HIỆP ĐỊNH
GIỮA
CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM VÀ CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HÒA
AN-GIÊ-RI DÂN CHỦ VÀ NHÂN DÂN VỀ TRÁNH ĐÁNH THUẾ HAI LẦN VÀ NGĂN NGỪA VIỆC TRỐN
LẬU THUẾ ĐỐI VỚI CÁC LOẠI THUẾ ĐÁNH VÀO THU NHẬP VÀ VÀO TÀI SẢN
Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
và Chính phủ nước Cộng hòa An-Giê-Ri Dân chủ và Nhân dân,
Mong muốn ký kết một Hiệp định về việc tránh đánh
thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với các loại thuế đánh vào thu
nhập và vào tài sản, đã thỏa thuận dưới đây:
Điều 1. Phạm vi áp dụng
Hiệp định này được áp dụng cho các đối tượng là những
đối tượng cư trú của một hoặc của cả hai Nước ký kết.
Điều 2. Các loại thuế bao gồm
trong Hiệp định
1. Hiệp định này áp dụng đối với các loại thuế do một
Nước ký kết hoặc chính quyền địa phương của Nước đó, đánh vào thu nhập và vào
tài sản, bất kể hình thức áp dụng của các loại thuế đó như thế nào.
2. Tất cả các loại thuế thu trên tổng thu nhập, tổng
tài sản, hoặc những phần của thu nhập hoặc của tài sản bao gồm cả các khoản thuế
đối với lợi nhuận từ việc chuyển nhượng động sản hoặc bất động sản, các loại
thuế đánh trên tổng số tiền lương hoặc tiền công do xí nghiệp chi trả cũng như
các loại thuế đánh trên phần giá trị tài sản tăng thêm đều được coi là thuế
đánh vào thu nhập và vào tài sản.
3. Những loại thuế hiện hành được áp dụng trong Hiệp
định này là:
a. tại Việt Nam: (i) thuế thu nhập cá nhân; (ii)
thuế lợi tức; và (iii) thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài; (dưới đây được gọi
là "thuế Việt Nam");
b. tại An-Giê-Ri: (i) thuế đánh vào thu nhập toàn cầu;
(ii) thuế đánh vào lợi tức công ty; (iii) thuế đánh vào các hoạt động ngành nghề;
(iv) thuế đánh vào tổng các khoản thanh toán; (v) thuế đánh vào tài sản; (vi)
thuế tài nguyên và thuế đánh vào các kết quả thu được từ các hoạt động thăm dò,
nghiên cứu, khai thác và vận chuyển Hy-đrô các bon bằng đường ống dẫn, (dưới
đây được coi là "thuế An-Giê-Ri").
4. Hiệp định này cũng sẽ được áp dụng cho các loại
thuế có tính chất tương tự hay về căn bản giống như các loại thuế trên ban hành
sau ngày ký Hiệp định này để bổ sung, hoặc thay thế các loại thuế hiện hành.
Các nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết sẽ thông báo cho nhau biết
những thay đổi quan trọng trong các luật thuế của từng Nước.
Điều 3. Các định nghĩa chung
1. Theo nội dung của Hiệp định này, trừ trường hợp
ngữ cảnh đòi hỏi có sự giải thích khác:
a. từ "Việt Nam" có nghĩa là nước Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam; khi dùng theo nghĩa địa lý, từ đó bao gồm toàn bộ
lãnh thổ quốc gia Việt Nam, kể cả lãnh hải Việt Nam, và mọi vùng ở ngoài và gắn
liền với lãnh hải Việt Nam mà theo Luật pháp Việt Nam và phù hợp với luật pháp
quốc tế, Việt Nam có quyền chủ quyền đối với việc thăm dò và khai thác tài
nguyên thiên nhiên của đáy biển, lòng đất dưới đáy biển và khối nước ở trên;
b. từ "An-Giê-Ri" có nghĩa là Cộng hòa
An-Giê-Ri Dân chủ và Nhân dân và, khi dùng theo nghĩa địa lý, có nghĩa là lãnh
thổ của Cộng hòa An-Giê-Ri Dân chủ và Nhân dân bao gồm cả lãnh hải và, các vùng
bên ngoài lãnh hải mà phù hợp với luật pháp quốc tế và luật pháp quốc gia, Cộng
hòa An-Giê-Ri Dân chủ và Nhân dân được thực hiện quyền tài phán và quyền chủ
quyền của mình ở đó đối với việc thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên của
đáy biển, lòng đất dưới đáy biển và khối nước ở trên;
c. thuật ngữ "Nước ký kết" và "Nước
ký kết kia" có nghĩa là Việt Nam hay An-Giê-Ri tùy theo ngữ cảnh đòi hỏi;
d. thuật ngữ "đối tượng" bao gồm cá nhân,
công ty và bất kỳ tổ chức nhiều đối tượng nào khác;
e. thuật ngữ " công ty" để chỉ các tổ chức
công ty hoặc bất kỳ một thực thể nào được coi là tổ chức công ty dưới giác độ
thuế;
f. thuật ngữ "xí nghiệp của Nước ký kết"
và "xí nghiệp của Nước ký kết kia" theo thứ tự có nghĩa là một xí
nghiệp được điều hành bởi đối tượng cư trú của một Nước ký kết và một xí nghiệp
được điều hành bởi đối tượng cư trú của Nước ký kết kia;
g. thuật ngữ "các đối tượng mang quốc tịch"
có nghĩa: (i) tất cả các cá nhân nào mang quốc tịch một Nước ký kết; (ii) tất cả
các pháp nhân, tổ chức hùn vốn và hiệp hội nào có tư cách được chấp nhận theo
các luật có hiệu lực tại một Nước ký kết;
h. thuật ngữ "vận tải quốc tế" có nghĩa
là bất cứ sự vận chuyển nào bằng tàu thủy hoặc máy bay được thực hiện bởi một
xí nghiệp của một Nước ký kết, trừ trường hợp khi chiếc tàu thủy hoặc máy bay
đó chỉ hoạt động giữa những địa điểm trong Nước ký kết kia; và
i. thuật ngữ "nhà chức trách có thẩm quyền"
có nghĩa: (i) trong trường hợp đối với Việt Nam là Bộ trưởng Bộ Tài chính hoặc
người đại diện được ủy quyền của Bộ trưởng Bộ Tài chính; và (ii) trong trường hợp
đối với An-Giê-Ri là Bộ trưởng phụ trách về Tài chính hoặc người đại diện được ủy
quyền của Bộ trưởng phụ trách về Tài chính.
2. Trong khi một Nước ký kết áp dụng Hiệp định này,
mọi thuật ngữ chưa được định nghĩa trong Hiệp định sẽ có nghĩa theo như định
nghĩa trong luật của Nước đó liên quan đến các loại thuế mà Hiệp định áp dụng,
trừ trường hợp ngữ cảnh đòi hỏi có sự giải thích khác.
Điều 4. Đối tượng cư trú
1. Theo nội dung của Hiệp định này, thuật ngữ
"đối tượng cư trú của một Nước ký kết" có nghĩa là bất cứ đối tượng
nào, mà theo các luật của Nước đó, là đối tượng chịu thuế căn cứ vào nhà ở, nơi
cư trú, trụ sở điều hành, nơi đăng ký hoặc các tiêu chuẩn khác có tính chất
tương tự.
2. Trường hợp theo những quy định tại khoản 1, khi
một cá nhân là đối tượng cư trú của cả hai Nước ký kết, thì thân phận cư trú của
cá nhân đó sẽ được xác định như sau:
a. cá nhân đó sẽ được coi là đối tượng cư trú của
Nước mà tại đó cá nhân đó có nhà ở thường trú. Nếu cá nhân đó có nhà ở thường
trú ở cả hai Nước, cá nhân đó sẽ được coi là đối tượng cư trú của Nước mà cá
nhân đó có các quan hệ cá nhân và kinh tế chặt chẽ hơn (trung tâm của các quyền
lợi chủ yếu);
b. nếu như không thể xác định được Nước ký kết nơi
cá nhân đó có trung tâm các quyền lợi chủ yếu, hoặc nếu cá nhân đó không có nhà
ở thường trú ở cả hai Nước, cá nhân đó sẽ được coi là đối tượng cư trú của Nước
mà cá nhân đó thường sống;
c. nếu cá nhân đó thường sống ở cả hai Nước hay
không sống thường xuyên ở Nước nào, cá nhân đó sẽ được coi là đối tượng cư trú
của Nước mà cá nhân đó mang quốc tịch;
d. nếu cá nhân đó là đối tượng mang quốc tịch của cả
hai Nước hoặc không mang quốc tịch của Nước nào, nhà chức trách có thẩm quyền của
hai Nước ký kết sẽ giải quyết vấn đề đó bằng thỏa thuận chung.
3. Trường hợp do những quy định tại khoản 1, khi một
đối tượng không phải là cá nhân, là đối tượng cư trú của cả hai Nước ký kết thì
đối tượng đó sẽ được coi là đối tượng cư trú của Nước nơi đối tượng có trụ sở
điều hành thực tế.
Điều 5. Cơ sở thường trú
1. Theo nội dung của Hiệp định này, thuật ngữ
"cơ sở thường trú" có nghĩa là một cơ sở kinh doanh cố định mà qua đó
xí nghiệp thực hiện toàn bộ hay một phần hoạt động kinh doanh của mình.
2. Thuật ngữ "cơ sở thường trú" chủ yếu
bao gồm:
a. trụ sở điều hành;
b. chi nhánh;
c. văn phòng;
d. nhà máy;
e. xưởng;
f. mỏ, giếng dầu hoặc khí, mỏ đá hoặc bất kỳ địa điểm
khai thác tài nguyên thiên nhiên nào khác; và
g. cửa hàng, nhà kho hoặc nhà ở được sử dụng làm
các điểm bán hàng.
3. Thuật ngữ "cơ sở thường trú" cũng bao
gồm:
a. địa điểm xây dựng hay công trình xây dựng, dự án
lắp ráp hoặc lắp đặt hay các hoạt động giám sát liên quan đến các công trình, địa
điểm trên, nhưng chỉ khi địa điểm, công trình hay các hoạt động đó kéo dài trong
giai đoạn trên sáu tháng;
b. việc cung cấp các dịch vụ, bao gồm cả dịch vụ tư
vấn do một xí nghiệp của một Nước ký kết thực hiện thông qua các nhân viên hay
đối tượng khác được xí nghiệp giao thực hiện với điều kiện các hoạt động nêu
trên kéo dài tại một nước (trong cùng một dự án hay một dự án liên quan) trong
một giai đoạn hay nhiều giai đoạn gộp lại hơn 6 tháng trong khoảng thời gian 12
tháng liên tục.
4. Mặc dù có những quy định trên của Điều này, thuật
ngữ "cơ sở thường trú" sẽ được coi là không bao gồm:
a. việc sử dụng các phương tiện riêng cho mục đích
lưu kho hay trưng bày hàng hóa hay tài sản của xí nghiệp;
b. việc duy trì kho hàng hóa hoặc tài sản của xí
nghiệp với mục đích lưu kho hay trưng bày hàng hóa;
c. việc duy trì kho hàng hóa hoặc tài sản của xí
nghiệp chỉ với mục đích để cho xí nghiệp khác gia công;
d. việc duy trì một cơ sở kinh doanh cố định chỉ nhằm
mục đích mua hàng hóa hoặc tài sản hay để thu thập thông tin cho xí nghiệp;
e. việc duy trì một cơ sở kinh doanh cố định chỉ với
mục đích tiến hành bất kỳ hoạt động nào khác có tính chất chuẩn bị hoặc phụ trợ
cho xí nghiệp;
f. việc duy trì một cơ sở kinh doanh cố định chỉ nhằm
mục đích kết hợp các hoạt động nêu từ điểm (a) đến (e), với điều kiện là việc kết
hợp tất cả các hoạt động này chỉ có tính chất chuẩn bị hoặc phụ trợ.
5. Mặc dù có những quy định tại khoản 1 và 2, trường
hợp một đối tượng - trừ đại lý có tư cách độc lập được điều chỉnh bởi khoản 7 -
hoạt động tại một Nước ký kết thay mặt cho xí nghiệp của Nước ký kết kia, xí
nghiệp đó sẽ được coi là có cơ sở thường trú tại Nước thứ nhất đối với các hoạt
động mà đối tượng trên thực hiện cho xí nghiệp, nếu đối tượng đó:
a. có và thường xuyên thực hiện tại Nước đó thẩm
quyền ký kết các hợp đồng đứng tên xí nghiệp, trừ khi các hoạt động của đối tượng
đó chỉ giới hạn trong phạm vi các hoạt động nêu tại khoản 4 mà những hoạt động
đó nếu được thực hiện thông qua một cơ sở kinh doanh cố định thì sẽ không làm
cho cơ sở kinh doanh cố định đó trở thành một cơ sở thường trú theo những quy định
tại khoản đó; hay
b. không có thẩm quyền nêu trên, nhưng thường xuyên
duy trì tại Nước thứ nhất một kho hàng hóa hay tài sản, tại đó đối tượng này
thường xuyên giao hàng hóa hay tài sản thay mặt cho xí nghiệp.
6. Mặc dù có những quy định trên của Điều này, một
tổ chức bảo hiểm của một Nước ký kết, trừ trường hợp đối với tái bảo hiểm, sẽ
được coi là có cơ sở thường trú tại Nước ký kết kia nếu tổ chức đó thu phí bảo
hiểm trên lãnh thổ của Nước kia hay bảo hiểm các rủi ro tại Nước kia thông qua
một đối tượng không phải là một đại lý có tư cách độc lập được điều chỉnh bởi
khoản 7.
7. Một xí nghiệp sẽ không được coi là có cơ sở thường
trú tại một Nước ký kết nếu xí nghiệp đó chỉ thực hiện kinh doanh tại Nước đó
thông qua một đại lý môi giới, một đại lý hoa hồng hoặc bất kỳ một đại lý nào
khác có tư cách độc lập, với điều kiện những đối tượng này chỉ hoạt động trong
khuôn khổ kinh doanh thông thường của họ. Tuy nhiên, khi các hoạt động của đại
lý đó dành toàn bộ hay hầu như toàn bộ cho việc đại diện cho xí nghiệp, đại lý
đó sẽ không được coi là đại lý có tư cách độc lập theo nội dung của khoản này.
8. Việc một công ty là đối tượng cư trú của một Nước
ký kết kiểm soát hoặc chịu sự kiểm soát bởi một công ty là đối tượng cư trú của
Nước ký kết kia hoặc tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước kia (có thể thông
qua một cơ sở thường trú hay dưới hình thức khác) sẽ không làm cho bất kỳ công
ty nào trở thành cơ sở thường trú của công ty kia.
Điều 6. Thu nhập từ bất động sản
1. Thu nhập mà một đối tượng cư trú tại một Nước ký
kết thu được từ bất động sản (kể cả thu nhập từ nông nghiệp hoặc lâm nghiệp) nằm
tại nước ký kết kia thì có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
2. Thuật ngữ "bất động sản" sẽ có nghĩa
theo như luật của Nước ký kết nơi có tài sản. Trong mọi trường hợp sẽ bao gồm cả
các tài sản đi liền với bất động sản, đàn gia súc và thiết bị sử dụng trong
nông nghiệp và lâm nghiệp, các quyền áp dụng theo các quy định tại luật chung về
điền sản, quyền sử dụng bất động sản và các quyền được hưởng các khoản thanh
toán thay đổi hay cố định trả cho việc khai thác hay quyền khai thác các mỏ,
nguồn khoáng sản và các tài nguyên thiên nhiên khác; các tàu thủy và máy bay sẽ
không được coi là bất động sản.
3. Những quy định tại khoản 1 sẽ áp dụng đối với
thu nhập phát sinh từ việc trực tiếp sử dụng, cho thuê hay sử dụng các loại bất
động sản dưới bất kỳ hình thức nào khác.
4. Những quy định tại khoản 1 và 3 cũng sẽ áp dụng
cho thu nhập từ bất động sản của một xí nghiệp và đối với thu nhập từ bất động
sản được sử dụng để thực hiện các hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập.
Điều 7. Lợi tức doanh nghiệp
1. Lợi tức của một xí nghiệp của một Nước ký kết sẽ
chỉ bị đánh thuế tại Nước đó, trừ trường hợp xí nghiệp có tiến hành hoạt động
kinh doanh tại Nước ký kết kia thông qua một cơ sở thường trú tại Nước kia. Nếu
xí nghiệp có hoạt động kinh doanh theo cách trên thì các khoản lợi tức của xí
nghiệp có thể bị đánh thuế tại Nước kia, nhưng chỉ trên phần lợi tức phân bổ
cho cơ sở thường trú đó.
2. Thể theo các quy định tại khoản 3, khi một xí
nghiệp của một Nước ký kết tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước ký kết kia
thông qua một cơ sở thường trú tại Nước kia thì tại mỗi Nước ký kết sẽ có những
khoản lợi tức được phân bổ cho cơ sở thường trú nói trên mà cơ sở đó có thể thu
được, nếu nó là một xí nghiệp riêng, tách biệt cùng tham gia vào các hoạt động
như nhau hay tương tự trong cùng những điều kiện như nhau hay tương tự và có
quan hệ hoàn toàn độc lập với xí nghiệp mà cơ sở đó được coi là cơ sở thường
trú.
3. Trong khi xác định lợi tức của một cơ sở thường
trú, cơ sở này sẽ được phép khấu trừ tất cả các khoản chi phí phát sinh phục vụ
cho hoạt động kinh doanh của cơ sở thường trú đó, bao gồm cả chi phí điều hành
và chi phí quản lý chung phát sinh tại Nước nơi cơ sở thường trú đó đóng hoặc ở
bất kỳ nơi nào khác. Tuy nhiên sẽ không cho phép tính vào các khoản chi phí được
trừ bất kỳ khoản tiền nào, nếu có, do cơ sở thường trú trả cho (trừ khi là khoản
thanh toán các chi phí thực tế) trụ sở chính của xí nghiệp hay bất kỳ văn phòng
nào khác của xí nghiệp dưới hình thức tiền bản quyền, các khoản lệ phí hay bất
kỳ khoản thanh toán nào tương tự để được phép sử dụng bằng phát minh hay các
quyền khác, hay dưới hình thức tiền hoa hồng trả cho việc thực hiện các dịch vụ
riêng biệt hay trả cho công việc quản lý hay dưới hình thức lãi tính trên tiền
cho cơ sở thường trú vay, trừ trường hợp tiền lãi của cơ sở ngân hàng. Cũng
tương tự, trong khi xác định lợi tức của cơ sở thường trú sẽ không tính đến các
khoản tiền (trừ các khoản tiền thanh toán các chi phí thực tế) do cơ sở thường
trú thu từ trụ sở chính của xí nghiệp hay bất kỳ văn phòng khác của xí nghiệp,
dưới hình thức tiền bản quyền, các khoản lệ phí hay các khoản thanh toán tương
tự để cho phép sử dụng bằng phát minh hay các quyền khác, hay dưới hình thức tiền
hoa hồng trả cho việc thực hiện các dịch vụ riêng biệt hay trả cho công việc quản
lý, hay dưới hình thức lãi tính trên tiền cho trụ sở chính của xí nghiệp hay bất
kỳ văn phòng nào của xí nghiệp vay, trừ trường hợp lãi từ tiền cho vay của cơ sở
ngân hàng.
4. Không có nội dung nào tại Điều này sẽ ảnh hưởng
đến việc áp dụng luật của một Nước ký kết liên quan đến việc xác định nghĩa vụ
nộp thuế của một đối tượng trong các trường hợp nhà chức trách có thẩm quyền của
Nước đó không có đủ thông tin để xác định lợi tức được phân bổ cho cơ sở thường
trú, với điều kiện luật đó được áp dụng phù hợp với các nguyên tắc nêu tại Điều
này.
5. Trường hợp tại một Nước ký kết vẫn thường xác định
các khoản lợi tức được phân bổ cho một cơ sở thường trú trên cơ sở phân chia tổng
các khoản lợi tức của xí nghiệp thành những phần khác nhau, không có nội dung
nào tại khoản 2 ngăn cản Nước ký kết đó xác định lợi tức chịu thuế theo cách
phân chia theo thông lệ trên; tuy nhiên, phương pháp phân chia được áp dụng như
vậy phải đưa ra kết quả phù hợp với những nguyên tắc nêu tại Điều này.
6. Theo nội dung các khoản trên, các khoản lợi tức
được phân bổ cho cơ sở thường trú sẽ được xác định theo cùng một phương pháp giữa
các năm trừ khi có đủ lý do chính đáng để xác định theo phương pháp khác.
7. Khi lợi tức bao gồm các khoản thu nhập được đề cập
riêng tại các Điều khác của Hiệp định này, thì các quy định của các Điều đó
không bị ảnh hưởng bởi những quy định tại Điều này.
Điều 8. Vận tải biển và vận tải
hàng không
1. Lợi tức do một xí nghiệp của một Nước ký kết thu
được từ hoạt động của tàu thủy hoặc máy bay trong vận tải quốc tế sẽ chỉ bị
đánh thuế tại Nước đó.
2. Những quy định tại khoản 1 cũng sẽ áp dụng cho
các khoản lợi tức thu được từ việc tham gia vào một tổ hợp, một liên doanh hay
một hãng hoạt động quốc tế.
Điều 9. Những xí nghiệp liên kết
Khi:
a. một xí nghiệp của một Nước ký kết tham gia trực
tiếp hoặc gián tiếp vào việc điều hành, kiểm soát hoặc góp vốn vào một xí nghiệp
của Nước ký kết kia, hoặc
b. các đối tượng cùng tham gia trực tiếp hoặc gián
tiếp vào việc điều hành, kiểm soát hoặc góp vốn vào một xí nghiệp của một Nước
ký kết và vào một xí nghiệp của Nước ký kết kia, và trong cả hai trường hợp,
trong mối quan hệ tài chính và thương mại giữa hai xí nghiệp trên có những điều
kiện được đưa ra hoặc áp đặt khác với điều kiện được đưa ra giữa các xí nghiệp
độc lập, lúc đó mọi khoản lợi tức mà một xí nghiệp có thể thu được nếu không có
những điều kiện trên nhưng nay vì những điều kiện này mà xí nghiệp đó không thu
được, sẽ vẫn được một Nước ký kết tính vào các khoản lợi tức của xí nghiệp đó
và bị đánh thuế tương ứng.
Điều 10. Tiền lãi cổ phần
1. Tiền lãi cổ phần do một công ty là đối tượng cư
trú của một nước ký kết trả cho một đối tượng cư trú của Nước ký kết kia có thể
bị đánh thuế tại Nước kia.
2. Tuy nhiên, những khoản tiền lãi cổ phần đó cũng
có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi công ty trả tiền lãi cổ phần là đối tượng
cư trú và theo các luật của Nước đó, nhưng nếu đối tượng nhận tiền lãi cổ phần
là đối tượng thực hưởng tiền lãi cổ phần thì thuế được tính khi đó sẽ không vượt
quá 15 phần trăm tổng số tiền lãi cổ phần.
Khoản này sẽ không ảnh hưởng tới việc đánh thuế
công ty đối với khoản lợi tức được dùng để chia tiền lãi cổ phần.
3. Thuật ngữ "tiền lãi cổ phần" được sử dụng
trong Điều này có nghĩa là thu nhập từ cổ phần "jouissance" hay các
quyền lợi "jouissance", cổ phần khai thác mỏ, cổ phần sáng lập hoặc
các quyền lợi khác, không kể các khoản nợ, được hưởng lợi tức, cũng như thu nhập
từ các quyền lợi công ty khác cùng chịu sự điều chỉnh của chính sách thuế đối với
thu nhập từ cổ phần theo luật của Nước nơi công ty chia lãi cổ phần là đối tượng
cư trú.
4. Những quy định tại khoản 1 và 2 sẽ không áp dụng
trong trường hợp đối tượng thực hưởng các khoản tiền lãi cổ phần là đối tượng
cư trú của một Nước ký kết có tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước ký kết
kia, nơi công ty trả tiền lãi cổ phần là đối tượng cư trú, thông qua một cơ sở
thường trú nằm tại Nước đó, hay tiến hành tại Nước kia các hoạt động dịch vụ cá
nhân độc lập thông qua một cơ sở cố định tại Nước kia, và quyền nắm giữ cổ phần
nhờ đó được hưởng tiền lãi cổ phần, có sự liên hệ thực tế đến cơ sở thường trú
hoặc cơ sở cố định nói trên. Trong trường hợp như vậy, các quy định tại Điều 7
hoặc Điều 14 của Hiệp định này, tùy từng trường hợp, sẽ được áp dụng.
5. Khi một công ty là đối tượng cư trú của một Nước
ký kết có lợi tức hay thu nhập phát sinh từ Nước ký kết kia thì Nước kia có thể
không đánh thuế đối với những khoản tiền lãi cổ phần do công ty này trả, trừ
trường hợp những khoản tiền lãi cổ phần này được trả cho đối tượng cư trú của
Nước ký kết kia, hoặc quyền nắm giữ cổ phần có các khoản tiền lãi cổ phần được
trả có sự liên hệ thực tế với một cơ sở thường trú hay một cơ sở cố định tại Nước
kia, đồng thời Nước kia cũng không buộc các khoản lợi tức không chia của công
ty trên phải chịu thuế đối với những khoản lợi tức không chia của công ty, cho
dù những khoản tiền lãi cổ phần được chia hoặc các khoản lợi tức không chia bao
gồm toàn bộ hay một phần các khoản lợi tức hoặc thu nhập phát sinh tại Nước
kia.
Điều 11. Lãi từ tiền cho vay
1. Lãi từ tiền cho vay phát sinh tại một Nước ký kết
và được trả cho đối tượng cư trú của Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế tại Nước
kia.
2. Tuy nhiên, khoản tiền lãi này cũng có thể bị
đánh thuế ở Nước ký kết nơi phát sinh lãi và phù hợp với các luật của Nước đó,
nhưng nếu đối tượng nhận lãi từ tiền cho vay là đối tượng thực hưởng thì mức
thuế khi đó được tính sẽ không vượt quá 15 phần trăm của tổng số khoản lãi từ
tiền cho vay.
3. Mặc dù có những quy định tại khoản 2, lãi tiền
vay phát sinh tại một Nước ký kết và trả cho Chính phủ của Nước ký kết kia sẽ
được miễn thuế tại Nước ký kết thứ nhất. Theo nội dung của khoản này, thuật ngữ
"Chính phủ":
a. trong trường hợp của Việt Nam, có nghĩa là Chính
phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam và sẽ bao gồm cả: (i) Ngân hàng nhà
nước Việt Nam; (ii) chính quyền địa phương; và (iii) các tổ chức như vậy mà
toàn bộ số vốn do Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc do bất
kỳ chính quyền địa phương nào nắm giữ được thỏa thuận tùy theo một thời kỳ giữa
các nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết.
b. trong trường hợp của An-Giê-Ri, có nghĩa là
Chính phủ nước Cộng hòa An-Giê-Ri dân chủ và Nhân dân và sẽ bao gồm cả: (i)
ngân hàng An-Giê-Ri; (ii) chính quyền địa phương; và (iii) các tổ chức như vậy
mà toàn bộ số vốn do Chính phủ Cộng hòa An-Giê-Ri Dân chủ và Nhân dân hoặc do bất
kỳ chính quyền địa phương nào nắm giữ được thỏa thuận tùy theo từng thời kỳ giữa
các nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết.
4. Thuật ngữ "lãi từ tiền cho vay" dùng ở
Điều này có nghĩa thu nhập từ các khoản cho vay dưới bất kỳ dạng nào, có hay
không được đảm bảo bằng thế chấp và có hoặc không có quyền được hưởng lợi tức của
người đi vay, và đặc biệt là khoản thu nhập từ chứng khoán của chính phủ và thu
nhập từ trái phiếu hoặc trái phiếu thông thường, bao gồm cả tiền thưởng và giải
thưởng đi liền với các chứng khoán, trái phiếu hoặc trái phiếu thông thường đó.
Tiền phạt thanh toán chậm sẽ không được coi là lãi từ tiền cho vay theo nội
dung của Điều này.
5. Những quy định tại khoản 1, 2 và 3 sẽ không được
áp dụng nếu người thực hưởng các khoản lãi từ tiền cho vay là đối tượng cư trú
tại một Nước ký kết, tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước ký kết kia nơi
phát sinh các khoản lãi từ tiền cho vay thông qua một cơ sở thường trú tại Nước
kia hoặc thực hiện tại Nước kia các hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập thông qua
một cơ sở cố định tại Nước kia và khoản nợ có các khoản tiền lãi được trả có sự
liên hệ thực tế với cơ sở thường trú hay cơ sở cố định đó. Trong trường hợp
này, các quy định tại Điều 7 hoặc Điều 14, tùy từng trường hợp, sẽ được áp dụng.
6. Lãi từ tiền cho vay sẽ được coi là phát sinh tại
một Nước ký kết khi đối tượng trả chính là Nước ký kết đó, chính quyền địa
phương hoặc đối tượng cư trú của Nước đó. Tuy nhiên, khi đối tượng trả lãi có ở
một Nước ký kết một cơ sở thường trú hay một cơ sở cố định liên quan đến các
khoản nợ đã phát sinh các khoản lãi này, và khoản tiền đó do cơ sở thường trú
hoặc cơ sở cố định đó chịu thì dù đối tượng đó có là đối tượng cư trú của một
Nước ký kết hay không, khoản tiền lãi này sẽ vẫn được coi là phát sinh ở Nước
nơi cơ sở thường trú hay cơ sở cố định đó đóng.
7. Trường hợp do mối quan hệ đặc biệt giữa đối tượng
trả lãi và đối tượng hưởng lãi hoặc giữa cả hai đối tượng trên và các đối tượng
khác, khoản lãi từ tiền cho vay, liên quan đến khoản cho vay có số tiền lãi được
trả vượt quá khoản tiền được thỏa thuận giữa đối tượng đi vay và đối tượng thực
hưởng khi không có mối quan hệ này, thì khi đó, các quy định của Điều này sẽ chỉ
áp dụng đối với các khoản tiền thanh toán khi không có mối quan hệ đặc biệt
trên. Trong trường hợp này, phần thanh toán vượt sẽ bị đánh thuế theo luật của
từng Nước ký kết có xem xét tới các quy định khác của Hiệp định này.
Điều 12. Tiền bản quyền
1. Tiền bản quyền phát sinh tại một Nước ký kết và
được trả cho đối tượng cư trú của Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế tại Nước
kia.
2. Tuy nhiên, những khoản tiền bản quyền đó cũng có
thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi phát sinh, và phù hợp với các luật của Nước
này, nhưng nếu đối tượng nhận tiền bản quyền là đối tượng thực hưởng đồng thời
là đối tượng cư trú của Nước ký kết kia thì mức thuế được tính khi đó sẽ không
vượt quá 15 phần trăm tổng số tiền bản quyền. Nhà chức trách có thẩm quyền của
hai Nước ký kết sẽ xây dựng biện pháp áp dụng giới hạn này bằng thỏa thuận
chung.
3. Thuật ngữ "tiền bản quyền" được sử dụng
trong Điều này có nghĩa là các khoản thanh toán ở bất cứ dạng nào được trả cho
việc sử dụng, hoặc quyền sử dụng, bản quyền tác giả của một tác phẩm văn học,
nghệ thuật hay khoa học, kể cả phim điện ảnh và phim vi-đi-ô hoặc các loại phim
hay các loại băng dùng trong phát thanh và truyền hình, bằng phát minh, nhãn hiệu
thương mại, thiết kế hoặc mẫu, đồ án, công thức hoặc quy trình bí mật, hay trả
cho việc sử dụng, hay quyền sử dụng thiết bị công nghiệp, thương mại hoặc khoa
học, hay trả cho thông tin liên quan đến các kinh nghiệm công nghiệp, thương mại
hoặc khoa học.
4. Những quy định tại khoản 1 và 2 sẽ không áp dụng
nếu đối tượng thực hưởng các khoản tiền bản quyền, là đối tượng cư trú của một
Nước ký kết, tiến hành hoạt động kinh doanh ở Nước ký kết kia nơi có khoản tiền
bản quyền phát sinh, thông qua một cơ sở thường trú nằm tại Nước kia hoặc tiến
hành tại Nước kia các hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập thông qua một cơ sở cố
định tại Nước kia, và quyền hay tài sản có các khoản tiền bản quyền được trả có
sự liên hệ thực tế với cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó. Trong trường hợp
này các quy định của Điều 7 hoặc Điều 14, tùy từng trường hợp, sẽ được áp dụng.
5. Tiền bản quyền sẽ được coi là phát sinh tại một
Nước ký kết khi đối tượng trả tiền bản quyền chính là Nước đó, chính quyền địa
phương hay đối tượng cư trú của Nước đó. Tuy nhiên, khi đối tượng trả tiền bản
quyền, là hay không là đối tượng cư trú của một Nước ký kết, có ở một Nước ký kết
một cơ sở thường trú hay một cơ sở cố định liên quan đến trách nhiệm trả tiền
tiền bản quyền đã phát sinh và tiền bản quyền đó do cơ sở thường trú hay cơ sở
cố định đó chịu thì khoản tiền bản quyền này sẽ vẫn được coi là phát sinh ở Nước
nơi có cơ sở thường trú hay cơ sở cố định đó đóng.
6. Trường hợp vì mối quan hệ đặc biệt giữa đối tượng
trả và đối tượng thực hưởng hoặc giữa cả hai đối tượng trên với các đối tượng
khác, khoản tiền bản quyền, liên quan đến việc sử dụng, quyền hay thông tin có
số tiền bản quyền được trả, đối với việc sử dụng, quyền hoặc thông tin, vì bất
cứ lý do gì, vượt quá khoản tiền được thỏa thuận giữa đối tượng trả tiền và đối
tượng thực hưởng khi không có mối quan hệ đặc biệt này, thì các quy định của Điều
này sẽ chỉ áp dụng đối với khoản tiền thanh toán khi không có mối quan hệ trên.
Trong trường hợp này, phần thanh toán vượt sẽ bị đánh thuế theo các luật của từng
Nước ký kết có xem xét đến các quy định khác của Hiệp định này.
Điều 13. Lợi tức từ chuyển nhượng
tài sản
1. Lợi tức thu được từ việc chuyển nhượng bất động
sản được nêu tại khoản 2 Điều 6 có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi có bất
động sản đó.
2. Lợi tức từ việc chuyển nhượng bất động sản là một
phần của tài sản kinh doanh của một cơ sở thường trú mà một xí nghiệp của một
Nước ký kết có tại Nước ký kết kia hoặc động sản thuộc một cơ sở cố định của một
đối tượng cư trú của một Nước ký kết có ở Nước ký kết kia để tiến hành hoạt động
dịch vụ cá nhân độc lập kể cả lợi tức từ việc chuyển nhượng cơ sở thường trú đó
(riêng cơ sở thường trú đó hoặc cùng với toàn bộ xí nghiệp) hoặc cơ sở cố định
đó có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
3. Lợi tức do một xí nghiệp của một Nước ký kết thu
được từ việc chuyển nhượng các tàu thủy hoặc máy bay hoạt động trong vận tải quốc
tế hay từ chuyển nhượng bất động sản gắn liền với hoạt động của các tàu thủy hoặc
máy bay đó sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi xí nghiệp là đối tượng cư
trú.
4. Lợi tức do một đối tượng cư trú của một Nước ký
kết thu được từ việc chuyển nhượng cổ phiếu hoặc các quyền lợi tương tự trong một
công ty mà tài sản của công ty đó toàn bộ hoặc chủ yếu bao gồm bất động sản nằm
tại Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
5. Lợi tức phát sinh từ việc chuyển nhượng các cổ
phiếu khác với cổ phiếu nêu tại khoản 4 của một công ty là đối tượng cư trú của
một Nước ký kết có thể bị đánh thuế tại Nước đó.
6. Lợi tức phát sinh từ việc chuyển nhượng bất kỳ
tài sản nào khác với những tài sản đã được nêu tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 sẽ
chỉ bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi người chuyển nhượng là đối tượng cư trú.
Điều 14. Hoạt động dịch vụ cá
nhân độc lập
1. Thu nhập do một đối tượng cư trú của một Nước ký
kết thu được từ các hoạt động dịch vụ ngành nghề hay các hoạt động khác có tính
chất độc lập sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó trừ các trường hợp sau thu nhập đó
cũng có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết kia:
a. Nếu đối tượng đó thường xuyên có tại Nước ký kết
kia một cơ sở cố định để thực hiện các hoạt động của mình; trong trường hợp đó
chỉ phần thu nhập phân bổ cho cơ sở cố định đó có thể bị đánh thuế tại Nước ký
kết kia; hoặc
b. Nếu đối tượng đó có mặt tại Nước ký kết kia
trong một thời gian hay nhiều khoảng thời gian gộp lại đến hoặc vượt quá 183
ngày trong năm tài chính liên quan; trong trường hợp, đó chỉ phần thu nhập thu
được từ các hoạt động mà đối tượng đó thực hiện tại Nước kia có thể bị đánh thuế
tại Nước đó.
2. Thuật ngữ "dịch vụ ngành nghề" bao gồm
chủ yếu các hoạt động khoa học, văn học, nghệ thuật, giáo dục hay giảng dạy
mang tính chất độc lập như các hoạt động độc lập của các thầy thuốc, bác sĩ, luật
sư, kỹ sư, kiến trúc sư, nha sĩ và kế toán viên.
Điều 15. Hoạt động dịch vụ cá
nhân phụ thuộc
1. Thể theo các quy định tại Điều 16, 18, 19, 20 và
21, các khoản tiền lương, tiền công, và các khoản tiền thù lao tương tự khác do
một đối tượng cư trú của một Nước ký kết thu được từ lao động làm công sẽ chỉ bị
đánh thuế tại Nước đó, trừ khi công việc của đối tượng đó được thực hiện tại Nước
ký kết kia. Nếu việc làm công được thực hiện như vậy, số tiền công được thực hiện
cho lao động đó có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
2. Mặc dù có những quy định tại khoản 1, tiền công
do một đối tượng cư trú của một Nước ký kết thu được từ lao động làm công tại
Nước ký kết kia sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước thứ nhất nếu:
a. người nhận tiền công có mặt tại Nước kia trong một
khoảng thời gian hoặc nhiều khoảng thời gian gộp lại không quá 183 ngày trong
năm tài chính có liên quan, và
b. tiền công được trả trực tiếp bởi, hoặc thông qua
đối tượng đại diện của, chủ lao động không phải là đối tượng cư trú tại Nước
kia; và
c. số tiền công không phải phát sinh tại một cơ sở
thường trú hoặc cơ sở cố định mà đối tượng chủ lao động có tại Nước kia.
3. Mặc dù có những quy định trên của Điều này, tiền
công từ lao động làm trên tàu thủy hoặc máy bay do một xí nghiệp của một Nước
ký kết điều hành trong vận tải quốc tế sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó.
Điều 16. Thù lao cho giám đốc
Các khoản thù lao cho giám đốc và các khoản thanh
toán tương tự khác do một đối tượng cư trú của một Nước ký kết nhận được với tư
cách là thành viên của ban giám đốc hoặc của một tổ chức tương tự của một công
ty là đối tượng cư trú của Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế ở Nước kia.
Điều 17. Thu nhập của nghệ sĩ
và vận động viên
1. Mặc dù có những quy định tại Điều 14 và 15, thu
nhập của một đối tượng cư trú của một Nước ký kết thu được với tư cách người biểu
diễn như diễn viên sân khấu, điện ảnh, phát thanh hay truyền hình, hoặc nhạc
công, hoặc với tư cách là vận động viên từ những hoạt động cá nhân của mình thực
hiện tại Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế ở Nước kia.
2. Trường hợp thu nhập liên quan đến các hoạt động
trình diễn cá nhân của người biểu diễn hoặc vận động viên nhưng không được trả
cho bản thân người biểu diễn hoặc vận động viên đó, mà trả cho một đối tượng
khác thì thu nhập này có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi diễn ra những hoạt
động trình diễn của người biểu diễn hoặc vận động viên, mặc dù đã có những quy
định tại Điều 7, 14 và 15.
3. Mặc dù đã có quy định tại khoản 1 và 2, thu nhập
do một nghệ sĩ hay một vận động viên là đối tượng cư trú của một Nước ký kết
thu được từ các hoạt động trình diễn tại Nước ký kết kia theo chương trình trao
đổi văn hóa giữa Chính phủ của hai Nước ký kết sẽ được miễn thuế tại Nước ký kết
kia nếu những hoạt động trình diễn này chủ yếu hoặc hoàn toàn được tài trợ bởi
một hoặc cả hai nước ký kết.
Điều 18. Tiền lương hưu
Thể theo các quy định tại khoản 2 Điều 19, tiền
lương hưu và các khoản tiền công tương tự khác được trả cho một đối tượng cư
trú của một Nước ký kết do các công việc đã làm trước đây sẽ chỉ bị đánh thuế ở
Nước đó.
Điều 19. Phục vụ Chính phủ
1. a. Tiền công lao động, trừ tiền lương hưu, do một
Nước ký kết hoặc chính quyền địa phương của Nước đó trả cho một cá nhân đối với
việc phục vụ cho Nhà nước hoặc chính quyền địa phương đó sẽ chỉ bị đánh thuế tại
Nước đó.
b. Tuy nhiên, khoản tiền công lao động này sẽ chỉ bị
đánh thuế ở Nước ký kết kia nếu việc phục vụ này được thực hiện tại Nước kia và
nếu cá nhân này là đối tượng cư trú của Nước kia, đồng thời: (i) là đối tượng
mang quốc tịch của Nước kia; hoặc (ii) không trở thành đối tượng cư trú của Nước
kia chỉ đơn thuần vì thực hiện những công việc trên.
2. a. Bất kỳ khoản tiền lương hưu nào do một Nước
ký kết, chính quyền địa phương của Nước đó hoặc do các quỹ của những cơ quan
này lập ra trả cho một cá nhân đối với các công việc phục vụ cho Nhà nước hoặc
chính quyền địa phương đó sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó.
b. Tuy nhiên, những khoản tiền lương hưu này sẽ chỉ
bị đánh thuế ở Nước ký kết kia nếu cá nhân này là đối tượng cư trú và là đối tượng
mang quốc tịch của Nước ký kết kia.
3. Các quy định của Điều 15, 16 và 18 sẽ áp dụng đối
với những khoản tiền công lao động và tiền lương hưu đối với các công việc liên
quan đến một hoạt động kinh doanh được thực hiện bởi một Nước ký kết hoặc chính
quyền địa phương của Nước đó.
Điều 20. Sinh viên và thực tập
sinh
1. Những khoản tiền do một sinh viên hoặc thực tập
sinh, hiện đang hoặc ngay trước khi đến một Nước ký kết đã từng là đối tượng cư
trú của Nước ký kết kia và đối tượng này đến nước thứ nhất chỉ với mục đích học
tập hoặc đào tạo, nhận được dùng cho mục đích ăn ở, học tập hoặc đào tạo của
mình sẽ không bị đánh thuế tại Nước này, với điều kiện các khoản tiền này phát
sinh từ nguồn ngoài Nước này.
2. Mặc dù có các quy định của Điều 14 và 15, tiền
công trả cho sinh viên hay thực tập sinh đối với các công việc thực hiện tại một
Nước ký kết sẽ không bị đánh thuế tại Nước này, với điều kiện các công việc thực
hiện như vậy có mối liên quan tới việc học tập hoặc đào tạo của đối tượng này
và khoản thanh toán như vậy không được vượt quá 2.000 Đô la một năm.
Điều 21. Giáo sư, giáo viên và
nhà nghiên cứu
1. Một cá nhân, người hiện nay hay ngay trước khi
sang một Nước ký kết đã là đối tượng cư trú của một Nước ký kết và hiện có mặt
tại Nước ký kết thứ nhất với mục đích chủ yếu là giảng dạy, thuyết trình hay tiến
hành nghiên cứu tại một trường đại học, trường cao đẳng hay trường học hay cơ sở
giáo dục hoặc cơ sở nghiên cứu khoa học được Chính phủ của Nước ký kết thứ nhất
chấp nhận sẽ được miễn thuế tại Nước ký kết thứ nhất đối với tiền công lao động
trả cho công việc giảng dạy, thuyết trình hay nghiên cứu trong một khoảng
thời gian hai năm kể từ ngày đầu tiên cá nhân đó đến Nước ký kết thứ nhất.
2. Điều này sẽ chỉ áp dụng đối với thu nhập từ hoạt
động nghiên cứu nếu hoạt động nghiên cứu đó do một cá nhân thực hiện vì lợi ích
công và chủ yếu không phải vì lợi ích của một hay nhiều đối tượng tư nhân nào
khác.
Điều 22. Thu nhập khác
1. Những khoản thu nhập của một đối tượng cư trú của
một Nước ký kết, chưa được đề cập đến tại những Điều trên của Hiệp định này, sẽ
chỉ bị đánh thuế tại Nước đó.
2. Tuy nhiên, bất kỳ khoản thu nhập nào như vậy do
một đối tượng cư trú của một Nước ký kết thu được từ các nguồn tại Nước ký kết
kia cũng có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
3. Những quy định tại khoản 1 sẽ không áp dụng đối
với thu nhập, trừ thu nhập từ bất động sản như định nghĩa tại khoản 2 Điều 6, nếu
đối tượng nhận thu nhập này, hiện đang là đối tượng cư trú của một Nước ký kết,
tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước ký kết kia thông qua một cơ sở thường
trú có tại Nước đó, hoặc thực hiện tại Nước đó các dịch vụ cá nhân độc lập
thông qua một cơ sở cố định tại đó, và quyền hoặc tài sản liên quan đến thu nhập
được trả có sự liên hệ thực tế với cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định này.
Trong trường hợp như vậy, những quy định của Điều 7 hoặc Điều 14, tùy từng trường
hợp, sẽ được áp dụng.
Điều 23. Tài sản
1. Tài sản là bất động sản nêu tại Điều 6, do một đối
tượng cư trú của một Nước ký kết sở hữu và nằm tại Nước ký kết kia có thể bị
đánh thuế tại Nước kia.
2. Tài sản là động sản tạo thành một phần tài sản
kinh doanh của một cơ sở thường trú mà một xí nghiệp của một Nước ký kết có tại
Nước ký kết kia hoặc là động sản của một cơ sở cố định thuộc quyền sử dụng của
một đối tượng cư trú của một Nước ký kết tại Nước ký kết kia để tiến hành các
hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập, có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
3. Tài sản là tàu thủy và máy bay do một xí nghiệp
của một nước ký kết kinh doanh trong hoạt động vận tải quốc tế, và là các động
sản thuộc sự hoạt động của các tàu thủy và máy bay này, sẽ chỉ bị đánh thuế tại
Nước này.
4. Mọi thành phần tài sản khác của một đối tượng cư
trú của một Nước ký kết sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước này.
Điều 24. Biện pháp xóa bỏ việc
đánh thuế hai lần
1. Khi một đối tượng cư trú của một Nước ký kết nhận
được thu nhập hoặc sở hữu tài sản, phù hợp với các quy định của Hiệp định này,
có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết kia, Nước ký kết thứ nhất sẽ cho phép:
a. khấu trừ vào thuế thu trên thu nhập của đối tượng
cư trú này một khoản tương đương với số thuế thu nhập đã trả tại Nước kia;
b. khấu trừ vào thuế thu trên tài sản của đối tượng
cư trú này một khoản tương đương với số thuế tài sản đã trả tại Nước kia.
Tuy nhiên, trong cả hai trường hợp khoản khấu trừ
như vậy sẽ không được vượt quá phần thuế thu nhập hay tài sản, tùy theo từng
trường hợp, được tính trên thu nhập hay tài sản có thể bị đánh thuế tại Nước
kia trước khi cho phép khấu trừ.
2. Khi thu nhập hay tài sản do đối tượng cư trú của
một nước ký kết nhận được hay sở hữu được miễn thuế tại Nước này phù hợp với
các quy định của Hiệp định này, tuy nhiên khi tính thuế trên thu nhập hay tài sản
còn lại của đối tượng cư trú đó, Nước này có thể tính đến phần thu nhập hay tài
sản được miễn thuế.
3. Trong trường hợp thu nhập phát sinh từ một Nước
ký kết là lợi tức cổ phần do một công ty là đối tượng cư trú của Nước ký kết
này trả cho một công ty là đối tượng cư trú của Nước ký kết kia và nắm giữ
không dưới 10 phần trăm cổ phần của công ty trả lợi tức cổ phần, khoản trừ thuế
sẽ tính đến cả số thuế thu nhập mà công ty chia lợi tức cổ phần đã trả tại Nước
thứ nhất.
4. Theo mục đích của các khoản trên đây, thuế phải
nộp tại một Nước ký kết, tùy theo từng ngữ cảnh, sẽ được coi là bao gồm cả số
thuế lẽ ra đã phải trả tại Nước ký kết này nhưng được giảm hay miễn bởi Nước
này theo các quy định pháp lý của mình nhằm mục đích phát triển kinh tế. Trong
trường hợp các quy định tại khoản 2 Điều 10, khoản 2 Điều 11 và khoản 2 Điều
12, các khoản thuế này sẽ được coi là 15 phần trăm tổng số lãi cổ tức, lãi tiền
cho vay và tiền bản quyền.
Điều 25. Không phân biệt đối xử
1. Những đối tượng mang quốc tịch của một Nước ký kết
sẽ không phải chịu tại Nước ký kết kia bất kỳ hình thức thuế nào hay bất kỳ yêu
cầu nào liên quan đến hình thức thuế đó khác với hay nặng hơn hình thức thuế và
các yêu cầu liên quan hiện đang và có thể áp dụng cho các đối tượng mang quốc tịch
của Nước kia trong cùng những hoàn cảnh như nhau.
2. Thuế áp dụng đối với cơ sở thường trú của một xí
nghiệp của một Nước ký kết đặt tại Nước ký kết kia sẽ không kém thuận lợi hơn thuế
áp dụng đối với xí nghiệp của Nước kia cùng thực hiện những hoạt động tương tự.
Quy định này sẽ không được giải thích là ngăn cản một Nước ký kết phải cho đối
tượng cư trú của Nước ký kết kia được hưởng các suất miễn thu cá nhân, khoản miễn
thuế và giảm thuế căn cứ vào tư cách dân sự hay trách nhiệm gia đình mà Nước đó
cho đối tượng cư trú của Nước mình được hưởng.
3. Các xí nghiệp của một Nước ký kết có toàn bộ hay
một phần tài sản do một hay nhiều đối tượng cư trú của Nước ký kết kia kiểm
soát hay sở hữu trực tiếp hay gián tiếp, sẽ không phải chịu tại Nước ký kết thứ
nhất bất kỳ hình thức thuế hay yêu cầu liên quan đến hình thức thuế đó khác với
hay nặng hơn hình thức thuế và những yêu cầu liên quan hiện đang có thể được áp
dụng cho các xí nghiệp tương tự khác của Nước thứ nhất.
4. Những quy định tại khoản 2 và 3 Điều này sẽ
không áp dụng đối với thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài của Việt Nam mà trong
mọi trường hợp không vượt quá 10 phần trăm tổng số lợi tức chuyển ra nước
ngoài, và thuế Việt Nam áp dụng đối với các hoạt động sản xuất nông nghiệp.
5. Không có nội dung nào tại Điều này được giải
thích là buộc một Nước ký kết phải có cá nhân không cư trú tại Nước đó được hưởng
bất kỳ khoản miễn thu cá nhân, khoản miễn thuế và giảm thuế mà Nước đó cho cá
nhân cư trú tại Nước mình được hưởng.
6. Mặc dù đã có các quy định của Điều này, trong thời
gian Việt Nam tiếp tục cấp giấy phép cho các nhà đầu tư theo Luật Đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam, trong đó quy định chi tiết hình thức thuế áp dụng cho nhà đầu
tư thì việc áp dụng hình thức thuế đó sẽ không bị coi là vi phạm quy định tại
khoản 2 và 4 Điều này.
7. Những quy định tại Điều này sẽ chỉ áp dụng đối với
các loại thuế chịu sự điều chỉnh của Hiệp định này.
Điều 26. Thủ tục thỏa thuận
song phương
1. Trường hợp một đối tượng nhận thấy rằng việc giải
quyết của nhà chức trách có thẩm quyền của một hay cả hai Nước ký kết làm cho
hay sẽ làm cho đối tượng đó phải nộp thuế không đúng theo những quy định của Hiệp
định này, lúc đó đối tượng này có thể giải trình trường hợp của mình với nhà chức
trách có thẩm quyền của Nước ký kết nơi đối tượng đó đang cư trú, mặc dù trong
các luật trong nước của hai Nước ký kết đã qui định những chế độ xử lý khiếu nại.
Trường hợp đó phải được giải trình trong thời hạn 3 năm kể từ lần thông báo giải
quyết đầu tiên dẫn đến hình thức thuế áp dụng không đúng với những quy định của
Hiệp định.
2. Nhà chức trách có thẩm quyền sẽ cố gắng, nếu như
việc khiếu nại là hợp lý và nếu bản thân nhà chức trách đó không thể đi đến một
giải pháp thỏa đáng, phối hợp với nhà chức trách có thẩm quyền của Nước ký kết
kia để cùng giải quyết trường hợp khiếu nại bằng thỏa thuận chung, nhằm mục
đích tránh thuế không phù hợp với nội dung của Hiệp định này. Mọi thỏa thuận đạt
được sẽ được thực hiện mà không bị ảnh hưởng bởi các thời hạn quy định trong nội
luật của hai Nước ký kết.
3. Nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết
sẽ cố gắng giải quyết bằng thỏa thuận chung mọi khó khăn hay vướng mắc nảy sinh
trong quá trình áp dụng Hiệp định này. Nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước
cũng có thể trao đổi với nhau nhằm xóa bỏ việc đánh thuế hai lần trong các trường
hợp không được quy định tại Hiệp định.
4. Nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết
có thể liên hệ trực tiếp với nhau, với mục đích nhằm đạt được một thỏa thuận
theo nội dung những khoản trên đây. Nhà chức trách có thẩm quyền thông qua các
cuộc trao đổi, sẽ xây dựng các thủ tục, điều kiện, các phương pháp và kỹ thuật
song phương thích hợp để thực hiện thủ tục thỏa thuận song phương được quy định
tại Điều này. Ngoài ra, nhà chức trách có thẩm quyền có thể đưa ra thực hiện
đơn phương các thủ tục, điều kiện, biện pháp và các kỹ thuật nhằm mục đích tạo
điều kiện thuận lợi cho các hoạt động song phương nói trên và việc tiến hành
các thủ tục thỏa thuận song phương này.
Điều 27. Trao đổi thông tin
1. Nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết
sẽ trao đổi với nhau những thông tin cần thiết cho việc triển khai thực hiện những
quy định của Hiệp định này hay của các luật trong nước của từng Nước ký kết liên
quan đến các loại thuế mà Hiệp định này, đặc biệt là nhằm ngăn chặn việc trốn
và lậu các loại thuế này. Việc trao đổi thông tin không bị hạn chế bởi các quy
định tại Điều 1. Mọi thông tin do một Nước ký kết nhận được sẽ được giữ bí mật
giống như thông tin thu nhận theo luật trong nước của Nước này và thông tin đó
sẽ chỉ được cung cấp cho các đối tượng hay các nhà chức trách (bao gồm cả tòa
án và các cơ quan hành chính) có liên quan đến việc tính toán, thu, cưỡng chế
hay truy tố hoặc xác định các khiếu nại về các loại thuế mà Hiệp định này áp dụng.
Các đối tượng hoặc các nhà chức trách này sẽ chỉ sử dụng các thông tin đó vào
các mục đích nêu trên. Các đối tượng và các cơ quan đó có thể cung cấp các
thông tin này trong quá trình tố tụng công khai của tòa án hay trong các quyết
định của tòa án. Các nhà chức trách có thẩm quyền thông qua việc trao đổi sẽ
xây dựng những điều kiện, biện pháp và kỹ thuật thích hợp liên quan đến các vấn
đề mà việc trao đổi thông tin sẽ được thực hiện, kể cả khi cần thiết, trao đổi
thông tin liên quan đến việc tránh thuế.
2. Không có trường hợp nào những quy định tại khoản
1 được giải thích là buộc một Nước ký kết có nghĩa vụ:
a. thực hiện các biện pháp hành chính khác với luật
pháp hay thông lệ về quản lý hành chính của Nước ký kết này hay của Nước ký kết
kia;
b. cung cấp những thông tin không thể tiết lộ được
theo các luật hay theo như quá trình quản lý hành chính thông thường của Nước
ký kết này hay của Nước ký kết kia;
c. cung cấp những thông tin có thể làm tiết lộ bí mật
về kinh doanh, thương mại, công nghiệp, thương nghiệp hay bí mật nghề nghiệp hoặc
các phương thức kinh doanh, hoặc cung cấp những thông tin mà việc tiết lộ chúng
có thể trái với chính sách nhà nước.
Điều 28. Các viên chức ngoại
giao và lãnh sự
Không nội dung nào trong Hiệp định này sẽ ảnh hưởng
đến những ưu đãi về thuế dành cho các viên chức ngoại giao hoặc viên chức lãnh
sự theo những nguyên tắc chung của luật pháp quốc tế hay những quy định trong
các hiệp định đặc biệt.
Điều 29. Hiệu lực
1. Hiệp định này sẽ có hiệu lực kể từ ngày thứ ba
mươi sau ngày các văn bản ngoại giao thông báo việc hoàn thành các thủ tục pháp
lý cần thiết theo nội luật tại mỗi nước để Hiệp định có hiệu lực được trao đổi.
2. Hiệp định này sẽ có hiệu lực thi hành: (i) đối với
các khoản thuế khấu trừ tại nguồn, thu trên các khoản thu nhập chịu thuế được
chi trả vào ngày hoặc sau ngày 01 tháng 01 của năm dương lịch tiếp theo năm mà
Hiệp định bắt đầu có hiệu lực, và trong các năm dương lịch tiếp theo; (ii) đối
với các loại thuế khác thu trên thu nhập, lợi tức hay lợi tức từ chuyển nhượng
tài sản phát sinh vào ngày hoặc sau ngày 01 tháng 01 của năm dương lịch tiếp
theo năm mà Hiệp định bắt đầu có hiệu lực, và trong các năm dương lịch tiếp
theo; (iii) đối với các loại thuế tài sản thu trên các phần tài sản hiện hữu
vào ngày hoặc sau ngày 01 tháng 01 của năm dương lịch tiếp theo năm mà Hiệp định
bắt đầu có hiệu lực, và trong các năm dương lịch tiếp theo.
Điều 30. Kết thúc
Hiệp định này sẽ vẫn còn hiệu lực vô thời hạn cho đến
khi được kết thúc bởi một trong hai Nước ký kết. Mỗi Nước ký kết có thể kết
thúc Hiệp định, thông qua đường ngoại giao, bằng việc gửi cho Nước ký kết kia
văn bản thông báo việc kết thúc Hiệp định ít nhất sáu tháng trước khi kết thúc
bất kỳ năm dương lịch nào bắt đầu sau 5 năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực.
Trong trường hợp như vậy, Hiệp định sẽ hết hiệu lực thi hành: (i) đối với các
khoản thuế khấu trừ tại nguồn, thu trên các khoản thu nhập chịu thuế phát sinh
vào ngày hoặc sau ngày 1 tháng 1 của năm dương lịch tiếp theo năm gửi thông báo
kết thúc; (ii) đối với các loại thuế khác thu trên thu nhập, lợi tức hoặc lợi tức
từ chuyển nhượng tài sản phát sinh vào ngày hoặc sau ngày 1 tháng 1 của năm
dương lịch tiếp theo năm gửi thông báo kết thúc; (iii) đối với các loại thuế
tài sản thu trên các phần tài sản hiện hữu vào ngày hoặc sau ngày 1 tháng 1 của
năm dương lịch tiếp theo năm gửi thông báo kết thúc;
ĐỂ LÀM BẰNG những người được ủy quyền dưới đây của
từng Chính phủ đã ký vào Hiệp định này.
HIỆP ĐỊNH ĐƯỢC LÀM thành hai bản tại An-giê ngày 06
tháng 12 năm 1999, mỗi bản gồm các thứ tiếng Việt Nam, tiếng ả-rập, tiếng Anh
và tiếng Pháp, tất cả các văn bản đều có giá trị ngang nhau./.
THAY MẶT
CHÍNH PHỦ NƯỚC
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
(Đã ký)
|
THAY MẶT
CHÍNH PHỦ NƯỚC
CỘNG HÒA AN-GIÊ-RI DÂN CHỦ VÀ NHÂN DÂN
(Đã ký)
|
Hiệp định này chưa có hiệu lực