại khoản 1 Điều 6, thì hành động
đối kháng không được phép hay thực hiện theo Điều 7, trừ khi xác định được là
do có trợ cấp thuộc loại đó mà làm mất hay giảm hiệu lực của các nhân nhượng về
thuế quan hoặc những nghĩa vụ khác theo Hiệp định GATT 1994, đến mức loại bỏ hay
ngăn cản việc nhập khẩu một sản phẩm tương tự của một Thành viên khác vào thị
trường Thành viên đang phát triển đang trợ cấp trừ khi gây ra thiệt hại cho ngành
sản xuất trong nước trên thị trường của Thành viên đang nhập khẩu.
27.10 Bất kỳ việc
điều tra thuế đối kháng nào áp dụng đối với sản phẩm có xuất xứ từ một Thành
viên đang phát triển sẽ bị chấm dứt ngay khi cơ quan có thẩm quyền liên quan
xác định được rằng:
(a) tổng số trợ cấp cho một sản phẩm không
vượt quá 2% giá trị của nó tính theo trị giá trên cơ sở đơn vị sản phẩm; hoặc
(b) khối lượng hàng nhập khẩu được trợ cấp
chỉ chiếm dưới 4% tổng nhập khẩu sản phẩm tương tự vào Thành viên nhập khẩu,
trừ khi nhập khẩu từ các Thành viên đang phát triển có thị phần riêng dưới 4%
chiếm tổng thị phấn lớn hơn 9% tổng thị phần nhập khẩu sản phẩm tương tự tại
Thành viên nhập khẩu.
27.11 Đối với
các Thành viên đang phát triển thuộc diện đã nêu tại điểm 2(b) đã xoá bỏ trợ cấp
xuất khẩu trước khi hết thời hạn tám năm kể từ ngày Hiệp định WTO bắt đầu có
hiệu lực, và đối với các Thành viên đang phát triển trong phụ lục VII, con số
tương ứng nêu tại điểm 10(a) sẽ là 3% thay cho 2%. Quy định này sẽ được áp dụng
kể từ ngày việc xoá bỏ trợ cấp được thông báo cho Uỷ ban, và còn được áp dụng
chừng nào Thành viên đang phát triển đã thông báo không áp dụng trợ cấp xuất
khẩu. Quy định này sẽ hết hiệu lực sau tám năm kể từ ngày Hiệp định WTO bắt đầu
có hiệu lực.
27.12 Các quy
định của khoản 10 và 11 sẽ điều chỉnh việc xác định trợ cấp thuộc loại không đáng
kể hoặc tối thiểu (de minimis) nêu tại khoản 3 Điều 15.
27.13 Các quy
định của Phần III sẽ không áp dụng đối với việc xoá nợ trực tiếp, trợ cấp nhằm bù
đắp chi phí xã hội, dưới bất kỳ hình thức nào, kể cả việc miễn thu những khoản
phải nộp cho chính phủ và chuyển giao trách nhiệm khi các khoản trợ cấp đó được
cấp trong khuôn khổ và gắn liền với một chương trình tư nhân hoá của Thành viên
đang phát triển với điều kiện các chương trình đó và những trợ cấp liên quan
được áp dụng trong một thời gian hạn chế và được thông báo cho Uỷ ban và chương
trình đó cuối cùng đưa đến kết quả tư nhân hoá xí nghiệp liên quan.
27.14 Khi một
Thành viên đang phát triển có quan tâm yêu cầu, Uỷ ban sẽ xem xét lại thực tế về
một trợ cấp xuất khẩu riêng tại một Thành viên đang phát triển để xác định xem
việc trợ cấp đó có phù hợp với nhu cầu phát triển của Thành viên đó hay không.
27.15 Khi một
Thành viên đang phát triển có quan tâm yêu cầu, Uỷ ban sẽ xem xét lại một biện pháp
đối kháng để xác định việc biện pháp đó có phù hợp với các quy định của khoản
10 và 11 như được áp dụng đối với các Thành viên đang phát triển nêu ở đây hay
không.
28.1 Với các chương
trình trợ cấp đã được triển khai trên lãnh thổ một Thành viên trước ngày Thành
viên đó ký Hiệp định Thành lập WTO và không phù hợp với các quy định của Hiệp
định này sẽ:
(a) được thông báo cho Uỷ ban trong vòng 90
ngày, kể từ ngày Hiệp định WTO có hiệu lực đối với Thành viên đó; và
(b) được điều chỉnh cho phù hợp với các quy
định của Hiệp định này trong vòng ba năm, kể từ ngày Hiệp định WTO có hiệu lực
đối với Thành viên đó và cho đến khi đó, các chương trình này sẽ không chịu sự
điều chỉnh của Phần II.
28.2 Không một
Thành viên nào mở rộng phạm vi của những chương trình đó và không một chương
trình nào sẽ được gia hạn thêm khi hết hạn.
29.1 Các Thành
viên đang trong thời kỳ chuyển đổi từ một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung
sang một nền kinh tế thị trường, tự do kinh doanh có thể áp dụng những chương
trình và biện pháp cần thiết cho quá trình chuyển đổi.
29.2 Đối với
các Thành viên nói trên, các chương trình trợ cấp thuộc diện điều chỉnh của Điều
3 và đã được thông báo phù hợp với khoản 3, sẽ được loại bỏ dần và điều chỉnh
cho phù hợp với Điều 3 trong vòng 7 năm, kể từ ngày Hiệp định WTO bắt đầu có
hiệu lực. Trong trường hợp này Điều 4 sẽ không được áp dụng. Ngoài ra, trong cùng
thời gian đó:
(a) các chương trình trợ cấp nêu tại điểm
1(d) Điều 6 sẽ không thuộc diện có thể dẫn tới hành động đối kháng nêu tại Điều
7;
(b) đối với các những trợ cấp có thể dẫn tới
hành động đối kháng, các quy định của khoản 9 Điều 27 sẽ được áp dụng.
29.3 Các chương
trình thuộc diện nêu tại Điều 3 sẽ được thông báo cho Uỷ ban vào một ngày gần
nhất có thể được, sau ngày Hiệp định WTO bắt đầu có hiệu lực. Trợ cấp khác có
thể được thông báo hai năm sau ngày Hiệp định WTO có hiệu lực.
29.4 Trong những
trường hợp ngoại lệ, Các Thành viên nêu tại khoản 1 có thể được Uỷ ban cho phép
vận dụng khác đi trong các chương trình và biện pháp và lịch trình cụ thể của
Thành viên đó đã thông báo nếu làm như vậy là cần thiết cho các tiến trình
chuyển đổi kinh tế của Thành viên đó.
Các quy định của
các Điều XXII và XXIII của Hiệp định GATT 1994 đã được chi tiết hoá và vận dụng
tại Thoả thuận về giải quyết tranh chấp sẽ áp dụng cho việc tham vấn và giải
quyết tranh chấp theo Hiệp định này, trừ khi Trong Hiệp định này có quy định
khác.
Các quy định của
khoản 1 Điều 6 và các quy định của Điều 8 và Điều 9 sẽ được áp dụng trong một
thời hạn 5 năm, bắt đầu từ ngày Hiệp định WTO có hiệu lực. Không chậm hơn 180
ngày trước khi kết thúc thời hạn này,Uỷ ban sẽ xem xét lại tình hình thực thi
các quy định đó, nhằm quyết định có gia hạn việc áp dụng chúng hay không, dưới
hình thức giữ nguyên nội dung như hiện nay hay có sửa đổi cho một thời kỳ tiếp
theo.
32.1 Không hành
động cụ thể nào được thực hiện chống lại việc trợ cấp của Thành viên khác, trừ
khi được áp dụng theo các quy định của Hiệp định GATT 1994, được thể hiện ở Hiệp
định này[56].
32.2 Không một
bảo lưu về bất kỳ một quy định nào của Hiệp định này được chấp nhận nếu không
đạt được sự đồng thuận của tất cả các Thành viên khác.
32.3 Căn cứ vào
khoản 4, các quy định của Hiệp định này sẽ được áp dụng cho việc điều tra, rà
soát các biện pháp hiện tại được khởi đầu theo đơn được lập vào ngày hoặc sau
ngày Hiệp định WTO có hiệu lực đối với một Thành viên của Hiệp định WTO.
32.4 Theo khoản
3 Điều 21, các biện pháp đối kháng hiện tại sẽ được coi là áp dụng vào ngày
không chậm hơn ngày Hiệp định WTO có hiệu lực đối với một Thành viên của Hiệp
định WTO, trừ trường hợp pháp luật trong nước của Thành viên đó có hiệu lực vào
ngày nói trên đã có thuộc loại đã quy định tại khoản 3.
32.5 Mỗi Thành
viên kể từ ngày không chậm hơn ngày Hiệp định WTO có hiệu lực sẽ có những bước
đi cần thiết, mang tính chất chung hoặc riêng biệt để đảm bảo mọi luật, quy
định và thủ tục hành chính của mình phù hợp với các quy định của Hiệp định này,
khi được áp dụng cho Thành viên liên quan.
32.6 Mỗi Thành
viên sẽ thông báo cho Uỷ ban về bất kỳ sự thay đổi nào trong các luật và quy
định liên quan tới Hiệp định này và trong việc thi hành các luật, quy định đó.
32.7 Hàng năm,
Uỷ ban sẽ xem xét lại việc thực hiện và hiệu lực của Hiệp định này, có tính đến
mục tiêu đã được đề ra tại Hiệp định. Uỷ ban sẽ thông báo hàng năm cho Hội đồng
Thương mại Hàng hoá về những tiến triển trong thời kỳ được xem xét nói trên.
32.8 Các phụ lục
của Hiệp định này là một bộ phận không tách rời của Hiệp định.
(a) Việc Chính
phủ trợ cấp trực tiếp cho một hãng hoặc một ngành sản xuất trong nước tính theo
kết quả xuất khẩu.
(b) Các chương
trình giữ lại ngoại tệ hoặc việc làm tương tự có thưởng khuyến khích xuất khẩu.
(c) Vận chuyển
nội địa và cước phí giao hàng xuất khẩu, được Chính phủ cung cấp hoặc giao
quyền cung cấp, với những điều kiện thuận lợi hơn so với giao hàng nội địa.
(d) Chính phủ
hoặc cơ quan Chính phủ cung cấp sản phẩm và dịch vụ nhập khẩu, hoặc sản xuất trong
nước sử dụng để sản xuất hàng xuất khẩu, trực tiếp hay gián tiếp thông qua các
chương trình được phép của Chính phủ, với những điều kiện thuận lợi hơn cung
cấp cho các sản phẩm tương tự hoặc sản phẩm cạnh tranh trực tiếp hay dịch vụ để
sử dụng trong sản xuất hàng tiêu thụ trong nước, nếu trong trường hợp là một
sản phẩm, các điều kiện điều khoản đó thuận lợi hơn điều kiện thương mại thông
thường sẵn có[57] trên thị trường thế giới dành
cho nhà xuất khẩu của Thành viên đó.
(e) miễn, hay
tạm ngừng thu toàn bộ hoặc một phần các khoản thuế trực thu[58] hay các khoản đóng góp xã hội mà doanh nghiệp sản
xuất hay thương mại[59] đã hoặc phải thanh toán,
chỉ áp dụng riêng với xuất khẩu,
(f) cho phép miễn
giảm trực tiếp liên quan tới xuất khẩu hoặc kết quả xuất khẩu, vượt quá hay cao
hơn những miễn giảm dành cho sản xuất để tiêu thụ trong nước, trong cách tính
toán cơ sở để thu thuế trực tiếp.
(g) miễn hay hoàn
thuế gián thu58 cao hơn mức áp dụng đối với sản xuất hay lưu thông
một sản phẩm tương tự tiêu thụ trên thị trường nội địa, đối với sản xuất hay
lưu thông xuất khẩu hàng hoá.
(h) miễn, hoàn
hay chuyển thuế gián thu58 sang kỳ sau thuộc diện thu gộp cho cả các
công khoản trước đây với hàng hoá hay dịch vụ được sử dụng trong sản xuất hàng
xuất khẩu vượt quá mức được miễn, giảm hay hoãn thu với các khoản thuế gián thu
gộp đánh vào sản phẩm hay dịch vụ thuộc các giai đoạntrước đây tương ứng được
tiêu thụ trên thị trường trong nước; tuy nhiên với điều kiện là, các khoản thuế
gián thu gộp được miễn, hoàn trả hay chuyển có thể áp dụng đối với hàng đã xuất
khẩu mà không áp dụng với sản phẩm tương tự được tiêu thụ trong nước, khi các
khoản thuế gián thu gộp được đánh vào vật tư đầu vào tiêu dùng cho sản xuất
hàng xuất khẩu (tạo thành hao phí thông thường)[60].
Điểm này có thể được hiểu một cách phù hợp với hướng dẫn về tiêu thụ đầu vào
trong tiến trình sản xuất nêu tại Phụ lục II.
(i)hoàn trả hay
giảm các khoản thu phí nhập khẩu58 vượt quá số thu đối với hàng nhập
khẩu tiêu thụ ở đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu (tạo thành mức hao phí thông
thường); tuy nhiên, nếu trong những trường hợp riêng biệt, một hãng có thể sử
dụng một số lượng vật tư đầu vào trên thị trường trong nước ngang với hay có
cùng chất lượng và đặc điểm như đầu vào nhập khẩu để thay thế đầu vào trong
nước đó để có thể được hưởng lợi từ quy định này khi các hoạt động nhập khẩu và
xuất khẩu tương ứng cùng phát sinh trong một thời kỳ hợp lý nhưng không quá hai
năm. Điểm này có thể được hiểu một cách phù hợp với hướng dẫn về tiêu thụ đầu
vào trong quá trình sản xuất nêu tại Phụ lục II và hướng dẫn để xác định xem
chế độ giảm thuế áp dụng đối với đầu vào sản phẩm thay thế nhập khẩu như là trợ
cấp xuất khẩu nêu tại Phụ lục III.
(j) Chính phủ
(hoặc các cơ quan đặc biệt do Chính phủ quản lý) thực hiện các chương trình bảo
lãnh tín dụng xuất khẩu, các chương trình bảo hiểm hoặc bảo lãnh nhằm chống lại
sự tăng chi phí sản phẩm xuất khẩu hay các chương trình về rủi ro ngoại hối, với
phí thu thấp không hợp lý, không đủ để chi trả cho chi phí hoạt động dài hạn
hoặc thâm hụt của các chương trình đó.
(k) Chính phủ
(hoặc các cơ quan đặc biệt trực thuộc hoặc do Chính phủ quản lý) cấp các khoản tín
dụng xuất khẩu với lãi suất thấp hơn mức mà họ thực tế phải trả để có được tiền
thực hiện việc này (hay lẽ ra phải trả nếu vay trên thị trường vốn quốc tế để
có được tiền với cùng thời hạn và các điều kiện tín dụng, và được tính bằng cùng
một đồng tiền của tín dụng xuất khẩu), hoặc các cơ sở đó trả cho toàn bộ hay
một phần chi phí phát sinh với nhà xuất khẩu hay với thể chế tài chính để có
được tín dụng, trong chừng mực các khoản tín dụng đó được sử dụng để bảo đảm dành
cho nhà xuất khẩu những lợi thế đáng kể trong lĩnh vực tín dụng xuất khẩu.
Tuy nhiên, với
điều kiện là nếu một Thành viên có tham gia một liên kết quốc tế về tín dụng
xuất khẩu mà, tính đến ngày 1 tháng 1 năm 1979, ít nhất mười hai Thành viên
sáng lập của Hiệp định này là thành viên của liên kết đó (hay một hình thức kế
tục của nó được các Thành viên sáng lập thông qua), hoặc trong thực hành một
Thành viên áp dụng các quy định về lãi xuất của liên kết đó, thực hành tín dụng
xuất khẩu phù hợp với các quy định đó sẽ không bị coi là trợ cấp xuất khẩu
thuộc diện cấm theo Hiệp định này.
(l) Bất kỳ khoản
thu nào từ ngân sách nhà nước tạo thành trợ cấp theo nội dung quy định tại Điều
XVI GATT 1994.
I
1. Các chương
trình giảm thuế gián thu có thể cho phép miễn, hoàn hay chuyển việc thu những khoản
thuế gián thu thuộc các giai đoạn trước đánh vào vật tư đầu vào được sử dụng
trong sản xuất sản phẩm xuất khẩu (tính tới hao phí định mức thông thường).
Tương tự như vậy, các chương trình giảm thuế có thể cho phép hoàn hay giảm
những khoản thu đối với hàng nhập khẩu đánh vào đầu vào được tiêu thụ cho sản
xuất hàng xuất khẩu (tính tới hao phí định mức thông thường).
2.Danh mục Minh
họa trợ cấp xuất khẩu tại Phụ lục I của Hiệp định này sử dụng thuật ngữ “đầu
vào được sử dụng trong sản xuất hàng xuất khẩu” tại điểm (h) và (i). Theo quy
định tại điểm (h), các chương trình giảm thuế gián thu có thể tạo thành một trợ
cấp xuất khẩu trong chừng mực các chương trình đó dẫn tới việc miễn, hoàn, giảm
hay chuyển các khoản thuế gián thu vượt quá mức tương ứng thông thường vẫn đánh
vào vật tư đầu vào tiêu dùng cho sản xuất hàng xuất khẩu. Theo quy định của
điểm (i), các chương trình giảm các khoản thu đánh vào hàng nhập khẩu có thể
tạo thành một trợ cấp xuất khẩu trong chừng mực các chương trình đó dẫn tới việc
hoàn, giảm hay chuyển các khoản thu vượt quá các khoản tương ứng vẫn thường áp
dụng với đầu vào tiêu dùng cho sản xuất hàng xuất khẩu. Cả hai điểm trên đều
quy định rằng tỷ lệ hao phí thông thường phải căn cứ vào thực tế tiêu thụ vật
tư đầu vào trong sản xuất hàng xuất khẩu. Điểm (i) cũng quy định về những sản
phẩm thay thế.
II
Khi xem
xét liệu vật tư đầu vào có được tiêu dùng cho sản xuất hàng xuất khẩu hay không
có phải là một nội dung điều tra về thuế đối kháng theo Hiệp định này, cơ quan
có thẩm quyền điều tra phải tiến hành theo cách thức sau:
1. Trong trường
hợp nghi ngờ có một chương trình giảm thuế gián thu hay thoái thu có tính chất
trợ cấp do hoàn thuế hay thoái thu quá mức với những khoản đã thu đối với nhập
khẩu đầu vào tiêu dùng cho sản xuất hàng xuất khẩu, cơ quan có thẩm quyền điều
tra trước hết phải xác định xem Chính phủ Thành viên đang xuất khẩu hiện có và
áp dụng một chương trình hay thủ tục như thế hay không để xác nhận được những
vật tư đầu vào nào được tiêu dùng cho sản xuất hàng xuất khẩu và với số lượng
bao nhiêu . Khi đã xác định được có tồn tại một hệ thống như vậy, cơ quan có
thẩm quyền điều tra sẽ tiếp tục xem xét xem hệ thống đó có hợp lý không, có hiệu
lực để đạt mục tiêu đề ra không và có dựa trên những tập quán thương mại vẫn
thường được chấp nhận tại nước xuất khẩu không. Cơ quan có thẩm quyền điều tra
khi đó có thể thấy cần tiến hành thử nghiệm thực tế, theo đúng các quy định của
khoản 6 Điều 12, nhằm xác minh thông tin và đảm bảo rằng một chương trình hay
những thủ tục nói trên đang thực sự tồn tại.
2. Khi không tồn
tại một chương trình hay thủ tục như vậy, hoặc một chương trình hay thủ tục đó
không hợp lý, hoặc một chương trình hay thủ tục như vậy được coi là hợp lý nhưng
trong thực tế lại không được áp dụng hoặc áp dụng không hiệu quả, Thành viên
xuất khẩu cần tiếp tục tiến hành kiểm tra dựa trên lượng đầu vào thực sự sử
dụng và xác định xem có thanh toán trội hơn không. Nếu cơ quan có thẩm quyền điều
tra thấy cần thiết, thì có thể tiếp tục kiểm tra theo quy định tại khoản 1.
3. Các cơ quan
có thẩm quyền điều tra phải coi các vật tư đầu vào là một khối thống nhất về
mặt vật lý nếu như các vật tư đầu vào này được sử dụng trong quá trình sản xuất
và trực tiếp hiện diện trong sản phẩm được xuất khẩu. Các Thành viên ghi nhận
rằng nguyên liệu đầu vào không nhất thiết phải hiện diện trong sản phẩm cuối
cùng dưới hình thức ban đầu khi tham gia quá trình sản xuất.
4. Khi xác định
khối lượng của một loại đầu vào cụ thể được tiêu dùng để sản xuất hàng xuất
khẩu, cần tính đến “ tỷ lệ hư hao thông thường”, và mức hư hao đó cũng được
tính là đã tiêu dùng cho sản xuất sản phẩm xuất khẩu. Thuật ngữ “hư hao” là tỷ
lệ một loại đầu vào nhất định, không được sử dụng một cách độc lập trong quá
trình sản xuất, không tiêu dùng cho sản xuất sản phẩm xuất khẩu, (với những lý
do như là tính kém hiệu quả) và nhà chế tạo đó không thu hồi lại hoặc không bán
được.
5. Việc cơ quan
có thẩm quyền điều tra xác định một định mức hư hao đã đưa ra có được coi là
"thông thường" hay không cần tính đến quá trình sản xuất, kinh nghiệm
trung bình của ngành sản xuất tại nước xuất khẩu, và các nhân tố kỹ thuật khác,
khi thấy thích hợp. cơ quan có thẩm quyền điều tra cần luôn ý thức rằng điều
quan trọng là cơ quan có thẩm quyền tại Thành viên xuất khẩu đã tính toán khối
lượng hư hao một cách hợp lý chưa, và khi nào khối lượng hư hao đó được tính
với ý định bao hàm trong khoản miễn hay hoàn thuế, thoái thu thuế.
Phụ lục III
I
Hệ
thống thoái thu có thể cho phép hoàn trả hoặc thoái thu các khoản thu nhập khẩu
đánh vào đầu vào được tiêu thụ trong quá trình sản xuất một sản phẩm khác và
khi sản phẩm này được xuất khẩu có mang một hàm lượng đầu vào có nguồn gốc
trong nước có cùng chất lượng và đặc điểm của vật tư đầu vào thay thế cho hàng
nhập khẩu. Theo quy định của khoản (i) Danh mục minh họa trợ cấp xuất khẩu nêu
tại Phụ lục I, Hệ thống thoái thu áp dụng đối với sản phẩm thay thế có thể tạo
thành một khoản trợ cấp xuất khẩu trong chừng mực hệ thống đó dẫn tới việc
thoái thu vượt quá các khoản thu ban đầu đánh vào đầu vào nhập khẩu được yêu
cầu thoái thu.
II
Khi xem
xét các hệ thống thoái thu với hàng thay thế với tính cách là một phần của cuộc
điều tra về thuế đối kháng theo quy định của Hiệp định này, cơ quan có thẩm quyền
điều tra cần tiến hành theo phương pháp sau.
1. Đoạn (i) của
Danh mục minh họa quy định rằng đầu vào nguồn trong nước có thể thay thế đầu
vào nguồn nhập khẩu trong sản xuất một sản phẩm dành cho xuất khẩu với điều kiện
đầu vào từ hai nguồn này được tiêu thụ với số lượng ngang nhau và có cùng chất
lượng và tính chất với đầu vào nhập khẩu được thay thế. Sự tồn tại của một hệ
thống hay thủ tục kiểm tra là quan trọng bởi vì nó cho phép Chính phủ Thành viên
xuất khẩu đảm bảo và chứng minh được rằng số lượng vật tư đầu vào yêu cầu được
thoái thu không vượt quá số lượng sản phẩm tương tự đã xuất khẩu, dù dưới hình
thức nào, và không có tình trạng thoái thu những khoản phí đánh vào hàng nhập
khẩu vượt quá số đã thu ban đầu với hàng nhập khẩu liên quan.
2. Khi có lập
luận cho rằng một hệ thống thoái thu dẫn tới một khoản trợ cấp, cơ quan có thẩm
quyền điều tra trước hết phải tiến hành xác định xem chính phủ Thành viên xuất khẩu
có và đang sử dụng một hệ thống hay thủ tục kiểm tra hay không. Khi đã xác định
được có một hệ thống hay thủ tục như vậy đang được áp dụng, cơ quan có thẩm
quyền điều tra sẽ tiến hành tiếp xem xét thủ tục kiểm tra có hợp lý, có hữu
hiệu với mục tiêu được đặt ra, và có dựa trên những tập quán thương mại thông
thường vẫn được chấp nhận tại nước xuất khẩu hay không. Trong chừng mực mà
những thủ tục đó được xác định là đáp ứng yêu cầu kiểm tra và thực sự hữu hiệu,
thì sẽ được coi là không có tồn tại trợ cấp (xuất khẩu). Cơ quan có thẩm quyền
điều tra có thể tự thấy cần thiết phải tiến hành một số thử nghiệm thực tế,
theo quy định tại khoản 6 Điều 12, nhằm kiểm tra thông tin và tự mình đánh giá
xem thủ tục kiểm tra có thực sự được áp dụng không.
3. Có thể được
coi là trợ cấp, khi không tồn tại thủ tục kiểm tra, hoặc những thủ tục đó không
hợp lý, hoặc những thủ tục đó có tồn tại và được coi là hợp lý nhưng trong thực
tế được xác định là không được áp dụng hoặc áp dụng một cách không có hiệu quả.
Trong những trường hợp đó, Thành viên xuất khẩu cần tiến hành kiểm tra trên cơ
sở các giao dịch thực tế liên quan để xác dịnh xem có trả vượt mức không. Nếu
cơ quan có thẩm quyền điều tra thấy cần thiết, thì cần tiếp tục kiểm tra theo
quy định tại khoản 2.
4. Sự tồn tại
của một quy định về thoái thu đối với hàng thay thế (nhập khẩu) cho phép nhà xuất
khẩu lựa chọn những chuyến hàng nhập khẩu và yêu cầu được thoái thu căn cứ vào
các chuyến hàng đó chỉ tự nó không được coi là tạo thành một trợ cấp.
5.Thoái thu trội
những khoản thu với hàng nhập khẩu theo nội dung khoản (i) được coi là có tồn
tại khi một chính phủ thanh toán lãi cho bất kỳ khoản tiền thoái thu nào được
trả trong khuôn khổ chương trình đó, với mức độ tương ứng những khoản đã hoặc
có thể được thanh toán trội đó.
1. Giá trị
của trợ cấp theo điểm 1(a) Điều 6 phải được tính theo chi phí mà Chính phủ cấp
trợ cấp phải trả.
2. Trừ những quy
định từ khoản 3 đến khoản 5, khi xác định xem tổng mức trợ cấp có vượt quá 5%
giá trị của sản phẩm hay không, thì giá trị của sản phẩm sẽ được tính toán như
là tổng doanh số của công ty nhận trợ cấp[63]trong
12 tháng gần nhất trước thời kỳ trợ cấp[64] được
cấp mà trong giai đoạn này số liệu về doanh số là sẵn có.
3. Khi việc trợ
cấp được gắn với việc sản xuất hay bán ra một sản phẩm nhất định, giá trị của sản
phẩm sẽ được tính toán như là tổng trị giá doanh số bán của sản phẩm đó của công
ty nhận trợ cấp trong mười hai tháng gần nhất trước thời kỳ được cấp trợ cấp mà
trong thời kỳ này số liệu về doanh số là sẵn có.
4. Nếu công ty
tiếp nhận trợ cấp đang trong giai đoạn khởi đầu, tổn hại nghiêm trọng được coi
là có tồn tại khi tổng mức trợ cấp vượt quá 15% của tổng vốn đầu tư. Theo khoản
này, thời kỳ khởi đầu không được kéo dài quá một năm đầu bắt đầu sản xuất[65]
5. Nếu công ty
nhận trợ cấp hoạt động tại một nước có nền kinh tế lạm phát cao, thì trị giá của
sản phẩm sẽ được tính toán trên tổng doanh số của công ty nhận trợ cấp (hoặc
doanh số của sản phẩm liên quan nếu trợ cấp là ràng buộc với sản phẩm đó) trong
năm dương lịch trước đó tính theo mức lạm phát trong mười hai tháng trước khi
được trợ cấp.
6. Khi tính tổng
mức trợ cấp trong một năm, các khoản trợ cấp theo các chương trình khác nhau từ
nguồn của các cơ quan có thẩm quyền khác nhau trên cùng lãnh thổ sẽ được tính
gộp lại.
7. Những trợ cấp
được cấp trước ngày Hiệp định WTO có hiệu lực, mà lợi ích có được từ những trợ
cấp này thuộc thời kỳ sản xuất trong tương lai, sẽ được tính vào trong tổng mức
trợ cấp.
8. Những khoản
trợ cấp không dẫn tới hành động đối kháng theo những quy định liên quan trong
Hiệp định này sẽ không được tính vào mức trợ cấp theo điểm 1(a) Điều 6.
1. Mọi Thành viên
sẽ hợp tác trong thu thập thông tin về các bằng chứng đưa ra xem xét tại ban hội
thẩm trong tiến trình quy định từ khoản 4 đến khoản 6 Điều 7. Các bên tranh chấp
hoặc bất kỳ Thành viên thứ ba nào liên quan sẽ thông báo cho Cơ quan giải quyết
tranh chấp, ngay khi các quy định của khoản 4 Điều 7 được tham chiếu, về tổ
chức chuyên trách cung cấp thông tin này trên lãnh thổ của Thành viên đó và các
thủ tục cần tiến hành để được cung cấp thông tin.
2. Trường hợp
những vấn đề được đưa ra DSB thuộc nội dung của khoản 4 Điều 7, khi được yêu cầu,
DSB sẽ lập tức bắt đầu thủ tục để có được thông tin liên quan do Chính phủ của
Thành viên đang áp dụng trợ cấp cung cấp cần thiết để xác định sự tồn tại và
mức độ của trợ cấp, giá trị tổng doanh số của công ty được trợ cấp, cũng như những
thông tin cần thiết khác để phân tích những tác hại do sản phẩm được trợ cấp
gây ra[66]. Tiến trình này có thể bao gồm, nếu
thấy cần thiết, đưa ra những câu hỏi cho Chính phủ của Thành viên áp dụng trợ
cấp và Chính phủ có khiếu nại để thu thập thông tin, cũng như để làm sáng tỏ và
đánh giá về những thông tin mà các bên tranh chấp hiện có thông qua thủ tục
thông báo đã nêu tại Phần VII[67].
3. Trong trường
hợp gây tác động đến thị trường một nước thứ ba, một bên tranh chấp có thể thu
thập thông tin, kể cả thông qua việc đặt ra những câu hỏi với Chính phủ Thành
viên thứ ba, cần thiết để phân tích tác động nghịch mà không thể có được từ
Thành viên áp dụng trợ cấp hay có khiếu nại. Thủ tục này phải được tiến hành sao
cho không tạo nên gánh nặng không cần thiết bất hợp lý cho Thành viên thứ ba
đó, nhất là khi Thành viên đó không có ý định tiến hành phân tích thị trường hay
giá cả vì mục tiêu điều tra. Việc cung cấp thông tin chỉ dừng lại ở những thông
tin sẵn có, hoặc Thành viên đó có thể có ngay được (ví dụ như những thông tin
gần nhất hiện có đã được tập hợp bởi các cơ quan thống kê liên quan nhưng chưa
được công bố, số liệu hải quan về nhập khẩu, giá trị đã khai báo của sản phẩm
liên quan v. v. ). Tuy nhiên, nếu một bên trong tranh chấp tự chịu chi phí để
tiến hành phân tích thị trường chi tiết, Thành viên thứ ba đó sẽ tạo thuận lợi
cho cá nhân hay hãng nhận tiến hành phân tích đó và cá nhân đó hay hãng đó sẽ
được phép tiếp cận mọi thông tin thông thường không thuộc diện được Chính phủ
coi là thông tin bí mật.
4. DSB sẽ chỉ
định một đại diện có chức năng tạo thuân lợi cho việc thu thập thông tin. Mục đích
duy nhất của đại diện là đảm bảo thu thập đúng hạn thông tin cần thiết để tạo
thuân lợi cho việc xem xét trong khuôn khổ đa biên vấn đề tranh chấp. Đặc biệt,
đại diện có thể gợi ý cách thức hiệu quả nhất có được thông tin cần thiết cũng
như khích lệ các bên hợp tác cung cấp thông tin.
5.Tiến trình thu
thập thông tin nêu từ khoản 2 đến khoản 4 sẽ được hoàn thành trong vòng 60 ngày
kể từ ngày vấn đề được đưa ra DSB theo khoản 4 Điều 7, thông tin có được trong
tiến trình đó sẽ được cung cấp cho ban hội thẩm, do DSB thành lập theo quy định
tại Phần X. Thông tin đã nêu sẽ bao gồm, nhưng không giới hạn bởi, số liệu về
tổng trợ cấp liên quan, (và khi có điều kiện thích hợp, gồm cả giá trị tổng
doanh số của công ty được trợ cấp), giá cả sản phẩm được trợ cấp, giá cả của
sản phẩm không được trợ cấp, giá cả của các nhà cung cấp khác trên thị trường,
thay đổi về khả năng cung của sản phẩm được trợ cấp trên thị trường liên quan
và thay đổi thị phần. Thông tin đó cũng cần nêu rõ các bằng chứng biện giải,
cũng như các thông tin bổ sung mà ban hội thẩm thấy liên quan trong quá trình
đi đến một kết luận.
6. Nếu một Thành
viên đã áp dụng trợ cấp hay một nước thứ ba không hợp tác trong việc thu thập
thông tin nói trên, thì Thành viên đang khiếu nại sẽ trình bày lập luận của
mình về sự tồn tại của một tổn hại nghiêm trọng dựa vào những nhân tố chứng minh
có được cũng như sự việc và tình trạng bất hợp tác của Thành viên đang áp dụng
trợ cấp hay của Thành viên thứ ba. Trong trường hợp thông tin không sẵn có vì
các Thành viên này bất hợp tác, ban hội thẩm có thể hoàn chỉnh hồ sơ theo yêu
cầu dựa vào những thông tin có được từ các nguồn khác.
7.Khi có quyết
định về việc xác định, ban hội thẩm phải loại trừ ảnh hưởng của việc suy diễn
bất lợi do sự bất hợp tác của một bên tham dự trong tiến trình thu thập thông
tin.
8. Khi xác định
là cần phải sử dụng thông tin tốt nhất có được hay những suy diễn về trường hợp
bất hợp tác, ban hội thẩm sẽ lấy ý kiến của đại diện DSB đã được chỉ định theo
khoản 4 về tính chất hợp lý của yêu cầu cung cấp thông tin và những cố gắng đã
có của các bên nhằm trả lời một cách kịp thời và trên tinh thần hợp tác.
9. Không có quy
định nào về việc thu thập thông tin hạn chế khả năng của ban hội thẩm trong việc
tìm kiếm thông tin bổ sung được cho là thiết yếu cho việc giải quyết tranh chấp
một cách thoả đáng và là những thông tin chưa được yêu cầu hay chưa thu thập
được một cách đầy đủ. Tuy nhiên, thông thường ban hội thẩm không nên yêu cầu
những thông tin bổ sung để hoàn chỉnh hồ sơ trong trường hợp những thông tin đó
tăng cường vị trí cho một bên cụ thể và việc không có thông tin là kết quả của
sự bất hợp tác phi lý của bên đó trong việc thu thập thông tin.
1. Ngay khi bắt
đầu một cuộc điều tra, cơ quan có thẩm quyền của Thành viên xuất khẩu và các
doanh nghiệp rõ ràng có liên quan sẽ phải được thông báo về ý định tiến hành
điều tra tại chỗ.
2.Trong những
trường hợp ngoại lệ, nếu có dự kiến đưa các chuyên gia không thuộc Chính phủ tham
gia vào nhóm điều tra viên, các doanh nghiệp và cơ quan có thẩm quyền của Thành
viên xuất khẩu phải được thông báo. Các chuyên gia này phải thực sự chịu trách
nhiệm nếu vi phạm yêu cầu không tiết lộ thông tin.
3.Tập quán
thông thường là phải được sự đồng ý rõ ràng của các doanh nghiệp liên quan của
Thành viên xuất khẩu trước khi định ngày tới thăm và thu thập thông tin.
4.Cơ quan có thẩm
quyền điều tra, ngay khi nhận được sự chấp nhận của các doanh nghiệp liên quan,
phải thông báo cho cơ quan có thẩm quyền của Thành viên xuất khẩu biết tên và
địa chỉ của các doanh nghiệp sẽ cung cấp thông tin kể cả ngày dự kiến đã định.
5. Các doanh nghiệp
liên quan phải được báo trước một thời gian hợp lý.
6.Việc gặp gỡ
trực tiếp các doanh nghiệp để làm rõ các câu hỏi chỉ được tiến hành khi được các
doanh nghiệp xuất khẩu yêu cầu. Trong trường hợp đó, cơ quan có thẩm quyền điều
tra có thể sẵn sàng phục vụ các doanh nghiệp đó, buổi gặp chỉ được tiến hành
khi (a) cơ quan có thẩm quyền của Thành viên nhập khẩu đã thông báo cho đại
diện chính quyền của Thành viên liên quan về việc đó, và (b) chính quyền Thành
viên liên quan không phản đối.
7. Vì mục tiêu
chính của cuộc điều tra tại chỗ là nhằm kiểm tra thông tin đã được cung cấp
hoặc tìm kiếm thông tin chi tiết hơn, nên cuộc điều tra này chỉ được tiến hành
sau khi đã nhận được các câu trả lời về các câu hỏi đã đặt ra, trừ khi doanh
nghiệp chấp nhận khác , và nếu chính quyền của Thành viên xuất khẩu đã được cơ
quan có thẩm quyền chịu trách nhiệm điều tra thông báo trước về cuộc gặp hoặc
cuộc điều tra và đã không phản đối; ngoài ra tập quán thực hành thông thường
yêu cầu là trước khi đến doanh nghiệp, phải thông báo cho họ biết tính chất
chung của thông tin cần kiểm tra và cần được cung cấp, nhưng điều đó không hạn
chế việc yêu cầu những chi tiết bổ sung cho những thông tin có được khi làm việc
tại chỗ.
8.Các câu hỏi
hay yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền và các doanh nghiệp của Thành viên xuất khẩu
cần thiết cho việc tiến hành điều tra tại chỗ phải được biết vào bất cứ khi nào
có thể trước khi tiến hành cuộc gặp .
Phụ lục VII
Các Thành viên
đang phát triển không chịu sự điều chỉnh của các quy định tại điểm 1 (a) Điều 3
theo các điều kiện quy định tại khoản 2 (a) Điều 27 gồm những nước sau đây:
a) Các nước chậm
phát triển theo định nghĩa của Liên Hợp Quốc là Thành viên WTO.
b) Từng nước đang
phát triển dưới đây là Thành viên WTO sẽ chịu sự điều chỉnh áp dụng đối với
những Thành viên đang phát triển khác theo khoản 2 Điều 27 khi thu nhập quốc
dân tính theo đầu[68] người đạt mức 1000 USD
mỗi năm: Bolivia, Cameroon, Congo, Bờ biển Ngà (Côte d’ Ivoire), Cộng hoà Dominica,
Hy lạp, Ghana, Guyana, ấn độ, Indonesia, Kenya, Ma-rốc, Nicaragua, Nigeria,
Pakistan, Phillipines, Senegal, Sri Lanca, và Zimbabue.
[1] Phù
hợp với các quy định của Điều XVI GATT 1994 ( Ghi chú Điều XVI) và các quy định
của Phụ lục từ I đến III thuộc Hiệp định này, việc miễn thuế xuất khẩu hay các
loại thuế khác cho các sản phẩm tương tự tiêu dùng trong nước, hoặc thoái thu
thuế xuất khẩu hay thuế khác không vượt qúa các khoản đã nộp, sẽ không bị coi
là trợ cấp.
[2] Các
tiêu chí và điều kiện khách quan nêu ở đây là những tiêu chí và điều kiện tự
nhiên, không ưu ái cho một số doanh nghiệp hơn một số doanh nghiệp khác, là
những biện pháp mang tính chất kinh tế, áp dụng chung như số lượng nhân viên
hay quy mô doanh nghiệp.
[3] Về
vấn đề này, cần tính đến các thông tin về mức độ thường xuyên một trợ cấp được
chấp nhận hay từ chối và lý do của quyết định đó.
[4] Tiêu
chuẩn này được đáp ứng khi thực tế cho thấy rằng việc cấp trợ cấp, dù không
được áp dụng theo luật dựa trên kết quả xuất khẩu, nhưng lại gắn với tình hình
xuất khẩu hiện tại hoặc trong tương lai hay những thu nhập về xuất khẩu. Thực
tế là việc trợ cấp được cấp cho các doanh nghiệp xuất khẩu không vì thế mà có
thể bị coi là trợ cấp xuất khẩu hiểu theo nghĩa của Điều này.
[5] Các
biện pháp nêu tại Phụ lục I không thuộc loại trợ cấp xuất khẩu sẽ không bị cấm
theo quy định này hay bất kỳ quy định nào của Hiệp định này.
[6] Mọi
thời hạn nêu tại Điều này có thể được gia hạn nếu được các bên thoả thuận.
[7] Như
quy định tại Điều 24.
[8] Nếu
cuộc họp của DSB không không tổ chức trong thời gian này, thì cuộc họp như vậy
sẽ tổ chức.
[9] Cách
diễn đạt này không nhằm cho phép áp dụng các biện pháp đối kháng không tương
xứng với thực tế nội dung trợ cấp bị cấm theo các quy định này.
[10] Cách diễn đạt này không nhằm cho phép áp dụng các biện
pháp đối kháng không tương xứng với thực tế nội dung trợ cấp bị cấm theo các
quy định này.
[11] Thuật ngữ “gây tổn hại cho ngành sản xuất trong nước” được
sử dụng ở đây có cùng nghĩa như quy định tại Phần V.
[12] Thuật ngữ ‘làm suy giảm hoặc vô hiệu’ được sử dụng trong
Hiệp định này có cùng nghĩa như các quy định liên quan của Hiệp định GATT 1994,
và sự tồn tại của những “suy giảm hoặc vô hiệu” như vậy sẽ được định rõ phù hợp
với việc thi hành các quy định này.
[13] Thuật ngữ “tổn hại nghiêm trọng tới quyền lợi của một
Thành viên khác” được sử dụng trong Hiệp định này có cùng nghĩa như quy định
tại khoản 1 Điều XVI của GATT 1994, và kể cả mối đe doạ tổn hại nghiêm trọng.
[14] Tổng trị giá trợ cấp sẽ được tính toán phù hợp với các quy
định của Phụ lục IV.
[15] Vì biết trước rằng máy bay dân dụng sẽ được điều chỉnh
theo quy định riêng thuộc hệ thống đa biên giới hạn này không áp dụng với máy
bay dân dụng.
[16] Các Thành viên thừa nhận rằng khi trợ cấp trên cơ sở phí
trả định kỳ cho chương trình về máy bay dân dụng không được hoàn trả hết do mức
bán ra hiện tại thấp hơn mức dã dự kiến, thì việc này tự nó không tạo ra thiệt
hại nghiêm trọng nêu tại điểm này.
[17] Trừ khi có thoả thuận đa biên về các quy tắc cụ thể áp
dụng đối với sản phẩm hay hàng hoá đã nêu ra.
[18] Việc khoản này đề cập đến một số tình huống nhất định không
tự nó tạo nên nâng lực pháp lý dù theo GATT 1994 hay theo Hiệp định này. Những
tình huống đó không mang tính chất đơn lẻ, nhất thời hay phi ý nghĩa theo một
cách khác.
[19] Trong trường hợp yêu cầu liên quan tới một trợ cấp được
coi là dẫn đến tổn thất nghiêm trọng hiểu theo nghĩa của khoản 1 Điều 6, thì
tính sẵn có của bằng chứng gây ra tổn hại nghiêm trọng có thể chỉ giới hạn ở
những bằng chứng về việc có đáp ứng được những điều kiện nêu tại khoản 1 Điều 6
hay không.
[20] Bất kỳ thời hạn nào nêu tại Điều này cũng có thể được gia
hạn nếu được các bên cùng chấp nhận.
[21] Nếu cuộc họp của DSB không được tổ chức trong thời gian
này, một cuộc họp như vậy sẽ được tổ chức.
[22] Nếu cuộc họp của DSB không được tổ chức trong thời gian
này, một cuộc họp như vậy sẽ được tổ chức.
[23] Thừa nhận rằng các Thành viên thực hiện một cách rộng rãi
sự hỗ trợ của Chính phủ nhằm những mục đích khác nhau và rằng sự hỗ trợ thuần
tuý như vậy có thể không được coi là trợ cấp không dẫn tới hành động đối kháng
theo các quy định của Điều này không hạn chế khả năng của các Thành viên áp
dụng những hỗ trợ đó.
[24] Vì biết trước rằng máy bay dân dụng được điều chỉnh theo
quy định riêng thuộc hệ thống đa biên , giới hạn này không áp dụng đối với máy
bay dân dụng.
[25] Không chậm hơn 18 tháng, kể từ ngày hiệp định WTO có hiệu
lực, Uỷ ban về trợ cấp và các biện pháp đối kháng quy định tại Điều 24 (trong
Hiệp định này gọi tắt là “Uỷ ban’) phải xem xét việc thi hành các quy định của
điểm 2(a) nhằm có những sửa đổi cần thiết để các quy định này thi hành tốt hơn.
Khi xem xét sửa đổi , Uỷ ban sẽ cân nhắc cẩn thận những gì đã được xác định
thuộc loại nêu trong khoản này dựa trên những kinh nghiệm của các Thành viên
khi thực thi các chương trình nghiên cứu và công việc của các tổ chức quốc tế
liên quan.
[26] Các quy định của Hiệp định này không áp dụng đối với các
hoạt động nghiên cứu cơ bản do hệ thống giáo dục cao cấp hay các thiết chế (cơ
quan chuyên nghiên cứu) tiến hành độc lập. Thuật ngữ nghiên cứu cơ bản mang ý
nghĩa mở rộng hiểu biết về khoa học và kỹ thuật/ công nghệ chung không gắn với
mục tiêu công nghiệp và thương mại.
[27] Mức cho phép với những hỗ trợ không đối kháng nêu tại điểm
này sẽ được tính trên cơ sở tham khảo tổng chi phí phát sinh trong thời gian
tiến hành từng dự án.
[28] Thuật ngữ "nghiên cứu công nghiệp" là việc tìm
kiếm những kiến thức mới nhằm sử dụng hữu ích trong phát triển những sản phẩm
mới, quy trình hay dịch vụ mới, hoặc cải tiến đáng kể sản phẩm mới, quy trình
hay dịch vụ mới.
[29] Thuật ngữ “ các hoạt động phát triển sản phẩm tiền cạnh
tranh” nghĩa là việc chuyển kết quả nghiên cứu công nghiệp thành kế hoạch, bản
thiết kế, bản vẽ của những sản phẩm, quy trình hay dịch vụ, mới được điều chỉnh
cải tiến, dù là nhằm mục đích bán ra hay để sử dụng, kể cả việc bản vẽ mẫu ban
đầu, không có tính chất sử dụng thương mại. ở đây có thể bao gồm cả việc hình
thành ý tưởng, thiết kế sản phẩm, quy trình hay dịch vụ, sự thể hiện hay đề án
thử nghiệm hay trung gian hay, miễn là chính những đề án vẫn giữ nguyên như vậy
không được chuyển đổi trực tiếp hay sử dụng cho ứng dụng công nghiệp hay khai
thác thương mại. ở đây không bao gồm những công việc sửa đổi điều chỉnh thường
nhật hay định kỳ đối với sản phẩm hiện có, những dây chuyền sản xuất, quy trình
chế tác, dịch vụ hay những hoạt động đang được thực hiện dù rằng những sửa đổi
điều chỉnh này có thể là những cải tiến.
[30] Đối với những chương trình bao gồm cả nghiên cứu công nghiệp
và phát triển sản phẩm tiền cạnh tranh, mức cho phép trợ giúp không dẫn đến
khởi kiện không cao hơn mức cho phép trợ giúp không dẫn tới khởi kiện trung
bình áp dụng cho hai chủng loại nêu trên, tính trên cơ sở mọi chi phí tương ứng
như nêu tại điểm (i) đến điểm (v) của khoản này.
[31] Một "chương trình chung phát triển vùng" có
nghĩa là những chương trình trợ cấp vùng là bộ phận của một chính sách phát
triển vùng đồng bộ từ bản thân chính sách và được áp dụng chung, và là trợ cấp
phát triển vùng không được cấp cho một địa điểm địa lý riêng biệt không đem lại
hay về thực chất không đem lại tác động đến sự phát triển của vùng.
[32] “Các tiêu chí trung lập và khách quan” nghĩa là những tiêu
chí không ưu đãi một vùng nhất định quá mức thích hợp để loại trừ hay giảm bớt
sự khác biệt giữa các vùng trong khuôn khổ chính sách phát triển vùng. Về vấn
đề này, các chương trình trợ cấp vùng sẽ bao gồm những giới hạn tối đa về giá
trị trợ giúp có thể được cấp cho mỗi dự án được trợ cấp. Các giới hạn tối đa đó
phải khác nhau căn cứ vào trình độ phát triển khác biệt giữa các vùng được trợ
cấp và được thể hiện theo chi phí đầu tư hay chi phí tạo việc làm. Trong phạm
vi của những giới hạn đó, sự phân bổ trợ giúp sẽ phải đủ mức rộng và đồng đều
để tránh việc chỉ một số doanh nghiệp nhất định sử dụng chủ yếu trợ cấp hoặc
việc cấp một cách thiên lệch những khoản lớn trợ cấp cho một số doanh nghiệp
như quy định tại Điều 2.
[33] Thuật ngữ “những điều kiện hạ tầng hiện có” nghĩa là những
điều kiện hạ tầng đã hoạt động được ít nhất hai năm trước khi những yêu cầu về
môi trường được áp dụng.
[34] Thừa nhận rằng không có gì trong các quy định về thông báo
yêu cầu phải cung cấp thông tin không phỏ biến, kể cả những thông tin về kinh
doanh.
[35] Các quy định của Phần II hay Phần III có thể được áp dụng
cùng với những quy định tại Phần V; tuy nhiên, với những tác động của một trợ
cấp nhất định trên thị trường trong nước của Thành viên nhập khẩu, chỉ được vận
dụng một hình thức tu chỉnh (hoặc là thuế đối kháng nếu đáp ứng được những yêu
cầu của phần V, hoặc là biện pháp đối kháng được quy định tại Điều 4 hoặc 7).
Các quy định của Phần III và V sẽ không được áp dụng đối với những biện pháp
được coi là không thể đối kháng theo quy định tại Phần IV. Tuy nhiên những biện
pháp nêu tại điểm 1(a) Điều 8 cũng có thể được điều tra để xác định xem chúng
có mang tính chất riêng biệt theo quy định của Điều 2. Ngoài ra trong trường
hợp trợ cấp nêu tại khoản 2 Điều 8 được áp dụng theo một chương trình chưa được
thông báo theo khoản 3 Điều 8, có thể áp dụng các quy định của các Phần từ III
đến V, nhưng những trợ cấp đó sẽ được xem như là không thể đối kháng nếu chúng
phù hợp với những tiêu chuẩn nêu tại khoản 2 Điều 8.
[36] Thuật ngữ "thuế đối kháng" được hiểu là một
khoản thuế riêng biệt áp dụng nhằm mục đích triệt tiêu trợ cấp dành trực tiếp
hay gián tiếp cho việc chế tạo, sản xuất hoặc xuất khẩu bất kỳ sản phẩm hàng
hoá, như quy định tại khoản 3 Điều VI GATT 1994.
[37] Thuật ngữ "bắt đầu" như được sử dụng kể từ khoản
này trở đi nghĩa là những thủ tục mà một Thành viên khởi đầu việc điều tra nêu
tại Điều 11.
[38] Đối với những ngành sản xuất trong nước phân tán bao gồm
một số lượng lớn bất thường những nhà sản xuất, thì Cơ quan có thẩm quyền có
thể xác định tiếng nói ủng hộ hay phản đối căn cứ vào kỹ thuật lấy mẫu thống kê
có hiệu lực.
[39] Các Thành viên ý thức rằng trên lãnh thổ của một số Thành
viên, nhân viên của các nhà sản xuất trong nước sản xuất sản phẩm tương tự hoặc
đại diện của những nhân viên này có thể đưa ra hay ủng hộ một đề nghị điều tra
theo khoản 1.
[40] Quy tắc chung là, giới hạn thời gian đối với nhà xuất khẩu
sẽ được tính từ khi nhận được danh mục các câu hỏi, và thời điểm nhận được sẽ
được tính là sau một tuần, kể từ ngày được gửi cho người nhận hoặc kể từ ngày
danh mục đó được chuyển cho đại diện ngoại giao thích hợp của Thành viên xuất
khẩu, hoặc trong trường hợp liên quan tới một lãnh thổ thuế quan Thành viên
WTO, thì kể từ ngày được chuyển cho đại diện của lãnh thổ đang xuất khẩu.
[41] Hiểu rằng, khi số lượng các nhà xuất khẩu quá lớn, nội
dung đầy đủ của bản đề nghị sẽ chỉ được chuyển tới cơ quan có thẩm quyền của
nước xuất khẩu hoặc các tổ chức xuất khẩu liên quan và họ sẽ phải chuyển tiếp
bản sao cho những nhà xuất khẩu liên quan.
[42] Các Thành viên cũng ý thức rằng trên lãnh thổ của những
Thành viên nhất định việc phổ biến thông tin có thể phải tuân thủ những quy
định bảo hộ thông tin chặt chẽ.
[43] Các Thành viên nhất trí rằng yêu cầu bảo đảm không tiết lộ
thông tin không thể bị gạt bỏ một cách độc đoán, các Thành viên cũng nhất trí
rằng cơ quan có thẩm quyền tiến hành điều tra có thể yêu cầu bỏ tính không tiết
lộ thông tin chỉ đối với những thông tin liên quan đến việc điều tra.
[44] Căn cứ theo các quy định của khoản này, vấn đề đặc biệt
quan trọng là khi chưa tạo cơ hội tham vấn hợp lý, không thể có sự xác định
khẳng định dù có là xác định sơ bộ hay xác định cuối cùng. Những tham vấn như
vậy có thể tạo ra cơ sở để tiến hành theo các quy định của Phần II, III, X.
[45] Theo Hiệp định này, thuật ngữ “tổn hại”, nếu không có quy
định gì khác, sẽ được hiểu là tổn hại vật chất gây ra cho ngành sản xuất trong
nước, đe doạ gây tổn hại vật chất cho ngành sản xuất trong nước hoặc gây chậm
trễ thực sự cho việc thiết lập một ngành sản xuất trong nước và sẽ được hiểu
phù hợp với các quy định của Điều này.
[46] Trong toàn bộ Hiệp định này, thuật ngữ "sản phẩm
tương tự" được hiểu là một sản phẩm giống hệt ví dụ như giống hệt sản phẩm
đang được xem xét về mọi mặt hoặc nếu không tồn tại một sản phẩm như vậy, một
sản phẩm khác dù không tương đồng về mọi mặt, nhưng có những đặc điểm tính chất
rất giống sản phẩm đang được xem xét.
[47] Như đã nêu tại khoản 2 và 4.
[48] Theo khoản này, nhà sản xuất sẽ được coi là có liên quan
đến những nhà xuất khẩu hay nhập khẩu nếu (a) một trong hai kiểm soát bên còn
lại một cách trực tiếp hoặc gián tiếp; (b) của hai cùng chịu sự kiểm soát của
một bên thứ ba một cách trực tiếp hay gián tiếp; hoặc (c) cả hai cùng kiểm soát
một bên thứ ba một cách trực tiếp hay gián tiếp và có cơ sở để cho rằng hoặc
nghi ngờ rằng mối liên hệ đó có tác động dẫn đến nguyên nhân nhà sản xuất liên
quan ứng xử khác so với những nhà sản xuất không có mối liên hệ. Theo khoản
này, một người/hãng được coi là kiểm soát hãng khác khi người/ hãng đó ở vị trí
pháp lý hay trong hoạt động có thể hạn chế hay chỉ đạo với người/hãng kia.
[49] Thuật ngữ “có thể” sẽ được hiểu là cho phép tiếp tục đồng
thời những tiến trình triển khai cam kết, trừ những quy định tại khoản 4.
[50] Theo khoản này, thuật ngữ “các bên trong nước quan tâm” sẽ
bao gồm cả những người tiêu dùng, người sử dụng trong công nghiệp sản phẩm nhập
khẩu đang bị điều tra.
[51] Khi sử dụng trong Hiệp định này, thuật ngữ ‘đánh thuế’ sẽ
được hiểu là sự đánh giá về pháp lý đã xác định hoặc cuối cùng việc thu các
khoản thuế hải quan, thuế nội địa hoặc các khoản khác.
[52] Khi giá trị thuế đối kháng được đánh giá trên cơ sở hồi
tố, kết quả trong cuộc điều tra gần nhất là không dánh thuế đối kháng (duty) tự
nó không là yêu cầu đòi hỏi cơ quan có thẩm quyền chấm dứt áp dụng thuế chính
thức.
[53] Khi cơ quan có thẩm quyền cung cấp thông tin và giải thích
theo quy định của Điều này tại một báo cáo riêng, họ sẽ đảm bảo rằng báo cáo đó
sẽ sẵn sàng được cung cấp cho công chúng.
[54] Uỷ ban sẽ lập ra một Nhóm công tác để xem xét nội dung và
hình thức danh mục câu hỏi như thuộc nội dung bản BISD -194.
[55] Đối với một Thành viên đang phát triển hoặc không có trợ
cấp xuất khẩu vào thời điểm Hiệp định WTO có hiệu lực, khoản này sẽ áp dụng
trên cơ sở mức áp dụng trợ cấp vào năm 1986.
[56] Khoản này không nhằm ngăn cản các hành động theo những quy
định khác của Hiệp định GATT 1994, khi thích hợp.
[57] Thuật ngữ “thương mại thông thường sẵn có” nghĩa là sự lựa
chọn giữa sản phẩm trong nước và nhập khẩu không bị hạn chế và chỉ dựa vào sự
xem xét thuần tuý thương mại.
[58] Theo Hiệp định này:· thuật ngữ "thuế trực thu" là
thuế đánh vào tiền lương, lợi nhuận, lãi tiền vay, , tiền thu được từ việc cho
thuê, thuế tài nguyên, và mọi hình thức thu nhập khác và các khoản thuế đánh
vào quyền sở hữu bất động sản;· thuật ngữ “khoản thu đối với hàng nhập khẩu” là
thuế quan, thuế và các khoản thu về thuế nội địa, phí khác không nêu rõ tại
những mục khác trong mục giải thích này được đánh vào hàng nhập khẩu. · thuật
ngữ “thuế gián thu” là các loại thuế bán hàng, thuế hàng hoá, thuế doanh thu,
thuế giá trị gia tăng, thuế đại lý mượn danh, lệ phí , chuyển tiền, thuế với
hàng dự trữ trong kho và thiết bị, phí tại biên giới và mọi loại thu khác không
phải là thuế trực thu hay khoản thu với hàng nhập khẩu;· thuế gián thu “công
đoạn trước ” là thuế đánh vào sản phẩm hay dịch vụ được sử dụng trực tiếp hay
gián tiếp trong chế tạo sản phẩm. · thuế gián thu “gộp” là thuế trong nhiều
công đoạn được đánh khi không có công cụ để tách thuế riêng biệt khi hàng hoá
hoặc dịch vụ chịu thuế tại một giai đoạn sản xuất được sử dụng cho những công
đoạn liên tiếp trong sản xuất;· "thoái thu thuế" là hoàn trả hoặc
giảm một phần thuế;· "thoái thu hoặc hoàn thuế" bao gồm cả miễn toàn
bộ hay một phần hoặc cho lui việc nộp những khoản thu khi nhập khẩu;
[59] Các Thành viên thừa nhận rằng việc cho lùi thời gian nộp
thuế không nhất thiết sẽ dẫn đến trợ cấp xuất khẩu, ví dụ trong trường hợp có
thu lãi xuất với số tiến chậm trả. Các Thành viên khẳng định nguyên tắc rằng
giá cả hàng hoá trong giao dịch giữa các doanh nghiệp xuất khẩu và người mua
nước ngoài dưới sự kiểm soát của họ hay dưới cùng một sự kiểm soát sẽ là, nhằm
mục đích thu thuế, giá giao dịch giữa những doanh nghiệp độc lập trong diện
thường giao dịch. Bất kỳ Thành viên nào cũng có thể lưu ý một Thành viên khác
trước những hành vi hành chính hay hành vi khác có thể đi ngược lại nguyên tắc
này và có thể dẫn đến kết quả là giảm thuế trực thu với giao dịch xuất khẩu.
Trong những trường hợp đó các Thành viên thông thường cố gắng giải quyết sự
khác biệt đó bằng cách khai thác cơ chế hiện có trong các hiệp ước song biên
hay các cơ chế quốc tế riêng, không tổn hại đến quyền và nghĩa vụ Thành viên
của GATT 1994, kể cả quyền tham vấn có được trong quy định của câu trước câu
này.
Điểm (e) không có ý định hạn chế một Thành viên áp dụng những biện pháp
để tránh đánh thuế hai lần những khoản thu nhập từ nước ngoài của các doanh
nghiệp của nước mình hay của một Thành viên khác.
[60] Điểm (h) không áp dụng với thuế trị giá gia tăng và điều
chỉnh thuế biên tại cửa khẩu, vấn đề thoái thu phần vượt trội thuế trị giá gia
tăng chỉ chịu sự điều chỉnh của điểm (g).
[61] Đầu vào tiêu thụ trong quá trình sản xuất là những đầu vào
thống nhất về mặt vật lý, như năng lượng, chất đốt, dầu sử dụng cho công đoạn
sản xuất và những chất xúc tác trong quá trình được sử dụng để có được sản phẩm
đã xuất khẩu.
[62] Khi cần thiết giữa các Thành viên cần có sự thông cảm về
những vấn đề không được quy định trong Phụ lục này hoặc những vấn đề cần được làm
sáng tỏ nhằm mục đích nêu tại điểm 1(a) Điều 6.
[63] Công ty tiếp nhận trợ cấp là một công ty nằm trên lãnh thổ
của Thành viên áp dụng trợ cấp.
[64] Trong trường hợp trợ cấp liên quan tới thuế, giá trị của
sản phẩm sẽ được tính toán như là tổng trị giá doanh số của công ty tiếp nhận
trợ cấp trong năm tài chính có được biện pháp liên quan đến thuế đó.
[65] Tình huống mới bắt đầu kinh doanh bao gồm những công
đoạncó cam kết tài chính để phát triển sản phẩm hay xây dựng điều kiện hạ tầng
để chế biến sản phẩm được hưởng trợ cấp, dù là sản xuất chưa bắt đầu.
[66] Trong trường hợp cần chứng minh có sự tổn hại nghiêm
trọng.
[67] Khi tiến hành thu thập thông tin, DSB sẽ tính đến nhu cầu
bảo vệ thông tin không phổ biến hay được một Thành viên liên quan tới tiến
trình cung cấp trên cơ sở không được tiết lộ.
[68] Việc đưa một Thành viên đang phát triển vào danh sách nêu
tại khoản (b ) dựa phải trên số liệu gần nhất của Ngân hàng Thế giới về thu
nhập quốc dân trên đầu người.
(Các văn bản này chỉ có
giá trị tham khảo. Ngày ban hành trong văn bản này chỉ
mang tính tương đối).