HIỆP ĐỊNH
GIỮA CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM VÀ
CHÍNH PHỦ NƯỚC UCRAINA VỀ TRÁNH ĐÁNH THUẾ HAI LẦN VÀ NGĂN NGỪA VIỆC TRỐN LẬU
THUẾ ĐỐI VỚI CÁC LOẠI THUẾ ĐÁNH VÀO THU NHẬP VÀ VÀO TÀI SẢN
Chính phủ Nước Cộng hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt
Nam và Chính phủ nước Ucraina,
Mong muốn ký kết một Hiệp định về việc tránh đánh
thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn thuế lậu đối với các loại thuế đánh vào thu
nhập và vào tài sản,
Đã thỏa thuận dưới đây:
ĐIỀU 1. PHẠM VI ÁP DỤNG
Hiệp định này được áp dụng cho các đối tượng là những
đối tượng cư trú của một hoặc của cả hai Nước ký kết.
ĐIỀU 2. CÁC LOẠI THUẾ BAO GỒM
TRONG HIỆP ĐỊNH
1. Hiệp định này áp dụng đối với các loại thuế do một
Nước ký kết hoặc các cơ quan chính quyền địa phương Nước dó, đánh vào thu nhập
và vào tài sản bất kể hình thức áp dụng của các loại thuế đó như thế nào.
2. Tất cả loại thuế thu trên tổng thu nhập, tổng
tài sản hoặc những phần của thu nhập hay tài sản bao gồm cả các khoản thuế đối
với lợi nhuận từ việc chuyển nhượng động sản hoặc bất động sản, các loại thuế
đánh trên tổng số tiền lương hoặc tiền công do xí nghiệp chi trả cũng như các
loại thuế đánh trên phần giá trị tài sản tăng thêm đều được coi là thuế đánh
vào thu nhập và vào tài sản.
3. Những loại thuế hiện hành được áp dụng trong Hiệp
định này là:
a. tại Việt Nam:
(i) thuế thu nhập cá nhân; (ii) thuế lợi tức; và
(iii) thuế chuyển nhượng lợi nhuận ra nước ngoài;
(dưới đây được gọi là “thuế Việt Nam”);
b. tại Ucraina:
(i) thuế thu nhập cá nhân; (ii) thuế đánh vào lợi tức
(thu nhập);
(dưới đây được gọi là “thuế Ucraina”).
4. Hiệp định này cũng sẽ được áp dụng cho các loại
thuế có tính chất tương tự hay về căn bản giống như các loại thuế trên được ban
hành sau này ký Hiệp định này để bổ sung, hoặc thay thế các loại thuế hiện
hành. Các nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết sẽ thông báo cho
nhau những thay đổi quan trọng trong các luật thuế của từng Nước.
ĐIỀU 3. CÁC ĐỊNH NGHĨA CHUNG
1. Theo nội dung của Hiệp định này, trừ trường hợp
ngữ cảnh đòi hỏi có sự giải thích khác:
a. từ “Việt Nam” có nghĩa là nước Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam; khi dùng theo nghĩa địa lý, từ này có nghĩa là toàn bộ lãnh
thổ quốc gia Việt Nam, kể cả lãnh hải Việt Nam và mọi vùng ở ngoài và gắn liền
với lãnh hải Việt Nam mà theo luật pháp Việt Nam và phù hợp với luật pháp quốc
tế, Việt Nam có quyền chủ quyền đối với việc thăm dò và khai thác tài nguyên
thiên thiên của đáy biển, lòng đất dưới đáy biển và khối nước ở trên;
b. từ “Ucraina”, khi dùng theo nghĩa địa lý, có
nghĩa là lãnh thổ Nước Ucraina, thềm lục địa của Ucraina và vùng đặc quyền kinh
tế (vùng biển) của Ucraina, bao gồm bất kỳ lãnh thổ nào bên ngoài lãnh hải
Ucraina, mà theo luật quốc tế, được xác định hoặc có thể được xác định, phù hợp
với luật của Ucraina, là vùng lãnh thổ mà ở đó quyền của Ucraina về đáy biển và
các tài nguyên thiên thiên có hiệu lực;
c. thuật ngữ “Nước ký kết” và “Nước ký kết kia” có
nghĩa là Việt Nam hay Ucraina tùy theo ngữ cảnh đòi hỏi;
d. thuật ngữ “đối tượng” bao gồm cá nhân, công ty
và bất kỳ tổ chức nhiều đối tượng;
e. thuật ngữ “công ty” để chỉ các tổ chức công ty
hoặc bất kỳ một thực thể nào được coi là tổ chức công ty dưới giác độ thuế;
f. thuật ngữ “xí nghiệp của một Nước ký kết” và “xí
nghiệp của một Nước ký kết kia” theo thứ tự có nghĩa là một xí nghiệp được điều
hành bởi đối tượng cư trú của một Nước ký kết và một xí nghiệp được điều hành bởi
đối tượng cư trú của Nước ký kết kia;
g. thuật ngữ “các đối tượng mang quốc tịch” có
nghĩa là:
(i) trong trường hợp đối với Việt Nam, là bất kỳ cá
nhân mang quốc tịch Việt Nam hay bất kỳ pháp nhân, tổ chức hùn vốn và hiệp hội
có tư cách được chấp nhận theo các luật có hiệu lực tại Việt Nam; (ii) trong
trường hợp đối với Ucraina là bất kỳ cá nhân nào mang quốc tịch Ucraina hay bất
kỳ pháp nhân, tổ chức hùn vốn và hiệp hội nào có tư cách được chấp nhận theo
các luật có hiệu lực tại Ucraina;
h. thuật ngữ “vận tải quốc tế” có nghĩa là bất cứ sự
vận chuyển nào bằng tàu thủy hoặc máy bay do một xí nghiệp của một Nước ký kết điều
hành, trừ trường hợp khi chiếc tàu thủy hoặc máy bay đó chỉ hoạt động giữa những
địa điểm trong Nước ký kết kia; và
i. thuật ngữ “nhà chức trách có thẩm quyền” có
nghĩa:
(i) trong trường hợp đối với Việt Nam, là Bộ trưởng
Bộ Tài chính hoặc người đại diện được ủy quyền của Bộ trưởng Bộ Tài chính; và
(ii) trong trường hợp đối với Ucraina, Bộ Tài chính hoặc người đại diện được ủy
quyền của Bộ Tài chính.
2. Trong khi một Nước ký kết áp dụng Hiệp định này,
mọi thuật ngữ chưa được định nghĩa trong Hiệp định này sẽ có nghĩa theo như định
nghĩa trong luật của Nước đó đối với các loại thuế mà Hiệp định này áp dụng, trừ
trường hợp ngữ cảnh đòi hỏi có sự giải thích khác.
ĐIỀU 4. ĐỐI TƯỢNG CƯ TRÚ
1. Theo nội dung của Hiệp định này, thuật ngữ “đối
tượng cư trú của một Nước ký kết” có nghĩa là bất cứ đối tượng nào, mà theo các
luật của Nước đó, là đối tượng chịu thuế căn cứ vào nhà ở, nơi cư trú, trụ sở điều
hành, trụ sở đăng ký hoặc các tiêu chuẩn khác có tính chất tương tự. Nhưng thuật
ngữ này không bao gồm đối tượng chỉ chịu thuế tại Nước này đối với khoản thu nhập
phát sinh từ các nguồn tại Nước này hay đối với tài sản đặt tại Nước này.
2. Trường hợp theo những quy định tại khoản 1 Điều
này, khi một cá nhân là đối tượng cư trú của cả hai Nước, thì thân phận cư trú
của cá nhân đó sẽ được xác định như sau:
a. cá nhân đó sẽ được coi là đối tượng cư trú của
Nước mà tại đó cá nhân đó có nhà ở thường trú. Nếu cá nhân đó có nhà ở thường
trú ở cả hai Nước, cá nhân đó sẽ được coi là đối tượng cư trú của Nước mà cá
nhân đó có các quan hệ cá nhân và kinh tế chặt chẽ hơn (trung tâm của các quyền
lợi chủ yếu);
b. nếu như không thể xác định được Nước nơi cá nhân
đó có trung tâm các quyền lợi chủ yếu, hoặc nếu cá nhân đó không có nhà ở thường
trú ở cả hai Nước, cá nhân đó sẽ được coi là đối tượng cư trú của Nước mà cá
nhân đó thường sống;
c. nếu cá nhân đó thường sống ở cả hai Nước hay
không sống thường xuyên ở Nước nào, cá nhan đó sẽ được coi là đối tượng cư trú
của Nước mà cá nhân đó mang quốc tịch;
d. nếu cá nhân đó là đối tượng mang quốc tịch của cả
hai Nước hay không mang quốc tịch của Nước nào, các nhà trức trách có thẩm quyền
của hai Nước ký kết sẽ giải quyết vấn đề đó bằng thỏa thuận chung.
3. Trường hợp do những quy định tại khoản 1, khi một
đối tượng không phải là cá nhân, là đối tượng cư trú của cả hai Nước ký kết,
lúc đó, thân phận đối tượng đó sẽ được xác định như sau:
a. đối tượng trên sẽ được coi là đối tượng cư trú của
Nước nơi đang đóng trụ sở đăng ký của đối tượng đó.
b. nếu đối tượng trên có trụ sở đăng ký ở cả hai Nước,
đối tượng đó sẽ được coi là đối tượng cư trú của Nước nơi đóng trụ sở điều hành
thực tế.
ĐIỀU 5. CƠ SỞ THƯỜNG TRÚ
1. Theo nội dung của Hiệp định này, thuật ngữ “cơ sở
thường trú” có nghĩa là một cơ sở kinh doanh cố định mà qua đó xí nghiệp thực
hiện toàn bộ hay một phần hoạt động kinh doanh của mình.
2. Thuật ngữ “cơ sở thường trú” chủ yếu bao gồm:
a. trụ sở điều hành;
b. chi nhánh;
c. văn phòng;
d. nhà máy;
e. xưởng;
f. mỏ, giếng dầu hoặc khí, mỏ đá hoặc bất kỳ địa điểm
khai thác tài nguyên nào khác; và
g. kho hàng hóa hay những địa điểm được sử dụng làm
nơi tiêu thụ hàng hóa; và
h. công trình lắp đặt hay kết cấu được sử dụng cho mục
đích thăm dò tài nguyên thiên nhiên.
3. Thuật ngữ “cơ sở thường trú” cũng bao gồm:
a. địa điểm xây dựng, công trình xây dựng, lắp ráp
hoặc lắp đặt hay các hoạt động giám sát liên quan đến các công trình, địa điểm
trên, nhưng chỉ khi địa điểm, công trình hay các hoạt động đó kéo dài trong
giai đoạn trên sáu tháng;
b. việc cung cấp các dịch vụ, bao gồm cả dịch vụ tư
vấn do một xí nghiệp thông qua các nhân viên hay cá nhân khác được xí nghiệp
giao thực hiện các hoạt động trên tại Nước ký kết kia, nhưng chỉ khi các hoạt động
mang tính chất nêu trên kéo dài (trong cùng một dự án hay một dự án liên quan)
tại một Nước trong một giai đoạn hay nhiều giai đoạn gộp lại hơn 6 tháng trong
khoảng thời gian 12 tháng.
4. Mặc dù có những quy định trên của Điều này, thuật
ngữ “cơ sở thường trú” sẽ được coi là không bao gồm:
a. việc sử dụng các phương tiện riêng cho mục đích
lưu kho hoặc trưng bày hàng hóa hay tài sản của xí nghiệp;
b. việc duy trì kho hàng hóa hoặc tài sản của xí
nghiệp với mục đích lưu kho hoặc trưng bày;
c. việc duy trì kho hàng hóa hoặc tài sản của xí
nghiệp chỉ với mục đích để cho xí nghiệp khác gia công;
d. việc duy trì một cơ sở kinh doanh cố định chỉ nhằm
mục đích mua hàng hóa hoặc tài sản để thu thập thông tin cho xí nghiệp;
e. việc duy trì một cơ sở kinh doanh cố định chỉ với
mục đích tiến hành bất kỳ hoạt động nào khác có tính chất chuẩn bị hoặc phụ trợ
cho xí nghiệp;
f. việc duy trì một cơ sở kinh doanh cố định chỉ để
cho bất kỳ sự kết hợp nào của các hoạt động nêu từ điểm (a) tới điểm (e), với điều
kiện toàn bộ hoạt động của cơ sở kinh doanh cố định từ sự kết hợp trên mang
tính chất chuẩn bị hay phụ trợ.
5. Mặc dù có những quy định tại Khoản 1 và 2, trường
hợp một đối tượng - trừ đại lý có tư cách độc lập được điều chỉnh tại khoản 6 –
hoạt động tại một Nước ký kết thay mặt cho một xí nghiệp của Nước ký kết kia,
xí nghiệp đó sẽ được coi là cơ sở thường trú tại Nước ký kết thứ nhất đối với
các hoạt động mà đối tượng trên thực hiện cho xí nghiệp, nếu đối tượng đó:
a. có và thường xuyên thực hiện Nước đó thẩm quyền
ký kết các hợp đồng đứng tên xí nghiệp, trừ khi các hoạt động của đối tượng đó
chỉ giới hạn trong phạm vi các hoạt động nêu tại khoản 4 mà những hoạt động đó
nếu được thực hiện thông qua một cơ sở kinh doanh cố định thì sẽ không làm cho
cơ sở kinh doanh cố định đó trở thành một cơ sở thường trú theo những quy định
tại khoản đó; hay
b. không có thẩm quyền nêu trên, nhưng thường xuyên
duy trì tại Nước thứ nhất một kho hàng hóa hay tài sản, qua đó đối tượng này
thường xuyên giao hàng hóa hay tài sản thay mặt cho xí nghiệp.
6. Một xí nghiệp của một Nước ký kết sẽ không được
coi là có cơ sở thường trú ở Nước ký kết kia nếu xí nghiệp đó chỉ thực hiện
kinh doanh tại Nước đó thông qua một đại lý môi giới, một đại lý hoa hồng hoặc
bất kỳ một đại lý nào khác có tư cách độc lập, với điều kiện những đối tượng
này chỉ hoạt động trong khuôn khổ kinh doanh thông thường của họ. Tuy nhiên,
khi các hoạt động của đại lý đó được dành toàn bộ hay hầu như toàn bộ hoạt động
đại diện cho xí nghiệp đó, đại lý đó sẽ không được coi là đại lý có tư cách độc
lập theo nội dung của khoản này.
7. Việc một công ty là đối tượng cư trú của một Nước
ký kết kiểm soát hoặc chịu sự kiểm soát bởi một công ty là đối tượng cư trú của
Nước ký kết kia hoặc đang tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước kia (có thể
thông qua một cơ sở thường trú hay dưới hình thức khác) sẽ không làm cho bất kỳ
công ty nào trở thành cơ sở thường trú của công ty kia.
ĐIỀU 6. THU NHẬP TỪ BẤT ĐỘNG SẢN
1. Thu nhập mà một đối tượng cư trú tại một Nước ký
kết thu được từ bất động sản (kể cả thu nhập từ nông nghiệp hoặc lâm nghiệp) nằm
tại Nước ký kết kia thì có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
2. Thuật ngữ “bất động sản” sẽ có nghĩa theo như luật
của Nước ký kết nơi có tài sản. Trong mọi trường hợp, thuật ngữ sẽ bao gồm cả
tài sản đi liền với bất động sản, đàn gia súc và thiết bị sử dụng trong nông
nghiệp và lâm nghiệp, các quyền áp dụng theo các quy định tại luật chung về điền
sản, quyền sử dụng bất động sản và các quyền được hưởng các khoản thanh toán
thay đổi hay cố định trả cho việc khai thác hay quyền khai thác các mỏ, nguồn
khoáng sản và các tài nguyên thiên nhiên khác; các tàu thủy và máy bay sẽ không
được coi là bất động sản.
3. Những quy định tại khoản 1 sẽ áp dụng đối với
thu nhập phát sinh từ việc trực tiếp sử dụng, cho thuê hay sử dụng các loại bất
động sản dưới bất kỳ hình thức nào khác.
4. Những quy định tại khoản 1 và 3 Điều này cũng sẽ
áp dụng cho thu nhập từ bất động sản của một xí nghiệp và đối với thu nhập từ bất
động sản được sử dụng để thực hiện các hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập.
ĐIỀU 7. LỢI TỨC KINH DOANH
1. Lợi tức của một xí nghiệp của một Nước ký kết sẽ
chỉ bị đánh thuế tại Nước đó, trừ trường hợp xí nghiệp có tiến hành hoạt động
kinh doanh tại Nước ký kết kia thông qua một cơ sở thường trú tại Nước kia. Nếu
xí nghiệp có hoạt động kinh doanh theo cách trên, thì các khoản lợi tức của xí
nghiệp có thể bị đánh thuế tại Nước kia, nhưng chỉ trên phần lợi tức phân bổ
cho cơ sở thường trú đó.
2. Thể theo các quy định tại khoản 3, khi một xí
nghiệp của một Nước ký kết tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước ký kết kia
thông qua một cơ sở thường trú có tại Nước kia thì tại mỗi nước Nước ký kết sẽ
có những khoản lợi tức được phân bổ cho cơ sở thường trú nói trên mà cơ sở đó
có thể thu được, nếu đó là một xí nghiệp riêng, tách biệt cùng tham gia vào các
hoạt động tương tự trong cùng những điều kiện như nhau hay tương tự và có quan
hệ hoàn toàn độc lập với xí nghiệp mà cơ sở đó được coi là cơ sở thường trú.
3. Trong khi xác định lợi tức của một cơ sở thường
trú, cơ sở này sẽ được phép khấu trừ tất cả các khoản chi phí phát sinh phục vụ
cho hoạt động kinh doanh của cơ sở thường trú đó bao gồm cả chi phí điều hành
và chi phí quản lý chung, cho dù chi phí đó phát sinh tại Nước nơi cơ sở thường
trú đó đóng hoặc ở bất kỳ nơi nào khác. Tuy nhiên, sẽ không cho phép trừ các
chi phí bất kỳ các khoản tiền nào, nếu có, do cơ sở thường trú trả cho (trừ các
khoản thanh toán các chi phí thực tế) trụ sở chính của xí nghiệp hay bất kỳ văn
phòng nào khác của xí nghiệp dưới hình thức tiền bản quyền, các khoản lệ phí
hay bất kỳ khoản thanh toán nào tương tự để sử dụng bằng phát minh hay các quyền
khác, hay dưới hình thức tiền hoa hồng trả cho việc thực hiện các dịch vụ riêng
biệt hay trả cho công việc quản lý, hay dưới hình thức lãi tính trên tiền cho
cơ sở thường trú vay, trừ trường hợp tiền lãi của tổ chức ngân hàng. Cũng tương
tự, trong khi xác định lợi tức của một cơ sở thường trú sẽ không tính đến các
khoản tiền (trừ các khoản tiền thanh toán các chi phí thực tế) do cơ sở thường
trú thu từ trụ sở chính của xí nghiệp hay bất kỳ văn phòng nào khác của xí nghiệp,
dưới hình thức tiền bản quyền, các khoản lệ phí hay các khoản thanh toán tương tự
để sử dụng bằng phát minh hay các quyền khác, hay dưới hình thức tiền hoa hồng
trả cho việc thực hiện các dịch vụ riêng biệt hay trả cho công việc quản lý,
hay dưới hình thức lãi tính trên tiền cho trụ sở chính của xí nghiệp hay bất kỳ
văn phòng nào khác của xí nghiệp vay, trừ trường hợp tiền lãi của tổ chức ngân
hàng.
4. Trường hợp tại một Nước ký kết vẫn thường xác định
các khoản lợi tức được phân bổ cho một cơ sở thường trú trên cơ sở phân chia tổng
các khoản lợi tức của xí nghiệp thành những phần khác nhau, không có nội dung
nào tại khoản 2 ngăn cản Nước ký kết đó xác định lợi tức chịu thuế theo cách
phân chia theo thông lệ trên; tuy nhiên, phương pháp phân chia được chấp nhận sẽ
có kết quả phù hợp với những nguyên tắc nêu tại Điều này.
5. Sẽ không có một khoảng lợi tức nào được phân bổ
cho một cơ sở thường trú nếu cơ sở thường trú đó chỉ đơn thuần mua hàng hóa hay
tài sản cho xí nghiệp.
6. Theo nội dung các khoản trên, các khoản lợi tức
thu được phân bổ cho cơ sở thường trú sẽ được xác định theo cùng một phương
pháp giữa các năm trừ khi có đủ lý do chính đáng để xác định theo phương pháp
khác.
7. Khi lợi tức bao gồm các khoản thu nhập được đề cập
riêng tại các Điều khác của Hiệp định này, thì các quy định của các Điều đó
không bị ảnh hưởng bởi những quy định tại Điều này.
ĐIỀU 8. VẬN TẢI BIỂN VÀ VẬN TẢI
HÀNG KHÔNG
1. Lợi tức do một xí nghiệp của một Nước ký kết thu
được từ hoạt động của tàu thủy hoặc máy bay trong vận tải quốc tế sẽ chỉ bị
đánh thuế tại Nước ký kết đó.
2. Theo nội dung của Điều này, lợi tức thu được từ
hoạt động của tàu thủy hay máy bay trong vận tải quốc tế bao gồm:
a. thu nhập từ việc cho thuê tàu thủy hay máy bay
trống; và
b. lợi tức từ việc sử dụng, bảo dưỡng hay cho thuê
công-ten-nơ (bao gồm khoang moóc và các thiết bị có liên quan đến vận chuyển
công-ten-nơ) được sử dụng để vận chuyển hàng hóa hay tài sản; khi việc cho thuê
tàu thủy hoặc máy bay này hay việc sử dụng, bão dưỡng hoặc cho thuê công-ten-nơ
này, tùy theo từng trường hợp, có tính chất phụ kèm theo hoạt động của tàu thủy
hay máy bay trong vận tải quốc tế.
3. Theo quy định của khoản 1 Điều này, khi đối tượng
cư trú của một Nước ký kết thu được từ lợi tức từ việc tham gia vào một tổ hợp,
một liên doanh hay một hãng hoạt động quốc tế, lợi tức phân bổ cho đối tượng cư
trú đó sẽ bị đánh thuế tại Nước dó.
ĐIỀU 9. NHỮNG XÍ NGHIỆP LIÊN KẾT
1. Khi:
a. một xí nghiệp của một Nước ký kết tham gia trực
tiếp hoặc gián tiếp vào việc điều hành, kiểm soát hoặc góp vốn vào một xí nghiệp
của Nước ký kết kết kia, hoặc
b. các đối tượng cùng tham gia trực tiếp hoặc gián
tiếp vào việc điều hành, kiểm soát hoặc góp vốn vào một xí nghiệp của một Nước
ký kết và vào một xí nghiệp của Nước ký kết kia, và trong cả hai trường hợp,
trong mối quan hệ thương mại hay tài chính giữa hai xí nghiệp trên có những điều
kiện được đưa ra hoặc áp đặt khác với điều kiện được đưa ra giữa các xí nghiệp
độc lập, lúc đó mọi khoản lợi tức mà một xí nghiệp có thể thu được nếu không có
những điều kiện trên nhưng nay vì những điều kiện này mà xí nghiệp đó không thu
được, sẽ vẫn được một Nước ký kết tính vào các khoản lợi tức của xí nghiệp đó
và bị đánh thuế tương ứng.
2. Khi một Nước ký kết tính vào các khoản lợi tức của
xí nghiệp của Nước đó – và đánh thuế tương ứng – những khoản lợi tức mà xí nghiệp
của Nước ký kết kia đã bị đánh thuế ở Nước ký kết kia và những khoản lợi tức được
tính như vậy là những khoản lợi tức lẽ ra thuộc về xí nghiệp của Nước ký kết thứ
nhất nếu như những điều kiện được đặt ra giữa các xí nghiệp độc lập, khi đó, Nước
kia sẽ có một sự điều chỉnh thích hợp đối với số thuế áp dụng tại Nước đó, có
xem xét tới các quy định khác của Hiệp định này và các nhà chức trách có có thẩm
quyền của hai Nước ký kết, nếu cần thiết, sẽ tham khảo ý kiến của nhau.
3. Không có quy định nào tại Điều này ảnh hưởng đến
việc áp dụng bất kỳ luật nào của một Nước ký kết liên quan đến việc xác định
nghĩa vụ nộp thuế của một đối tượng, kể cả việc xác định trong các trường hợp
các nhà chức trách có thẩm quyền của Nước đó không có đủ thông tin để xác định
thu nhập phân bổ cho một xí nghiệp, với điều kiện luật đó sẽ được áp dụng phù hợp
với những nguyên tắc của Điều này trong phạm vi áp dụng đó có thể thực hiện được
trên thực tế.
ĐIỀU 10. TIỀN LÃI CỔ PHẦN
1. Tiền lãi cổ phần do một công ty là đối tượng cư
trú của một Nước ký kết trả cho một đối tượng cư trú của Nước ký kết kia có thể
bị đánh thuế ở Nước kia.
2. Tuy nhiên, những khoản tiền lãi cổ phần đó cũng
có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi công ty trả tiền lãi cổ phần là đối tượng
cư trú và theo các luật của Nước đó, nhưng nếu đối tượng nhận là đối tượng thực
hưởng tiền lãi cổ phần thì thuế được tính khi đó sẽ không vượt quá 10 phần trăm
tổng số tiền lãi cổ phần.
Khoản tiền này sẽ không ảnh hưởng tới việc đánh thuế
công ty đối với khoản lợi tức dùng để chia lãi cổ phần.
3. Thuật ngữ “tiền lãi cổ phẩn” được sử dụng trong Điều
này có nghĩa là thu nhập từ cổ phần, hoặc các quyền lợi khác, không kể các khoản
nợ, được hưởng lợi tức, cũng như thu nhập từ các quyền lợi công ty khác cùng chịu
sự điều chỉnh của chính sách thuế đối với thu nhập từ cổ phần theo luật của Nước
nơi công ty chia lãi cổ phần là đối tượng cư trú.
4. Những quy định tại khoản 1, 2 Điều này sẽ không
áp dụng trong trường hợp đối tượng thực hưởng các khoản tiền lãi cổ phần là đối
tượng cư trú tại một Nước ký kết có tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước ký
kết kia, nơi công ty trả tiền lãi cổ phần là đối tượng cư trú, thông qua một cơ
sở thường trú nằm tại Nước kia, hay tiến hành tại Nước kia các hoạt động dịch vụ
cá nhân độc lập thông qua một cơ sở cố định tại Nước kia, và quyền nắm giữ cổ
phần nhờ đó được hưởng tiền lãi cổ phần, có sự liên hệ thực tế đến cơ sở thường
trú hoặc cơ sở cố định nói trên. Trong trường hợp nêu trên, các quy định tại Điều
7 hoặc Điều 14 của Hiệp định này, tùy trường hợp, sẽ được áp dụng.
5. Khi một công ty là đối tượng cư trú của một Nước
ký kết có lợi tức hay thu nhập phát sinh từ Nước ký kết kia thì Nước ký kết kia
có thể không đánh thuế đối với những khoản tiền lãi cổ phần do công ty này trả,
trừ trường hợp những khoản tiền lãi cổ phần này được trả cho đối tượng cư trú của
Nước ký kết kia, hoặc quyền nắm giữ cổ phần có các khoản tiền lãi cổ phần được
trả có sự liên hệ thực tế với một cơ sở thường trú hay một cơ sở cố định tại Nước
kia, đồng thời Nước ký kết kia cũng không buộc các khoản lợi tức không chia của
công ty trên phải chịu thuế đối với những khoản lợi tức không chia của công ty,
cho dù những khoản tiền lãi cổ phần được chia hoặc các khoản lợi tức không chia
bao gồm toàn bộ hay một phần các khoản lợi tức hoặc thu nhập phát sinh tại Nước
kia.
ĐIỀU 11. LÃI TỪ TIỀN CHO VAY
1. Lãi từ tiền cho vay phát sinh tại một Nước ký kết
và được trả cho một đối tượng cư trú của Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế tại
Nước kia.
2. Tuy nhiên, khoản tiền lãi này cũng có thể bị
đánh thuế ở Nước ký kết nơi phát sinh lãi và theo các luật của Nước đó, nhưng nếu
người nhận là người thực hưởng các khoản tiền lãi này thì mức thuế khi đó được
tính sẽ không vượt quá 10 phần trăm của tổng số lãi từ tiền cho vay. Nhà chức
trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết sẽ xây dựng phương thức áp dụng giới hạn
này bằng thỏa thuận chung.
3. Mặc dù có những quy định tại khoản 2:
a. lãi từ tiền cho vay phát sinh tại Ucraina sẽ chỉ
bị đánh thuế tại Việt Nam nếu khoản lãi từ tiền cho vay đó được trả cho:
(i) Chính phủ Việt Nam, cơ quan chính quyền cơ sở,
chính quyền địa phương hay một tổ chức hợp pháp của Việt Nam; (ii) Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam; (iii) những tổ chức hoàn toàn thuộc sở hữu của Chính phủ nước
Cộng Hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam hoặc của chính quyền bất kỳ chính quyền địa
phương nào được thỏa thuận trong từng thời kỳ giữa các nhà chức trách có thẩm
quyền của hai Nước ký kết;
b. lãi từ tiền cho vay phát sinh tại Việt Nam sẽ chỉ
bị đánh thuế tại Ucraina nếu khoản lãi từ tiền cho vay đó được trả cho:
(i) Chính phủ nước Ucraina, cơ quan chính quyền cơ
sở, chính quyền địa phương hay một tổ chức hợp pháp của Ucraina; (ii) Ngân hàng
Quốc gia Ucraina; (iii) những tổ chức hoàn toàn thuộc sở hữu của Chính phủ
Ucraina hoặc của bất kỳ chính quyền địa phương nào được thỏa thuận trong từng
thời kỳ giữa các nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết;
4. Thuật ngữ “lãi tiền từ cho vay” dùng ở Điều này
có nghĩa là thu nhập từ các khoản cho vay dưới bất kỳ dạng nào, có hay không được
đảm bảo bằng thế chấp và có hoặc không có quyền được hưởng lợi tức của người đi
vay, và đặc biệt là khoản thu nhập từ chứng khoán của chính phủ và thu nhập từ
trái phiếu hoặc trái phiếu thông thường, bao gồm cả tiền thưởng và giải thưởng
đi liền với các chứng khoán, trái phiếu hoặc trái phiếu thông thường đó. Tiền
phạt thanh toán chậm sẽ không được coi là lãi từ tiền cho vay theo nội dung của
Điều này.
5. Những quy định tại khoản 1 và 2 sẽ không được áp
dụng nếu người thực hưởng các khoản lãi từ tiền cho vay là đối tượng cư trú tại
một Nước ký kết, tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước ký kết kia nơi phát
sinh các khoản lãi từ tiền cho vay thông qua một cơ sở thường trú tại Nước kia
hoặc thực hiện tại Nước kia các hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập thông qua một
cơ sở cố định tại Nước kia và khoản nợ có các khoản tiền lãi được trả có sự
liên hệ thực tế với cơ sở thường trú hay cơ sở cố định đó. Trong trường hợp
này, các quy định tại Điều 7 hoặc Điều 14, tùy từng trường hợp, sẽ được áp dụng.
6. Lãi từ tiền cho vay sẽ được coi là phát sinh tại
một Nước ký kết khi đối tượng trả chính là Nhà nước đó, cơ quan chính quyền cơ
sở, chính quyền địa phương hoặc đối tượng cư trú của Nước đó. Tuy nhiên, khi đối
tượng trả lãi có ở một Nước ký kết một cơ sở thương trú hay cơ sở cố định liên
quan đến các khoản nợ đã phát sinh các khoản lãi này, và khoản tiền lãi đó do
cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó chịu thì dù đối tượng đó có là đối tượng
cư trú của một Nước ký kết hay không, khoản tiền lãi này sẽ vẫn được coi là
phát sinh ở Nước nơi cơ sở thường trú hay cơ sở cố định đó đóng.
7. Trường hợp do mối quan hệ đặc biệt giữa đối tượng
trả lãi và đối tượng hưởng lãi hoặc giữa cả hai đối tượng trên và các đối tượng
khác, khoản lãi từ tiền cho vay, liên quan đến khoản cho vay có số tiền lãi được
trả vượt quá khoản tiền được thỏa thuận giữa đối tượng đi vay và đối tượng thực
hưởng khi không có mối quan hệ này, thì khi đó, các quy định của Điều này sẽ chỉ
áp dụng đối với các khoản tiền thanh toán khi không có mối quan đặc biệt trên.
Trong trường hợp này, phần thanh toán vượt sẽ bị đánh thuế theo luật của từng
Nước ký kết có xem xét tới các quy định khác của Hiệp định này.
8. Những quy định của Điều này sẽ không được áp dụng
nếu mục đích chính hay một trong những mục đích chính cua bất kỳ đối tượng nào
liên quan đến việc tạo lập của chuyển nhượng khoản vay nợ có số tiền lãi phải
trả là để lợi dụng quy định tại Điều này thông qua việc tạo lập hay chuyển nhượng
khoản vay nợ đó.
ĐIỀU 12. TIỀN BẢN QUYỀN
1. Tiền bản quyền phát sinh tại một Nước ký kết và
được trả cho đối tượng cư trú của Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế tại Nước
kia.
2. Tuy nhiên, những khoản tiền bản quyền đó cũng có
thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi phát sinh, và theo các luật của Nước đó,
nhưng nếu đối tượng nhận là đối tượng thực hưởng tiền bản quyền thì mức thuế được
tính khi đó sẽ không vượt quá 10 phần trăm tổng số tiền bản quyền.
3. Thuật ngữ “tiền bản quyền” được sử dụng trong Điều
này có nghĩa là các khoản thanh toán ở bất kỳ dạng nào được trả cho việc sử dụng,
hoặc quyền sử dụng, bản quyền tác giả của một tác phẩm văn học, nghệ thuật hay
khoa học, kể cả phim điện ảnh hoặc các loại phim hay các loại băng dùng trong
phát thanh và truyền hình, bằng phát minh, nhãn hiệu thương mại, thiết kế hoặc
mẫu, đồ án, công thức hoặc quy trình bí mật, hay trả cho việc sử dụng, hay quyền
sử dụng thiết bị công nghiệp, thương mại hoặc khoa học, hay trả cho thông tin
liên quan đến kinh nghiệm công nghiệp, thương mại hoặc khoa học.
4. Những quy định tại khoản 1 và 2 sẽ không áp dụng
nếu đối tượng thực hưởng các khoản tiền bản quyền, là đối tượng cư trú của một
Nước ký kết, tiến hành hoạt động kinh doanh ở Nước ký kết kia nơi có khoản tiền
bản quyền phát sinh, thông qua một cơ sở thường trú nằm tại Nước kia hoặc tiến
hành tại Nước kia các hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập thông qua một cơ sở cố
định tại Nước kia, và quyền hay tài sản có các khoản tiền bản quyền được trả
cho sự liên hệ thực tế với cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó. Trong
trường hợp này, các quy định của Điều 7 hoặc Điều 14, tùy theo từng trường hợp,
sẽ được áp dụng.
5. Tiền bản quyền sẽ được coi là phát sinh tại một
Nước ký kết khi đối tượng trả chính là Nhà nước đó, cơ quan chính quyền cơ sở,
chính quyền địa phương hoặc là đối tượng cư trú của Nước đó. Tuy nhiên, khi một
đối tượng trả tiền bản quyền, là hay không là đối tượng cư trú của một Nước ký
kết, có ở một Nước ký kết một cơ sở thường trú hay một cơ sở cố định liên quan
đến trách nhiệm trả tiền bản quyền đã phát sinh và tiền bản quyền đó do cơ sở
thường trú hay cơ sở cố định đó chịu thì khoản tiền bản quyền này sẽ vẫn được
coi là phát sinh ở Nước nơi có cơ sở thường trú và cơ sở cố định đó đóng.
6. Trường hợp vì mối quan hệ đặc biệt giữa đối tượng
trả và đối tượng thực hưởng hoặc giữa cả hai đối tượng trên với các đối tượng
khác, khoản tiền bản quyền, liên quan tới việc sử dụng, quyền hoặc thông
tin có số tiền bản quyền được trả, vì bất cứ lý do gì, vượt quá khoản tiền được
thỏa thuận giữa đối tượng trả tiền và đối tượng thực hưởng khi không có mối
quan hệ đặc biệt này, thì các quy định của Điều này sẽ chỉ áp dụng đối với khoản
tiền thanh toán khi không có mối quan hệ trên. Trong trường hợp này, phần thanh
toán vượt sẽ bị đánh thuế theo các luật của từng Nước ký kết có xem xét đến các
quy định khác của Hiệp định này.
7. Những quy định của Điều này sẽ không được áp dụng
nếu mục đích chính hay một trong những mục đích chính của bất kỳ đối tượng nào
liên quan đến việc tạo lập hay chuyển nhượng các quyền có tiền bản quyền được
trả là để lợi dụng quy định tại Điều này thông qua việc tạo lập hay chuyển nhượng
các quyền đó.
ĐIỀU 13. LỢI TỨC TỪ CHUYỂN NHƯỢNG
TÀI SẢN
1. Lợi tức thu được từ việc chuyển nhượng bất động
sản được nêu tại khoản 2 Điều 6 có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi có bất
động sản đó.
2. Lợi tức do một đối tượng cư trú của một Nước ký
kết thu được từ việc chuyển nhượng cổ phần hay các quyền lợi tương ứng trong một
công ty mà tài sản của công ty đó chủ yếu hay toàn bộ bao gồm bất động sản nằm
tại Nước ký kết kia, có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
3. Lợi tức từ việc chuyển nhượng động sản là một phần
của tài sản kinh doanh của một cơ sở thường trú mà một xí nghiệp của một Nước
ký kết có tại Nước ký kết kia hoặc động sản thuộc một cơ sở cố định của một đối
tượng cư trú của một Nước ký kết có ở Nước ký kết kia để tiến hành hoạt động dịch
vụ cá nhân độc lập kể cả lợi tức từ việc chuyển nhượng cơ sở thường trú đó
(riêng cơ sở thường trú đó hoặc cùng với toàn bộ xí nghiệp) hoặc cơ sở cố định
đó có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
4. Lợi tức thu được từ việc chuyển nhượng tàu thủy
hoặc máy bay hoạt động trong vận tải quốc tế, các tàu hoạt động trong vận tải
đường thủy nội địa hay động sản liên quan đến hoạt động của tàu thủy hay máy
bay đó sẽ chỉ bị đánh thuế ở Nước ký kết nơi xí nghiệp đó đóng.
5. Lợi tức thu được từ việc chuyển nhượng bất kỳ
tài sản nào ngoài những tài sản đã đề cập tới ở những khoản 1, 2, 3 và 4, sẽ chỉ
bị đánh thuế ở Nước ký kết nơi đối tượng chuyển nhượng là đối tượng cư trú.
ĐIỀU 14. HOẠT ĐỘNG DỊCH VỤ CÁ
NHÂN ĐỘC LẬP
1. Thu nhập do một đối tượng cư trú của một Nước ký
kết thu được từ các hoạt động dịch vụ ngành nghề hay các hoạt động khác có tính
chất độc lập sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó trừ khi đối tượng này thường xuyên
có mặt ở Nước ký kết kia một cơ sở cố định nhằm mục đích thực hiện các hoạt động
này. Nếu đối tượng đó có một cơ sở cố định như vậy, thu nhập có thể bị đánh thuế
tại Nước ký kết kia, những chỉ áp dụng đối với phần thu nhập phân bổ cho cơ sở
cố định đó.
2. Thuật ngữ “dịch vụ ngành nghề” bao gồm chủ yếu
những hoạt động khoa học, văn học, nghệ thuật, giáo dục hay giảng dạy mang tính
chất độc lập cũng như các hoạt động độc lập của các thầy thuốc, bác sĩ, luật
sư, kỹ sư, kiến trúc sư, nha sĩ và kế toán viên.
ĐIỀU 15. HOẠT ĐỘNG DỊCH VỤ CÁ
NHÂN PHỤ THUỘC
1. Thể theo các quy định tại Điều 16, 18, 19 và 20
các khoản tiền lương, tiền công, và các khoản tiền thù lao tương tự khác do một
đối tượng cư trú của một Nước ký kết thu được từ lao động làm công sẽ chỉ bị
đánh thuế tại Nước đó, trừ khi công việc của đối tượng đó thực hiện như vậy, số
tiền công trả cho lao động đó có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
2. Mặc dù có những quy định tại khoản 1, tiền công
do một đối tượng cư trú của một Nước ký kết thu được từ lao động làm công tại
Nước ký kết kia sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước thứ nhất nếu:
a. người nhận tiền công có mặt tại Nước kia trong một
giai đoạn hoặc nhiều giai đoạn gộp lại không quá 183 ngày trong bất kỳ giai đoạn
12 tháng nào bắt đầu hay kết thúc trong năm tài chính liên quan, và
b. chủ lao động hay đối tượng đại diện chủ lao động
trả tiền công lao động không phải là đối tượng cư trú có tại Nước kia, và
c. số tiền công không phải phát sinh tại một cơ sở
thường trú hoặc cơ sở cố định mà đối tượng chủ lao động có tại Nước kia.
3. Mặc dù có những quy định trên của Điều này, tiền
công từ lao động làm trên tàu thủy hoặc máy bay do một xí nghiệp của một Nước
ký kết điều hành trong vận tải quốc tế chỉ bị đánh thuế tại Nước đó.
ĐIỀU 16. THÙ LAO CHO GIÁM ĐỐC
Các khoản thù lao cho giám đốc và các khoản thanh
toán tương tự khác do một đối tượng cư trú của một Nước ký kết nhận được với tư
cách là thành viên của ban giám đốc của một công ty là đối tượng cư trú của Nước
ký kết kia có thể bị đánh thuế ở Nước kia.
ĐIỀU 17. NGHỆ SĨ VÀ VẬN ĐỘNG
VIÊN
1. Mặc dù có những quy định tại Điều 14 và 15, thu
nhập của một đối tượng cư trú của một Nước ký kết thu được với tư cách như người
biểu diễn như diễn viên sân khấu, điện ảnh, phát thanh hay truyền hình, hoặc nhạc
công, hoặc với tư cách là vận động viên từ những hoạt động cá nhân của mình thực
hiện tại Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế ở Nước kia.
2. Trường hợp thu nhập liên quan đến hoạt động
trình diễn cá nhân của người biểu diễn hoặc vận động viên nhưng không được trả
cho bản thân người biểu diễn hoặc vận động viên, mà trả cho một đối tượng khác
thì thu nhập này có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi diễn ra những hoạt động
trình diễn của người biểu diễn hoặc vận động viên, mặc dù đã có những quy định
tại điều 7, 14 và 15.
3. Mặc dù có các quy định tại khoản 1 và 2, thu nhập
được đề cập trong Điều này sẽ được miễn thuế ở Nước nơi hoạt động của người biểu
diễn hay vận động viên hoàn toàn được tài trợ từ quỹ công của Nước ký kết này
và Nước ký kết kia hoặc nếu hoạt động này được tiến hành theo hiệp định hợp tác
văn hóa giữa hai Nước ký kết.
ĐIỀU 18. TIỀN LƯƠNG HƯU
1. Thể theo các quy định tại khoản 2 Điều 19, tiền
lương hưu và các khoản tiền công tương tự khác bao gồm bất kỳ khoản tiền bảo hiểm
hàng năm nào được trả cho một đối tượng cư trú của một Nước ký kết do các công
việc đã làm trước đây sẽ chỉ bị đánh thuế ở Nước mà từ đó những khoản tiền này
được trả.
2. Thuật ngữ “tiền bảo hiểm hàng năm” có nghĩa là một
số tiền cố định, được trả định kỳ cho một thể nhân vào một thời điểm nhất định,
được trả định kỳ cho một thể nhân vào một thời điểm nhất định trong thời gian sống
của đối tượng đó hoặc trong một giai đoạn đã được quy định hay đã được cam kết
thể theo nghĩa vụ đóng góp để nhận lại được số tiền hay giá trị bằng tiền toàn
bộ hay tương ứng.
ĐIỀU 19. PHỤC VỤ NHÀ NƯỚC
1.a. Tiền công lao động, trừ tiền lương hưu, do một
Nước ký kết hoặc cơ quan chính quyền cơ sở hay chính quyền địa phương của Nước
đó trả cho một cá nhân đối với việc phục vụ cho Nhà nước hay chính quyền địa
phương đó sẽ chỉ bị đánh thuế ở Nước đó.
b. Tuy nhiên, khoản tiền công lao động này sẽ chỉ bị
đánh thuế ở Nước ký kết kia nếu việc phục vụ này được thực hiện tại Nước kia và
nếu cá nhân này là đối tượng cư trú của Nước kia, đồng thời:
(i) là đối tượng mang quốc tịch của Nước kia; hoặc
(ii) không trở thành đối tượng cư trú của Nước kia chỉ đơn thuần vì thực hiện
những công việc trên.
2.a. Bất kỳ khoản tiền lương hưu nào do một Nước ký
kết, một cơ quan chính quyền địa phương cơ sở hay chính quyền địa phương của Nước
đó hoặc do các quỹ của những cơ quan này lập ra trả cho một cá nhân đối với các
công việc phục vụ cho Nhà nước hoặc các cơ quan chính quyền cơ sở hay chính quyền
địa phương tại Nước đó sẽ chỉ bị đánh thuế ở Nước đó.
b. Tuy nhiên, những khoản tiền lương hưu đó sẽ chỉ
bị đánh thuế tại Nước ký kết kia nếu cá nhân này là đối tượng cư trú và là đối
tượng mang quốc tịch của Nước ký kết kia.
3. Các quy định của Điều 15, 16, và 18 sẽ áp dụng đối
với các khoản tiền công lao động và lương hưu đối các công việc liên quan đến một
hoạt động kinh doanh được tiến hành bởi một Nước ký kết hoặc cơ quan chính cơ sở
hoặc chính quyền địa phương của Nước đó.
ĐIỀU 20. SINH VIÊN VÀ THỰC TẬP
SINH VÀ HỌC SINH HỌC NGHỀ
1. Những khoản tiền mà một sinh viên hay thực tập
sinh nhận được để trang trải các chi phí sinh hoạt, học tập hay đào tạo mà người
sinh viên hay thực tập sinh này ngay trước khi đến một Nước ký kết đã và đang đối
tượng cư trú của Nước ký kết kia và hiện có mặt tại Nước thứ nhất chỉ với mục
đích học tập hay đào tạo, sẽ không bị đánh thuế tại Nước thứ nhất, với điều kiện
những khoản tiền đó có nguồn gốc từ bên ngoài Nước này.
2. Mặc dù đã có các quy định tại các Điều 14 và 15,
tiền công trả cho các hoạt động dịch vụ của sinh viên hay thực tập sinh thực hiện
một Nước ký kết sẽ không bị đánh thuế tại Nước đó với điều kiện những hoạt động
phục vụ đó có liên quan chặt chẽ với hoạt động học tập hay đào tạo của đối tượng
đó.
ĐIỀU 21. THU NHẬP KHÁC
1. Những khoản thu nhập của một đối tượng cư trú của
một Nước ký kết, cho dù phát sinh ở đâu, chưa được đề cập đến tại những điều
trên của Hiệp định này, sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó.
2. Những quy định tại khoản 1 sẽ không áp dụng đối
với thu nhập, trừ thu nhập từ bất động sản được định nghĩa tại khoản 2 Điều 6,
nếu đối tượng nhận thu nhập là đối tượng cư trú của một Nước ký kết, có tiến
hành hoạt động kinh doanh tại Nước ký kết kia thông qua một cơ sở thường trú nằm
tại Nước kia hay thực hiện tại Nước kia những hoạt động dịch cụ cá nhân độc lập
thông qua một cơ sở cố định tại Nước kia, và quyền hay tài sản liên quan đến
thu nhập được chi trả có sự liên hệ thực tế với cơ sở thường trú hay cơ sở cố định
như trên. Trong trường hợp như vậy, những quy định tại Điều 7 hoặc Điều 14, tùy
trường hợp, sẽ được áp dụng.
3. Mặc dù có những quy định tại khoản 1 và 2, các
khoản thu nhập do một đối tượng cư trú của một Nước ký kết thu được từ Nước ký
kết kia và chưa được đề cập ở những Điều trước của Hiệp định này cũng có thể bị
đánh thuế tại Nước kia.
ĐIỀU 22. TÀI SẢN
1. Tài sản là một bất động sản nêu tại Điều 6 do một
đối tượng cư trú của một Nước ký kết sở hữu và bất động sản đó nằm tại Nước ký
kết kia có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
2. Tài sản là động sản hình thành nên một phần tài
sản kinh doanh của một cơ sở thường trú của một xí nghiệp của một Nước ký kết
có tại Nước ký kết kia hay là động sản thuộc một cơ sở cố định của một đối tượng
cư trú của một Nước ký kết có tại Nước ký kết kia để thực hiện các hoạt động dịch
vụ cá nhân độc lập có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
3. Tài sản là tàu thủy và máy bay do một xí nghiệp
của một Nước ký kết điều hành trong hoạt động vận tải quốc tế và tài sản là động
sản liên quan đến hoạt động của tàu thủy và máy bay đó sẽ chỉ bị đánh thuế tại
Nước đó.
4. Tất cả các phần tài sản khác của một đối tượng
cư trú của một Nước ký kết sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó.
ĐIỀU 23. CÁC BIỆN PHÁP XÓA BỎ
VIỆC ĐÁNH THUẾ HAI LẦN
1. Khi một đối tượng cư trú của một Nước ký kết thu
được thu nhập hay sở hữu tài sản, mà theo các quy định của Hiệp định này, những
thu nhập hay tài sản này có thể bị đánh thuế ở Nước ký kết kia, Nước ký kết thứ
nhất, căn cứ theo luật của nước mình, sẽ cho phép đối tượng cư trú đó khấu trừ
vào thuế tính trên thu nhập một khoản tiền tương đương với số tiền thuế thu nhập
đã nộp tại Nước kia và sẽ cho phép đối tượng cư trú đó khấu trừ vào thuế tính
trên tài sản một khoản tiền tương đương với số tiền thuế tài sản đã nộp tại Nước
kia. Tuy nhiên, trong cả hai trường hợp trên, số tiền thuế được khấu trừ sẽ
không vượt quá phần thuế thu nhập hay thuế tài sản được tính trước khi thực hiện
việc khấu trừ, tùy theo từng trường hợp được phân bổ cho phần thu nhập hay tài
sản có thể bị đánh thuế ở Nước kia.
2. Theo nội dung của Điều này, thuật ngữ “số tiền
thuế thu nhập đã nộp tại Nước kia” sẽ được coi là bao gồm cả số tiền thuế Việt
Nam hay Ucraina mà theo các luật của một Nước ký kết và phù hợp với Hiệp định
này lẽ ra phải nộp nếu số thuế tại Việt Nam hay Ucraina đó không được miễn hay
giảm theo các biện pháp khuyến khích tạm thời được quy định trong các luật của
một Nước ký kết nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế và đầu tư nước ngoài.
3. Trường hợp theo bất kỳ quy định nào của Hiệp định
này, mặc dù thu nhập do một đối tượng cư trú của một Nước ký kết thu được hay
tài sản do một đối tượng cư trú của một Nước ký kết thu được hay tài sản do một
đối tượng cư trú của một Nước ký kết sở hữu được miễn thuế tại Nước ký kết đó,
Nước ký kết đó, trong khi tính số tiền thuế đối với phần thu nhập hay tài sản
còn lại của đối tượng cư trú đó, vẫn có thể xét đến phần thu nhập hay tài sản
được miễn thuế.
ĐIỀU 24. KHÔNG PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ
1. Những đối tượng mang quốc tịch của một Nước ký kết
sẽ không phải chịu tại Nước ký kết kia bất kỳ hình thức thuế nào hay bất kỳ yêu
cầu nào liên quan đến hình thức thuế nào hay bất kỳ yêu cầu nào liên quan đến
hình thức thuế đó khác với hay nặng hơn hình thức thuế và các yêu cầu liên quan
hiện đang và có thể áp dụng cho các đối tượng mang quốc tịch của Nước kia trong
cùng những hoàn cảnh như nhau, đặc biệt là căn cứ vào điều kiện cư trú. Mặc dù
có những quy định tại Điều 1, quy định này cũng sẽ áp dụng cho các đối tượng
không phải là đối tượng cư trú của một hoặc cả hai Nước ký kết, nhưng có mang
quốc tịch của một trong hai Nước ký kết.
2. Những đối tượng không mang quốc tịch, là đối tượng
cư trú của một Nước ký kết sẽ không phải chịu tại một trong hai Nước ký kết bất
kỳ hình thức thuế nào hay bất kỳ yêu cầu nào liên quan đến hình thức thuế đó
khác với hay nặng hơn hình thức đánh thuế và các yêu cầu liên quan hiện đang và
có thể áp dụng cho các đối tượng mang quốc tịch của Nước có liên quan trong
cùng những hoàn cảnh như nhau.
3. Thuế áp dụng đối với một cơ sở thường trú của một
xí nghiệp của một Nước ký kết đặt tại Nước ký kết sẽ không kém thuận lợi hơn
thuế áp dụng đối với các xí nghiệp của Nước ký kết kia cùng thực hiện những hoạt
động tương tự. Quy định này sẽ không được giải thích là buộc một Nước ký kết
cho phép các đối tượng cư trú của Nước ký kết kia được hưởng bất kỳ bất kỳ khoản
miễn thu cá nhân, khoản miễn và giảm thuế nào căn cứ vào thân phận dân sự hoặc
trách nhiệm gia đình mà Nước ký kết thứ nhất dành cho những đối tượng cư trú của
Nước mình.
4. Trừ khi những quy định tại khoản 1 Điều 9, khoản
6 Điều 11, hoặc khoản 4 Điều 12 được áp dụng, lãi từ tiền cho vay, tiền bản quyền
và những khoản tiền chi trả khác do một xí nghiệp của một Nước ký kết trả cho đối
tượng cư trú của Nước ký kết kia, trong khi xác định lợi tức chịu thuế của xí
nghiệp đó, sẽ được tính vào chi phí được trừ theo những điều kiện tương tự như
là số tiền số tiền này trả cho một đối tượng cư trú của Nước thứ nhất. Tương tự
như vậy, bất kỳ khoản nợ nào của một xí nghiệp của một Nước ký kết vay của một
đối tượng cư trú của Nước ký kết kia, trong khi xác định tài sản chịu thuế của
xí nghiệp đó, sẽ được trừ vào tài sản của xí nghiệp theo những điều kiện tương
tự như trường hợp khoản nợ này được vay từ một đối tượng cư trú của Nước thứ nhất.
5. Các xí nghiệp của một Nước ký kết có toàn bộ hay
một phần vốn do một hay nhiều đối tượng cư trú của Nước ký kết kia kiểm soát
hay sở hữu trực tiếp hay gián tiếp, sẽ không phải chịu tại Nước thứ nhất bất kỳ
hình thức thuế hay yêu cầu liên quan đến hình thức thuế đó khác với hay nặng
hơn hình thức thuế và những yêu cầu liên quan được áp dụng cho các xí nghiệp
tương tự khác của Nước thứ nhất.
6. Những quy định tại khoản 3 và 5 của Điều này sẽ
không áp dụng đối với thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài của Việt Nam với điều
kiện Việt Nam cũng áp dụng thuế khấu trừ đối với tiền lãi cổ phần được chuyển
ra nước ngoài, và không áp dụng đối với chính sách thuế Việt Nam đối với các hoạt
động sản xuất nông nghiệp.
7. Không có nội dung nào tại Điều này được giải
thích là buộc một Nước ký kết phải cho cá nhân không cư trú tại Nước đó được hưởng
bất kỳ khoản miễn thu cá nhân, khoản miễn thuế và giảm thuế mà Nước đó cho cá
nhân cư trú tại Nước mình được hưởng.
8. Những quy định của Điều này sẽ chỉ áp dụng đối với
các loại thuế bao gồm trong Hiệp định.
9. Mặc dù có những quy định của Điều này, trong thời
gian Việt Nam vẫn tiếp tục cấp giấy phép cho các nhà đầu tư theo Luật Đầu tư nước
ngoài ở Việt Nam, trong đó quy định các hình thức thuế mà nhà đầu tư phải thực
hiện, thì việc áp dụng hình thức thuế đó sẽ không được coi là vi phạm các quy định
của khoản 3 và 5 của Điều này.
ĐIỀU 25. THỦ TỤC THỎA THUẬN
SONG PHƯƠNG
1. Trường hợp một đối tượng là đối tượng cư trú của
một Nước ký kết nhận thấy rằng việc giải quyết của nhà chức trách có thẩm quyền
của một hay cả hai Nước ký kết làm cho hay sẽ làm cho đối tượng đó phải nộp thuế
không đúng theo những quy định của Hiệp định này, lúc đó đối tượng có thể giải
trình trường hợp của mình với nhà chức trách có thẩm quyền của Nước ký kết nơi
đối tượng là đối tượng cư trú, mặc dù trong các luật trong nước của hai Nước ký
kết đã quy định những chế độ xử lý khiếu nại. Trường hợp đó phải được giải
trình trong thời hạn 3 năm kể từ lần thông báo giải quyết đầu tiên dẫn đến hình
thức thuế áp dụng không đúng với những quy định của Hiệp định.
2. Nhà chức trách có thẩm quyền sẽ cố gắng, nếu như
việc khiếu nại là hợp lý và nếu bản thân nhà chức trách đó không thể đi đến một
giải pháp thỏa đáng, phối hợp với nhà chức trách có thẩm quyền của Nước ký kết
kia để cùng giải quyết trường hợp khiếu nại bằng thỏa thuận chung, nhằm mục
đích tránh đánh thuế không phù hợp với nội dung của Hiệp định này. Mọi thỏa thuận
đạt được sẽ được thực hiện cho dù trong luật trong nước của hai Nước ký kết quy
định những giới hạn về thời gian.
3. Nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết
sẽ cố gắng giải quyết mọi khó khăn hay vướng mắc nảy sinh trong quá trình áp dụng
Hiệp định này. Nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước cũng có thể trao đổi với
nhau nhằm xóa bỏ việc đánh thuế hai lần trong các trường hợp không được quy định
tại Hiệp định.
4. Nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết
có thể trực tiếp thông báo cho nhau với mục đích nhằm đạt được một thỏa thuận
theo nội dung của những khoản trên đây. Các nhà chức trách có thẩm quyền thông
qua trao đổi sẽ xây dựng các thủ tục, điều kiện, biện pháp và kỹ thuật thích ứng
song phương để thực hiện thủ tục thỏa thuận song phương quy định tại Điều này.
ĐIỀU 26. TRAO ĐỔI THÔNG TIN
1. Nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết
sẽ trao đổi với nhau những thông tin cần thiết cho việc triển khai thực hiện những
quy định của Hiệp định này hay của các luật trong nước của hai Nước ký kết liên
quan đến các loại thuế mà Hiệp định này áp dụng sao cho việc đánh thuế theo các
luật trong nước sẽ không trái với Hiệp định này. Việc trao đổi thông tin không
bị giới hạn bởi Điều 1. Mọi thông tin do một Nước ký kết nhận được sẽ được giữ
bí mật giống như thông tin thu nhận theo các luật trong nước của Nước đó và
thông tin đó sẽ chỉ được cung cấp cho các đối tượng hay các cơ quan chức trách
(bao gồm cả tòa án và các cơ quan hành chính) có liên quan đến việc tính toán
hoặc thu, cưỡng chế hay truy tố, hoặc xác định các khiếu nại về các loại thuế
mà Hiệp định này áp dụng. Các đối tượng hoặc các cơ quan chức trách này sẽ chỉ
sử dụng các thông tin đó vào các mục đích nêu trên. Các đối tượng và các cơ
quan đó có thể cung cấp các thông tin này trong quá trình tố tụng công khai của
tòa án hay các quy định của tòa án. Các nhà chức trách có thẩm quyền thông qua
việc trao đổi sẽ xây dựng những điều kiện, biện pháp và kỹ thuật thích hợp liên
quan đến các vấn đề mà việc trao đổi thông tin được thực hiện, kể cả, khi cần
thiết, trao đổi thông tin liên quan đến việc trốn thuế.
2. Không có trường hợp nào những quy định tại khoản
1 được giải thích là buộc một Nước ký kết có nghĩa vụ:
a. thực hiện các biện pháp hành chính khác với luật
pháp hay thông lệ về quản lý hành chính của Nước ký kết đó hay của Nước ký kết
kia;
b. cung cấp những thông tin không thể tiết lộ được
theo các luật hay theo như quá trình quản lý hành chính thông thường của Nước
ký kết đó hay của Nước ký kết kia;
c. cung cấp những thông tin có thể làm tiết lộ bí mật
về mậu dịch, thương mại, công nghiệp, thương nghiệp hay bí mật nghề nghiệp hoặc
các phương thức kinh doanh, hoặc cung cấp những thông tin mà việc tiếc lộ chúng
có thể trái với chính sách nhà nước.
ĐIỀU 27. CÁC VIÊN CHỨC NGOẠI
GIAO VÀ LÃNH SỰ
Không nội dung nào trong Hiệp định này ảnh hưởng đến
những ưu đãi về thuế của các viên chức ngoại giao hoặc viên chức lãnh sự theo
những nguyên tắc chung của pháp luật quốc tế hay những quy định trong các hiệp
định đặc biệt.
ĐIỀU 28. HIỆU LỰC
Mỗi Nước ký kết, thông qua con đường ngoại giao, sẽ
thông báo cho nhau bằng văn bản việc hoàn tất các thủ tục theo yêu cầu của luật
Nước đó để Hiệp định này có hiệu lực. Hiệp định này sẽ có hiệu lực vào ngày của
thông báo sau cùng và sẽ có hiệu quả thi hành:
a. Tại Việt Nam:
(i) đối với các loại thuế khấu trừ tại nguồn, thu
trên các khoản thu nhập chịu thuế được chi trả từ ngày 1 tháng 1 của năm sau
năm dương lịch Hiệp định có hiệu lực; (ii) đối với các loại thuế thu nhập khác
thu trên thu nhập, lợi tức hay lợi tức chuyển nhượng tài sản phát sinh trong
năm dương lịch sau năm dương lịch Hiệp định có hiệu lực; (iii) đối với các loại
thuế tài sản, tính trên những phần tài sản hiện có từ ngày 1 tháng 1 của bất kỳ
năm nào tiếp sau năm dương lịch Hiệp định có hiệu lực và trong những năm dương
lịch tiếp theo;
b. Tại Ucraina:
(i) đối với các loại thuế thu trên tiền lãi cổ phần,
lãi từ tiền cho vay hay tiền bản quyền được chi trả từ ngày thứ 60 sau ngày Hiệp
định có hiệu lực; (ii) đối với thuế thu trên lợi tức (thu nhập) của các xí nghiệp
trong bất kỳ giai đoạn tính thuế nào bắt đầu từ ngày 1 tháng 1 của năm dương lịch
sau năm dương lịch Hiệp định có hiệu lực; (iii) đối với thuế thu nhập cá nhân nộp
từ ngày thứ 60 sau ngày Hiệp định có hiệu lực; (iv) đối với các loại thuế tài sản,
tính trên những phần tài sản hiện có từ ngày 1 tháng 1 của bất kỳ năm dương lịch
Hiệp định có hiệu lực và trong những năm dương lịch tiếp theo.
ĐIỀU 29. KẾT THÚC
Hiệp định này sẽ tiếp tục có hiệu lực cho tới khi một
Nước ký kết tuyên bố kết thúc hiệu lực Hiệp định. Từng Nước ký kết có thể kết
thúc hiệu lực Hiệp định bằng cách gửi cho Nước ký kết kia qua các đường ngoại
giao, văn bản kết thúc Hiệp định ít nhất 6 tháng trước khi kết thúc bất kỳ năm
dương lịch nào bắt đầu sau thời hạn 5 năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực.
Trong trường hợp đó, Hiệp định sẽ hết hiệu lực thi
hành:
a. tại Việt Nam:
(i) đối với những loại thuế khấu trừ tại nguồn, thu
trên các khoản thu nhập chịu thuế được chi trả kể từ ngày 1 tháng 1 của năm sau
năm dương lịch gửi thông báo kết thúc Hiệp định; (ii) đối với các loại thuế Việt
Nam khác thu trên thu nhập, lợi tức hay lợi tức chuyển nhượng tài sản phát sinh
trong năm dương lịch sau năm dương lịch gửi thông báo kết thúc Hiệp định và
trong những năm dương lịch tiếp theo; (iii) đối với các loại thuế tài sản tính
trên các phần tài sản hiện có từ ngày 1 tháng 1 của năm sau năm dương lịch gửi
thông báo kết thúc Hiệp định;
b. tại Ucraina:
(i) đối với những loại thuế thu trên tiền lãi cổ phần,
lãi tiền gửi hoặc tiền bản quyền được chi trả từ ngày thứ 60 sau ngày gửi thông
báo kết thúc Hiệp định; (ii) đối với thuế thu trên lợi tức (thu nhập) của các
xí nghiệp trong bất kỳ giai đoạn tính thuế nào bắt đầu từ ngày 1 tháng 1 của
năm dương lịch sau năm dương lịch gửi thông báo kết thúc Hiệp định; (iii) đối với
thuế thu nhập cá nhân nộp từ ngày thứ 60 sau ngày gửi thông báo kết thúc Hiệp định;
(iv) đối với các loại thuế tài sản tính trên các phần tài sản hiện có từ ngày 1
tháng 1 của năm sau sau năm dương lịch gửi thông báo kết thúc Hiệp định.
ĐỂ LÀM BẰNG những người được ủy quyền dưới đây của
từng Chính phủ đã ký vào Hiệp định này.
Hiệp định làm thành hai bản tại Hà Nội ngày 08
tháng 04 năm một nghìn chín trăm chín mươi sáu, mỗi bản gồm các thứ tiếng Việt,
tiếng Ucraina và tiếng Anh, tất cả các bản đều có giá trị như nhau. Trường hợp
có sự khác nhau trong việc giải thích, văn bản tiếng Anh sẽ có giá trị quyết định./.
THAY MẶT CHÍNH
PHỦ
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
(Đã ký)
|
THAY MẶT CHÍNH
PHỦ
NƯỚC UCRAINA
(Đã ký)
|
Hiệp định này có hiệu lực kể từ ngày 22/11/1996.