Từ khoá: Số Hiệu, Tiêu đề hoặc Nội dung ngắn gọn của Văn Bản...

Đăng nhập

Đang tải văn bản...

Thông tư 205/2013/TT-BTC hướng dẫn Hiệp định tránh đánh thuế hai lần Việt Nam với các nước

Số hiệu: 205/2013/TT-BTC Loại văn bản: Thông tư
Nơi ban hành: Bộ Tài chính Người ký: Đỗ Hoàng Anh Tuấn
Ngày ban hành: 24/12/2013 Ngày hiệu lực: Đã biết
Ngày công báo: Đang cập nhật Số công báo: Đang cập nhật
Tình trạng: Đã biết

BỘ TÀI CHÍNH
--------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 205/2013/TT-BTC

Hà Nội, ngày 24 tháng 12 năm 2013

THÔNG TƯ

HƯỚNG DẪN THỰC HIỆN CÁC HIỆP ĐỊNH TRÁNH ĐÁNH THUẾ HAI LẦN VÀ NGĂN NGỪA VIỆC TRỐN LẬU THUẾ ĐỐI VỚI CÁC LOẠI THUẾ ĐÁNH VÀO THU NHẬP VÀ TÀI SẢN GIỮA VIỆT NAM VỚI CÁC NƯỚC VÀ VÙNG LÃNH THỔ CÓ HIỆU LỰC THI HÀNH TẠI VIỆT NAM

Căn cứ các văn bản pháp luật hiện hành về thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân;

Căn cứ Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế số 41/2005/QH11 ngày 14/6/2005;

Căn cứ các Hiệp định tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa trốn lậu đối với các loại thuế đánh vào thu nhập và tài sản giữa Việt Nam với các nước và vùng lãnh thổ đang có hiệu lực thi hành;

Căn cứ Nghị định số 118/2008/NĐ-CP của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức Bộ Tài chính;

Theo đề nghị của Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế;

Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành Thông tư hướng dẫn những nội dung cơ bản của các Hiệp định tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với các loại thuế đánh vào thu nhập và tài sản giữa Việt Nam với các nước và vùng lãnh thổ (dưới đây gọi chung là Nước ký kết hoặc nước tùy theo ngữ cảnh) có hiệu lực thi hành tại Việt Nam (dưới đây gọi tắt là Hiệp định).

Chương I

QUY ĐỊNH CHUNG

Mục 1. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI ÁP DỤNG

Điều 1. Đối tượng áp dụng

Thông tư này điều chỉnh các đối tượng là đối tượng cư trú của Việt Nam hoặc của Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam hoặc đồng thời là đối tượng cư trú của Việt Nam và Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam.

1. Theo Hiệp định, thuật ngữ “đối tượng cư trú của một Nước ký kết” là đối tượng mà theo luật của một Nước ký kết là đối tượng chịu thuế tại nước đó do:

1.1. Có nhà ở, có thời gian cư trú tại nước đó hoặc các tiêu thức có tính chất tương tự trong trường hợp đối tượng đó là một cá nhân; hoặc

1.2. Có trụ sở điều hành, trụ sở đăng ký, hoặc được thành lập tại nước đó hoặc các tiêu thức có tính chất tương tự trong trường hợp đối tượng đó là một tổ chức; hoặc

1.3. Thuật ngữ này cũng bao gồm cả Nhà nước hoặc chính quyền địa phương của nước đó, trong trường hợp Hiệp định có quy định.

2. Theo quy định pháp luật hiện hành về thuế ở Việt Nam, các đối tượng sau đây được coi là đối tượng cư trú của Việt Nam:

2.1. Các cá nhân là người đáp ứng một trong các điều kiện sau đây:

a) Có mặt tại Việt Nam từ 183 ngày trở lên tính trong một năm dương lịch hoặc trong 12 tháng liên tục kể từ ngày đầu tiên có mặt tại Việt Nam;

Cá nhân có mặt tại Việt Nam theo quy định tại điểm này là sự hiện diện của cá nhân đó trên lãnh thổ Việt Nam;

b) Có nơi ở thường xuyên tại Việt Nam theo một trong hai trường hợp sau:

- Có nơi ở đăng ký thường trú theo quy định của pháp luật về cư trú;

- Có nhà thuê để ở tại Việt Nam theo quy định của pháp luật về nhà ở, với thời hạn của các hợp đồng thuê từ 183 ngày trở lên trong năm tính thuế.

Trường hợp cá nhân có nơi ở thường xuyên tại Việt Nam theo quy định tại điểm này nhưng thực tế có mặt tại Việt Nam dưới 183 ngày trong năm tính thuế mà cá nhân không chứng minh được là đối tượng cư trú của nước nào thì cá nhân đó là đối tượng cư trú tại Việt Nam.

Ví dụ 1: Trong năm 2010, một chuyên gia Nhật Bản sang làm việc tại Việt Nam trong vòng 10 tháng. Hai tháng trong năm 2010 (tháng 6 và tháng 12) chuyên gia này về phép thăm gia đình. Trong năm 2009, chuyên gia sống và làm việc tại Nhật Bản. Năm tính thuế của Nhật Bản từ ngày 01/4 đến ngày 31/3 năm sau. Như vậy, trong năm 2010, do chuyên gia Nhật Bản đã chủ yếu làm việc tại Việt Nam và thường xuyên sống tại Việt Nam, nên mặc dù chuyên gia vẫn có nhà ở và có gia đình tại Nhật Bản và mang quốc tịch Nhật Bản, chuyên gia vẫn được coi là một đối tượng cư trú của Việt Nam cho mục đích thuế. (Quy định tại Điều 4, Khoản b, Hiệp định giữa Việt Nam và Nhật Bản). Tuy nhiên, trong giai đoạn từ tháng 01/2010 đến ngày 30/3/2010, chuyên gia được coi như đối tượng cư trú của Nhật Bản cho mục đích quyết toán thuế tại Việt Nam và Nhật Bản.

2.2. Các tổ chức thành lập và hoạt động theo pháp luật tại Việt Nam.

3. Trường hợp căn cứ vào quy định tại các Khoản 1 và 2 của Điều này, nếu một đối tượng vừa là đối tượng cư trú của Việt Nam vừa là đối tượng cư trú của Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam thì vị thế cư trú của đối tượng đó được xác định như sau:

3.1. Đối với cá nhân:

Căn cứ vào các tiêu thức theo thứ tự ưu tiên dưới đây để xác định một cá nhân là đối tượng cư trú của Việt Nam:

a) Nếu cá nhân đó có nhà ở thường trú ở Việt Nam (nhà thuộc sở hữu hoặc nhà thuê hoặc nhà thuộc quyền sử dụng của đối tượng đó);

b) Nếu cá nhân đó có nhà ở thường trú tại cả hai nước nhưng cá nhân đó có quan hệ kinh tế chặt chẽ hơn tại Việt Nam như: có việc làm; có địa điểm kinh doanh; nơi quản lý tài sản cá nhân; hoặc có quan hệ cá nhân chặt chẽ hơn tại Việt Nam như quan hệ gia đình (người thân như bố, mẹ, vợ/chồng, con, ...), xã hội (hội viên các đoàn thể xã hội, hiệp hội nghề nghiệp, ...);

c) Nếu không xác định được cá nhân đó có quan hệ kinh tế, quan hệ cá nhân tại nước nào chặt chẽ hơn hoặc nếu cá nhân đó không có nhà ở thường trú ở nước nào, nhưng cá nhân đó có thời gian có mặt tại Việt Nam nhiều hơn trong năm tính thuế;

d) Nếu cá nhân đó thường xuyên có mặt ở cả Việt Nam và Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam cũng như không có mặt thường xuyên ở cả hai nước nhưng cá nhân đó mang quốc tịch Việt Nam hoặc được xác định là công dân Việt Nam theo nguyên tắc quốc tịch hữu hiệu Việt Nam;

đ) Nếu cá nhân đó vừa mang quốc tịch Việt Nam vừa mang quốc tịch Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam hoặc không mang quốc tịch cả hai nước thì Nhà chức trách có thẩm quyền của Việt Nam sẽ giải quyết vấn đề này thông qua thủ tục thỏa thuận song phương với Nhà chức trách có thẩm quyền của Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam.

3.2. Đối với một đối tượng không phải là cá nhân:

Tùy theo quy định cụ thể tại mỗi Hiệp định để xác định một đối tượng không phải là cá nhân là đối tượng cư trú của Việt Nam. Tại các Hiệp định thường quy định các tiêu thức dưới đây:

a) Nếu đối tượng đó được thành lập hoặc đăng ký hoạt động tại Việt Nam thì đối tượng đó là đối tượng cư trú của Việt Nam; hoặc

b) Nếu đối tượng đó có trụ sở chính tại Việt Nam thì đối tượng đó là đối tượng cư trú của Việt Nam; hoặc

c) Nếu đối tượng đó có trụ sở điều hành thực tế tại Việt Nam thì đối tượng đó được coi là đối tượng cư trú của Việt Nam (trụ sở điều hành thực tế thường là nơi các cán bộ cao cấp hoặc ban lãnh đạo của doanh nghiệp tiến hành họp, xem xét, thảo luận và đưa ra các quyết định quản lý hoặc các quyết định về sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp hoặc nơi các sổ sách kế toán quan trọng nhất được lưu giữ); hoặc

d) Trường hợp đối tượng đó thành lập hoặc đăng ký tại cả hai nước hoặc có trụ sở chính, hoặc trụ sở điều hành thực tế tại cả hai nước thì nhà chức trách có thẩm quyền của Việt Nam và Nhà chức trách có thẩm quyền của Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam sẽ xác định đối tượng đó chỉ là đối tượng cư trú của một trong hai nước thông qua thủ tục thỏa thuận song phương. Trường hợp hai Nước ký kết không đạt được thỏa thuận chung, đối tượng đó không được coi là đối tượng cư trú thuế của bất kỳ nước nào vì mục đích áp dụng Hiệp định.

Các quy định về đối tượng cư trú như trên được nêu tại Điều khoản Đối tượng cư trú (thường là Điều 4) của Hiệp định.

Điều 2. Các loại thuế áp dụng

Các loại thuế áp dụng trong các Hiệp định là các loại thuế đánh vào thu nhập và tài sản được quy định cụ thể tại từng Hiệp định.

1. Trong trường hợp của Việt Nam, các loại thuế thuộc phạm vi áp dụng Hiệp định là:

a) Thuế thu nhập doanh nghiệp; và

b) Thuế thu nhập cá nhân.

2. Trong trường hợp của các Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam, các loại thuế áp dụng Hiệp định được quy định cụ thể tại Điều 2 của Hiệp định (thường là Khoản 3 của Điều 2).

Ví dụ 2: Tại Điều 2, Khoản 3, Điểm b) Hiệp định giữa Việt Nam và nước N quy định như sau:

“3. Những loại thuế hiện hành được áp dụng trong Hiệp định là:

...

b) Tại nước N:

i) thuế thu nhập;

ii) thuế công ty; và

iii) các loại thuế cư trú của địa phương đánh trên thu nhập.”

Theo quy định nêu trên, trường hợp một địa phương của nước N có một loại thuế cư trú địa phương đánh trên thu nhập của các đối tượng cư trú và không cư trú của nước N thì loại thuế cư trú địa phương đánh trên thu nhập đó sẽ thuộc phạm vi áp dụng Hiệp định giữa Việt Nam và nước N.

Điều 3. Miễn trừ đối với các thành viên cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự

Theo Hiệp định, các quy định tại Hiệp định sẽ không ảnh hưởng đến quyền miễn trừ của các thành viên cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự được quy định trong các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập.

Quy định về miễn trừ đối với các thành viên cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự như trên được nêu tại Điều khoản Các thành viên cơ quan đại diện ngoại giao và cơ quan lãnh sự (thường là Điều 27) của Hiệp định.

Mục 2. NGUYÊN TẮC ÁP DỤNG HIỆP ĐỊNH

Điều 4. Nguyên tắc áp dụng Hiệp định

Khi áp dụng, xử lý thuế đối với từng trường hợp phải căn cứ theo quy định tại từng Hiệp định (bao gồm cả Nghị định thư và/hoặc Thư trao đổi nếu có).

Điều 5. Áp dụng Hiệp định, luật thuế và các luật có liên quan

1. Trường hợp có sự khác nhau giữa các quy định tại Hiệp định và các quy định tại luật thuế trong nước thì sẽ áp dụng theo các quy định của Hiệp định.

2. Hiệp định không tạo ra các nghĩa vụ thuế mới, khác hoặc nặng hơn so với luật thuế trong nước. Trường hợp tại Hiệp định có các quy định theo đó Việt Nam có quyền thu thuế đối với một loại thu nhập nào đó hoặc thu thuế với một mức thuế suất nhất định nhưng pháp luật hiện hành về thuế ở Việt Nam chưa có quy định thu thuế đối với thu nhập đó hoặc quy định thu với mức thuế suất thấp hơn thì áp dụng theo quy định của pháp luật hiện hành về thuế ở Việt Nam, nghĩa là không thu thuế hoặc thu thuế với mức thuế suất thấp hơn.

3. Khi Việt Nam thực hiện các quy định tại Hiệp định, nếu có các thuật ngữ chưa được định nghĩa tại Hiệp định, thì các thuật ngữ chưa được định nghĩa sẽ có nghĩa như quy định tại pháp luật của Việt Nam cho các mục đích thuế tại thời điểm đó. Đối với một thuật ngữ chưa được định nghĩa tại Hiệp định và chưa được định nghĩa hoặc đồng thời được định nghĩa tại pháp luật của Việt Nam và của Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam thì Nhà chức trách có thẩm quyền của hai nước sẽ thực hiện giải quyết vấn đề qua thủ tục thỏa thuận song phương. Đối với một thuật ngữ đồng thời được định nghĩa tại pháp luật thuế và các pháp luật khác, định nghĩa tại pháp luật thuế sẽ được áp dụng để thực hiện Hiệp định.

Điều 6. Một số trường hợp từ chối áp dụng Hiệp định trên cơ sở nguyên tắc hưởng lợi Hiệp định

Trừ khi được quy định khác tại Hiệp định về giới hạn hưởng lợi Hiệp định, Cơ quan thuế Việt Nam sẽ từ chối đề nghị áp dụng Hiệp định trong các trường hợp sau:

1. Người đề nghị đề nghị áp dụng Hiệp định đối với số thuế đã phát sinh quá ba năm trước thời điểm đề nghị áp dụng Hiệp định.

Ví dụ 3: Trong giai đoạn từ 2006 đến 2012, doanh nghiệp V của Việt Nam hàng năm có thu nhập từ tiền bản quyền tại Ma-lai-xi-a và hàng năm đều đã nộp thuế tại Ma-lai-xi-a theo quy định tại Hiệp định giữa Việt Nam và Ma-lai-xi-a. Vào ngày 01/10/2012, doanh nghiệp V nộp hồ sơ đề nghị khấu trừ thuế theo Hiệp định giữa Việt Nam và Ma-lai-xi-a đối với toàn bộ số thuế đã nộp tại Ma-lai-xi-a trong giai đoạn từ 2006 đến 2012. Trong trường hợp này, Cơ quan thuế Việt Nam chỉ xem xét khấu trừ thuế tại Việt Nam đối với số tiền đã nộp cho số thuế phát sinh tại Ma-lai-xi-a trong giai đoạn 3 năm từ ngày 01/10/2009 đến ngày 01/10/2012.

2. Khi mục đích chính của các hợp đồng hoặc các thỏa thuận là để được hưởng miễn hoặc giảm thuế theo Hiệp định.

3. Người đề nghị áp dụng Hiệp định không phải là người chủ sở hữu thực hưởng của khoản thu nhập mà số thuế liên quan đến khoản thu nhập đó được đề nghị miễn, giảm theo Hiệp định. Người chủ sở hữu thực hưởng có thể là một cá nhân, một công ty hoặc một tổ chức nhưng phải là đối tượng có quyền sở hữu và kiểm soát đối với thu nhập, tài sản, hoặc các quyền tạo ra thu nhập. Khi xem xét để xác định một đối tượng là một người chủ sở hữu thực hưởng, Cơ quan thuế sẽ xem xét toàn bộ các yếu tố và hoàn cảnh liên quan đến đối tượng đó trên cơ sở nguyên tắc “bản chất quyết định hình thức” vì mục tiêu của Hiệp định là tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế. Trong các trường hợp sau đây, một đối tượng sẽ không được coi là một người chủ sở hữu thực hưởng:

a) Khi người đề nghị là một đối tượng không cư trú có nghĩa vụ phân phối hơn 50% thu nhập của mình cho một đối tượng cư trú của nước thứ ba trong phạm vi 12 tháng kể từ khi nhận được thu nhập;

b) Khi người đề nghị là một đối tượng không cư trú không có (hoặc hầu như không có) bất kỳ hoạt động kinh doanh nào trừ quyền sở hữu đối với tài sản hoặc các quyền tạo ra thu nhập;

c) Khi người đề nghị là một đối tượng không cư trú có hoạt động kinh doanh, nhưng số lượng tài sản, qui mô kinh doanh hoặc số lượng nhân viên không tương xứng với thu nhập nhận được;

Ví dụ 4: Một ngân hàng của một nước không có Hiệp định với Việt Nam thành lập một pháp nhân tại Pháp để tiến hành cho vay tại Việt Nam và đề nghị miễn thuế đối với lãi tiền vay phát sinh tại Việt Nam theo Hiệp định thuế giữa Việt Nam và Pháp. Trong trường hợp này, để xác định pháp nhân tại Pháp có đủ điều kiện được áp dụng Hiệp định hay không, Cơ quan thuế Việt Nam sẽ căn cứ vào số lượng tiền cho vay, năng lực của pháp nhân tại Pháp (số lượng và trình độ chuyên môn của nhân viên, tài sản và cơ sở vật chất khác) để xác định tính tương xứng giữa thu nhập và qui mô kinh doanh của pháp nhân đó. Nếu thu nhập pháp nhân này thu được là rất lớn trong khi pháp nhân chỉ có một văn phòng tại Pháp với một vài nhân viên thì đề nghị áp dụng Hiệp định sẽ bị từ chối.

d) Khi người đề nghị là một đối tượng không cư trú không có (hoặc hầu như không có) quyền kiểm soát hoặc định đoạt và không phải gánh chịu hoặc gánh chịu rất ít rủi ro đối với thu nhập, hoặc tài sản hoặc các quyền tạo ra thu nhập;

đ) Khi các thỏa thuận cho vay hoặc cung cấp bản quyền hoặc cung cấp dịch vụ kỹ thuật giữa người đề nghị là một đối tượng không cư trú và các đối tượng tại Việt Nam bao gồm các điều kiện và điều khoản trong một thỏa thuận khác mà người đề nghị đang có với một bên thứ ba nhưng trong thỏa thuận khác đó người đề nghị là người nhận khoản vay, bản quyền hoặc dịch vụ kỹ thuật;

e) Khi người đề nghị là một đối tượng cư trú của một nước hoặc vùng lãnh thổ không thu thuế thu nhập hoặc thu thuế thu nhập với mức thuế suất thấp (dưới 10%) không phải với các lý do khuyến khích đầu tư được quy định tại Hiệp định;

g) Khi người đề nghị là một đại lý, một công ty trung gian (trừ trường hợp một đại lý, một công ty trung gian đề nghị áp dụng Hiệp định theo ủy quyền của một chủ sở hữu thực hưởng).

Một đại lý trung gian hoặc một công ty trung gian là một công ty được thành lập tại một Nước ký kết chỉ để có một hình thức pháp lý cần thiết tồn tại chỉ cho mục đích tránh hoặc giảm thuế hoặc chuyển lợi nhuận mà không tham gia vào các hoạt động kinh doanh thiết yếu như sản xuất, thương mại hoặc cung cấp dịch vụ.

Điều 7. Thủ tục giải quyết khiếu nại theo Hiệp định

Thủ tục giải quyết khiếu nại theo Hiệp định được nêu tại Điều khoản Thủ tục thỏa thuận song phương (thường là Điều 25) của Hiệp định.

1. Đối với các đối tượng cư trú của Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam

1.1. Trường hợp một đối tượng cư trú của Nước ký kết (sau đây tại Điều này gọi là người khiếu nại) cho rằng Cơ quan thuế Việt Nam xác định nghĩa vụ thuế của mình không phù hợp với quy định của Hiệp định, đối tượng đó có thể khiếu nại theo trình tự quy định của luật thuế hoặc các văn bản về giải quyết khiếu nại của Việt Nam.

1.2. Người khiếu nại có thể không tiến hành khiếu nại theo trình tự nêu tại Điểm 1.1 trên đây mà trực tiếp khiếu nại lên Nhà chức trách có thẩm quyền của Việt Nam quy định tại Điều 51 Thông tư này hoặc Nhà chức trách có thẩm quyền của Nước ký kết nơi người khiếu nại là đối tượng cư trú thuế để xúc tiến quá trình thủ tục thỏa thuận song phương theo quy định tại Hiệp định. Trong trường hợp này, việc khiếu nại phải được tiến hành trong vòng ba năm kể từ ngày có thông báo đầu tiên của Cơ quan thuế dẫn đến việc xử lý thuế mà người khiếu nại cho là không đúng với Hiệp định.

Ví dụ 5: Ngày 01/6/2012, ông A, một đối tượng cư trú của Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam nhận được quyết định xử lý về thuế thu nhập cá nhân của Cục Thuế tỉnh H và ông cho rằng nghĩa vụ thuế ghi tại quyết định xử lý về thuế không đúng với quy định của Hiệp định. Sau khi thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ nêu tại quyết định xử lý về thuế, ông A có quyền khiếu nại trực tiếp lên Tổng cục Thuế - với tư cách Nhà chức trách có thẩm quyền của Việt Nam - để giải quyết trường hợp của ông. Thời hạn để ông A có thể tiến hành đệ đơn khiếu nại là 3 năm kể từ ngày 01/6/2012.

1.3. Để tiến hành khiếu nại theo các quy định tại các Điểm 1.1 và 1.2 Khoản này, người khiếu nại phải thực hiện đúng các quy định dưới đây:

a) Thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đã được thông báo tại các quyết định xử lý về thuế (là các quyết định hành chính thuế, thông báo thuế, ...) của Cơ quan thuế trước và trong quá trình khiếu nại. Trường hợp khiếu nại về số tiền thuế do cơ quan quản lý thuế tính hoặc ấn định, người khiếu nại vẫn phải nộp đủ số tiền thuế đó, trừ trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định tạm đình chỉ thực hiện quyết định tính thuế, quyết định ấn định thuế của cơ quan quản lý thuế.

b) Nhà chức trách có thẩm quyền của Việt Nam không giải quyết khiếu nại đối với trường hợp: khiếu nại đang hoặc đã được tòa án giải quyết; hoặc đang hoặc đã được xử lý theo trình tự giải quyết khiếu nại của Việt Nam; hoặc việc khiếu nại đã quá thời hạn quy định tại Điểm 1.2.

2. Đối với các đối tượng cư trú của Việt Nam

Trường hợp một đối tượng cư trú của Việt Nam cho rằng một Nước ký kết xác định nghĩa vụ thuế của mình không phù hợp với quy định của Hiệp định đối tượng đó có thể đề nghị Nhà chức trách có thẩm quyền của Việt Nam xúc tiến quá trình thủ tục thỏa thuận song phương theo quy định tại Hiệp định. Trước khi đề nghị Nhà chức trách có thẩm quyền của Việt Nam xúc tiến quá trình thủ tục thỏa thuận song phương, người khiếu nại phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đã được thông báo tại các quyết định xử lý về thuế của Cơ quan thuế Việt Nam và Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam nếu pháp luật của nước đó yêu cầu. Việc đề nghị Nhà chức trách có thẩm quyền của Việt Nam thực hiện thủ tục thỏa thuận song phương phải được tiến hành trong phạm vi ba năm kể từ ngày Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam ban hành các quyết định xử lý về thuế mà đối tượng cư trú của Việt Nam cho rằng không phù hợp với quy định của Hiệp định.

Chương II

THUẾ ĐỐI VỚI CÁC LOẠI THU NHẬP

Mục 1. THU NHẬP TỪ BẤT ĐỘNG SẢN

Điều 8. Định nghĩa bất động sản

Theo quy định tại Hiệp định, thuật ngữ bất động sản sẽ có nghĩa theo luật của Nước ký kết nơi có bất động sản và bao gồm các phần tài sản phụ kèm theo bất động sản, đàn gia súc và thiết bị sử dụng trong nông nghiệp và lâm nghiệp, các quyền lợi được áp dụng theo pháp luật về đất đai, quyền sử dụng bất động sản, quyền được hưởng các khoản thanh toán trả cho việc khai thác hoặc quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên. Các loại tàu thuỷ, thuyền, máy bay không được coi là bất động sản.

Cụ thể, trong trường hợp của Việt Nam, bất động sản bao gồm:

- Các loại tài sản được quy định tại định nghĩa về bất động sản theo quy định của Bộ luật Dân sựLuật Kinh doanh bất động sản;

- Các tài sản phụ kèm theo bất động sản nêu trên;

- Đàn gia súc và thiết bị sử dụng trong nông nghiệp và lâm nghiệp;

- Các quyền lợi được áp dụng theo quy định tại pháp luật về đất đai ở Việt Nam;

- Quyền được hưởng các khoản thanh toán trả cho việc khai thác hoặc quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên.

Ví dụ 6: Một đối tượng cư trú nước ngoài sẽ được coi là có bất động sản tại Việt Nam nếu đối tượng đó sở hữu các tài sản không di dời được tại Việt Nam như nhà ở, công trình xây dựng gắn liều với đất đai, kể cả tài sản gắn liền với nhà, công trình xây dựng đó, hoặc có quyền sử dụng đất tại Việt Nam (theo Điều 174: Bất động sản và động sản của Bộ luật Dân sự năm 2005) và nếu đối tượng đó có một đàn gia súc tại Việt Nam liên quan trực tiếp đến quyền sử dụng đất này thì đàn gia súc đó cũng được coi là bất động sản tại Việt Nam.

Điều 9. Xác định nghĩa vụ thuế đối với thu nhập từ bất động sản

Theo quy định tại Hiệp định, tất cả các loại thu nhập do một đối tượng cư trú của Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam thu được từ việc trực tiếp sử dụng, khai thác hoặc cho thuê các loại bất động sản tại Việt Nam, kể cả bất động sản của doanh nghiệp hoặc của cá nhân hành nghề độc lập, phải nộp thuế thu nhập tại Việt Nam theo quy định của pháp luật hiện hành về thuế ở Việt Nam.

Ví dụ 7: Một Việt kiều X là một đối tượng cư trú của Xinh-ga-po sở hữu một căn nhà tại Việt Nam và sử dụng căn nhà đó với mục đích cho thuê. Thu nhập từ việc cho thuê căn nhà này sẽ phải chịu thuế thu nhập tại Việt Nam dù người đó không có mặt tại Việt Nam trong suốt thời kỳ tính thuế.

Các quy định về thuế đối với thu nhập từ bất động sản như trên được nêu tại Điều khoản Thu nhập từ bất động sản (thường là Điều 6) của Hiệp định.

Mục 2. THU NHẬP TỪ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH

Điều 10. Định nghĩa thu nhập từ hoạt động kinh doanh

Theo quy định tại Hiệp định, thu nhập từ hoạt động kinh doanh là thu nhập của các doanh nghiệp của Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam (sau đây gọi là doanh nghiệp nước ngoài) hoạt động sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam, không bao gồm các khoản thu nhập được nêu tại Mục 1, và các mục từ Mục 3 đến Mục 17 Chương II, Thông tư này.

Điều 11. Xác định nghĩa vụ thuế đối với thu nhập từ hoạt động kinh doanh

1. Trường hợp doanh nghiệp nước ngoài tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam nhưng không thành lập pháp nhân tại Việt Nam.

1.1. Nghĩa vụ thuế

Theo quy định tại Hiệp định, thu nhập từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nước ngoài chỉ bị đánh thuế tại Việt Nam nếu doanh nghiệp đó có một cơ sở thường trú tại Việt Nam và thu nhập đó liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến cơ sở thường trú đó. Trong trường hợp này doanh nghiệp đó chỉ bị đánh thuế tại Việt Nam trên phần thu nhập phân bổ cho cơ sở thường trú đó.

1.2. Định nghĩa cơ sở thường trú

1.2.1. Theo quy định tại Hiệp định, “cơ sở thường trú” là một cơ sở kinh doanh cố định của một doanh nghiệp, thông qua đó, doanh nghiệp thực hiện toàn bộ hay một phần hoạt động kinh doanh của mình.

Một doanh nghiệp của Nước ký kết được coi là có cơ sở thường trú tại Việt Nam nếu hội đủ ba điều kiện dưới đây:

a) Duy trì tại Việt Nam một “cơ sở” như một tòa nhà, một văn phòng hoặc một phần của tòa nhà hay văn phòng đó, một phương tiện hoặc thiết bị,...; và

b) Cơ sở này có tính chất cố định, nghĩa là được thiết lập tại một địa điểm xác định và/hoặc được duy trì thường xuyên. Tính cố định của cơ sở kinh doanh không nhất thiết phụ thuộc vào việc cơ sở đó phải được gắn liền với một vị trí địa lý cụ thể trong một độ dài thời gian nhất định; và

c) Doanh nghiệp tiến hành toàn bộ hoặc một phần hoạt động kinh doanh thông qua cơ sở này.

Ví dụ 8: Công ty X của Trung Quốc mở một gian hàng tại một khu chợ tết của Việt Nam, thông qua gian hàng này công ty X bán các hàng hóa tại hội chợ. Khi đó, gian hàng này sẽ được coi là cơ sở thường trú của công ty X tại Việt Nam.

1.2.2. Một doanh nghiệp của một Nước ký kết sẽ được coi là tiến hành hoạt động kinh doanh thông qua một cơ sở thường trú tại Việt Nam trong các trường hợp chủ yếu sau đây:

a) Doanh nghiệp đó có tại Việt Nam: trụ sở điều hành, chi nhánh (như chi nhánh công ty luật, chi nhánh văn phòng nước ngoài, chi nhánh các công ty thuốc lá, chi nhánh ngân hàng,...), văn phòng (kể cả văn phòng đại diện thương mại nếu có thương lượng, ký kết hợp đồng thương mại), nhà máy, xưởng sản xuất, mỏ, giếng dầu hoặc khí, kho giao nhận hàng hoá, địa điểm thăm dò hoặc khai thác tài nguyên thiên nhiên, hoặc có các thiết bị, phương tiện phục vụ cho việc thăm dò khai thác tài nguyên thiên nhiên tại Việt Nam.

Ví dụ 9: Một nhà thầu phụ nước ngoài sử dụng phương tiện, thiết bị và nhân công tham gia vào hoạt động khoan thăm dò dầu khí tại Việt Nam sẽ được coi là tiến hành hoạt động kinh doanh thông qua một cơ sở thường trú tại Việt Nam.

b) Doanh nghiệp đó có tại Việt Nam một địa điểm xây dựng, một công trình xây dựng, lắp đặt hoặc lắp ráp, hoặc tiến hành các hoạt động giám sát liên quan đến các địa điểm xây dựng, công trình xây dựng, lắp đặt hoặc lắp ráp nói trên với điều kiện các địa điểm, công trình hoặc các hoạt động giám sát đó kéo dài hơn 6 tháng hoặc 3 tháng (tùy theo từng Hiệp định cụ thể) tại Việt Nam.

Địa điểm, công trình xây dựng hoặc lắp đặt bao gồm địa điểm, công trình xây dựng nhà cửa, đường xá, cầu cống, lắp đặt đường ống, khai quật, nạo vét sông ngòi,... Thời gian (6 tháng hoặc 3 tháng) được tính từ ngày nhà thầu bắt đầu công việc chuẩn bị cho công trình xây dựng tại Việt Nam, như thành lập văn phòng xây dựng kế hoạch thi công, cho đến khi công trình hoàn thiện, bàn giao toàn bộ tại Việt Nam, kể cả thời gian công trình bị gián đoạn do mọi nguyên nhân.

Các nhà thầu phụ của Nước ký kết tham gia vào các công trình xây dựng, lắp đặt hoặc lắp ráp nêu trên cũng được coi là tiến hành hoạt động kinh doanh tại Việt Nam thông qua cơ sở thường trú nếu hội đủ các điều kiện tại Điểm 1.2.1 nêu trên.

Thời gian thực hiện công trình để xác định cơ sở thường trú cho nhà thầu chính bao gồm tổng cộng thời gian thực hiện các phần hợp đồng của các nhà thầu phụ và thời gian thực hiện của nhà thầu chính.

Ví dụ 10: Công ty Z của Nhật Bản trúng thầu xây dựng một chiếc cầu tại Việt Nam. Hoạt động thi công cầu diễn ra như sau: 5 tháng thi công xây dựng trụ cầu do một nhà thầu phụ Y cũng là một công ty Nhật Bản đảm nhiệm và 3 tháng thi công sàn cầu và hoàn thiện do nhà thầu Z tự thực hiện. Trong trường hợp này, theo quy định tại Điều 5, Khoản 3, Hiệp định giữa Việt Nam và Nhật Bản, công ty Z được coi là tiến hành hoạt động kinh doanh tại Việt Nam thông qua một cơ sở thường trú vì tổng thời gian thi công cầu là 8 tháng (5 tháng + 3 tháng); Công ty Y không được coi là có cơ sở thường trú tại Việt Nam.

c) Doanh nghiệp đó thực hiện việc cung cấp dịch vụ bao gồm cả dịch vụ tư vấn ở Việt Nam thông qua nhân viên của doanh nghiệp hoặc một đối tượng khác với điều kiện các hoạt động dịch vụ nói trên trong một dự án hoặc các dự án có liên quan, kéo dài tại Việt Nam trong một khoảng thời gian hay nhiều khoảng thời gian gộp lại quá 183 ngày trong mỗi giai đoạn 12 tháng.

Ví dụ 11: Hãng sản xuất máy bay Đ của Thuỵ Điển ký hợp đồng dịch vụ bảo dưỡng máy bay với hãng Hàng không Việt Nam. Theo hợp đồng, trong giai đoạn từ ngày 01/6/2010 đến ngày 30/5/2011, hãng Đ đã cử các đoàn chuyên gia kỹ thuật sang Việt Nam làm việc với tổng số thời gian có mặt tại Việt Nam 190 ngày. Trong trường hợp này, theo quy định tại Khoản 4, Điều 5, Hiệp định giữa Việt Nam và Thụy Điển, hãng Đ được coi là có cơ sở thường trú tại Việt Nam do các đoàn chuyên gia kỹ thuật đã làm việc tại Việt Nam vượt quá 6 tháng trong giai đoạn 12 tháng.

Ví dụ 12: Công ty tư vấn N của Nhật Bản ký các hợp đồng dịch vụ tư vấn với chủ đầu tư của Dự án xây dựng Nhà máy điện V tại Việt Nam như sau: i) hợp đồng dịch vụ tư vấn xây dựng nhà máy điện kéo dài 4 tháng từ ngày 01/8/2010 đến ngày 30/11/2010, và ii) hợp đồng dịch vụ tư vấn lắp đặt hệ thống máy phát điện kéo dài 3 tháng từ ngày 01/01/2011 đến ngày 31/3/2011. Cả hai hợp đồng đều yêu cầu sự hiện diện của đại diện Công ty tư vấn N tại hiện trường xây dựng và lắp đặt Nhà máy điện V để triển khai công việc trong suốt thời hạn hợp đồng. Để thực hiện hợp đồng dịch vụ tư vấn lắp đặt nhà máy điện, Công ty tư vấn N đã thuê một Công ty tư vấn B của Nhật Bản thực hiện với tư cách đại diện cho Công ty. Trong trường hợp này, theo quy định tại Khoản 4, Điều 5, Hiệp định giữa Việt Nam và Nhật Bản, Công ty tư vấn N được coi là có cơ sở thường trú tại Việt Nam do sự hiện diện của đại diện Công ty tại Dự án tại Việt Nam vượt quá 6 tháng trong giai đoạn 12 tháng; Công ty tư vấn B không được coi là có cơ sở thường trú tại Việt Nam do sự hiện diện của Công ty tại Việt Nam không quá 6 tháng.

Ví dụ 13: Với các giả định như Ví dụ 12, nếu Công ty tư vấn B và chủ đầu tư của Dự án còn ký một hiệp định tư vấn trong giai đoạn chạy thử từ ngày 01/4/2011 đến ngày 30/7/2011. Hợp đồng cũng yêu cầu đại diện của Công ty tư vấn B hiện diện trong suốt thời hạn hợp đồng tại hiện trường chạy thử Nhà máy điện V. Trong trường hợp này, theo quy định tại Khoản 4, Điều 5, Hiệp định giữa Việt Nam và Nhật Bản, Công ty tư vấn B được coi là có cơ sở thường trú tại Việt Nam do sự hiện diện của đại diện Công ty tại Dự án tại Việt Nam vượt quá 6 tháng trong giai đoạn 12 tháng.

Liên quan đến việc cung cấp dịch vụ, mặc dù tại Hiệp định có quy định cơ sở thường trú bao gồm việc cung cấp dịch vụ bao gồm cả dịch vụ tư vấn ở Việt Nam thông qua nhân viên của doanh nghiệp hoặc một đối tượng khác với điều kiện các hoạt động dịch vụ nói trên trong một dự án hoặc các dự án có liên quan, kéo dài tại Việt Nam trong một khoảng thời gian hay nhiều khoảng thời gian gộp lại quá 183 ngày trong mỗi giai đoạn 12 tháng, nhưng do tính chất của dịch vụ, thời gian cung cấp dịch vụ không kéo dài quá 6 tháng trong một giai đoạn 12 tháng, trong khi đó, ba điều kiện về cơ sở thường trú tại Điểm 1.2.1 nêu trên vẫn thỏa mãn thì việc cung cấp dịch vụ vẫn được coi là có một cơ sở thường trú tại Việt Nam.

Ví dụ 14: Hãng sản xuất máy bay Đ của Thuỵ Điển ký hợp đồng dịch vụ bảo dưỡng định kỳ máy bay với hãng Hàng không Việt Nam trong thời gian hai năm. Theo hợp đồng, hàng năm, Hãng Đ đều cử các đoàn chuyên gia kỹ thuật sang Việt Nam làm việc với tổng số thời gian có mặt tại Việt Nam 90 ngày tại địa điểm bảo dưỡng máy bay. Trong trường hợp này, theo quy định tại Khoản 1, Điều 5, Hiệp định giữa Việt Nam và Thụy Điển, hãng Đ được coi là có cơ sở thường trú tại Việt Nam do định kỳ hàng năm các đoàn chuyên gia kỹ thuật đã làm việc tại Việt Nam tại một địa điểm cố định tại Việt Nam (các máy bay được bảo dưỡng).

d) Doanh nghiệp đó có tại Việt Nam một đại lý môi giới, đại lý hoa hồng hoặc bất kỳ một đại lý nào khác, nếu các đại lý đó dành toàn bộ hoặc phần lớn hoạt động của mình cho doanh nghiệp đó (đại lý phụ thuộc).

Ví dụ 15: Công ty V là đối tượng cư trú của Việt Nam ký hợp đồng đại lý với chức năng lưu kho và giao sản phẩm sơn cho một công ty H là đối tượng cư trú của Anh. Theo quy định tại hợp đồng, công ty V không được phép làm đại lý cho bất cứ một nhà sản xuất hoặc phân phối sơn nào khác. Trường hợp này, mặc dù không có chức năng ký kết hợp đồng hoặc thu tiền tại Việt Nam nhưng công ty V đã trở thành đại lý phụ thuộc của Công ty H, không còn là đại lý độc lập nữa. Theo quy định của Hiệp định giữa Việt Nam và Anh (Khoản 6, Điều 5: Cơ sở thường trú) công ty H được coi là có cơ sở thường trú tại Việt Nam.

đ) Doanh nghiệp đó uỷ quyền cho một đối tượng tại Việt Nam:

- Thẩm quyền thường xuyên thương lượng, ký kết hợp đồng đứng tên doanh nghiệp đó; hoặc ký các hợp đồng mang tên đối tượng đó nhưng ràng buộc nghĩa vụ hoặc trách nhiệm của doanh nghiệp đó; hoặc

- Không có thẩm quyền thương lượng, ký kết hợp đồng, nhưng có quyền thường xuyên đại diện cho doanh nghiệp đó giao hàng hóa tại Việt Nam.

1.2.3. Một doanh nghiệp nước ngoài sẽ được coi là không có cơ sở thường trú tại Việt Nam trong các trường hợp sau đây:

a) Doanh nghiệp đó sử dụng các phương tiện chỉ nhằm mục đích lưu kho, trưng bày hàng hóa của doanh nghiệp.

b) Doanh nghiệp đó có tại Việt Nam một kho hàng hóa chỉ nhằm mục đích lưu kho, trưng bày hoặc để cho một doanh nghiệp khác gia công.

c) Doanh nghiệp đó có tại Việt Nam một cơ sở kinh doanh cố định chỉ nhằm mục đích mua hàng hóa hoặc thu thập thông tin cho doanh nghiệp.

d) Doanh nghiệp đó có tại Việt Nam một cơ sở kinh doanh cố định chỉ nhằm mục đích tiến hành các hoạt động chuẩn bị hoặc phụ trợ cho doanh nghiệp.

1.2.4. Trường hợp một công ty là đối tượng cư trú của Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam kiểm soát hoặc chịu sự kiểm soát bởi một công ty là đối tượng cư trú của Việt Nam, hoặc đang tiến hành hoạt động kinh doanh tại Việt Nam (có thể thông qua cơ sở thường trú hoặc dưới hình thức khác) sẽ không làm cho bất kỳ công ty nào trở thành cơ sở thường trú của công ty kia.

Ví dụ 16: Một doanh nghiệp nước ngoài góp vốn thành lập một doanh nghiệp liên doanh hoặc một doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam. Khi đó, doanh nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài này không được coi là các cơ sở thường trú tại Việt Nam của doanh nghiệp nước ngoài đó.

Tuy nhiên, trường hợp công ty là đối tượng cư trú của Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam góp vốn thành lập một doanh nghiệp liên doanh hoặc một doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam (bao gồm cả doanh nghiệp chế xuất) thì công ty đó sẽ được coi như có một cơ sở thường trú tại Việt Nam nếu:

- Doanh nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thường xuyên thương lượng, ký kết hợp đồng đứng tên công ty đó; hoặc ký các hợp đồng đứng tên doanh nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài nhưng ràng buộc nghĩa vụ hoặc trách nhiệm của công ty nước ngoài; hoặc

- Doanh nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thường xuyên đại diện cho công ty nước ngoài giao hàng hóa tại Việt Nam; hoặc

- Công ty nước ngoài đó có quyền định đoạt đối với cơ sở vật chất - kỹ thuật của doanh nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đó trong quá trình sản xuất kinh doanh (nghĩa là, việc công ty nước ngoài sử dụng các cơ sở vật chất - kỹ thuật của doanh nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam (nếu có) trong quá trình sản xuất kinh doanh không phải trên cơ sở nguyên tắc giá thị trường).

1.3. Xác định thu nhập chịu thuế của cơ sở thường trú

1.3.1. Việc xác định thu nhập chịu thuế của cơ sở thường trú của doanh nghiệp nước ngoài, trừ các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam được hướng dẫn tại Điểm 1.3.3 dưới đây, được thực hiện theo các văn bản hướng dẫn thực hiện luật thuế thu nhập doanh nghiệp đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh không thành lập pháp nhân tại Việt Nam hoặc có thu nhập tại Việt Nam.

1.3.2. Khi xác định các khoản chi phí mà trụ sở chính của doanh nghiệp nước ngoài hoặc các văn phòng của doanh nghiệp nước ngoài phân bổ cho một cơ sở thường trú tại Việt Nam, cơ sở thường trú sẽ được coi là một doanh nghiệp độc lập cùng tiến hành các hoạt động như nhau hay tương tự trong các điều kiện như nhau hay tương tự và hoàn toàn độc lập với trụ sở chính của doanh nghiệp nước ngoài hoặc các văn phòng của doanh nghiệp nước ngoài. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp, các khoản phân bổ dưới đây của trụ sở chính của doanh nghiệp nước ngoài hoặc các văn phòng của doanh nghiệp nước ngoài phân bổ cho một cơ sở thường trú tại Việt Nam sẽ không được chấp nhận là chi phí được trừ:

- Tiền bản quyền hoặc các khoản thanh toán tương tự cho việc sử dụng sáng chế hoặc các quyền tương tự;

- Tiền hoa hồng cho các dịch vụ hoặc cho các công việc quản lý;

- Lãi tiền vay dưới mọi hình thức.

1.3.3. Việc xác định thu nhập chịu thuế của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam theo các hướng dẫn về việc xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp của các pháp nhân tại Việt Nam. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp, các khoản phân bổ dưới đây của trụ sở chính của ngân hàng nước ngoài hoặc các văn phòng của ngân hàng nước ngoài phân bổ cho chi nhánh tại Việt Nam của ngân hàng nước ngoài sẽ không được chấp nhận là chi phí được trừ:

- Tiền bản quyền hoặc các khoản thanh toán tương tự cho việc sử dụng sáng chế hoặc các quyền tương tự;

- Tiền hoa hồng cho các dịch vụ hoặc cho các công việc quản lý.

Các quy định về thuế đối với thu nhập kinh doanh như trên được nêu tại Điều khoản Thu nhập kinh doanh (thường là Điều 7) của Hiệp định.

2. Trường hợp các doanh nghiệp nước ngoài tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam thông qua việc thành lập pháp nhân tại Việt Nam.

Theo quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam, các doanh nghiệp nước ngoài có thể tiến hành kinh doanh tại Việt Nam thông qua việc thành lập các pháp nhân tại Việt Nam như các doanh nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.

Theo quy định tại Hiệp định, các pháp nhân này có nghĩa vụ nộp thuế thu nhập đối với thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh như các doanh nghiệp Việt Nam khác theo quy định của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành. Phần thu nhập của doanh nghiệp nước ngoài nhận được dưới hình thức lợi nhuận được chia của nhà đầu tư hoặc thu nhập từ việc chuyển nhượng phần vốn góp (nếu có) sẽ được thực hiện theo quy định của các điều khoản tương ứng của Hiệp định quy định về Thu nhập từ lãi cổ phần hoặc Thu nhập từ chuyển nhượng tài sản.

Ví dụ 17: Công ty T của Trung Quốc góp 70% vốn thành lập Công ty liên doanh X tại Việt Nam. Trong năm 2009, Công ty liên doanh X thu được lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh 100 triệu đồng; sau khi nộp thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) tại Việt Nam theo thuế suất 25%, lợi nhuận sau thuế được chia hết theo tỷ lệ góp. Trong năm 2010, Công ty T bán 50% phần vốn góp của mình tại liên doanh X thu được 3 tỷ đồng và thu được 50 triệu đồng tiền lãi trên số vốn cho Công ty liên doanh X vay. Nghĩa vụ thuế của Công ty liên doanh X và Công ty T trong năm 2010 như sau:

- Công ty liên doanh X nộp thuế TNDN như các doanh nghiệp Việt Nam khác. Cụ thể:

Thuế TNDN = 100 triệu đồng x 25% = 25 triệu đồng

- Công ty T của Trung Quốc nộp thuế tại Việt Nam theo quy định tại Hiệp định như sau:

+ Đối với khoản lợi nhuận sau thuế được chia (75 triệu đồng x 70%): Nộp thuế đối với thu nhập lãi cổ phần (hướng dẫn tại Mục 4. Thu nhập từ tiền lãi cổ phần, Chương II, Thông tư này);

+ Đối với khoản thu nhập từ chuyển nhượng phần vốn góp (3 tỷ đồng): Nộp thuế đối với thu nhập từ chuyển nhượng tài sản (hướng dẫn tại Mục 8. Thu nhập từ chuyển nhượng tài sản, Chương II, Thông tư này);

+ Đối với khoản thu nhập từ lãi tiền vay (50 triệu đồng): Nộp thuế đối với thu nhập từ lãi tiền vay (hướng dẫn tại Mục 5. Thu nhập từ lãi tiền cho vay, Chương II, Thông tư này).

Mục 3. THU NHẬP TỪ HOẠT ĐỘNG VẬN TẢI QUỐC TẾ

Điều 12. Định nghĩa vận tải quốc tế

Theo quy định tại Hiệp định, vận tải quốc tế là các hoạt động vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng tàu thủy hoặc máy bay, tại một số Hiệp định có thể bao gồm cả phương tiện vận tải đường bộ, đường sắt hoặc đường thủy trong đất liền (dưới đây được gọi chung là phương tiện vận tải) do doanh nghiệp của Nước ký kết thực hiện, trừ trường hợp các hoạt động vận chuyển đó chỉ diễn ra giữa hai địa điểm của Việt Nam hoặc của Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam.

Ví dụ 18: Một doanh nghiệp Nhật Bản thực hiện hoạt động vận tải hành khách và hàng hóa tại Việt Nam. Các hoạt động vận tải hành khách và hàng hóa sau đây của doanh nghiệp này sẽ được coi là hoạt động vận tải quốc tế:

- Vận chuyển hàng hoá, hành khách từ một địa điểm ở Việt Nam đến một địa điểm tại Nhật Bản (kể cả hàng hoá, hành khách đó từ Hải Phòng qua Thành phố Hồ Chí Minh và Ô-sa-ka để đến Tô-ky-ô);

- Vận chuyển hàng hoá, hành khách từ một địa điểm ở Việt Nam đến một địa điểm ngoài Việt Nam (ví dụ Xinh-ga-po);

Trường hợp tàu của doanh nghiệp Nhật Bản nêu trên vận chuyển hành khách du lịch theo dịch vụ trọn gói cho hành trình Thành phố Hồ Chí Minh -- Xinh-ga-po -- Hải Phòng; tàu khởi hành tại Thành phố Hồ Chí Minh và cập cảng tại Xinh-ga-po, toàn bộ hành khách sau khi thăm Xinh-ga-po quay trở lại tàu để về Hải Phòng. Tại Xinh-ga-po, tàu này không nhận thêm bất kỳ hành khách nào. Như vậy, hành trình vận tải hành khách trên đây không được coi là vận tải quốc tế (mặc dù hải trình của tàu có chặng vận chuyển diễn ra ngoài Việt Nam nhưng điểm xuất phát và điểm đến cuối cùng đều ở tại Việt Nam).

Điều 13. Xác định đối tượng thực hưởng Hiệp định đối với thu nhập từ vận tải quốc tế

Tùy theo từng Hiệp định, doanh nghiệp của Nước ký kết thực hiện hoạt động vận tải quốc tế được xác định theo các tiêu thức sau:

1. Doanh nghiệp do đối tượng cư trú của Việt Nam hoặc của Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam điều hành; hoặc

2. Doanh nghiệp có trụ sở điều hành thực tế tại Việt Nam hoặc tại Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam;

với điều kiện doanh nghiệp đó sở hữu hoặc có quyền sử dụng toàn bộ ít nhất một phương tiện vận tải và sử dụng phương tiện này vào việc vận tải hành khách và/hoặc hàng hóa trong hành trình vận tải quốc tế (được gọi là phương tiện vận tải do doanh nghiệp điều hành trực tiếp).

Điều 14. Xác định thu nhập từ vận tải quốc tế

Tuỳ theo quy định tại từng Hiệp định, thu nhập từ hoạt động vận tải quốc tế của các đối tượng nêu tại Điều 13 sẽ được miễn hoặc giảm thuế tại Việt Nam hoặc tại Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam.

Phạm vi áp dụng miễn, giảm thuế tại Việt Nam đối với doanh nghiệp của Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam bao gồm:

1. Thu nhập từ hoạt động vận tải quốc tế bằng phương tiện vận tải do doanh nghiệp điều hành trực tiếp và từ các hoạt động phụ trợ đi liền với hoạt động vận tải quốc tế này, cụ thể:

1.1. Doanh thu từ hoạt động vận tải quốc tế bằng phương tiện vận tải do chính doanh nghiệp điều hành trực tiếp và xuất chứng từ vận tải (xuất vé, vận đơn hoặc bản lược khai (manifest) vận chuyển hành khách và hàng hoá).

1.2. Doanh thu từ việc cho thuê một phần phương tiện vận tải (còn gọi là cho thuê chỗ) hoặc cho thuê toàn bộ phương tiện vận tải theo từng chuyến do chính doanh nghiệp điều hành trực tiếp.

Ví dụ 19: Hãng tàu A của Nhật Bản nhận chở hàng hóa của công ty C từ Việt Nam đi Hà Lan với mức cước phí là 300 đô la Mỹ. Hãng tàu A không có tàu điều hành trực tiếp mà thuê chỗ trên tàu của hãng tàu B của Thái Lan với mức phí là 250 đô la Mỹ. Ngoài việc chở hàng cho hãng tàu A như trên, hãng tàu B còn trực tiếp chở hàng cho các khách hàng khác trên cùng tuyến với số cước thu được là 200 đô la Mỹ. Trong trường hợp này:

- Đối với hãng tàu A: số tiền 300 đô la Mỹ thu được từ việc nhận chở hàng cho Công ty C hoặc số tiền 50 đô la Mỹ thu được do chênh lệch từ việc nhận chở hàng cho Công ty C và thuê chỗ trên tàu của hãng B đều không được coi là thu nhập từ vận tải quốc tế bằng tàu biển để được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp theo Hiệp định giữa Việt Nam và Nhật Bản do hãng A không trực tiếp điều hành tàu (mà chỉ mua chỗ toàn chặng trên tàu của hãng tàu B) nên vẫn phải nộp đủ thuế thu nhập doanh nghiệp.

- Đối với hãng tàu B: số tiền cước 450 đô la Mỹ được coi là thu nhập từ hoạt động vận tải quốc tế thuộc diện được giảm thuế thu nhập doanh nghiệp theo Hiệp định giữa Việt Nam và Thái Lan (giảm 50% thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp).

1.3. Doanh thu từ hoạt động vận chuyển hàng hóa hoặc hành khách khi tham gia liên danh khai thác tuyến vận tải quốc tế với điều kiện doanh nghiệp tham gia liên danh trên cơ sở đóng góp phương tiện vận tải do chính doanh nghiệp điều hành trực tiếp hoặc đóng góp chi phí cho hoạt động của phương tiện vận tải do liên danh điều hành trực tiếp và các bên sử dụng chứng từ vận tải riêng biệt. Trong trường hợp này, doanh thu được xác định trên cơ sở chứng từ vận tải do doanh nghiệp là bên liên danh phát hành nhưng không vượt quá hạn mức chỗ trống của phương tiện vận tải mà doanh nghiệp được phép khai thác theo thỏa thuận liên danh.

1.4. Doanh thu từ hoạt động vận chuyển hành khách hoặc hàng hóa do doanh nghiệp xuất chứng từ vận tải quốc tế được chuyên chở trên phương tiện vận tải do doanh nghiệp khác điều hành với một trong hai điều kiện sau đây:

a) Chặng vận chuyển đó là một phần trong hành trình vận chuyển quốc tế bằng tàu thủy hoặc máy bay do chính doanh nghiệp điều hành trực tiếp và được ghi trong chứng từ vận tải do chính doanh nghiệp phát hành;

Ví dụ 20: Cũng với Ví dụ 19 nêu trên, Hãng tàu A của Nhật Bản nhận chở hàng hóa của công ty C từ Việt Nam đi Hà Lan với mức cước phí là 300 đô la Mỹ. Tuy nhiên, hãng tàu A có tàu A1 do hãng trực tiếp điều hành vận chuyển hàng hóa chặng hai từ Xinh-ga-po đến Hà Lan. Chặng một từ Việt Nam đi Xinh-ga-po, hãng A phải thuê hãng tàu B của Thái Lan vận chuyển hàng với chi phí là 50 đô la Mỹ.

- Đối với hãng tàu A: số tiền 250 đô la Mỹ (300 – 50) thu được từ việc trực tiếp vận chuyển hàng hóa trong vận tải quốc tế thuộc diện được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp theo Hiệp định giữa Việt Nam và Nhật Bản.

- Đối với hãng tàu B: số tiền cước 50 đô la Mỹ được coi là thu nhập từ hoạt động vận tải quốc tế thuộc diện được giảm thuế thu nhập doanh nghiệp theo Hiệp định giữa Việt Nam và Thái Lan (giảm 50% thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp).

b) Việc chuyên chở đó được thực hiện trên cơ sở thỏa thuận hoán đổi một phần phương tiện vận tải (được gọi là hoán đổi chỗ) do chính doanh nghiệp điều hành trực tiếp để đổi lại doanh nghiệp được sử dụng một phần tương ứng phương tiện vận tải do doanh nghiệp khác điều hành. Trong trường hợp này, doanh thu được xác định trên cơ sở các chứng từ vận tải do chính doanh nghiệp phát hành nhưng không vượt quá hạn mức chỗ trống mà doanh nghiệp được khai thác miễn phí trên phương tiện của hãng đối tác theo thỏa thuận hoán đổi chỗ.

1.5. Thu nhập từ việc cho thuê ngắn hạn (lưu) công-ten-nơ với tính chất là hoạt động phụ kèm theo hoạt động của phương tiện vận tải do doanh nghiệp điều hành trực tiếp nếu tại Hiệp định có quy định.

Tính chất hoạt động phụ kèm theo hoạt động của phương tiện vận tải của việc cho thuê ngắn hạn (lưu) công-ten-nơ được xác định là công-ten-nơ đi liền với phương tiện vận tải có vào cảng Việt Nam, công-ten-nơ đang chứa hàng vận chuyển nhập khẩu và phí sử dụng công-ten-nơ đã được bao gồm trong giá cước vận chuyển; thu nhập cho thuê ngắn hạn công-ten-nơ phát sinh do bên nhận hàng lưu giữ công-ten-nơ quá thời hạn sử dụng miễn phí.

1.6. Doanh thu từ việc cho thuê tàu thủy hoặc máy bay trống (được gọi chung là thuê tàu trần) có tính chất phụ trợ cho hoạt động vận tải quốc tế của phương tiện vận tải do doanh nghiệp điều hành trực tiếp nếu được quy định cụ thể tại Hiệp định và thỏa mãn cả ba điều kiện sau đây:

a) Phương tiện vận tải đang được doanh nghiệp sử dụng trong vận tải quốc tế; và

b) Tổng thời gian cho thuê ngắn hơn thời gian phương tiện được sử dụng cho hoạt động vận tải quốc tế của chính doanh nghiệp trong thời gian 12 tháng bắt đầu hoặc kết thúc năm dương lịch; và

c) Bên đi thuê không được thay đổi tên và hô hiệu của phương tiện vận tải.

Thuê tàu trần là hình thức thuê tàu theo đó chủ tàu cung cấp cho người thuê tàu một tàu cụ thể không bao gồm thuyền bộ hoặc phi hành đoàn.

Doanh thu được nêu tại các Điểm 1.5 và 1.6 trên đây sẽ không được coi là doanh thu từ các hoạt động phụ trợ đi liền với hoạt động vận tải quốc tế để áp dụng Hiệp định nếu doanh nghiệp không phát sinh các khoản doanh thu được nêu tại các Điểm 1.1, 1.2, 1.3 hoặc 1.4.

2. Trường hợp hai hoặc nhiều doanh nghiệp có hoạt động liên danh để tạo thành một tổ chức liên danh hoặc hợp danh không có tư cách pháp nhân thực hiện hoạt động vận tải quốc tế bằng phương tiện vận tải do tổ chức liên danh hoặc hợp danh điều hành trực tiếp và chứng từ vận tải được xuất dưới tên của tổ chức liên danh hoặc hợp danh thì việc xác định phạm vi áp dụng miễn, giảm thuế theo Hiệp định được thực hiện riêng biệt cho từng bên liên danh hoặc hợp danh theo Hiệp định ký kết giữa Việt Nam và nước nơi bên liên danh hoặc hợp danh là đối tượng cư trú hoặc có trụ sở điều hành thực tế. Căn cứ xác định doanh thu miễn, giảm thuế được áp dụng tương tự như quy định tại Khoản 1 và được phân bổ theo tỷ lệ doanh thu chia cho bên liên danh hoặc hợp danh theo hợp đồng hoặc thỏa thuận liên danh hoặc hợp danh.

Ví dụ 21: Liên danh hàng không Scăng-đi-na-via (SAS) có hoạt động vận chuyển hành khách quốc tế tại Việt Nam đi các nước Bắc Âu. Như vậy, doanh thu của hãng phát sinh tại Việt Nam sẽ được phân bổ cho các bên tham gia góp vốn điều hành liên danh hàng không SAS là các đối tượng cư trú tại Na Uy, Đan Mạch hoặc Thụy Điển để áp dụng theo từng Hiệp định có liên quan.

Khi kê khai nghĩa vụ thuế, các doanh nghiệp trên phải hạch toán riêng các khoản thu nhập được nêu trên để được xét miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp phù hợp với quy định về thu nhập từ hoạt động vận tải quốc tế. Trong mọi trường hợp doanh thu xét miễn, giảm thuế không vượt quá doanh thu tính thuế thu nhập doanh nghiệp của hoạt động vận tải quốc tế theo các văn bản quy định có liên quan.

Trường hợp Hiệp định (như Hiệp định với Băng-la-đét, Phi-líp-pin và Thái Lan) quy định chỉ giảm thuế thu nhập theo một tỷ lệ nhất định thì doanh nghiệp phải nộp thuế thu nhập đối với thu nhập từ vận tải quốc tế theo phần tỷ lệ không được giảm.

Các quy định về thuế đối với thu nhập từ vận tải quốc tế như trên được nêu tại Điều khoản Vận tải quốc tế (thường là Điều 8) của Hiệp định.

Mục 4. THU NHẬP TỪ TIỀN LÃI CỔ PHẦN

Điều 15. Định nghĩa tiền lãi cổ phần

Theo quy định tại Hiệp định, tiền lãi cổ phần là khoản tiền được trích từ thu nhập sau thuế của các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần trả cho các thành viên của công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc cổ đông của công ty cổ phần, khoản tiền được trích từ thu nhập sau thuế của doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài trả cho bên nước ngoài, thu nhập từ các hoạt động đầu tư (gián tiếp) ở nước ngoài (không kể thu nhập là lãi từ tiền cho vay quy định tại Mục 5, Chương II, Thông tư này) của các đối tượng cư trú Việt Nam, và thu nhập được chia từ hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam được Nước ký kết xử lý thuế như tiền lãi cổ phần.

Ví dụ 22: Doanh nghiệp S của Việt Nam đầu tư tại các nước X và Y với tình hình thu nhập và nộp thuế theo quy định của nước X và Y như sau:

STT

Nước X

Nước Y

1

2

3

4


5

Thu nhập trước thuế

Thuế thu nhập 28%

Thu nhập sau thuế

Thuế thu nhập đối với tiền lãi cổ phần

Thu nhập thực nhận

100

28

72

14,4 (thuế suất 20%)


57,6

100

28

72

Không coi là tiền lãi cổ phần


72

Như vậy doanh nghiệp S, trong phạm vi Hiệp định với nước X, được coi là có tiền lãi cổ phần từ nước ngoài là 72; trong phạm vi Hiệp định với nước Y, không được coi là có tiền lãi cổ phần từ nước ngoài.

Điều 16. Xác định nghĩa vụ thuế đối với thu nhập từ tiền lãi cổ phần

1. Theo quy định tại Hiệp định, Việt Nam có quyền thu thuế đối với tiền lãi cổ phần do một công ty là đối tượng cư trú của Việt Nam trả cho một đối tượng cư trú của Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam theo một thuế suất giới hạn tùy theo từng Hiệp định (thường không quá 15%) với điều kiện đối tượng nhận là đối tượng thực hưởng.

2. Trường hợp một đối tượng cư trú của Việt Nam nhận được tiền lãi cổ phần của một công ty là đối tượng cư trú của Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam thì Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam có quyền đánh thuế thu nhập như quy định tại Khoản 1, Điều này, Việt Nam có quyền thu thuế đối với thu nhập này theo quy định tại pháp luật hiện hành về thuế ở Việt Nam; nhưng đồng thời Việt Nam phải thực hiện các biện pháp tránh đánh thuế hai lần đối với khoản thu nhập này (quy định tại Chương III. Biện pháp tránh đánh thuế hai lần tại Việt Nam của Thông tư này).

3. Trường hợp một đối tượng cư trú nhận được tiền lãi cổ phần mà pháp luật hiện hành về thuế ở Việt Nam không quy định thu thuế thu nhập đối với loại thu nhập này hoặc thu thuế với một mức thuế suất thấp hơn quy định tại Hiệp định thì đối tượng có thu nhập sẽ thực hiện nghĩa vụ thuế theo các quy định tại pháp luật hiện hành về thuế ở Việt Nam.

Ví dụ 23: Một công ty của Anh đầu tư 14 triệu đô la Mỹ vào một liên doanh tại Việt Nam, trong năm 2010 đã nhận được tiền lãi cổ phần từ liên doanh tại Việt Nam. Mặc dù theo Hiệp định giữa Việt Nam và Anh (Khoản 2.a, Điều 10: Tiền lãi cổ phần), Việt Nam có quyền thu thuế đối với thu nhập từ tiền lãi cổ phần của Công ty Anh này với mức thuế suất 7%, nhưng theo quy định của Luật thuế hiện hành, Việt Nam chưa thu thuế đối với khoản thu nhập từ tiền lãi cổ phần của các doanh nghiệp nên Công ty Anh không phải nộp thuế đối với số thu nhập từ tiền lãi cổ phần nêu trên.

Điều 17. Xác định đối tượng thực hưởng Hiệp định đối với thu nhập từ tiền lãi cổ phần

Theo quy định tại Hiệp định, các quy định về thuế đối với tiền lãi cổ phần chỉ áp dụng đối với các đối tượng cư trú đồng thời là đối tượng nhận và là đối tượng thực hưởng lợi ích của cổ phần - nghĩa là các cổ đông. Do đó, ngoài một số trường hợp không được hưởng lợi Hiệp định theo quy định tại Điều 6. Một số trường hợp từ chối áp dụng Hiệp định trên cơ sở nguyên tắc hưởng lợi Hiệp định, các mức thuế suất giảm hoặc việc miễn thuế đối với thu nhập từ tiền lãi cổ phần quy định tại Hiệp định sẽ không áp dụng đối với:

1. Đối tượng nhận khoản thanh toán tiền lãi cổ phần nhưng không phải là cổ đông hoặc không phải là đối tượng cư trú.

Ví dụ 24: Một Quỹ đầu tư đăng ký tại nước S (được thành lập bởi các thành viên là các đối tượng cư trú của các nước có Hiệp định với Việt Nam) tham gia góp vốn thành lập Công ty liên doanh V tại Việt Nam. Quỹ đầu tư đó không phải là một đối tượng cư trú của nước S. Lãi cổ phần nhận được bởi Quỹ đầu tư từ Công ty liên doanh V và thu nhập nhận được bởi các thành viên góp vốn của Quỹ đầu tư từ số lãi cổ phần được chia bởi Quỹ đầu tư đều không được áp dụng Hiệp định giữa Việt Nam với nước S và các nước mà các thành viên là đối tượng cư trú.

2. Tiền lãi cổ phần do công ty là đối tượng cư trú của Việt Nam trả cho một cơ sở thường trú đặt tại Việt Nam của một đối tượng cư trú của Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam.

Ví dụ 25: Chi nhánh ngân hàng CV là chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam của ngân hàng C của Pháp mua cổ phần tại một công ty cổ phần của Việt Nam và được chia một khoản lãi cổ phần. Theo yêu cầu của chi nhánh CV, khoản tiền lãi cổ phần đó được chuyển thẳng cho ngân hàng C có trụ sở chính tại Pa-ri. Trong trường hợp này, người thực hưởng tiền lãi cổ phần là chi nhánh CV, không phải ngân hàng C. Do chi nhánh CV là một cơ sở thường trú của ngân hàng C tại Việt Nam nên theo quy định của Hiệp định giữa Việt Nam và Pháp (Khoản 5, Điều 10: Tiền lãi cổ phần), các quy định về thuế đối với tiền lãi cổ phần sẽ không áp dụng đối với ngân hàng C mà các quy định về thuế đối với thu nhập từ hoạt động kinh doanh sẽ được áp dụng (Điều 7: Lợi tức doanh nghiệp, Hiệp định giữa Việt Nam và Pháp).

3. Tiền lãi cổ phần do công ty là đối tượng cư trú của Việt Nam trả cho một cơ sở thường trú của một công ty khác của Việt Nam đặt tại Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam.

Ví dụ 26: Ngân hàng V của Việt Nam có một chi nhánh VC tại nước L là Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam. Theo luật của nước L, chi nhánh VC được coi là một cơ sở thường trú của ngân hàng V tại nước đó. Chi nhánh VC mua cổ phần của một công ty tại Việt Nam và được chia lãi cổ phần. Trong trường hợp này, các quy định về thuế đối với tiền lãi cổ phần tại Hiệp định giữa Việt Nam và L sẽ không được áp dụng.

Các quy định về thuế đối với thu nhập từ tiền lãi cổ phần như trên được nêu tại Điều khoản Tiền lãi cổ phần (thường là Điều 10) của Hiệp định.

Mục 5. THU NHẬP TỪ LÃI TIỀN CHO VAY

Điều 18. Định nghĩa lãi từ tiền cho vay

Theo quy định tại Hiệp định, “lãi từ tiền cho vay” là thu nhập từ các khoản cho vay dưới bất kỳ hình thức nào, có hoặc không được đảm bảo bằng thế chấp và có hoặc không có quyền được hưởng lợi tức của người đi vay, bao gồm cả khoản thu nhập từ chứng khoán của Chính phủ và thu nhập từ trái phiếu hoặc trái phiếu thông thường, bao gồm cả tiền thưởng và giải thưởng đi liền với các chứng khoán, trái phiếu hoặc trái phiếu thông thường đó.

Điều 19. Xác định nghĩa vụ thuế đối với thu nhập từ lãi tiền cho vay

1. Theo quy định tại Hiệp định, Việt Nam có quyền thu thuế đối với lãi từ tiền cho vay phát sinh tại Việt Nam trả cho một đối tượng cư trú của Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam theo một thuế suất giới hạn (thường không quá 10%) tùy theo từng Hiệp định, với điều kiện đối tượng nhận là đối tượng thực hưởng.

Lãi từ tiền cho vay phát sinh tại Việt Nam là các khoản lãi từ tiền cho vay do bất cứ một đối tượng cư trú nào của Việt Nam chịu và phải trả, kể cả các khoản lãi được chịu và phải trả bởi Chính phủ Việt Nam và các cơ quan chính quyền địa phương Việt Nam hoặc các cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định của một đối tượng cư trú nước ngoài có tại Việt Nam.

Ví dụ 27: Chi nhánh ngân hàng QT là chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam của ngân hàng Q của Thái Lan chi trả cho ngân hàng Q một khoản lãi tiền cho vay. Do chi nhánh QT là một cơ sở thường trú của ngân hàng Q tại Việt Nam, nên theo quy định của Hiệp định giữa Việt Nam và Thái Lan, khoản tiền lãi này coi như phát sinh tại Việt Nam và phải chịu thuế tại Việt Nam với mức thuế suất 10% (Khoản 2.a, Điều 11: Lãi từ tiền cho vay). Tuy nhiên, do mức thuế suất đối với thu nhập từ lãi tiền cho vay hiện nay của Việt Nam trong trường hợp này là 5% nên khoản tiền lãi này chỉ chịu thuế tại Việt Nam với mức thuế suất 5%.

2. Trường hợp một đối tượng cư trú của Việt Nam nhận được lãi từ tiền cho vay phát sinh tại Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam thì Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam có quyền đánh thuế tại nguồn thu nhập đó theo quy định tại Khoản 1 nêu trên và Việt Nam cũng có quyền thu thuế đối với thu nhập này theo quy định tại pháp luật hiện hành về thuế ở Việt Nam, nhưng đồng thời Việt Nam phải thực hiện các biện pháp tránh đánh thuế hai lần đối với khoản thu nhập này (quy định tại Chương III. Biện pháp tránh đánh thuế hai lần tại Việt Nam của Thông tư này).

3. Trường hợp pháp luật hiện hành về thuế ở Việt Nam không quy định việc thu thuế thu nhập đối với loại thu nhập này hoặc thu thuế với một mức thuế suất thấp hơn quy định tại Hiệp định thì đối tượng có thu nhập sẽ thực hiện nghĩa vụ thuế theo các quy định tại pháp luật hiện hành về thuế ở Việt Nam.

Ví dụ 28: Cũng với Ví dụ 27 như trên, nhưng giả sử khoản lãi từ tiền cho vay được chi trả cho một đối tượng cư trú là cá nhân ở Thái Lan. Mặc dù theo Hiệp định giữa Việt Nam và Thái Lan (Khoản 2.b, Điều 11: Lãi từ tiền cho vay), Việt Nam có quyền thu thuế đối với khoản tiền lãi này với thuế suất 15%. Nhưng theo quy định của Luật thuế thu nhập cá nhân của Việt Nam, mức thuế suất áp dụng là 5%. Do đó, Việt Nam chỉ thu thuế với mức thuế suất 5% thay vì 15%.

Điều 20. Xác định đối tượng thực hưởng Hiệp định đối với thu nhập từ lãi tiền cho vay

Theo quy định tại Hiệp định, các quy định về thuế đối với thu nhập từ lãi tiền cho vay chỉ áp dụng đối với các đối tượng trực tiếp cho vay, trực tiếp nhận lãi từ tiền cho vay và đồng thời là đối tượng thực hưởng các khoản lãi từ tiền cho vay đó - nghĩa là người cho vay.

Ví dụ 29: Một công ty Việt Nam ký hợp đồng vay vốn với Ngân hàng H của Hàn Quốc. Theo quy định của hợp đồng, công ty Việt Nam nhận được vốn vay từ và trả cả vốn và lãi tiền vay cho Ngân hàng H vào một tài khoản của Ngân hàng H mở tại Ngân hàng C ở nước C. Trong trường hợp này, người thực hưởng tiền lãi là Ngân hàng H của Hàn Quốc bất kể nước C có Hiệp định tránh đánh thuế hai lần với Việt Nam hay không.

Ví dụ 30: Công ty A cư trú tại Việt Nam ký Hợp đồng vay vốn với Ngân hàng C ở nước X, Ngân hàng D ở nước Y và Ngân hàng E ở nước Z và vốn vay được chuyển trực tiếp từ tài khoản của các ngân hàng này cho Công ty A. Trong đó, nước X và Y có ký Hiệp định tránh đánh thuế hai lần với Việt Nam. Công ty A có thể trả lãi vay theo các cách như sau: (i) Công ty A chuyển trả lãi tiền vay trực tiếp cho từng Ngân hàng C, D và E tương ứng với tỷ lệ góp vốn; hoặc (ii) Công ty A chuyển trả toàn bộ lãi tiền vay cho Ngân hàng C, sau đó việc chia lại lãi do thỏa thuận của các bên cho vay (Ngân hàng C, D và E). Trong trường hợp này, khoản trả lãi tiền vay cho khoản vay hợp vốn của Ngân hàng C và D của trường hợp (i) và Ngân hàng C của trường hợp (ii) sẽ được áp dụng Hiệp định.

Ví dụ 31: Giả sử với Ví dụ 30 nêu trên, Công ty A trả lãi vay theo cách thức thứ (iii) như sau: Công ty A chuyển trả toàn bộ lãi tiền vay cho ngân hàng E, sau đó việc chia lại lãi do thỏa thuận của các bên cho vay (Ngân hàng C, D và E). Trong trường hợp này, các Ngân hàng C, D và E không thuộc diện được áp dụng Hiệp định.

Ngoài một số trường hợp không được hưởng lợi Hiệp định theo quy định tại Điều 6. Một số trường hợp từ chối áp dụng Hiệp định trên cơ sở nguyên tắc hưởng lợi Hiệp định, các mức thuế suất giảm hoặc việc miễn thuế đối với thu nhập từ lãi tiền cho vay quy định tại Hiệp định sẽ không áp dụng đối với:

1. Đối tượng nhận khoản thanh toán lãi từ tiền cho vay nhưng không phải là người cho vay.

Ví dụ 32: Một công ty Việt Nam trả lãi tiền vay cho ngân hàng C của Thái Lan. Theo yêu cầu của ngân hàng này, số lãi tiền vay này được chuyển cho ngân hàng P của Pháp có trụ sở chính tại Pa-ri. Trong trường hợp này, người thực hưởng tiền lãi là ngân hàng C của Thái Lan, không phải ngân hàng P của Pháp. Do đó, ngân hàng P không có quyền yêu cầu áp dụng các quy định tại Hiệp định giữa Việt Nam và Pháp đối với khoản lãi từ tiền cho vay này.

2. Lãi từ tiền cho vay phát sinh tại Việt Nam trả cho một cơ sở thường trú đặt tại Việt Nam của một đối tượng cư trú của Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam.

Ví dụ 33: Một công ty Việt Nam trả lãi tiền vay cho Chi nhánh ngân hàng nước ngoài V tại Việt Nam của ngân hàng nước ngoài C là đối tượng cư trú của Thái Lan. Trong trường hợp này, khoản lãi từ tiền cho vay nhận được bởi Chi nhánh ngân hàng nước ngoài V được coi như thu nhập kinh doanh thông thường (không phải thu nhập từ lãi tiền cho vay) của Chi nhánh ngân hàng nước ngoài V tại Việt Nam theo quy định của Hiệp định giữa Việt Nam và Thái Lan.

3. Lãi từ tiền cho vay phát sinh tại Việt Nam trả cho một cơ sở thường trú của một công ty khác của Việt Nam đặt tại Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam.

Ví dụ 34: Ngân hàng V của Việt Nam có một chi nhánh VC tại nước L là Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam. Theo luật của nước L, chi nhánh VC được coi là một cơ sở thường trú của Ngân hàng V tại nước đó. Chi nhánh VC cho một công ty tại Việt Nam vay tiền và nhận được khoản lãi từ tiền cho vay. Trong trường hợp này, các quy định về thuế đối với lãi từ tiền cho vay tại Hiệp định giữa Việt Nam và L sẽ không được áp dụng.

4. Lãi từ tiền cho vay phát sinh tại Việt Nam trả cho một cơ sở thường trú của một doanh nghiệp của nước thứ ba có tại Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam.

Ví dụ 35: Một công ty Việt Nam trả lãi tiền vay cho Chi nhánh ngân hàng N tại nước N của ngân hàng C là đối tượng cư trú của Thái Lan. Trong trường hợp này, khoản lãi tiền vay nhận được bởi Chi nhánh ngân hàng N không được áp dụng các quy định của Hiệp định giữa Việt Nam và Thái Lan.

5. Tiền cho vay không được chuyển trực tiếp từ tài khoản của bên cho vay là đối tượng cư trú của Nước ký Hiệp định với Việt Nam.

Ví dụ 36: Giả sử với Ví dụ 30 nêu trên, toàn bộ số tiền cho vay theo Hợp đồng được chuyển cho Công ty A từ tài khoản của Ngân hàng E; khi đó, khoản lãi tiền vay phát sinh trên số tiền cho vay này sẽ không thuộc diện áp dụng Hiệp định.

Các quy định về thuế đối với thu nhập từ lãi từ tiền cho vay như trên được nêu tại Điều khoản Lãi từ tiền cho vay (thường là Điều 11) của Hiệp định.

Mục 6. THU NHẬP TỪ TIỀN BẢN QUYỀN

Điều 21. Định nghĩa tiền bản quyền

Theo quy định tại Hiệp định, tiền bản quyền là các khoản tiền trả cho việc sử dụng hoặc có quyền sử dụng:

1. Bản quyền tác phẩm văn học, nghệ thuật hoặc khoa học, kể cả các loại phim điện ảnh và các loại băng hoặc đĩa sử dụng trong phát thanh hoặc truyền hình;

2. Bằng phát minh, sáng chế;

3. Nhãn hiệu thương mại;

4. Thiết kế, mẫu, đồ án, công thức hoặc quy trình bí mật;

5. Phần mềm máy tính;

6. Thiết bị công nghiệp, thương mại và khoa học;

7. Thông tin liên quan đến kinh nghiệm công nghiệp, khoa học và thương mại.

Điều 22. Xác định nghĩa vụ thuế đối với thu nhập từ tiền bản quyền

1. Theo quy định tại Hiệp định, Việt Nam có quyền thu thuế đối với tiền bản quyền phát sinh tại Việt Nam trả cho một đối tượng cư trú của Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam theo thuế suất giới hạn (thường không quá 10%) tùy theo từng Hiệp định, với điều kiện đối tượng nhận là đối tượng thực hưởng.

Tiền bản quyền phát sinh tại Việt Nam là các khoản tiền bản quyền do bất kỳ một đối tượng cư trú nào của Việt Nam chịu và phải trả, kể cả các khoản tiền bản quyền được chịu và phải trả bởi Chính phủ và các cơ quan chính quyền địa phương Việt Nam hoặc các cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định mà một đối tượng cư trú nước ngoài có tại Việt Nam.

2. Trường hợp một đối tượng cư trú của Việt Nam nhận được tiền bản quyền phát sinh tại Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam thì Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam có quyền đánh thuế thu nhập theo như quy định tại Khoản 1 nêu trên, Việt Nam có quyền thu thuế đối với thu nhập này theo quy định tại pháp luật hiện hành về thuế ở Việt Nam; nhưng đồng thời Việt Nam phải thực hiện các biện pháp tránh đánh thuế hai lần đối với khoản thu nhập này (quy định tại Chương III. Biện pháp tránh đánh thuế hai lần tại Việt Nam của Thông tư này).

Ví dụ 37: Một liên doanh pha chế dầu nhờn tại Việt Nam ký kết hợp đồng với một công ty của Hàn Quốc trong đó quy định công ty này chuyển giao cho liên doanh Việt Nam công thức pha dầu nhờn của công ty Hàn Quốc trong vòng 20 năm. Khi liên doanh Việt Nam trả tiền bản quyền cho công ty Hàn Quốc, theo quy định của pháp luật hiện hành về thuế ở Việt Nam, liên doanh phải khấu trừ thuế trên tiền bản quyền là 10% tổng số tiền bản quyền để nộp ngân sách. Tuy nhiên, căn cứ Hiệp định giữa Việt Nam và Hàn Quốc (Khoản 2.a, Điều 12: Tiền bản quyền), liên doanh chỉ phải khấu trừ theo mức 5% thay vì 10%.

3. Trường hợp pháp luật hiện hành về thuế ở Việt Nam không quy định thu thuế thu nhập đối với loại thu nhập này hoặc thu thuế với một mức thuế suất thấp hơn quy định tại Hiệp định thì đối tượng có thu nhập sẽ thực hiện nghĩa vụ thuế theo các quy định tại pháp luật hiện hành về thuế ở Việt Nam.

Ví dụ 38: Giả sử với Ví dụ 37 nêu trên, công ty Hàn Quốc góp vốn vào công ty liên doanh tại Việt Nam bằng quyền sử dụng công thức pha chế dầu nhờn trong vòng 20 năm. Theo Hiệp định giữa Việt Nam và Hàn Quốc (Khoản 2.a, Điều 12: Tiền bản quyền), Việt Nam có quyền thu thuế bản quyền đối với công ty Hàn Quốc do việc chuyển quyền sử dụng công thức pha chế dầu nhờn thành vốn tiền tệ với mức thuế suất 5%. Tuy nhiên, theo quy định của Luật pháp Việt Nam, nếu việc góp vốn bằng chuyển giao công nghệ được miễn thuế thu nhập thì công ty Hàn Quốc được miễn thuế.

Điều 23. Xác định đối tượng thực hưởng Hiệp định đối với thu nhập từ tiền bản quyền

Theo quy định tại Hiệp định, các quy định về thuế đối với tiền bản quyền chỉ áp dụng đối với các đối tượng trực tiếp nhận và đồng thời là đối tượng thực hưởng thu nhập bản quyền - nghĩa là người có quyền sở hữu, sử dụng và khai thác bản quyền. Do đó, sẽ không áp dụng đối với:

1. Đối tượng nhận khoản thanh toán tiền bản quyền nhưng không phải là đối tượng có quyền sở hữu, quyền sử dụng và quyền khai thác bản quyền; hoặc

2. Tiền bản quyền phát sinh tại Việt Nam liên quan trực tiếp đến một cơ sở thường trú đặt tại Việt Nam của đối tượng thực hưởng là một đối tượng cư trú của Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam; hoặc

3. Tiền bản quyền phát sinh tại Việt Nam trả cho một cơ sở thường trú của một công ty khác của Việt Nam đặt tại Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam.

Ví dụ 39: Một chi nhánh của công ty thuốc lá Anh tại Việt Nam cho phép một công ty Việt Nam sử dụng công thức và nhãn hiệu thương mại của công ty thuốc lá Anh trong các sản phẩm của công ty Việt Nam với điều kiện chi nhánh kiểm tra và giám sát quá trình sử dụng. Trong trường hợp này, tiền bản quyền từ việc sử dụng công thức và nhãn hiệu thương mại của công ty thuốc lá Anh liên quan trực tiếp đến chi nhánh. Do chi nhánh là cơ sở thường trú tại Việt Nam của công ty thuốc lá Anh, nên theo quy định tại Hiệp định giữa Việt Nam và Anh (Khoản 4, Điều 12: Tiền bản quyền), Việt Nam có quyền thu thuế đối với thu nhập này như đối với thu nhập từ hoạt động kinh doanh (Điều 7: Lợi tức doanh nghiệp của Hiệp định giữa Việt Nam và Anh).

Các quy định về thuế đối với thu nhập từ tiền bản quyền như trên được nêu tại Điều khoản Tiền bản quyền (thường là Điều 12) của Hiệp định.

Mục 7. THU NHẬP TỪ CUNG CẤP DỊCH VỤ KỸ THUẬT

Điều 24. Định nghĩa phí dịch vụ kỹ thuật

Theo quy định tại Hiệp định, phí dịch vụ kỹ thuật là các khoản thanh toán ở bất kỳ hình thức nào trả cho bất kỳ đối tượng nào, không phải là người làm công cho đối tượng trả tiền, đối với bất kỳ các dịch vụ nào mang tính chất kỹ thuật, quản lý hoặc tư vấn.

Điều 25. Xác định nghĩa vụ thuế đối với thu nhập từ dịch vụ kỹ thuật

1. Theo quy định tại Hiệp định, Việt Nam có quyền thu thuế đối với phí dịch vụ kỹ thuật phát sinh tại Việt Nam trả cho một đối tượng cư trú của nước ký kết Hiệp định với Việt Nam theo thuế suất giới hạn (thường không quá 10%) tùy theo từng Hiệp định, với điều kiện đối tượng nhận là đối tượng thực hưởng.

Phí dịch vụ kỹ thuật phát sinh tại Việt Nam là các khoản thanh toán dưới bất kỳ dạng nào do một đối tượng cư trú của Việt Nam chịu và phải trả, kể cả các khoản phí dịch vụ kỹ thuật được chịu và phải trả bởi Chính phủ và các cơ quan chính quyền địa phương Việt Nam hoặc các cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định mà một đối tượng cư trú nước ngoài có tại Việt Nam.

Ví dụ 40: Công ty X là đối tượng cư trú tại Việt Nam chuyên sản xuất hoa quả đóng hộp. Để mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa sang Châu Âu, Công ty X đã thuê Công ty M tại Đức tư vấn pháp lý về thủ tục mở chi nhánh hoặc tìm đại lý tiêu thụ sản phẩm. Dịch vụ tư vấn này được thực hiện tại Đức và Công ty M không có cơ sở thường trú tại Việt Nam.

Trong trường hợp này, khi trả tiền phí dịch vụ cho Công ty M, Công ty X có nghĩa vụ khấu trừ thuế thu nhập doanh nghiệp với thuế suất không quá 7,5% theo Hiệp định giữa Việt Nam và Đức (Khoản 1.b, Điều 12: Tiền bản quyền và phí dịch vụ kỹ thuật).

2. Trường hợp một đối tượng cư trú của Việt Nam nhận được phí dịch vụ kỹ thuật phát sinh tại Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam thì Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam có quyền đánh thuế thu nhập theo như quy định tại Khoản 1 nêu trên, Việt Nam có quyền thu thuế đối với thu nhập này theo quy định tại pháp luật hiện hành về thuế ở Việt Nam; nhưng đồng thời Việt Nam phải thực hiện các biện pháp tránh đánh thuế hai lần đối với khoản thu nhập này (quy định tại Chương III. Biện pháp tránh đánh thuế hai lần tại Việt Nam của Thông tư này).

Các quy định về thuế đối với thu nhập là phí dịch vụ kỹ thuật như trên được nêu tại Điều khoản Phí dịch vụ kỹ thuật (thường là Điều 13) của Hiệp định.

Mục 8. THU NHẬP TỪ CHUYỂN NHƯỢNG TÀI SẢN

Điều 26. Định nghĩa thu nhập từ chuyển nhượng tài sản

Thu nhập từ chuyển nhượng tài sản là thu nhập dưới mọi hình thức từ việc bán, chuyển nhượng (toàn bộ hoặc một phần) hoặc trao đổi tài sản và quyền đối với tài sản; kể cả trường hợp đưa tài sản vào một cơ sở kinh doanh để đổi lấy các quyền tại cơ sở kinh doanh đó.

Điều 27. Xác định nghĩa vụ thuế đối với thu nhập từ chuyển nhượng tài sản

1. Nghĩa vụ thuế đối với thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản tại Việt Nam

Theo quy định tại Hiệp định, Việt Nam có quyền thu thuế thu nhập theo quy định của pháp luật hiện hành về thuế ở Việt Nam đối với thu nhập từ việc chuyển nhượng bất động sản tại Việt Nam của một đối tượng cư trú của Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam.

Ví dụ 41: Hãng khai thác dầu mỏ của Pháp chuyển nhượng quyền khai thác dầu mỏ tại một địa điểm trên vùng biển Việt Nam, thu nhập nhận được sẽ phải nộp thuế thu nhập theo quy định tại pháp luật của Việt Nam.

2. Nghĩa vụ thuế đối với thu nhập từ chuyển nhượng động sản là tài sản kinh doanh của một cơ sở thường trú tại Việt Nam

Theo quy định tại Hiệp định, Việt Nam có quyền thu thuế thu nhập theo quy định của pháp luật hiện hành về thuế ở Việt Nam đối với thu nhập từ việc chuyển nhượng tài sản kinh doanh của cơ sở thường trú hoặc chuyển nhượng cơ sở thường trú tại Việt Nam của một đối tượng cư trú của Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam.

Ví dụ 42: Chi nhánh ngân hàng C của nước P (là nước đã ký Hiệp định với Việt Nam) hoạt động tại Hà Nội. Năm 2010, chi nhánh ngừng hoạt động và bán toàn bộ thiết bị và tài sản đã sử dụng cho mục đích kinh doanh của chi nhánh. Thu nhập thu được từ việc chuyển nhượng trên sẽ phải kê khai nộp thuế (sau khi trừ đi giá trị còn lại của thiết bị và tài sản) theo thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành tại Việt Nam (25%).

3. Nghĩa vụ thuế đối với thu nhập từ chuyển nhượng tàu thuỷ, thuyền, máy bay hoạt động trong vận tải quốc tế

Theo quy định tại Hiệp định, thu nhập từ chuyển nhượng tàu thuỷ, thuyền, máy bay hoạt động trong vận tải quốc tế (theo định nghĩa tại Điều 12. Định nghĩa vận tải quốc tế của Thông tư này) do doanh nghiệp vận tải quốc tế của Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam điều hành không phải nộp thuế tại Việt Nam.

4. Nghĩa vụ thuế đối với thu nhập từ chuyển nhượng vốn của các nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, trong một tín thác hoặc một hợp danh mà giá trị bất động sản chiếm tỷ lệ chủ yếu trong tổng số vốn của doanh nghiệp

Trong phần lớn các Hiệp định giữa Việt Nam với các nước đều có quy định theo đó, Việt Nam có quyền thu thuế thu nhập trong trường hợp bên nước ngoài chuyển nhượng vốn trong các doanh nghiệp, các tín thác hoặc các hợp danh là đối tượng cư trú của Việt Nam mà giá trị bất động sản chiếm tỷ lệ chủ yếu trong tổng số tài sản của doanh nghiệp.

Tỷ lệ giá trị bất động sản trong tổng số tài sản của doanh nghiệp là số bình quân đơn giản của các tỷ lệ giá trị bất động sản trong tổng số tài sản của doanh nghiệp tại thời điểm chuyển nhượng tài sản, thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc năm tính thuế ngay trước năm trong đó tài sản được chuyển nhượng. Việc xác định giá trị bất động sản được căn cứ vào bảng tổng kết tài sản đã được kiểm toán của doanh nghiệp tại các thời điểm nêu trên.

Tỷ lệ chủ yếu của giá trị bất động sản trong tổng số tài sản của doanh nghiệp được xác định như sau:

- Trường hợp tại Hiệp định có quy định cụ thể về tỷ lệ hoặc về tỷ lệ chủ yếu thì theo tỷ lệ quy định tại Hiệp định, như tại Khoản 4, Điều 13, Hiệp định giữa Việt Nam và Tây Ban Nha quy định tỷ lệ là trên 50%, hoặc tại Khoản 4, Điều 14, Hiệp định giữa Việt Nam và Ô-man và tại Khoản 4, Điều 13, Hiệp định giữa Việt Nam và Các tiểu Vương quốc A-rập Thống nhất quy định tỷ lệ chủ yếu là trên 50%.

- Trường hợp tại Hiệp định không quy định cụ thể về tỷ lệ hoặc về tỷ lệ chủ yếu thì tính chủ yếu được xác định là trên 50%.

Ví dụ 43: Vào ngày 30/3/2012, một nhà đầu tư là đối tượng cư trú In-đô-nê-xi-a chuyển nhượng phần vốn của mình trong một doanh nghiệp V tại Việt Nam. Tỷ lệ giá trị bất động sản trong tổng số tài sản của doanh nghiệp V tại các thời điểm ngày 30/3/2012, ngày 01/01/2011 và ngày 31/12/2011 lần lượt là 60%, 40% và 53%. Việc xác định tỷ lệ chủ yếu của giá trị bất động sản trong tổng số tài sản của doanh nghiệp V cho mục đích xác định nghĩa vụ thuế của nhà đầu tư In-đô-nê-xi-a như sau:

Khoản 4, Điều 13: Lợi tức từ chuyển nhượng tài sản, Hiệp định giữa Việt Nam và In-đô-nê-xi-a quy định:

“4. Lợi tức do một đối tượng cư trú của một Nước ký kết thu được từ việc chuyển nhượng cổ phần hay các quyền lợi tương ứng tại một công ty có tài sản bao gồm toàn bộ hay chủ yếu là bất động sản nằm tại Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế tại Nước kia.”

Quy định trên không quy định tỷ lệ cụ thể của giá trị bất động sản trong tài sản của công ty nên tỷ lệ trên 50% sẽ được coi là chủ yếu.

Số bình quân đơn giản của các tỷ lệ giá trị bất động sản trong tổng số tài sản của doanh nghiệp được xác định như sau:

(60% + 40% + 53%) / 3 = 51%.

Như vậy, trong ví dụ này, giá trị bất động sản đã chiếm chủ yếu trong số tài sản của Công ty V.

5. Nghĩa vụ thuế đối với thu nhập từ chuyển nhượng cổ phần trong một công ty tại Việt Nam

Tại một số Hiệp định quy định thu nhập từ chuyển nhượng cổ phần của một đối tượng cư trú của Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam trong một công ty là đối tượng cư trú của Việt Nam phải chịu thuế tại Việt Nam.

Ví dụ 44: Khoản 5, Điều 13: Lợi tức từ chuyển nhượng tài sản, Hiệp định giữa Việt Nam và In-đô-nê-xi-a quy định:

“Lợi tức từ việc chuyển nhượng cổ phần tại một công ty là đối tượng cư trú của một Nước ký kết không phải là cổ phần được đề cập tại khoản 4 có thể bị đánh thuế tại Nước đó.”

Theo quy định trên, nếu một đối tượng cư trú của In-đô-nê-xi-a có thu nhập từ chuyển nhượng cổ phần trong một công ty là đối tượng cư trú của Việt Nam thì thu nhập đó sẽ chịu thuế tại Việt Nam.

6. Nghĩa vụ thuế đối với thu nhập từ chuyển nhượng tài sản khác tại Việt Nam

Theo quy định tại Hiệp định, thu nhập từ chuyển nhượng các loại tài sản khác với các loại tài sản nêu tại Khoản 1 đến Khoản 5 nêu trên tại Việt Nam của một đối tượng cư trú của Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam không phải nộp thuế thu nhập tại Việt Nam.

Ví dụ 45: Một công ty xây dựng của Trung Quốc đưa máy móc sang Việt Nam thi công một công trình xây dựng trong vòng 3 tháng. Sau thời gian thi công, công ty này về nước và bán lại số máy móc nêu trên tại Việt Nam. Theo quy định của Hiệp định giữa Việt Nam và Trung Quốc, công ty này không có cơ sở thường trú tại Việt Nam (Khoản 3.a, Điều 5: Cơ sở thường trú), do đó không phải nộp thuế tại Việt Nam (Khoản 6, Điều 13: Lợi tức từ chuyển nhượng tài sản).

Các quy định về thuế đối với thu nhập từ chuyển nhượng tài sản như trên được nêu tại Điều khoản Thu nhập từ chuyển nhượng tài sản (thường là Điều 13) của Hiệp định.

Mục 9. THU NHẬP TỪ HOẠT ĐỘNG DỊCH VỤ CÁ NHÂN ĐỘC LẬP

Điều 28. Định nghĩa thu nhập từ hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập

Theo quy định tại Hiệp định, thu nhập từ hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập là thu nhập do một cá nhân là đối tượng cư trú của Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam thu được từ hoạt động độc lập để cung ứng các dịch vụ ngành nghề như dịch vụ khoa học, văn học, nghệ thuật, giáo dục hoặc giảng dạy, cụ thể là hoạt động hành nghề độc lập của các bác sĩ, luật sư, kỹ sư, kiến trúc sư, nha sĩ, kế toán và kiểm toán viên.

Thu nhập từ hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập không bao gồm hoạt động làm thuê (được quy định tại các Điều khoản thu nhập từ Hoạt động cá nhân phụ thuộc), tiền thù lao giám đốc (được quy định tại Điều khoản Thù lao giám đốc), tiền lương hưu (được quy định tại Điều khoản Tiền lương hưu), phục vụ nhà nước (được quy định tại Điều khoản thu nhập từ Phục vụ Chính phủ), thu nhập của học sinh, sinh viên (được quy định tại Điều khoản thu nhập của Sinh viên), giáo viên và giáo sư (được quy định tại Điều khoản thu nhập của Giáo sư, giáo viên và nhà nghiên cứu) và hoạt động trình diễn độc lập của các nghệ sĩ và vận động viên (được quy định tại Điều khoản thu nhập của Nghệ sĩ và vận động viên).

Điều 29. Xác định nghĩa vụ thuế đối với thu nhập từ hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập

Theo quy định tại Hiệp định, một đối tượng cư trú của Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam tiến hành cung cấp dịch vụ cá nhân độc lập tại Việt Nam sẽ phải nộp thuế thu nhập cá nhân tại Việt Nam trong các trường hợp sau đây:

1. Cá nhân đó hành nghề độc lập thông qua một cơ sở cố định.

Thuật ngữ “cơ sở cố định” dùng để chỉ một địa điểm hoặc địa chỉ có tính chất thường xuyên hoặc ổn định trong phạm vi lãnh thổ quốc gia mà qua đó một cá nhân thực hiện việc cung cấp dịch vụ ngành nghề (ví dụ như phòng tư vấn khám bệnh, văn phòng kiến trúc sư hay luật sư, ...). Nguyên tắc xác định “cơ sở cố định” tương tự như nguyên tắc xác định “cơ sở thường trú” của doanh nghiệp nêu tại Điểm 1.2, Điều 11, Thông tư này.

2. Cá nhân đó hiện diện tại Việt Nam từ 183 ngày trở lên trong năm tính thuế hoặc trong vòng 12 tháng kể từ ngày đến Việt Nam, tùy theo từng Hiệp định.

3. Cá nhân đó thu được một tổng số thu nhập nhất định, tùy theo từng Hiệp định, từ việc thực hiện ngành nghề độc lập tại Việt Nam trong khoảng thời gian nhất định (thông thường là trong một năm tài chính).

Ví dụ 46: Trong năm 2012, một bác sỹ là đối tượng cư trú của Băng-la-đét đã tiến hành một ca mổ tại một bệnh viện quốc tế tại Việt Nam và nhận được khoản thù lao là 50.000.000 đồng. Thời gian bác sỹ hiện diện tại Việt Nam để tiến hành ca mổ là 5 ngày. Theo quy định của Hiệp định giữa Việt Nam và Băng-la-đét (Khoản 1c, Điều 15: Hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập), do thu nhập của bác sỹ là 50.000.000 đồng (vượt quá 1.500 đô la Mỹ) nên bác sỹ này có nghĩa vụ nộp thuế thu nhập cá nhân tại Việt Nam.

Các quy định về thuế đối với thu nhập từ hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập như trên được nêu tại Điều khoản Hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập (thường là Điều 14) của Hiệp định.

Mục 10. THU NHẬP TỪ HOẠT ĐỘNG DỊCH VỤ CÁ NHÂN PHỤ THUỘC

Điều 30. Định nghĩa thu nhập từ dịch vụ cá nhân phụ thuộc

Theo quy định tại Hiệp định, thu nhập từ hoạt động dịch vụ cá nhân phụ thuộc là thu nhập dưới hình thức tiền công do một cá nhân là đối tượng cư trú của Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam thu được từ hoạt động làm công tại Việt Nam và ngược lại. Thu nhập từ hoạt động dịch vụ cá nhân phụ thuộc không bao gồm thu nhập của các cá nhân với tư cách cá nhân hành nghề độc lập (được quy định tại Điều khoản Dịch vụ ngành nghề độc lập), thành viên ban giám đốc doanh nghiệp (được quy định tại Điều khoản Thù lao giám đốc), nghệ sĩ, vận động viên (được quy định tại Điều khoản thu nhập của Nghệ sĩ và vận động viên), nhân viên phục vụ cho Chính phủ nước ngoài (được quy định tại Điều khoản thu nhập từ Phục vụ Chính phủ), và tiền công dưới hình thức tiền lương hưu (được quy định tại Điều khoản Tiền lương hưu).

Điều 31. Xác định nghĩa vụ thuế đối với thu nhập từ dịch vụ cá nhân phụ thuộc

1. Theo quy định tại Hiệp định, một cá nhân là đối tượng cư trú của Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam có thu nhập từ hoạt động làm công tại Việt Nam sẽ phải nộp thuế thu nhập đối với khoản thu nhập làm công đó tại Việt Nam theo các quy định hiện hành về thuế thu nhập cá nhân của Việt Nam.

Ví dụ 47: Trong năm 2012, ông A là đối tượng cư trú của nước Pháp làm việc cho chi nhánh ngân hàng F là chi nhánh nước ngoài của một ngân hàng Pháp tại Việt Nam trong vòng 2 tháng. Toàn bộ tiền lương và thu nhập khác của ông A do chi nhánh F thanh toán. Trong năm trước và sau đó, ông A không hiện diện tại Việt Nam. Trong trường hợp này, ông A có nghĩa vụ nộp thuế thu nhập cá nhân đối với khoản thu nhập nhận được từ thời gian làm việc tại Việt Nam theo các quy định hiện hành về thuế thu nhập cá nhân tại Việt Nam.

2. Nếu cá nhân nêu tại Khoản 1 đồng thời thỏa mãn cả 3 điều kiện sau đây, tiền công thu được từ công việc thực hiện tại Việt Nam sẽ được miễn thuế thu nhập tại Việt Nam:

a) Cá nhân đó có mặt tại Việt Nam dưới 183 ngày trong giai đoạn 12 tháng bắt đầu hoặc kết thúc trong năm tính thuế; và

b) Chủ lao động không phải là đối tượng cư trú của Việt Nam bất kể tiền công đó được trả trực tiếp bởi chủ lao động hoặc thông qua một đối tượng đại diện cho chủ lao động; và

c) Tiền công đó không do một cơ sở thường trú mà chủ lao động có tại Việt Nam chịu và phải trả.

Ví dụ 48: Công ty N của Nhật Bản tham gia thành lập liên doanh S chuyên phân phối hàng hóa tại Việt Nam. Trong năm 2012, Công ty N cử ông Z sang Việt Nam với tư cách đại diện công ty để đàm phán hợp đồng về việc Công ty N cung cấp “bí quyết” bán hàng cho liên doanh S trong thời gian một tháng. Trong năm trước và sau đó ông Z không hiện diện tại Việt Nam. Toàn bộ thu nhập và chi phí của ông Z trong thời gian làm việc tại Việt Nam do Công ty N chi trả. Trong trường hợp này, ông Z đã đồng thời thỏa mãn cả 3 điều kiện nêu tại Khoản 2 nêu trên nên được miễn thuế thu nhập cá nhân tại Việt Nam.

3. Khái niệm “chủ lao động” nêu tại Điểm 2.b) dùng để chỉ đối tượng sử dụng lao động thực sự. Thông thường, một đối tượng được coi là chủ lao động thực sự nếu có các quyền và nghĩa vụ sau:

a) Đối tượng đó có quyền đối với sản phẩm và dịch vụ do người lao động tạo ra và chịu trách nhiệm cũng như rủi ro đối với lao động đó;

b) Đối tượng đó đưa ra hướng dẫn và cung cấp phương tiện lao động cho người lao động;

c) Đối tượng đó có quyền kiểm soát và chịu trách nhiệm về địa điểm lao động.

Ví dụ 49: Cũng với Ví dụ 48 nêu trên, trong năm 2013, ông Z sang Việt Nam với tư cách là chuyên gia của liên doanh S để hướng dẫn áp dụng “bí quyết” trong giai đoạn 3 tháng. Trong năm trước và sau đó, ông Z không hiện diện tại Việt Nam. Với tinh thần trợ giúp cho liên doanh S, toàn bộ thu nhập và chi phí của ông Z trong thời gian làm việc tại Việt Nam do Công ty N chi trả. Trong trường hợp này, về hình thức, ông Z đã đồng thời thỏa mãn cả 3 điều kiện của Khoản 2 nêu trên, nhưng về bản chất, đối với các tiêu thức về chủ lao động thực sự thì chủ lao động thực sự của ông Z trong thời gian làm việc tại Việt Nam là liên doanh S, không phải Công ty N. Do đó, ông Z không được miễn thuế thu nhập cá nhân tại Việt Nam.

4. Trường hợp người Việt Nam là đối tượng cư trú của Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam không có thu nhập từ hoạt động làm công tại Việt Nam mà chỉ có thu nhập từ hoạt động làm công tại nước ngoài sẽ không phải nộp thuế thu nhập tại Việt Nam đối với khoản tiền công đó.

Ví dụ 50: Trong năm 2011, Công ty xây dựng V của Việt Nam đã cử các công nhân sang Lào làm việc tại một công trình của Công ty tại Lào trong toàn bộ thời gian 12 tháng. Thu nhập từ tiền lương của số công nhân này do các công việc tại Lào sẽ không phải chịu thuế tại Việt Nam.

5. Cá nhân là người làm công trên các tàu thủy, thuyền, máy bay (thủy thủ đoàn, phi hành đoàn) trong hoạt động vận tải quốc tế của doanh nghiệp là đối tượng cư trú hoặc có trụ sở điều hành thực tế tại Việt Nam sẽ phải nộp thuế thu nhập tại Việt Nam.

Ví dụ 51: Công ty S là doanh nghiệp vận tải biển của Việt Nam có thuê tàu thủy và đoàn thủy thủ là người nước ngoài để khai thác tuyến vận tải quốc tế Trung Quốc – Xinh-ga-po thì Công ty S có nghĩa vụ khấu trừ thuế thu nhập cá nhân theo pháp luật Việt Nam đối với tiền lương trả cho các cá nhân là thành viên đoàn thủy thủ mặc dù khoản tiền lương này là một phần trong chi phí thuê tàu.

Các quy định về thuế đối với thu nhập từ hoạt động dịch vụ cá nhân phụ thuộc như trên được nêu tại Điều khoản Hoạt động dịch vụ cá nhân phụ thuộc (thường là Điều 15) của Hiệp định.

Mục 11. THU NHẬP TỪ THÙ LAO GIÁM ĐỐC

Điều 32. Định nghĩa thu nhập từ thù lao giám đốc

Theo quy định tại Hiệp định, thù lao giám đốc là thu nhập do một đối tượng cư trú của Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam nhận được tại Việt Nam với tư cách là thành viên ban Giám đốc công ty, Hội đồng quản trị công ty hoặc người giữ chức vụ quản lý cao cấp trong một doanh nghiệp là đối tượng cư trú của Việt Nam; và ngược lại. Thu nhập này không bao gồm tiền lương do các thành viên trên nhận được từ việc thực hiện các chức năng khác trong doanh nghiệp như người làm công, người tư vấn, cố vấn và tiền lương của các cá nhân nước ngoài giữ chức vụ trong văn phòng đại diện các công ty nước ngoài đặt tại Việt Nam. Các khoản thu nhập thông thường đó được coi là thu nhập từ hoạt động dịch vụ cá nhân phụ thuộc (quy định tại Mục 10. Thu nhập từ hoạt động dịch vụ cá nhân phụ thuộc, Chương II, Thông tư này).

Điều 33. Xác định nghĩa vụ thuế đối với thu nhập từ thù lao giám đốc

Theo quy định tại Hiệp định, trường hợp cá nhân là đối tượng cư trú tại Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam nhận được thù lao với tư cách là thành viên ban Giám đốc công ty, Hội đồng quản trị công ty hay với tư cách là người giữ chức vụ quản lý cao cấp trong công ty là đối tượng cư trú của Việt Nam, cá nhân đó sẽ phải nộp thuế đối với khoản thu nhập đó theo các quy định về thuế thu nhập cá nhân tại Việt Nam (không phân biệt cá nhân đó có mặt tại Việt Nam hay không).

Ví dụ 52: Một đối tượng cư trú của Anh là thành viên Hội đồng quản trị của một liên doanh tại Việt Nam. Trong năm 2012, đối tượng đó chỉ sang Việt Nam làm việc với tổng số 60 ngày và nhận được thù lao với tư cách là thành viên Hội đồng quản trị. Căn cứ Hiệp định giữa Việt Nam và Anh và quy định của luật thuế thu nhập cá nhân hiện hành tại Việt Nam, đối tượng này phải nộp thuế thu nhập cá nhân đối với thù lao nhận được với tư cách là thành viên Hội đồng quản trị với thuế suất hiện hành tại Việt Nam (20%) tính trên tổng thu nhập nhận được của đối tượng không cư trú của Việt Nam.

Các quy định về thuế đối với thu nhập từ thù lao của giám đốc như trên được nêu tại Điều khoản Thù lao Giám đốc (thường là Điều 16) của Hiệp định.

Mục 12. THU NHẬP TỪ CÁC HOẠT ĐỘNG BIỂU DIỄN CỦA NGHỆ SĨ VÀ VẬN ĐỘNG VIÊN

Điều 34. Định nghĩa thu nhập từ các hoạt động biểu diễn của nghệ sĩ và vận động viên

Theo quy định tại Hiệp định, thu nhập từ các hoạt động biểu diễn của nghệ sĩ và vận động viên là thu nhập từ hoạt động trình diễn nghệ thuật, thể thao tại Việt Nam của bản thân nghệ sĩ, vận động viên là đối tượng cư trú tại Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam; và ngược lại.

Điều 35. Xác định nghĩa vụ thuế đối với thu nhập từ các hoạt động biểu diễn của nghệ sĩ và vận động viên

1. Mặc dù có các quy định tại các Mục 9. Thu nhập từ hoạt động ngành nghề độc lập và Mục 10. Thu nhập từ hoạt động cá nhân phụ thuộc, Chương II, Thông tư này, trường hợp cá nhân là đối tượng cư trú của Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam tiến hành hoạt động trình diễn nghệ thuật, thể thao tại Việt Nam và nhận được thu nhập từ hoạt động trình diễn đó thì sẽ phải nộp thuế thu nhập theo pháp luật Việt Nam.

Ví dụ 53: Trong năm 2012, theo lời mời của Công ty biểu diễn V của Việt Nam một ca sỹ là đối tượng cư trú của Hàn Quốc đã có một buổi biểu diễn tại Việt Nam và nhận được khoản thù lao là 500.000.000 đồng. Thời gian ca sỹ hiện diện tại Việt Nam để tham gia đợt biểu diễn là 3 ngày. Theo quy định của Hiệp định giữa Việt Nam và Hàn Quốc (Khoản 1, Điều 17: Nghệ sĩ và vận động viên) ca sỹ này có nghĩa vụ nộp thuế thu nhập cá nhân tại Việt Nam.

2. Mặc dù có các quy định tại các Mục 2. Thu nhập từ hoạt động kinh doanh, Mục 9. Thu nhập từ hoạt động ngành nghề độc lập và Mục 10. Thu nhập từ hoạt động cá nhân phụ thuộc, Chương II, Thông tư này, trong trường hợp thu nhập từ hoạt động trình diễn nghệ thuật, thể thao tại Việt Nam của cá nhân là đối tượng cư trú của Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam không trả cho cá nhân biểu diễn mà trả cho đối tượng khác thì thu nhập đó sẽ phải nộp thuế tại Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam.

Ví dụ 54: Cũng với Ví dụ 53 nêu trên, ca sỹ Hàn Quốc sang biểu diễn tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng (được đàm phán và ký kết tại Hàn Quốc) giữa Công ty biểu diễn V của Việt Nam và Công ty Ngôi sao của Hàn Quốc. Theo quy định của Hiệp định giữa Việt Nam và Hàn Quốc (Khoản 2, Điều 17: Nghệ sĩ và vận động viên) khoản thu nhập của Công ty Ngôi sao từ hợp đồng này sẽ phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp tại Việt Nam.

3. Trường hợp hoạt động trình diễn nghệ thuật, thể thao của cá nhân, công ty là đối tượng cư trú tại Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam được thực hiện trong khuôn khổ chương trình trao đổi văn hóa giữa Chính phủ hai nước, thì thu nhập từ hoạt động trình diễn tại Việt Nam của cá nhân, công ty nước ngoài sẽ được miễn thuế tại Việt Nam nếu tại Hiệp định giữa Việt Nam và Nước đó có quy định như vậy.

Ví dụ 55: Trong năm 2012, trong khuôn khổ giao lưu văn hóa được ký kết giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Hàn Quốc, một ca sỹ là đối tượng cư trú của Hàn Quốc đã có một buổi biểu diễn tại Việt Nam và nhận được khoản thù lao là 500.000.000 đồng. Theo quy định của Hiệp định giữa Việt Nam và Hàn Quốc (Khoản 3, Điều 17: Nghệ sĩ và vận động viên) ca sỹ này không có nghĩa vụ nộp thuế thu nhập cá nhân tại Việt Nam.

Các quy định về thuế đối với thu nhập của các nghệ sĩ và vận động viên như trên được nêu tại Điều khoản Nghệ sĩ và vận động viên (thường là Điều 17) của Hiệp định.

Mục 13. THU NHẬP TỪ TIỀN LƯƠNG HƯU

Điều 36. Định nghĩa thu nhập từ tiền lương hưu

Theo quy định tại Hiệp định, thu nhập từ tiền lương hưu là tiền lương hưu do đối tượng cư trú của nước ký kết Hiệp định với Việt Nam nhận được từ công việc trước đây làm tại Việt Nam; và ngược lại. Thu nhập từ tiền lương hưu quy định tại Điều này không bao gồm tiền lương hưu do Chính phủ, cơ quan chính quyền địa phương của Việt Nam và Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam chi trả vì khoản thu nhập này được coi là thu nhập từ hoạt động phục vụ Chính phủ (quy định tại Mục 14: Thu nhập từ hoạt động phục vụ Chính phủ, Chương II, Thông tư này).

Điều 37. Xác định nghĩa vụ thuế đối với thu nhập từ tiền lương hưu

Tùy theo từng Hiệp định cụ thể, thu nhập là tiền lương hưu sẽ phải chịu thuế:

a) Chỉ tại nước nơi đối tượng nhận lương hưu là đối tượng cư trú; hoặc

b) Chỉ tại nước nơi tiền lương hưu được trả; hoặc

c) Đồng thời tại nước cư trú của đối tượng nhận lương hưu và tại nước phát sinh nguồn lương hưu nếu đối tượng trả lương hưu là đối tượng cư trú hoặc là cơ sở thường trú tại nước đó.

Ví dụ 56: Ông F là một công dân Pháp và làm việc cho khu vực tư nhân tại Pháp, khi về hưu sang sinh sống tại Việt Nam. Theo quy định của Điều 17: Tiền lương hưu, Hiệp định giữa Việt Nam và Pháp, thu nhập từ tiền lương hưu nhận được từ Pháp sẽ chỉ bị đánh thuế tại Việt Nam bất kể tiền lương hưu đó do quỹ hưu trí nào của Pháp chi trả.

Ví dụ 57: Ông M là một công dân Ô-man và làm việc cho khu vực tư nhân tại Ô-man. Trong thời gian làm việc, ông M đã đóng bảo hiểm hưu trí cho Quỹ bảo hiểm hưu trí của Chính phủ Ô-man, khi về hưu sang sinh sống tại Việt Nam. Theo quy định của Khoản 2, Điều 19: Tiền lương hưu và các khoản thanh toán bảo hiểm xã hội, Hiệp định giữa Việt Nam và Ô-man, thu nhập từ tiền lương hưu nhận do Quỹ bảo hiểm hưu trí này chi trả sẽ chỉ bị đánh thuế tại Ô-man.

Ví dụ 58: Ông M là một đối tượng cư trú của Đan Mạch và làm việc cho khu vực tư nhân tại Đan Mạch, khi về hưu sang sinh sống tại Việt Nam. Theo quy định của Điều 18: Tiền lương hưu và các khoản tiền tương tự, Hiệp định giữa Việt Nam và Đan Mạch, thu nhập từ tiền lương hưu nhận được từ Đan Mạch sẽ bị đánh thuế tại Việt Nam và Đan Mạch nếu Luật quốc gia của Đan Mạch có quy định đánh thuế đối với khoản tiền lương hưu đó.

Các quy định về thuế đối với thu nhập từ tiền lương hưu như trên được nêu tại Điều khoản Tiền lương hưu (thường là Điều 18) của Hiệp định.

Mục 14. THU NHẬP TỪ HOẠT ĐỘNG PHỤC VỤ CHÍNH PHỦ

Điều 38. Định nghĩa thu nhập từ hoạt động phục vụ Chính phủ

Theo quy định tại Hiệp định, thu nhập từ hoạt động phục vụ Chính phủ là các khoản thu nhập tiền công, tiền lương, tiền lương hưu do Chính phủ, chính quyền địa phương của một Nước ký kết Hiệp định trả cho một cá nhân để người đó thực hiện các nhiệm vụ cho Nước ký kết đó.

Điều 39. Xác định nghĩa vụ thuế đối với thu nhập tiền lương từ hoạt động phục vụ Chính phủ

1. Trường hợp người nước ngoài do Chính phủ của Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam cử sang Việt Nam làm việc cho các tổ chức của Chính phủ nước đó đặt tại Việt Nam hoặc cho các chương trình hợp tác kinh tế, văn hoá, viện trợ giữa hai nước, thì tiền lương, tiền công do Chính phủ nước ngoài trả cho cá nhân đó sẽ được miễn thuế thu nhập tại Việt Nam cho dù vì mục đích thực hiện các công việc như vậy mà đối tượng đó trở thành đối tượng cư trú của Việt Nam.

Ví dụ 59: Ông J là một công dân Nhật Bản làm việc cho văn phòng JICA (thuộc Chính phủ Nhật Bản) tại Việt Nam. Thu nhập từ tiền lương của ông J trong thời gian làm việc tại Việt Nam sẽ được miễn thuế thu nhập cá nhân tại Việt Nam (Khoản 1.a, Điều 19, Hiệp định giữa Việt Nam và Nhật Bản).

2. Tiền lương, tiền công do Chính phủ một Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam sẽ chỉ bị đánh thuế tại Việt Nam nếu được trả cho một cá nhân là đối tượng cư trú của Việt Nam để thực hiện các công việc cho Chính phủ nước ngoài tại Việt Nam và cá nhân này thỏa mãn một trong hai điều kiện dưới đây:

a) Mang quốc tịch Việt Nam; hoặc

b) Đã là đối tượng cư trú của Việt Nam trước khi thực hiện các công việc tại Việt Nam phục vụ cho Chính phủ nước ngoài.

Ví dụ 60: Ông V là một công dân Việt Nam làm việc cho văn phòng JICA (thuộc Chính phủ Nhật Bản) tại Việt Nam. Thu nhập từ tiền lương của ông V trong thời gian làm việc tại văn phòng JICA Việt Nam sẽ phải chịu thuế thu nhập cá nhân tại Việt Nam theo quy định của Luật thuế thu nhập cá nhân của Việt Nam (Khoản 1.b(i), Điều 19, Hiệp định giữa Việt Nam và Nhật Bản).

Điều 40. Xác định nghĩa vụ thuế đối với thu nhập tiền lương hưu từ hoạt động phục vụ Chính phủ

Khi một cá nhân nhận được tiền lương hưu được trả từ một quỹ do Nhà nước Việt Nam hay các cơ quan chính quyền địa phương của Việt Nam lập ra (sau đây gọi chung là Nhà nước Việt Nam), hoặc được trả bởi chính Nhà nước Việt Nam do việc làm công trước đó cho Nhà nước Việt Nam thì tiền lương hưu này sẽ chỉ chịu thuế tại Việt Nam; trừ khi cá nhân nói trên vừa là đối tượng cư trú của Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam và vừa mang quốc tịch của Nước ký kết đó. Trong trường hợp cá nhân nói trên vừa là đối tượng cư trú của Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam và vừa mang quốc tịch của Nước ký kết đó, thu nhập tiền lương hưu của cá nhân này sẽ chỉ chịu thuế tại Nước ký kết đó.

Ví dụ 61: Ông V là một công dân Việt Nam làm việc cho Chính phủ Việt Nam. Khi về hưu, ông V sang sinh sống tại Nhật Bản. Khi đó, tiền lương hưu do việc làm công cho Chính phủ Việt Nam sẽ được miễn thuế thu nhập cá nhân tại Nhật Bản (Khoản 2.a., Điều 19, Hiệp định giữa Việt Nam và Nhật Bản).

Ví dụ 62: Ông J là một công dân Nhật Bản làm việc cho Đại sứ quán Việt Nam tại Nhật Bản. Khi về hưu, ông J vẫn sinh sống tại Nhật Bản. Khi đó, tiền lương hưu do việc làm công cho Chính phủ Việt Nam sẽ chỉ chịu thuế thu nhập cá nhân tại Nhật Bản (Khoản 2.b., Điều 19, Hiệp định giữa Việt Nam và Nhật Bản).

Điều 41. Xác định nghĩa vụ thuế đối với thu nhập tiền lương và tiền lương hưu từ hoạt động kinh doanh của Chính phủ

Mặc dù đã có các quy định tại các Điều 39 và 40 nêu trên, việc đánh thuế đối với tiền lương, tiền công hay tiền lương hưu do Chính phủ nước ngoài trả cho một cá nhân vì tham gia các hoạt động kinh doanh của Chính phủ nước ngoài tại Việt Nam như hoạt động của doanh nghiệp vận tải đường sắt, bưu chính hoặc công ty biểu diễn Nhà nước sẽ được áp dụng theo quy định, tùy theo từng trường hợp, tại các Mục 10. Thu nhập từ hoạt động cá nhân phụ thuộc, Mục 11. Thu nhập từ thù lao giám đốc, Mục 12. Thu nhập của Nghệ sĩ và vận động viên và Mục 13. Thu nhập từ lương hưu, Chương II, Thông tư này.

Các quy định về thuế đối với thu nhập từ hoạt động phục vụ Chính phủ như trên được nêu tại Điều khoản Hoạt động phục vụ Chính phủ (thường là Điều 19) của Hiệp định.

Mục 15. THU NHẬP CỦA SINH VIÊN, THỰC TẬP SINH VÀ HỌC SINH HỌC NGHỀ

Điều 42. Định nghĩa thu nhập của sinh viên, thực tập sinh và học sinh học nghề

Theo quy định tại Hiệp định, thu nhập của sinh viên, thực tập sinh và học sinh học nghề nước ngoài tại Việt Nam phục vụ cho việc học tập, nghiên cứu, học nghề tại Việt Nam, thuộc phạm vi điều chỉnh của điều khoản này chỉ bao gồm:

1. Thu nhập nhận được từ các nguồn tại nước ngoài để phục vụ cho mục đích học tập, sinh hoạt tại Việt Nam.

2. Thu nhập nhận được từ công việc tại Việt Nam có liên quan trực tiếp đến hoạt động học tập, nghiên cứu, học nghề tại Việt Nam (trong trường hợp Hiệp định có quy định). Tại một số Hiệp định, khoản thu nhập này chỉ được miễn thuế trong phạm vi một mức thu nhập nhất định.

Điều 43. Xác định nghĩa vụ thuế đối với thu nhập của sinh viên, thực tập sinh và học sinh học nghề

Trường hợp sinh viên, thực tập sinh, học sinh nước ngoài ngay trước khi sang Việt Nam học tập, nghiên cứu, học nghề là đối tượng cư trú của nước ký Hiệp định với Việt Nam, sinh viên, thực tập sinh, học sinh nước ngoài đó sẽ được miễn thuế thu nhập tại Việt Nam đối với các loại thu nhập được nêu tại Điều 42.

Ví dụ 63: Một sinh viên là đối tượng cư trú của Trung Quốc sang Việt Nam để nghiên cứu nghệ thuật dân gian trong thời gian 4 năm. Trong thời gian nghiên cứu tại Việt Nam, anh ta nhận được học bổng 800.000 đồng/tháng từ Trung Quốc, dạy tiếng Trung Quốc cho một trường ở Hà Nội với thu nhập 50 đô la Mỹ/tháng và tham gia biểu diễn nghệ thuật dân gian Việt Nam với tổng thu nhập 2.500 đô la Mỹ/năm. Theo quy định tại Hiệp định giữa Việt Nam và Trung Quốc (Điều 20: Sinh viên, học sinh học nghề và thực tập sinh), sinh viên này được miễn thuế thu nhập cá nhân với tiền học bổng, thu nhập từ biểu diễn trong phạm vi 2.000 đô la Mỹ; và nộp thuế thu nhập đối với thu nhập từ dạy học và phần vượt trên 2.000 đô la Mỹ của thu nhập biểu diễn.

Các quy định về thuế đối với thu nhập của sinh viên, thực tập sinh, học sinh học nghề như trên được nêu tại Điều khoản Sinh viên, thực tập sinh và học sinh học nghề (thường là Điều 20) của Hiệp định.

Mục 16. THU NHẬP CỦA GIÁO VIÊN, GIÁO SƯ VÀ NGƯỜI NGHIÊN CỨU

Điều 44. Định nghĩa thu nhập của giáo viên, giáo sư và người nghiên cứu

Trong một số Hiệp định có quy định riêng về việc xử lý thuế đối với thu nhập của giáo viên, giáo sư và người nghiên cứu nước ngoài từ hoạt động giảng dạy, thuyết trình, nghiên cứu tại Việt Nam. Thu nhập này bao gồm thu nhập phát sinh từ các hoạt động giảng dạy, thuyết trình, nghiên cứu tại các trường đại học hoặc cơ sở giáo dục được Chính phủ Việt Nam thừa nhận.

Điều 45. Xác định nghĩa vụ thuế đối với thu nhập của giáo viên, giáo sư và người nghiên cứu

1. Thu nhập của giáo viên, giáo sư và người nghiên cứu nước ngoài từ hoạt động giảng dạy, thuyết trình, nghiên cứu tại Việt Nam theo Điều 44 nêu trên sẽ được miễn thuế tại Việt Nam (trong khoảng thời gian quy định tại Hiệp định) nếu các điều kiện dưới đây được thỏa mãn:

- Ngay trước khi sang Việt Nam giảng dạy, thuyết trình, nghiên cứu, giáo viên, giáo sư, người nghiên cứu nước ngoài là đối tượng cư trú của Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam; và

- Việc giảng dạy, thuyết trình, nghiên cứu được tiến hành tại các trường đại học hoặc cơ sở giáo dục được Chính phủ Việt Nam thừa nhận.

Ví dụ 64: Theo Chương trình liên kết giữa một trường Đại học V của Việt Nam và một trường Đại học P của Phi-líp-pin, bắt đầu từ năm học 2012, trường Đại học P đã cử một giáo viên sang giảng dạy tại trường Đại học V trong thời gian 3 năm. Người giáo viên này sẽ được miễn thuế thu nhập cá nhân tại Việt Nam đối với thu nhập từ việc giảng dạy tại Đại học V trong thời gian 2 năm kể từ khi đến Việt Nam và sẽ phải nộp thuế thu nhập cá nhân tại Việt Nam đối với thu nhập từ việc giảng dạy tại Đại học V trong năm thứ 3 (Khoản 1, Điều 21: Giáo viên, giáo sư và nhà nghiên cứu, Hiệp định giữa Việt Nam và Phi-líp-pin).

2. Việc miễn thuế như trên không áp dụng đối với trường hợp hoạt động giảng dạy, nghiên cứu phục vụ cho mục đích riêng của một cá nhân hoặc của một tổ chức tư nhân.

Ví dụ 65: Theo hợp đồng ký với một bệnh viện tư nhân V của Việt Nam, trong năm 2012, một giáo sư là đối tượng cư trú của Phi-líp-pin (với tư cách một bên trong hợp đồng) sang nghiên cứu tại bệnh viện này trong 12 tháng. Giáo sư này sẽ phải nộp thuế thu nhập cá nhân tại Việt Nam đối với thu nhập từ hoạt động nghiên cứu theo hợp đồng.

Các quy định về thuế đối với thu nhập của giáo viên, giáo sư và người nghiên cứu như trên được nêu tại Điều khoản Giáo viên, giáo sư và nhà nghiên cứu (thường là Điều 21) của Hiệp định.

Mục 17. THU NHẬP KHÁC

Điều 46. Định nghĩa thu nhập khác

Theo quy định tại Hiệp định, thu nhập khác là toàn bộ các khoản thu nhập chưa được đề cập tại các điều khoản khác của Hiệp định, ví dụ như: thu nhập từ trúng thưởng xổ số, thắng cá cược tại các casino, thu nhập từ tiền cấp dưỡng theo nghĩa vụ hôn nhân gia đình, …

Điều 47. Xác định nghĩa vụ thuế đối với thu nhập khác

1. Theo quy định tại Hiệp định, một đối tượng cư trú tại Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam có các khoản thu nhập khác từ Việt Nam sẽ phải nộp thuế theo quy định của pháp luật hiện hành về thuế ở Việt Nam. Tuy nhiên, tại một số Hiệp định (như Hiệp định giữa Việt Nam và Pháp, Việt Nam và Anh), Việt Nam cam kết miễn thuế đối với thu nhập khác trong trường hợp này.

Ví dụ 66: Ông H là một đối tượng cư trú tại Trung Quốc và ông P là một đối tượng cư trú của Pháp, trong một chuyến du lịch hai tuần tại Việt Nam, cả hai ông đều trúng thưởng xổ số 20 triệu đồng tại Hà Nội. Theo quy định về thuế thu nhập cá nhân của Việt Nam, đây là khoản thu nhập không thường xuyên nên cả hai ông đều có nghĩa vụ nộp thuế tại Việt Nam đối với số tiền trúng thưởng này. Theo Hiệp định giữa Việt Nam và Trung Quốc (Khoản 2, Điều 22: Thu nhập khác), Việt Nam có thể thu thuế đối với thu nhập của ông H. Theo Hiệp định giữa Việt Nam và Pháp (Khoản 1, Điều 20: Thu nhập khác), thu nhập của ông P được miễn thuế tại Việt Nam.

2. Trường hợp khoản thu nhập khác liên quan đến cơ sở thường trú tại Việt Nam của một đối tượng cư trú của Nước ký kết với Việt Nam thì Việt Nam có quyền thu thuế đối với khoản thu nhập đó theo quy định của pháp luật hiện hành về thuế ở Việt Nam và phù hợp với quy định tại các Mục 2. Thu nhập từ hoạt động kinh doanh và Mục 9. Thu nhập từ hoạt động ngành nghề độc lập, tùy theo từng trường hợp, Chương II, Thông tư này.

Ví dụ 67: Chi nhánh ngân hàng V là chi nhánh tại Việt Nam của ngân hàng Nhật Bản S mua một xe ô tô của một công ty tại nước X và trúng thưởng khuyến mại 10.000 đô la Mỹ. Chiếc ô tô này được sử dụng cho mục đích kinh doanh của chi nhánh V. Mặc dù theo chính sách nội bộ của ngân hàng S, các khoản thu nhập như vậy phải được coi như thu nhập của trụ sở chính và chuyển về tài khoản của ngân hàng S tại Nhật Bản, khoản thu nhập từ tiền thưởng này vẫn được coi là có liên quan thực tế đến chi nhánh V - một cơ sở thường trú của ngân hàng S tại Việt Nam theo quy định của Hiệp định giữa Việt Nam và Nhật Bản (Khoản 2, Điều 21) và vì vậy Việt Nam có quyền thu thuế đối với thu nhập này theo quy định của pháp luật hiện hành về thuế ở Việt Nam và phù hợp với quy định tại Mục 2. Thu nhập từ hoạt động kinh doanh, Chương II, Thông tư này (Điều 7 của Hiệp định giữa Việt Nam và Nhật Bản).

Các quy định về thuế đối với thu nhập khác như trên được nêu tại Điều khoản Thu nhập khác (thường là Điều 22) của Hiệp định.

Chương III

BIỆN PHÁP TRÁNH ĐÁNH THUẾ HAI LẦN TẠI VIỆT NAM

Theo quy định tại Hiệp định, khi một đối tượng nộp thuế là đối tượng cư trú của Việt Nam, có thu nhập từ Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam và đã nộp thuế tại nước này (theo quy định của Hiệp định và pháp luật nước đó), Việt Nam vẫn có thể có quyền thu thuế đối với các khoản thu nhập này nhưng đồng thời Việt Nam cũng có nghĩa vụ thực hiện các biện pháp tránh đánh thuế hai lần để đối tượng nộp thuế đó không bị nộp thuế hai lần.

Tùy theo mỗi Hiệp định đã ký kết, Việt Nam có thể sẽ thực hiện một biện pháp hoặc kết hợp các biện pháp tránh đánh thuế hai lần theo quy định tại các Điều 48, Điều 49, Điều 50 Thông tư này.

Điều 48. Biện pháp khấu trừ thuế

Trường hợp một đối tượng cư trú của Việt Nam có thu nhập và đã nộp thuế tại Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam, nếu tại Hiệp định, Việt Nam cam kết thực hiện biện pháp khấu trừ thuế thì khi đối tượng cư trú này kê khai thuế thu nhập tại Việt Nam, các khoản thu nhập đó sẽ được tính vào thu nhập chịu thuế tại Việt Nam theo quy định của pháp luật hiện hành về thuế ở Việt Nam và số tiền thuế đã nộp ở Nước ký kết sẽ được khấu trừ vào số thuế phải nộp tại Việt Nam. Việc khấu trừ thuế thực hiện theo các nguyên tắc dưới đây:

a) Thuế đã nộp ở Nước ký kết được khấu trừ là sắc thuế được quy định tại Hiệp định;

b) Số thuế được khấu trừ không vượt quá số thuế phải nộp tại Việt Nam tính trên thu nhập từ Nước ký kết theo quy định pháp luật hiện hành về thuế ở Việt Nam nhưng cũng không được khấu trừ hoặc hoàn số thuế đã nộp cao hơn ở nước ngoài;

c) Số thuế đã nộp ở Nước ký kết được khấu trừ là số thuế phát sinh trong thời gian thuộc năm tính thuế tại Việt Nam.

Ví dụ 68: Ông A là một công dân Lào và là đối tượng cư trú của Việt Nam trong năm 2011. Trong năm 2011, ông A có thu nhập tính thuế từ làm công 8 tháng tại Việt Nam là 40.000.000 đồng và 4 tháng (giai đoạn từ tháng 9/2011 đến tháng 12/2011) tại nước Lào là 80.000.000 đồng. Năm tính thuế của Lào từ ngày 01/10 đến ngày 30/9 năm sau. Theo quy định của Hiệp định giữa Việt Nam và Lào (Khoản 1, Điều 15: Hoạt động dịch vụ cá nhân phụ thuộc) ông A phải nộp thuế tại Lào đối với thu nhập có được từ nước này với mức thuế suất theo quy định của Luật thuế nước này (20%). Giả sử ngoài các thu nhập vừa nêu, ông A không có các nguồn thu nhập nào khác. Trong trường hợp này, việc kê khai nộp thuế và khấu trừ thuế đã nộp tại Lào của ông A ở Việt Nam như sau:

- Xác định thu nhập tính thuế của ông A trong năm tính thuế 2011 (theo pháp luật hiện hành về thuế ở Việt Nam):

(40.000.000 đồng + 80.000.000 đồng) = 120.000.000 đồng

- Xác định thuế thu nhập của ông A trong năm tính thuế 2011 (theo pháp luật hiện hành về thuế ở Việt Nam):

(60.000.000 đồng x 5% + 60.000.000 đồng x 10%) = 9.000.000 đồng

- Số thuế đã nộp tại Lào (theo Luật thuế của Lào):

80.000.000 đồng x 20% = 16.000.000 đồng

- Số thuế tính theo pháp luật Việt Nam trên thu nhập phát sinh tại nước Lào:

9.000.000 đồng : 12 tháng x 4 tháng = 3.000.000 đồng

Vậy ông A chỉ được khấu trừ 3.000.000 đồng trên tổng số thuế 16.000.000 đồng đã nộp trên 80.000.000 đồng thu nhập tiền công phát sinh tại Lào.

Ví dụ 69: Công ty V của Việt Nam có một cơ sở thường trú tại Lào. Trong năm 2010, cơ sở thường trú này được xác định có khoản thu nhập là 100.000 đô la Mỹ. Theo quy định tại Hiệp định giữa Việt Nam và Lào (Khoản 1, Điều 7: Lợi tức doanh nghiệp), Công ty V có nghĩa vụ nộp thuế thu nhập theo Luật thuế Lào đối với số thu nhập được xác định của cơ sở thường trú này (thuế suất 20%). Trong trường hợp này, việc kê khai nộp thuế và khấu trừ thuế đã nộp tại Lào của Công ty V ở Việt Nam như sau:

- Xác định số thuế đã nộp tại Lào (theo Luật thuế Lào):

100.000 đô la Mỹ x 20% = 20.000 đô la Mỹ

- Xác định số thuế phải nộp tại Việt Nam (theo quy định pháp luật hiện hành về thuế ở Việt Nam):

100.000 đô la Mỹ x 25% = 25.000 đô la Mỹ

- Số thuế còn phải nộp tại Việt Nam:

25.000 đô la Mỹ - 20.000 đô la Mỹ = 5.000 đô la Mỹ

Ví dụ 70: Cũng với Ví dụ 69 nêu trên, giả sử Công ty V là công ty liên doanh và được hưởng mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp tại Việt Nam là 10%. Khi đó, việc kê khai nộp thuế và khấu trừ thuế đã nộp tại Lào của Công ty V ở Việt Nam như sau:

- Xác định số thuế đã nộp tại Lào (theo Luật thuế Lào):

100.000 đô la Mỹ x 20% = 20.000 đô la Mỹ

- Xác định số thuế phải nộp tại Việt Nam (theo quy định pháp luật hiện hành về thuế ở Việt Nam):

100.000 đô la Mỹ x 10% = 10.000 đô la Mỹ

- Số thuế tối đa được khấu trừ tại Việt Nam: 10.000 đô la Mỹ

Trong trường hợp này, Công ty V được khấu trừ 10.000 đô la Mỹ trong tổng số 20.000 đô la Mỹ tiền thuế đã nộp tại Lào. Phần chênh lệch 10.000 đô la Mỹ (20.000 đô la Mỹ - 10.000 đô la Mỹ) không được khấu trừ vào số thuế thu nhập đối với thu nhập từ trong nước (nếu có) của Công ty V và cũng không được chuyển sang năm sau.

Điều 49. Biện pháp khấu trừ số thuế khoán

Trường hợp một đối tượng cư trú của Việt Nam có thu nhập và phải nộp thuế tại Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam (theo mức thuế được miễn hoặc giảm như một ưu đãi đặc biệt), nếu tại Hiệp định, Việt Nam cam kết thực hiện Biện pháp khấu trừ số thuế khoán thì khi đối tượng cư trú đó kê khai thuế thu nhập tại Việt Nam, các khoản thu nhập đó sẽ được tính vào thu nhập chịu thuế tại Việt Nam theo quy định của pháp luật hiện hành về thuế ở Việt Nam và số tiền thuế khoán sẽ được khấu trừ vào số thuế phải nộp tại Việt Nam. Số thuế khoán là số thuế lẽ ra đối tượng cư trú của Việt Nam phải nộp tại Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam trên khoản thu nhập phát sinh tại Nước ký kết đó, nhưng theo quy định tại luật của Nước ký kết đó được miễn hoặc giảm như một biện pháp ưu đãi đặc biệt.

Việc khấu trừ thuế thực hiện theo các nguyên tắc dưới đây:

a) Thuế đã nộp hoặc coi như đã nộp ở Nước ký kết được khấu trừ phải là sắc thuế được quy định tại Hiệp định;

b) Số thuế được khấu trừ không vượt quá số thuế phải nộp tại Việt Nam tính trên thu nhập từ Nước ký kết theo quy định pháp luật hiện hành về thuế ở Việt Nam;

c) Số thuế đã nộp ở Nước ký kết được khấu trừ là số thuế phát sinh trong thời gian thuộc năm tính thuế tại Việt Nam.

Ví dụ 71: Công ty Q của Việt Nam có một cơ sở thường trú tại U-dơ-bê-ki-xtăng. Trong năm 2010, cơ sở thường trú này được xác định có khoản thu nhập là 100.000 đô la Mỹ. Theo quy định tại Luật thuế U-dơ-bê-ki-xtăng, khoản thu nhập này được miễn thuế như một biện pháp ưu đãi đặc biệt (trường hợp không được miễn, sẽ phải nộp thuế với mức thuế suất 33%). Công ty Q có nghĩa vụ nộp thuế tại Việt Nam theo mức thuế suất hiện hành (25%). Theo quy định tại Hiệp định giữa Việt Nam và U-dơ-bê-ki-xtăng (Khoản 5, Điều 24: Xoá bỏ việc đánh thuế hai lần), Việt Nam có nghĩa vụ khấu trừ số thuế khoán (tức là số thuế đáng ra đã phải nộp nhưng được miễn tại U-dơ-bê-ki-xtăng). Trong trường hợp này, việc kê khai nộp thuế và khấu trừ số thuế khoán của Công ty Q ở Việt Nam như sau:

- Xác định số thuế khoán tại U-dơ-bê-ki-xtăng (theo Luật thuế U-dơ-bê-ki-xtăng):

100.000 đô la Mỹ x 33% = 33.000 đô la Mỹ

- Xác định số thuế phải nộp tại Việt Nam (theo quy định pháp luật hiện hành về thuế ở Việt Nam):

100.000 đô la Mỹ x 25% = 25.000 đô la Mỹ

Như vậy, Công ty Q trên thực tế không phải nộp thuế nhưng được coi như đã nộp 25.000 đô la Mỹ (trong tổng số 33.000 đô la Mỹ tính theo luật thuế U-dơ-bê-ki-xtăng trước khi được hưởng ưu đãi) và được trừ số thuế này vào thuế phải nộp tại Việt Nam (tức là không phải nộp thuế tại Việt Nam).

Điều 50. Biện pháp khấu trừ gián tiếp

1. Trường hợp một đối tượng cư trú của Việt Nam có thu nhập từ Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam mà khoản thu nhập này đã chịu thuế thu nhập doanh nghiệp trước khi được chia cho đối tượng đó và tại Hiệp định, Việt Nam cam kết thực hiện biện pháp khấu trừ thuế gián tiếp thì khi kê khai thuế thu nhập tại Việt Nam, các khoản thu nhập đó sẽ được tính vào thu nhập chịu thuế tại Việt Nam theo quy định của pháp luật hiện hành về thuế ở Việt Nam và số thuế gián tiếp đã nộp ở Nước ký kết sẽ được khấu trừ vào số thuế phải nộp tại Việt Nam. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp, số thuế được khấu trừ không vượt quá số thuế phải nộp tại Việt Nam tính trên thu nhập từ nước ngoài theo quy định pháp luật hiện hành về thuế ở Việt Nam.

Số thuế gián tiếp được khấu trừ là số thuế do một công ty cổ phần là đối tượng của Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam đã nộp tại Nước ký kết đó dưới hình thức thuế thu nhập công ty trước khi chia lãi cổ phần cho đối tượng cư trú của Việt Nam với điều kiện đối tượng cư trú của Việt Nam kiểm soát trực tiếp một tỷ lệ tối thiểu quyền bỏ phiếu của công ty cổ phần (thường là 10%).

Ví dụ 72: Công ty V của Việt Nam đầu tư 10.000.000 đô la Mỹ (tương đương 20% vốn cổ phần) tại Công ty N của Liên bang Nga. Trong năm 2010, Công ty N có thu nhập là 100.000 đô la Mỹ và phải nộp thuế theo Luật thuế Liên bang Nga (mức thuế suất 30%). Lợi tức sau thuế của Công ty N được chia cho Công ty V theo tỷ lệ cổ phần và phải nộp thuế tại Liên bang Nga với mức thuế suất 10% (Khoản 2.a Điều 10: Tiền lãi cổ phần, Hiệp định giữa Việt Nam và Liên bang Nga). Công ty V có nghĩa vụ nộp thuế theo quy định pháp luật hiện hành về thuế ở Việt Nam với mức thuế suất hiện hành (25%). Trong trường hợp này, việc kê khai nộp thuế và khấu trừ thuế gián tiếp của Công ty V ở Việt Nam như sau:

- Số lợi nhuận trước thuế của Công ty V của Việt Nam được hưởng trong tổng số lợi nhuận của Công ty N tại Liên bang Nga là:

100.000 đô la Mỹ x 20% = 20.000 đô la Mỹ

- Số thuế thu nhập doanh nghiệp Công ty N đã nộp tại Liên bang Nga đối với phần lợi nhuận nêu trên của Công ty V theo Luật thuế Liên bang Nga là:

20.000 đô la Mỹ x 30% = 6.000 đô la Mỹ

- Lợi tức cổ phần được chia sau thuế của Công ty V là:

20.000 đô la Mỹ - 6.000 đô la Mỹ = 14.000 đô la Mỹ

- Số thuế Công ty V phải nộp tại Liên bang Nga đối với lợi tức cổ phần được chia theo Hiệp định giữa Việt Nam và Liên bang Nga là:

14.000 đô la Mỹ x 10% = 1.400 đô la Mỹ

- Tổng số thuế Công ty V phải nộp tại Liên bang Nga (bao gồm cả thuế trực tiếp do Công ty V nộp trên cổ tức và thuế gián tiếp do Công ty N có vốn đầu tư của Công ty V nộp trên thu nhập công ty) là:

1.400 đô la Mỹ + 6.000 đô la Mỹ = 7.400 đô la Mỹ

- Số thuế Công ty V phải nộp tại Việt Nam theo quy định pháp luật hiện hành về thuế ở Việt Nam là:

20.000 đô la Mỹ x 25% = 5.000 đô la Mỹ

Trong trường hợp này, Công ty V chỉ được khấu trừ tối đa là 5.000 đô la Mỹ trong tổng số 7.400 đô la Mỹ đã nộp tại Liên bang Nga. Phần chênh lệch 2.400 đô la Mỹ (7.400 đô la Mỹ - 5.000 đô la Mỹ) không được phép khấu trừ vào số thuế đối với thu nhập trong nước (nếu có) của Công ty V.

2. Mặc dù theo quy định trên, Việt Nam chỉ thực hiện biện pháp khấu trừ thuế gián tiếp khi có cam kết tại Hiệp định, nhưng nếu theo quy định của luật Việt Nam, các khoản thu nhập từ nước ngoài của một đối tượng cư trú Việt Nam được khấu trừ thuế gián tiếp thì quy định này vẫn được thực hiện.

Ví dụ 73: Cũng với Ví dụ 72 nêu trên, giả sử việc đầu tư vào Công ty N tại Liên bang Nga là một Dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Công ty V theo quy định của pháp luật Việt Nam thì dù tỷ lệ đầu tư của Công ty V chiếm ít hơn 10% vốn cổ phần của Công ty N nhưng các biện pháp khấu trừ thuế gián tiếp vẫn được thực hiện (Điểm 21, Điều 7, Chương II, Thông tư số 123/2012/TT-BTC ngày 27/7/2012 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp số 14/2008/QH12 và hướng dẫn thi hành Nghị định số 124/2008/NĐ-CP ngày 11/12/2008, Nghị định số 122/2011/NĐ-CP ngày 27/12/2011 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp) mặc dù Hiệp định giữa Việt Nam và Liên bang Nga (Khoản 2, Điều 23: Biện pháp tránh đánh thuế hai lần) không quy định.

Mặc dù có các quy định như trên về thực hiện các biện pháp tránh đánh thuế hai lần, nhưng nếu theo quy định tại Hiệp định, các khoản thu nhập từ nước ngoài của đối tượng cư trú Việt Nam được miễn thuế tại Việt Nam thì khoản thu nhập này sẽ được miễn thuế và không được trừ số thuế đã nộp tại nước ngoài (tức là chỉ bị đánh thuế một lần và không phải áp dụng biện pháp tránh đánh thuế hai lần). Ví dụ như tiền học bổng của học sinh và sinh viên nước ngoài trong thời gian học tại Việt Nam (Mục 15. Thu nhập của sinh viên, thực tập sinh và học sinh học nghề, Chương II, Thông tư này).

Các quy định về các biện pháp tránh đánh thuế hai lần như trên được nêu tại Điều khoản Biện pháp tránh đánh thuế hai lần (thường là Điều 23) của Hiệp định.

Chương IV

TRÁCH NHIỆM VÀ QUYỀN HẠN CỦA NHÀ CHỨC TRÁCH CÓ THẨM QUYỀN

Điều 51. Nhà chức trách có thẩm quyền

Theo quy định tại Hiệp định, Nhà chức trách có thẩm quyền của phía Việt Nam trong Hiệp định thuế là Bộ trưởng Bộ Tài chính hoặc người đại diện được uỷ quyền của Bộ trưởng Bộ Tài chính.

Bộ trưởng Bộ Tài chính uỷ quyền cho Tổng cục Thuế thực hiện những trách nhiệm và quyền hạn quy định tại Điều 52.

Điều 52. Trách nhiệm và quyền hạn của Tổng cục Thuế trong việc thực hiện các quy định của Hiệp định

Để thực hiện các quy định của Hiệp định, Tổng cục Thuế được Bộ trưởng Bộ Tài chính uỷ quyền thực hiện những nhiệm vụ và quyền hạn sau:

1. Ban hành văn bản thông báo hiệu lực thi hành hoặc chấm dứt hiệu lực của từng Hiệp định trong lĩnh vực thuế sau khi có thông báo hiệu lực của Bộ Ngoại giao;

2. Tổ chức chỉ đạo và hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra các Cục Thuế, Chi cục Thuế và các tổ chức uỷ nhiệm thu trong việc thực hiện Hiệp định;

3. Là “Nhà chức trách có thẩm quyền” của Việt Nam trong việc xử lý các công việc liên quan đến Hiệp định, gồm:

a) Nghiên cứu và giải quyết các tranh chấp, khiếu nại, kiến nghị và các vấn đề liên quan trong quá trình thực hiện Hiệp định với Nhà chức trách có thẩm quyền của nước ký Hiệp định với Việt Nam thông qua thực hiện thủ tục thỏa thuận song phương quy định tại Hiệp định;

b) Trao đổi thông tin với Cơ quan thuế nước ngoài, khai thác các thông tin do Cơ quan thuế nước ngoài cung cấp và có trách nhiệm giữ bí mật thông tin theo quy định của Hiệp định;

c) Thực hiện các biện pháp hỗ trợ quản lý hành chính thuế theo quy định của Hiệp định và phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam.

Chương V

TỔ CHỨC THỰC HIỆN

Điều 53. Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 06 tháng 02 năm 2014, thay thế Thông tư số 133/2004/TT-BTC ngày 31 tháng 12 năm 2004 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện các Hiệp định tránh đánh thuế hai lần đối với các loại thuế đánh vào thu nhập và tài sản giữa Việt Nam với các nước có hiệu lực thi hành tại Việt Nam. Các thủ tục áp dụng Hiệp định được thực hiện theo quy định tại Luật Quản lý thuế và các văn bản hướng dẫn hiện hành.

Trong quá trình thực hiện nếu có vướng mắc, đề nghị các cơ quan, tổ chức, cá nhân phản ánh kịp thời về Bộ Tài chính để nghiên cứu giải quyết./.

Nơi nhận:
- Văn phòng Trung ương và các Ban của Đảng;
- Thủ tướng, các Phó Thủ tướng Chính phủ;
- Văn phòng Chủ tịch nước, Quốc hội;
- Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội;
- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc CP;
- Viện KSND tối cao;
- TAND tối cao;
- Kiểm toán Nhà nước;
- UBTW Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
- VP BCĐ Trung Ương về phòng chống tham nhũng;
- Cơ quan TƯ của các Đoàn thể;
- Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Sở Tài chính, Cục Thuế, Cục Hải Quan, Kho bạc nhà nước các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;
- Công báo;
- Cục Kiểm tra văn bản (Bộ Tư pháp);
- Website Chính phủ;
- Website: Bộ Tài chính, TCT;
- Các đơn vị thuộc Bộ Tài chính;
- Lưu: VT, TCT (VT, HTQT(3b)). Kiên

KT. BỘ TRƯỞNG
THỨ TRƯỞNG




Đỗ Hoàng Anh Tuấn

THE MINISTRY OF FINANCE
---------

SOCIALIST REPUBLIC OF VIET NAM
Independence - Freedom – Happiness
--------------

No. 205/2013/TT-BTC

Hanoi, December 24, 2013

 

CIRCULAR

GUIDING THE IMPLEMENTATION OF THE AGREEMENTS ON DOUBLE TAXATION AVOIDANCE AND PREVENTION OF TAX EVASION WITH RESPECT TO TAXES ON INCOME AND PROPERTY BETWEEN VIETNAM AND OTHER STATES OR TERRITORIES AND IN FORCE IN VIETNAM

Pursuant to the current legal documents on enterprise income tax, individual income tax;

Pursuant to Law on the conclusion, accession to and implementation of treaties No. 41/2005/QH11 dated June 14, 2005;

Pursuant to agreements on double taxation avoidance and prevention of tax evasion with respect to taxes on income and property between Vietnam and other countries or territories and in force in Vietnam;

Pursuant to Government’s Decree No. 118/2008/ND-CP defining the functions, tasks, powers and organizational structure of the Ministry of Finance;

At the proposal of General Director of Taxation;

The Minister of Finance promulgates Circular guiding the implementation of the agreements on double taxation avoidance and prevention of tax evasion with respect to taxes on income and property between Vietnam and other states or territories (hereinafter collectively referred to as the contracting states or states as the context requires ) and in force in Vietnam (hereinafter abbreviated to the agreements).

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

GENERAL PROVISIONS

Section 1. SUBJECTS AND SCOPE OF APPLICATION

Article 1. Subjects of application

This Circular regulates the subjects that are residents of Vietnam or of the Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam or of both.

1. Under the Agreements, the term “a resident of the Contracting State” means any person who, under the laws of that state, is liable to tax therein by reason of:

That person has an home, a period of residence in that State or any other criterion of similar nature, in the case of an individual; or

1.2. That person has a place of management, a registered office, or is established in that State or has any other criterion of similar nature, in the case of an organization; or

1.3. This term also includes the Government or local authorities of that State, in case where an Agreement provides.

2. According to the current laws on tax in Vietnam, the following persons are regarded as residents of Vietnam:

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

a) They are present in Vietnam for 183 or more days computed over one calendar year or 12 consecutive months as from the first day those persons arrive in Vietnam;

Individuals present in Vietnam as prescribed at this point means those who appear in the Vietnamese territory;

b) They have regular residences in Vietnam under one of two cases:

- Residences registered for permanent residence as prescribed by law on residence;

- Houses rented for residence in Vietnam as prescribed by law on dwelling house, with duration of rent contract is 183 days or more in taxable year.

If an individual has regular residence in Vietnam as prescribed at this point but practically he resides in Vietnam less than 183 days in taxable year and he fails to prove that he is resident of other State, he is resident in Vietnam.

Example 1: In 2010, one Japanese expert arrived Vietnam for work within 10 months.  Two months in 2010 (June and December), this expert on leave to visit his family.  In 2009, the expert lived and worked in Japan. Taxable year of Japan is from 01/4 to 31/3 of next year. So that, in 2010, Japanese expert has worked principally in Vietnam and regularly lived in Vietnam, and although he still has house and family in Japan and hold Japanese nationality, he is still considered as a resident of Vietnam for tax purpose. (Stated in Article 4, Clause 1, Agreement between Vietnam and Japan). However, in period from 01/2010 to 30/3/2010, expert is considered as resident of Japan for purpose of tax finalization in Vietnam and Japan.

2.2. Organizations established and operating under the laws of Vietnam.

3. In cases where a person is deemed to be a resident of both Vietnam and the Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam under the provisions of Clauses 1 and 2 of this Article, the residence position of such person shall be determined as follows:

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

The criteria in the following priority order shall serve as the basis for determining whether the person is a resident of Vietnam:

a) If that individual has a permanent home in Vietnam (either under his/her ownership or, for rented houses, his/her use right);

b) If that individual has permanent homes in both countries, but he/she has a closer economic relation in Vietnam such as: He has an employment, a business location, a place for personal property management or closer personal relations in Vietnam such as familial relation (relatives as father, mother, spouses, children, etc.), social relation (i.e. member of a social organization or professional association, etc.);

c) If it is impossible to determine in which State that individual has closer economic or personal relations or if he/she has no permanent home in either of the States but has a longer time of presence in Vietnam in the taxable year;

d) If that individual is regularly present in both Vietnam and the Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam or in neither of the States but he/she holds the Vietnamese nationality, or is determined as Vietnamese citizen under nationality principle in force in of Vietnam;

dd) If that individual holds the nationalities of both Vietnam and the Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam or of neither of the States, the Vietnamese competent authorities shall settle this question through mutual agreement procedure with the competent authorities of the other Contracting State.

3.2. For a subject not being individual:

Depending on specific provisions in each Agreement to determine a subject not being individual as resident of Vietnam. In the Agreements usually prescribe the following criteria:

a) If such subject is established or registered for operation in Vietnam, it shall be deemed to be resident of Vietnam; or

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

c) If such subject has place of effective management in Vietnam, it shall be deemed to be residents of Vietnam (place of effective management is normally the place where high-ranking officials or the leadership of enterprise meet to consider, discuss and make managerial decisions or where the most important accounting books are recorded and archived; or

d) If a subject is established or registered in both of States or has main offices or places of effective management in both of States, the Vietnamese competent authorities and competent authorities of the Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam will determine such subject to be resident of one of two States  through mutual agreement procedure. If two States fail to reach a mutual Agreement, that subject shall not be deemed as resident for tax of any State due to purpose of applying Agreement.

Provisions on residents above are stated at provision of resident (Usually Article 4) of the Agreements.

Article 2. The applied taxes

The applied taxes in Agreements are taxes on incomes and assets specified in each Agreement.

1. In the case of Vietnam, taxes in application scope of Agreement are:

a) Enterprise income tax; and

b) Personal income tax.

2. In the case of the Contracting States to an Agreement concluded with Vietnam, taxes in application of Agreements shall be specified at Article 2 of Agreements (Usually Clause 3 of Article 2).

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

“3. The existing taxes to which this Agreement shall apply are:

...

b) In State N:

i) Income tax;

ii) Corporation tax; and

iii) The local inhabitant taxes on income.”

According to provision above, if a local of State N has a local inhabitant tax on income of residents and non-residents  of State N, that local inhabitant tax on income will be in application scope of Agreement between Vietnam and State N.

Article 3. Immunities for members of diplomatic and consular missions

Under the Agreements, the provisions of the Agreements shall not affect the immunities of members of a diplomatic or consular mission prescribed in the international treaties which the Socialist Republic of Vietnam has signed or acceded to.

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

Section 2. PRINCIPLES FOR APPLICATION OF AGREEMENTS

Article 4. Principles for application of agreements

When applying, settling tax for each case, it must base on provision in each Agreement (included Protocol and/or exchange letters, if any).

Article 5. Application of Agreements, tax laws and relevant laws

1. In cases where there are disparities between the provisions of the Agreements and those of domestic tax laws, the provisions of the Agreements shall apply.

2. The Agreements shall not create new tax obligations or tax obligations that are different from or heavier than those prescribed by the domestic tax laws. Where an Agreement contains provisions under which Vietnam is entitled to tax a certain type of income or a certain tax rate but Vietnam’s tax law has not yet provided for the taxation of such income or provides for a lower rate, Vietnam’s tax law shall apply, it means non-collection of duty or collection of duty at the lower rate.

3. When Vietnam implements the provisions of an Agreement, at a certain time the terms which are not yet defined in the Agreement shall have the meanings provided for in Vietnam’s laws for the taxation purpose at such time. For a term which is not yet defined in Agreement and not yet defined or concurrently defined in Vietnamese law and law of the Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam, the competent authorities of two States shall resolve problem through mutual agreement procedures. For a term which is defined in tax laws and other laws, definition in tax laws will be applied for implementation of Agreement.

Article 6. Some cases of refusal for application of Agreements on the basis of the principle of Agreement beneficial right

Unless otherwise provided in Agreement on limitation of Agreement beneficial right, the Vietnamese taxation agencies shall refuse the request for application of Agreement in the following cases:

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

Example 3: In period from 2006 to 2012, every year, enterprise V of Vietnam has income from royalties in Malaysia and every year, it has paid tax in Malaysia as prescribed in Agreement between Vietnam and Malaysia. On 01/10/2012, enterprise V files to request tax deduction under Agreement between Vietnam and Malaysia for all tax amounts paid in Malaysia during 2006 to 2012. In this case, the Vietnamese tax agencies shall only consider tax deduction in Vietnam for the amounts paid for taxes arising in Malaysia in 3 years from 01/10/2009 to 01/10/2012.

2. When principal purposes of contracts or agreements are subjects entitled to tax exemption or reduction under Agreement.

3. The proposing person for application of Agreement is not beneficial owner incomes involving the tax amounts which are requested exemption, reduction under Agreement. The beneficial owner may be an individual, a company, or an organization but it must be subject entitled to own and control incomes, assets, or rights creating incomes. When considering to determine a subject as a beneficial owner, the taxation agencies shall consider all elements and circumstance involving that object on basis of principle “nature decides for form” because objective of Agreement is double taxation avoidance and prevention of tax evasion. In the following cases, a person will not be deemed as the beneficial owner:

a) When the proposing person is a non-resident person having obligation to distribute more than 50% of his income to a resident of third State within 12 months as from receiving income;

b) When the proposing person is a non-resident person having no (or almost having no) any business activity except for owner of assets or rights to create incomes;

c) When the proposing person is a non-resident person having business activity, but quantity of assets, business scale or quantity of employees are not proportional with the earned incomes;

Example 4: A bank of a state which has no agreement with Vietnam establishing a legal entity in France to borrow loans in Vietnam and requests for tax exemption for interests arising in Vietnam under the Tax Agreement between Vietnam and France. In this case, to determine the legal entity in France is eligible for application of Agreement or not, the Vietnamese taxation agencies shall base on amounts of loan, capability of legal entity in France (quantity and specialized qualification of employees, assets and other material facilities) to determine the proportionality between income and business scale of such legal entity. If income earned by this legal entity is very big while legal entity has only one office in France with several employees, the proposal for application of Agreement will be refused.

d) When the proposing person is a non-resident person having no (or almost having no) right to control or determine and not suffering or suffering very little risk for incomes or assets or rights to create incomes;

dd) When agreements of loaning or supplying royalties or technical services between the proposing person who is a non-resident and persons in Vietnam including conditions and provision in a other agreement which the proposing person is concluding with a third party but in that other agreement, the proposing person is the person who receives loans, royalties or technical services;

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

g) When the proposing person is an agent, an intermediate company (unless an agent, an intermediate company requested application of Agreement under authorization of a beneficial owner).

An agent or an intermediate company is a company established in a contracting State only for having a necessary legal form to be existed for purpose of tax avoidance or reduction or transfer of profit and not participate in principal business activities such as production, trading or service provision.

Article 7. Procedures for solving complaints under Agreement

Procedures for solving complaints under Agreements are stated in provision on mutual agreement procedures (usually Article 25) of Agreements.

1. For residents of the Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam

Where a person who is a resident of a Contracting State (hereinafter referred to as the complainant) assumes that Vietnamese tax agencies determined his tax obligation not in accordance with the provisions of this Agreement, he may present his case under the process prescribed in tax law or documents on solving complaints of Vietnam.

1.2. The complainant may not conduct complaint under the process stated in point 1.1 above and may directly present his case to the Vietnamese competent authorities prescribed in Article 51 of this Circular or competent authorities of the contracting State where he is tax resident to push up the process of mutual agreement procedures under Agreement. In this case, the complaint must be conducted within three years from the first notification of the taxation agencies resulting in taxation settlement which the complainant assumed that it is inconsistently with Agreement.

Example 5: On 01/6/2012, Mr. A, a resident of the Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam receives a decision on settlement of personal income tax issued by the Taxation Department in province H and he assumes that tax obligation stated in such decision is inconsistently with Agreement. After fulfilling obligations stated in Decision on handling tax, Mr. A has right to make complaints directly to the General Department of Taxation – as the Vietnamese competent authority – for solving his case.  Time limit for Mr. A to file complaint will be 3 years from 01/6/2012.

1.3. In order to make complaint under provisions at points 1.1 and 1.2 this Clause, the complainant must comply with the following regulations:

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

b) The Vietnamese competent authorities will do not solve complaints for cases: Complaints which have been or are being settled by Court; or are being or have been settled under the process of solving complaints of Vietnam; or complaints which are expired as prescribed in point 1.2.

2. For residents of Vietnam

If a resident of Vietnam assumes that a Contracting State has determined his tax obligation not in accordance with Agreement, he may request the Vietnamese competent authorities to conduct mutual agreement procedures as prescribed in Agreement. Before suggesting the Vietnamese competent authorities to conduct mutual agreement procedures, the complainant must fulfill obligations as notified at decisions on handling tax of Vietnamese tax agencies and tax agencies of the Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam in case required by law of such State. The requesting for the Vietnamese competent authorities to perform mutual agreement procedures must be conducted within three years since the Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam promulgates decisions on handling tax which the Vietnamese resident assumes that it is not appropriate with Agreement.

Chapter II

TAXES ON DIFFERENT TYPES OF INCOME

Section 1. INCOME FROM IMMOVABLE PROPERTY

Article 8. Definition of immovable property

Under the Agreements, the term “immovable property” shall have the meaning which it has under the laws of the Contracting State in which the property in question is situated and include property accessory to immovable property, livestock and equipment used in agriculture and forestry, rights to which the provisions of law respecting land apply, the right to use immovable property, the right to enjoy payments for the natural resource exploitation or the right to exploit natural resources. Ships, boats, aircraft shall not be regarded as immovable property.

Specifically, in the case of Vietnam, immovable property includes:

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

- Property accessory to immovable property above;

- Livestock and equipment used in agriculture and forestry;

- Rights applied under law on land in Vietnam;

- Rights to enjoy payments for the natural resource exploitation or the right to exploit natural resources.

Example 6: A foreign resident shall be regarded to have immovable property in Vietnam if such person owns immovable assets in Vietnam, such as dwelling houses, construction works in attached to land, including assets attached to those houses and construction works, or has the land use rights in Vietnam (according to the 2005 Civil Code’s Article 174: Immovable property and movable property) and if such person has a cattle herd in Vietnam directly related to such land use rights, this cattle herd shall be also regarded as immovable property in Vietnam.

Article 9. Determination of tax obligation for incomes from immovable property

Under the Agreements, all types of income earned by a resident of a Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam from the direct use, exploitation or leasing of assorted immovable property in Vietnam, including also immovable property of enterprises or independent service-providing individuals, shall be taxed in Vietnam in accordance with Vietnam’s current tax law.

Example 7: Overseas Vietnamese person X is a resident of Singapore owns a house in Vietnam and uses it for leasing.  Income from the leasing of this house shall be taxed in Vietnam though such person is not present in Vietnam throughout the taxable period.

The above-mentioned provisions on taxation on income from immovable property are included in the Article Income from immovable property (usually Article 6) of the Agreements.

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

Article 10. Definition of business income

Under the Agreements, business income means income of enterprises of the Contracting States (hereinafter called foreign enterprises) carrying out production and business activities in Vietnam, excluding the types of income mentioned in Section 1 and Sections from 3 through 17, Chapter II, of this Circular.

Article 11. Determination of tax obligation for business income

1. Cases where foreign enterprises carrying on production and business activities in Vietnam without forming legal persons in Vietnam.

Tax obligation

Under the Agreements, business income of a foreign enterprise shall be taxed in Vietnam only if such enterprise has a permanent establishment in Vietnam and such income is directly or indirectly related to that permanent establishment.  In this case, the foreign enterprise shall be taxed in Vietnam only on the portion of income apportioned to such permanent establishment.

1.2. Definition of permanent establishment

1.2.1. Under the Agreements, “permanent establishment” means a fixed place of business of an enterprise, through which the business of the enterprise is wholly or partly carried on.

An enterprise of a Contracting State shall be regarded to have a permanent establishment in Vietnam if it fully satisfies the following three conditions:

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

b) This establishment must be fixed, i.e. it must be established at a specified place and/or maintained on a permanent basis.  The fixedness of a business establishment must not necessarily mean that such establishment must be attached to a specific geographical point for a certain length of time; and

c) The enterprise carries on wholly or partly business activities through this establishment.

Example 8: Chinese company X opens a stall in a Tet (New Year) market place in Vietnam, through which it sells goods items.  Then, this stall shall be regarded as a permanent establishment of company X in Vietnam.

1.2.2. An enterprise of the Contracting State shall be regarded to conduct business activities through a permanent establishment in Vietnam in the following major cases:

a) That enterprise has in Vietnam: place of management, branch (such as branch of a law firm, branch of a foreign office, branch of a tobacco company, branch of a bank, etc.), office (including commercial representative office authorized to negotiate and sign commercial contracts), factory, workshop, mine, oil or gas well, forwarding storehouse, a place of exploration or exploitation of natural resources, or has equipment, facilities used for the exploration and exploitation of natural resources in Vietnam.

Example 9: A foreign subcontractor that uses means, equipment and labor for participation in oil and gas exploration activities in Vietnam shall be regarded to conduct business through a permanent establishment in Vietnam.

b) That enterprise has in Vietnam a building site, a construction, installation or assembly project, or carries on supervisory activities in connection therewith, provided that such site, project or activities last for more than 6 months or 3 months (depending on each Agreement) in Vietnam.

Building sites, construction or installation projects include the building site, construction of houses, roads, bridges, sewerage, installation of pipelines, excavation, dredging, etc. The period (of 6 months or 3 months) is calculated from the date the contractor commences the preparation for the construction in Vietnam, such as establishing its office, planning the construction design, until the completion and transfer of the entire construction project in Vietnam, including the time of discontinuance of the project for any reasons.

Sub-contractors of the Contracting State participating in the aforementioned construction or installation projects shall be also regarded to conduct business in Vietnam through permanent establishments if they meet all conditions stated at Point 1.2.1 above.

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

Example 10: Japanese company Z wins the bid for building a bridge in Vietnam. Bridge-building activities proceed as follows: 5 months of building bridge piles by sub-contractor Y that is also a Japanese company and 3 months of building the bridge floor and finishing by contractor Z itself.  In this case, according to Article 5 Clause 3 of Agreement between Vietnam and Japan, company Z shall be regarded to conduct business in Vietnam through a permanent establishment because the total time of building the bridge is 8 months (5 months + 3 months); company Y is not deemed as a permanent establishment in Vietnam.

c) That enterprise provides services including also consulting services in Vietnam through its staff or another person, provided that these services in a related Vietnam-based project or projects last in a period or periods exceeding 183 days in each 12-month period.

Example 11: A Sweden aircraft-manufacturing company D entered into an aircraft maintenance service contract with Vietnam Airlines.  Under this contract, in period from 01/6/2010 to 30/5/2011, it sent teams of technical experts to Vietnam to work for a total of 190 days.  So, according to Clause 4 Article 5 of Agreement between Vietnam and Swedish, the company D shall be regarded to have a permanent establishment in Vietnam because teams of technical experts to Vietnam to work for a duration exceeding 6 months in 12-month period.

Example 12. A Japanese Consultancy Company N signs an consultancy contract with investor of project on construction of power plant V in Vietnam as follow: i) contract of consultancy service for power plant construction is prolonged 4 months from 01/8/2010 to 30/11/2011 and ii) contract of consultancy service for installation is prolonged 3 months from 01/01/2011 to 31/3/2011. Both of contracts require the presence of representation of Consultancy Company N at the construction and installation site of power plant V in order to carry out the work during time limit of contract. To perform consultancy contract for power plant installation, the consultancy company N has hired a Japanese consultancy company B for performance as representative for company N.  In this case, according to Clause 4 Article 5 of Agreement between Vietnam and Japan, the consultancy company N shall be regarded to have a permanent establishment in Vietnam because the presence of representative of Company at project in Vietnam exceeds 6 months in 12-month period. The consultancy company B shall be not regarded to have a permanent establishment in Vietnam because its presence in Vietnam does not exceed 6 months.

Example 13: With assumptions as example 12, if the consultancy company B and investor of project entered into a consultancy agreement in the course of test operation from 01/4/2011 to 30/7/2011. Contract requires representative of Consultancy Company B to present during time limit of contract at the site of test operation of power plan V. In this case, according to clause 4 Article 5 of Agreement between Vietnam and Japan, the Consultancy Company B shall be regarded to have a permanent establishment in Vietnam because the presence of its representative in Vietnam exceeds 6 months in 12-month period.

Involving service supply, although Agreement prescribed that a permanent establishment includes supply of services in which have consultancy service in Vietnam through employees of enterprise or other and provided that the services above in a project or concerned projects that are prolonged in Vietnam in a duration or many durations aggregating more than 183 days in each 12-month period, but because nature of service, time of service supply does not prolong more than 6 months in a 12-month period, while three conditions of permanent establishment at point 1.2.1 above still satisfy, the service supply still be regarded to have a permanent establishment in Vietnam. 

Example 14: Sweden aircraft-manufacturing company D entered into an aircraft maintenance service contract with Vietnam Airlines for two years. Under this contract, annually, it sends teams of technical experts to Vietnam to work for a total of 90 days at location of aircraft maintenance.  In this case, according to Clause 1 Article 5 of Agreement between Vietnam and Swedish, the company D shall be regarded to have a permanent establishment in Vietnam because annually teams of technical experts to Vietnam to work at a fixed location in Vietnam (place where aircraft are maintained).

d) That enterprise has in Vietnam a brokerage agent, a commission agent or any other agent, and such agents devote wholly or most of their agency activities for that enterprise (dependent agent).

Example 15. Company V, a resident of Vietnam, signs an agency contract for storage and delivery of paint products with company H, a resident of the Great Britain. Under this contract, company V is not allowed to act as agent for another paint manufacturer or distributor.  In this case, though having no function to sign contracts or collect money in Vietnam, company V has become a dependent agent of Company H, not independent.  Under the Vietnam-Great Britain Agreement (Clause 6 or Article 5: Permanent establishment), company H shall be regarded to have a permanent establishment in Vietnam.

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

- An authority to habitually negotiate and conclude contracts in the name of the enterprise; or conclude contracts in his name but bind obligations and duties of that enterprise; or

- No such authority, but the right to habitually represent that company to deliver goods in Vietnam.

1.2.3. A foreign enterprise shall not be regarded to have a permanent establishment in Vietnam in the following cases:

a) That enterprise uses facilities in Vietnam solely for the purpose of storage, display of its goods.

b) That enterprise has a stock of goods in Vietnam solely for the purpose of storage, display or of processing by another enterprise.

c) That enterprise has a fixed place of business in Vietnam solely for the purpose of purchasing goods or collecting information for the enterprise.

d) That enterprise has a fixed place of business in Vietnam solely for the purpose of carrying on preparatory or auxiliary activities for the enterprise.

1.2.4. In cases where a resident of the Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam controls, or is controlled by, a company that is a resident of Vietnam, or is conducting business in Vietnam (possibly through a permanent establishment or in other forms), neither of the companies shall become a permanent establishment of another company.

Example 16: A foreign enterprise contributes its capital to a joint-venture company or a company with 100% foreign capital in Vietnam.   Then, the joint-venture company or the company with 100% foreign capital shall not be regarded a permanent establishment of that foreign enterprise.

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

- Joint-venture company or company with 100% foreign capital usually negotiates, signs contract in name of such contract; or signs contracts in name of Joint-venture company or company with 100% foreign capital but binding obligations or duties of foreign company; or

- Joint-venture company or company with 100% foreign capital usually represent for foreign company to deliver goods in Vietnam; or

- That foreign company has right to determine the material-technical facilities of Joint-venture company or company with 100% foreign capital during production and business (that is case where foreign company use the material-technical facilities of Joint-venture company or company with 100% foreign capital in Vietnam (if any) during production and business not on the basis of the price market principle).

1.3. Determination of taxable incomes of permanent establishments

1.3.1. The determination of the taxable income of the permanent establishment of foreign enterprises, exclusive of foreign banks’ branches in Vietnam as guided at point 1.3.3 below, shall comply with documents guiding the implementation of enterprise income tax in respect to foreign organizations and individuals doing business without establishment of a legal entity or earning incomes in Vietnam.

1.3.2. When determining expenditures apportioned by the headquarters of foreign enterprise or offices of foreign enterprise to a permanent establishment in Vietnam, the permanent establishment shall be regarded as an independent enterprise jointly conducting the same or similar activities under the same or similar conditions totally independent from its headquarters of foreign enterprise or offices of foreign enterprise. However, in al case, the below apportions from the headquarters of foreign enterprise or offices of foreign enterprise to a permanent establishment in Vietnam shall not be recognized as expenditures for deduction:

- Royalties or similar payments for use of patents or similar rights;

- Commission for services or management jobs;

-  Loan interests under any form.

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

- Royalties or similar payments for use of patents or similar rights;

- Commission for services or management jobs;

Provisions on tax for incomes from business above are stated in Article business income (usually Article 7) of the Agreements.

2. Cases where foreign enterprises carry on production and business activities in Vietnam through forming legal persons in Vietnam.

According to Vietnam’s current laws, foreign enterprises may conduct business in Vietnam through forming such legal persons in Vietnam as joint-venture enterprises or enterprises with 100% foreign capital.

Under the Agreements, these legal persons are obliged to pay tax on incomes from their production and business activities like other Vietnamese enterprises in accordance with the current provisions of the enterprise income law.  Particularly, incomes that are earned by foreign enterprises in the form of profit divided to investors or income from the transfer of contributed capital amounts (if any) shall comply with the provisions of the relevant articles of the Agreements on Dividends or Income from Alienation of Property.

Example 17: A Chinese company T contributes capital to a joint-venture company X in Vietnam.  In 2009, Joint venture X earned VND 100 million which is profit from its business activities; after paying enterprise income tax in Vietnam at the tax rate of 25%, all after-tax profit is divided under rate of capital contribution. In 2010, Company T sold 50% of its contributed capital in joint venture X and collected VND 3 billion and VND 50 million as interests of loan which it supply for Joint venture X. Tax obligation of joint venture X and company T in 2010 as follows:

- Joint venture X pays enterprise income tax as other Vietnamese enterprises. Specified:

Enterprise income tax = VND 100 million x 25% - VND 25 million

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

+ For divided after-tax profit (VND 75 million x 70%): To pay tax for dividends (guide in section 4. Dividends, Chapter II, this Circular);  

+ For income from transfer of contributed capital (VND 3 billion): To pay tax for income from Alienation of Property (guide in section 8. Income from Alienation of Property, Chapter II, this Circular);

+ For income from loan interests (VND 50 billion): To pay tax for income from loan interests (guide in section 5. Income from loan interests, Chapter II, this Circular). 

Section 3. INCOME FROM INTERNATIONAL TRANSPORT

Article 12. Definition of international transport

Under the Agreements, international transport means activities of carrying  cargoes, passengers by ship or aircraft (some cases specified in each particular Agreement may also include means of road transport, railway transport, inland waterway transport (hereinafter referred collectively to as transport means), performed by enterprises of the Contracting State, except for the case these transport activities take place only between two places in Vietnam or in the Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam.

Example 18: A Japanese company transports cargoes and passengers in Vietnam.  The following passenger and cargo transport activities of this enterprise shall be regarded as international transport:

- Carriage of cargoes and passengers from a place in Vietnam to a place in Japan (including also the carriage of cargoes and passengers from Hai Phong via Ho Chi Minh City and Osaka to Tokyo);

- Carriage of cargoes and passengers from a place in Vietnam to a place outside Vietnam (for example, Singapore);

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

Article 13. Identification of beneficial owners for incomes from international transport

Depending on each Agreement, international transport enterprises of the Contracting State shall be identified according to the following criteria:

1. Enterprises are managed by residents of Vietnam or of the Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam, or

2. Enterprises have a place of effective management in Vietnam or in the Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam; provided that these enterprises own or have the right to use at least the whole of a transport means and use such means for cargo and/or passenger transport on international traffic routes (called transport means directly managed by enterprises).

Article 14. Determination of income from international transport

Depending on the provisions of each Agreement, income derived from international transport of persons stated in Article 13 shall enjoy tax reduction or exemption in Vietnam or in the Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam.

The scope of application of tax exemption or reduction in Vietnam to enterprises of the Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam covers:

1. Income from international transport by transport means of directly managed by enterprises and from auxiliary activities attaching to such international transport, specifically:

Turnover from international transport by transport means directly managed by enterprises which issue transport documents (tickets, bills of lading or passenger and cargo transport manifests).

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

Example 19: Japanese shipping company A agrees to transport cargoes of company C from Vietnam to Holland with the freight of USD 300.  As shipping company A has no ship under its direct management, it charters a space aboard a ship of shipping company B of Thailand at the freight of USD 250.  Apart from the above-said carriage of cargoes for shipping company A, shipping company B also directly transports cargoes of other customers on the same trip with the freight of USD 200.  In this case:

- For shipping company A: the amount of USD 300 earned from the transport of cargoes for Company C or the amount of USD 50 earned as a difference from its transport of cargoes for Company C and charter of a space aboard the ship of company B shall all be regarded as income from international traffic by sea-going ship so as to enjoy exemption or reduction under the Vietnam-Japan Agreement because Company A does not directly manage the ship (just buying a space aboard the ship of shipping company B). Therefore, it is still liable to full payment of enterprise income tax.

- For shipping company B: the freight of USD 450 shall be regarded as income from international transport entitled to tax reduction under the Vietnam-Thailand Agreement (a 50% reduction of payable enterprise income tax)

1.3. Turnover from the carriage of cargoes or passengers when the enterprises enter into partnerships to operate on international traffic routes, provided that the enterprises enter into the partnerships on the basis of contributing transport means directly managed by the enterprises or contributing funds for the operation of the transport means directly managed by the partnerships and the involved parties use separate transport documents.  In this case, turnover shall be determined on the basis of transport documents issued by the enterprises of the partnerships but must not exceed the space limits of the transport means which the enterprises may exploit in accordance with the partnership agreements.

1.4. Turnover from the carriage of passengers or cargoes by transport means managed by other enterprises, with international transport documents issued by the enterprises under either of the following two conditions:

a) Such carriage stage is part of the international traffic trip by ship or aircraft directly managed by the enterprises and is stated in the transport documents issued by the enterprises themselves;

Example 20: Using example 10 above, Japanese shipping company A agrees to transport cargoes of company C from Vietnam to Holland with the freight of USD 300.  Yet, shipping company A has ship A1 under its direct management and this ship transports cargoes at the second stage from Singapore to Holland.  For the first stage from Vietnam to Singapore, company A has to hire shipping company B of Thailand to transport the cargoes with the freight of USD 50.

- For shipping company A: the freight of USD 250 (300- 50) shall be regarded as income from international transport entitled to tax reduction under the Vietnam-Japan Agreement.

- For shipping company B: the freight of USD 50 shall be regarded as income from international transport entitled to tax reduction under the Vietnam-Thailand Agreement (a 50% reduction of payable enterprise income tax).

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

1.5. Income from the short-term letting (keeping) of containers as an auxiliary activity attaching to the operation of the transport means directly managed by enterprises, if prescribed in the Agreements.

The nature of auxiliary activity attaching to the operation of transport means of the short-term letting (keeping) of containers shall be determined to be containers accompanying the transport means entering a Vietnamese port, containers currently containing import cargoes and the container use charge is included in the freight; income from the short-term letting of containers arises because the goods recipients keep containers beyond the time limit for free-of-charge use.

1.6. Turnover from the charter of bare ships or aircraft (called bareboat charter) which is auxiliary to the international traffic operation of the transport means directly managed by the enterprises, if it is specified in the Agreements and fully meets the following three conditions:

a) The transport means is being used by the enterprise in international transport; and

b) The total chartering time is shorter than the time the transport means is operated for international transport by the enterprise itself within 12 months starting or ending the calendar year; and

c) The charterer must not change the name and call signals of the transport means.

Bareboat charter means that the charter of a ship whereby the chartered supplies the charterer a specific ship not including entire ship or crew.

Turnover mentioned at Points 1.5 and 1.6 above shall not be regarded as turnover from auxiliary activities attaching to international transport for application of the Agreements if enterprises do not derive any turnover items stated at Point 1.1, 1.2, 1.3 or 3.1.4.

2. Where two or more enterprises carry on partnership activities in order to create a partnership without legal person status to carry on international traffic activities with transport means directly managed by the partnership and transport documents issued in the name of such partnership, the identification of the scope of tax exemption and reduction under an Agreement shall be made separately for each party to the partnership under the Agreement concluded between Vietnam and the country of which the party to the partnership is a resident or in which the party to the partnership has its place of effective management.   The bases for determination of turnover entitled to tax exemption or reduction shall be similar to those stipulated at Clause 1 and such turnover shall be apportioned according to the percentage of turnover divided to the party to the partnership in accordance with the partnership contract or agreement.

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

When declaring their tax obligations, the above-said enterprises must separately account the aforesaid income items for consideration of enterprise income tax exemption or reduction in accordance with the provisions on income from international transport. In all cases, turnover considered for tax exemption or reduction must not exceed the enterprise income tax-liable turnover of international transport in accordance with relevant regulatory documents.

Where an Agreement (like the Agreements with Bangladesh, Thailand and the Philippines) stipulates only a percentage of income tax reduction, enterprises shall have to pay income tax on income from international transport according to the non-reduction percentage.

The above-said provisions on taxation on income from international transport are included in the Article International transport (usually Article 8) of the Agreements.

Section 4. INCOME FROM DIVIDENDS

Article 15. Definition of dividends

Under the Agreements, dividends mean amounts deducted from the after-tax incomes of limited liability companies, joint-stock companies and paid to members of limited liability companies, shareholders, amounts deducted from after-tax incomes of joint-venture enterprises, enterprises with 100% foreign capital and paid to foreign parties, incomes derived from overseas (indirect) investment activities (excluding loan interests under the provisions of Section 5, Chapter II, this Circular) by residents of Vietnam, and Vietnamese enterprises’ divided incomes from overseas direct investment, which are treated by the Contracting States like dividends.

Example 22: Vietnamese enterprise S invests in States X and Y and the situation of its income and tax payment according to the regulations of States X and Y is as follows.

No.

 

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

State X

1

2

3

4

5

Pre-tax income

Income tax of 28%

After-tax Income

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

Actually received income

100

28

72

14.4 (tax rate of 20%)

57.6

100

28

72

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

72

So, enterprise S is regarded to have overseas dividends of 72 within the scope of the Agreement with State X and to have no overseas dividends within the scope of the Agreement with State Y.

Article 16. Determination of tax obligation for incomes from dividends

1. Under the Agreements, Vietnam is entitled to tax dividends paid by a company being a resident of Vietnam to a resident of the Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam at the limit rate set in each Agreement (usually not exceeding 15%, provided that the recipient is the beneficial owner.

2. Where a resident of Vietnam receives dividends of a company being a resident of the Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam, the Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam shall be entitled to impose income tax in accordance with the provisions of Clause 1 this Article and Vietnam shall be entitled to tax this income in accordance with Vietnam’s current tax law; but at the same time Vietnam must apply methods for elimination of double taxation on this income (provided for in Chapter III. Methods for elimination of double taxation in Vietnam, of this Circular).

3. Where a resident receives dividends which, under Vietnam’s current tax law, are not subject to income tax or are subject to income tax at a rate lower than that prescribed in the Agreement, such resident shall fulfill the tax obligation prescribed by Vietnam’s current tax law.

Example 23. A British company invests USD 14 million in a joint-venture company in Vietnam and in 2010 it received dividends from joint venture in Vietnam.   Although under the Vietnam-Great Britain Agreement (Clause 2.a of Article 10: Dividends), Vietnam is entitled to tax such income at the rate of 7%. But according to its current laws, Vietnam does not tax this income, so the British company does not have to pay tax on the above-said income from dividends.

Article 17. Identification of beneficial owners for incomes from dividends under Agreement

Under the Agreements, the provisions on taxation on dividends shall apply only to residents being recipients, beneficial owners of the benefits of shares, namely shareholders.  Therefore, apart from some cases of not being entitled to enjoy benefit under Agreement defined in Article 6. Some cases of refusal for application of Agreement on the basis of principle of enjoying benefit under Agreement, the reduced tax rates or tax exemption for incomes from dividend prescribed in Agreements shall not apply to:

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

Example 24: An investment fund registered in State S (established by members being residents of Contracting States to Agreements concluded with Vietnam) participates in capital contribution for establishment of Joint venture Company V in Vietnam. That investment fund is not a resident of State S. The received dividends from investment fund of joint venture company V and the received incomes by members contributing capital in investment fund from the dividends divided by investment fund are not applied Agreements between Vietnam and State S and States in which members are residents.

2. Dividends paid by companies being residents of Vietnam to the Vietnam-based permanent establishments of the residents of the Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam.

Example 25. Bank branch CV, a Vietnam-based branch of French bank C, purchases shares of a Vietnamese joint-stock company and is divided a dividend.  At the request of CV branch, such dividend is directly remitted to bank C headquartered in Paris.  In this case, the beneficial owner of the dividends is branch CV, not bank C. Because branch CV is a Vietnam-based permanent establishment of bank C so, under the Vietnam-France Agreement (Clause 5 of Article 10: Dividends), the provisions on taxation on dividends shall not apply to bank C but the provisions on taxation on income from business activities shall apply (Article 7: Enterprise profits, the Vietnam-France Agreement).

3. Dividends paid by a company being a resident of Vietnam to another Vietnamese company’s permanent establishment based in the Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam.

Example 26. Vietnamese bank V has a branch VC in State L, the Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam.  According to the laws of State L, branch VC is regarded as a permanent establishment of bank V in such State.  Branch VC purchases shares of a Vietnam-based company and receives dividends therefrom.  In this case, the provisions on taxation on dividends in the Vietnam-L Agreement shall not be applied

The above-said provisions on taxation on dividends are included in the Article Dividends (usually Article 10) of the Agreements.

Section 5. INCOME FROM LOAN INTERESTS

Article 18. Definition of loan interests

Under the Agreements, “loan interest” means income from money amounts lent in any forms, secured or not secured by mortgage and with or without the borrower’s right to enjoy profits, and especially income from government securities and income from bonds or debentures, including also premiums and prizes attaching to such securities, bonds or debentures.

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

1. Under the Agreements, Vietnam is entitled to tax interest arising in Vietnam and paid to a resident of the Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam at a limit rate (usually not exceeding 10%), depending on each Agreement, provided that the recipient is the beneficial owner.

Interest arising in Vietnam means interest from lent money which is borne and paid by any resident of Vietnam, including interest borne and paid by the Vietnamese government and Vietnamese local authorities or Vietnam-based permanent establishments or fixed places of foreign residents.

Example 27. Bank branch QT, a Vietnam-based branch of Thai bank Q, pays to bank Q an interest.  Because branch QT is a Vietnam-based permanent establishment of bank Q, this interest, under the Vietnam-Thailand Agreement, is regarded as arising in Vietnam and being taxed in Vietnam at the rate of 10% (Clause 2.a of Article 11: Loan interest).  However, this tax rate is equal to 5% that prescribed in Vietnam’s current income tax documents. So, Vietnam is entitled to collect tax only at the rate of 5%.

2. In cases where a resident of Vietnam receives an interest arising in the Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam, such Contracting State is entitled to tax at source such income as stipulated at Clause 1 above and Vietnam is also entitled to tax this income in accordance with Vietnam’s current tax law but, at the same time, Vietnam must apply methods for elimination of double taxation on this income (prescribed in Chapter III. Methods for elimination of double taxation in Vietnam, of this Circular).

3. In cases where Vietnam’s current tax law does not provide for the taxation on this type of income or provides for the taxation at a rate lower than that prescribed in an Agreement, the income earners shall fulfill the tax obligation prescribed by Vietnam’s current tax law.

Example 28: Using example 17 above, but with the assumption that the interest is paid to a resident being an individual in Thailand.  Though, under the Vietnam-Thailand Agreement (Clause 2.b of Article 11: Interest), Vietnam is entitled to tax this income at the rate of 15%. But according to Vietnam’s current income tax law, the applicable tax rate is 5%.  So, Vietnam collects tax only at the rate of 5%, instead of 15%.

Article 20. Identification of beneficial owners for incomes from interest under Agreement

Under the Agreements, the provisions on taxation on income being interest shall apply only to persons directly supplying loans, directly receiving interests and concurrently being beneficial owners of such interests, i.e. lenders.

Example 29. A Vietnamese company signs a contract borrowing capital with a Korean Bank H. Under contract, Vietnam company receives principal from and pay both the principal and interest to bank H in an account of Bank H opened in Bank C of State C. In this case, the beneficial owner of the interest is Korean bank H, regardless where State C, has concluded a Double taxation agreement with Vietnam or not.

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

Example 31: Using example 30 above with an assumption that Company A pay the interest under the way (iii) as follows: Company A pays all the interest to bank E, after that, the interest is divided under agreement of lenders (Banks C, D and E). In this case, Banks C, D and E are not subject to apply Agreement.

Apart from some cases of not being entitled to enjoy benefit under Agreement defined in Article 6. Some cases of refusal for application of Agreement on the basis of principle of enjoying benefit under Agreement, the reduced tax rates or tax exemption for incomes from the interest prescribed in Agreements shall not apply to:

1. Recipients of paid interests, which are not lenders.

Example 32: A Vietnamese company pays an interest to Thai Bank C.  At the request of this bank, this interest is remitted to French bank P headquartered in Paris.  In this case, the beneficial owner of the interest is Thai bank C, not French bank P.  So, bank P is not entitled to request the application of the provisions of the Vietnam-France Agreement to this interest.

2. Interest arising in Vietnam and paid to a Vietnam-based permanent establishment of a resident of the Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam.

Example 33. A Vietnamese company pays the interest to Vietnam-based branch V of foreign bank C being resident of Thailand.  In this case, the interest received by foreign bank’ branch V shall be regarded as a normal business income (not income from interest) of foreign bank’ branch V in Vietnam according to provisions of Thailand-Vietnam Agreement.

3. Interest arising in Vietnam and paid to another Vietnamese company’s permanent establishment situated in the Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam.

Example 34. Vietnamese bank V has a branch VC in State L, the Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam.  According to the laws of State L, branch VC is regarded as a permanent establishment of bank V in such State.  Branch VC grants a loan to a Vietnam-based company and receives an interest thereon.  In this case, the provisions on taxation on interests in the Vietnam- L Agreement shall not be applied.

4. Interest arising in Vietnam and paid to a permanent establishment of an enterprise of a third State situated in the Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam.

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

5. The lent money is not transferred directly from account of the lender being resident of Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam.

Example 36: Using example 30 above with an assumption that all the lent money under contract is transferred to Company A from account of Bank E; then, the interest arising on this lent money will not subject to application of Agreements.

The above-said provisions on taxation on interest are included in the Article Interest (usually Article 11) of the Agreements.

Section 6. INCOME FROM ROYALTIES

Article 21. Definition of royalties

Under the Agreements, royalties mean amounts paid for the use of or the right to use:

1. Copyright of literary, artistic or scientific work including cinematographic films, photograph films or tapes used for radio or television broadcasting;

2. Patent and invention;

3. Trademark;

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

5. Computer software;

6. Industrial, commercial or scientific equipment;

7. Information related to industrial, scientific or commercial experiences.

Article 22. Determination of tax obligation for incomes from dividends

1. Under the Agreements, Vietnam is entitled to tax royalties arising in Vietnam and paid to a resident of the Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam at a limit rate (usually not exceeding 10%), depending on each Agreement, provided that the recipient is the beneficial owner.

Royalties arising in Vietnam mean royalties borne and paid by any resident of Vietnam, including those borne and paid by the Vietnamese Government and local authorities or Vietnam-based permanent establishments or fixed places of foreign residents.

2. Where a resident of Vietnam receives a royalty arising in the Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam, such Contracting State is entitled to impose income tax thereon as stipulated at Clause 1 above and Vietnam is also entitled to tax this income in accordance with Vietnam’s current tax law but, at the same time, Vietnam must apply methods for elimination of double taxation on this income (prescribed in Chapter III: Methods for elimination of double taxation in Vietnam of this Circular).

Example 37: A lubricant-making joint venture in Vietnam signs with a Korean company a contract which stipulates that this company transfers to the Vietnamese joint venture its lubricant-making formula for 20 years.  When the Vietnamese joint venture pays the royalty to the Korean company, it must, according to Vietnam’s tax law, deduct 10% of the total of such royalty for remittance into the budget.  However, under the Vietnam-Korea Agreement (Clause 2.a of Article 12: Royalties), this joint venture must make a deduction at 5% only, instead of 10%.

3. Where Vietnam’s current tax law does not provide for the taxation on this type of income or provides for the taxation at a rate lower than that prescribed in the Agreements, the income earners shall fulfill the tax obligation prescribed by Vietnam’s current tax law.

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

Article 23. Identification of beneficial owners for incomes from royalties under Agreement

Under the Agreements, the provisions on taxation on royalties shall apply only to persons directly receiving and concurrently being beneficial owners of royalties, i.e. persons having the right to own, use or exploit copyright.  And, therefore, shall not apply to:

1. Recipients of paid royalties, which are not persons having the right to own, use or exploit copyright; or

2. Royalties arising in Vietnam and directly related to a Vietnam-based permanent establishment of the beneficial owner being a resident of the Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam; or

3. Royalties arising in Vietnam and paid to another Vietnamese company’s permanent establishment situated in the Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam.

Example 39: A Vietnam-based branch of a British tobacco company permits a Vietnamese company to use the formula and trademark of the British tobacco company in the Vietnamese company’s products on the condition that the branch inspects and monitors the use process.  In this case, the royalty from the use of the formula and trademark of the British tobacco company is directly related to the branch.  Because the branch is a Vietnam-based permanent establishment of the British tobacco company, under the Vietnam- Great Britain Agreement (Clause 4 of Article 12: Royalties), Vietnam is entitled to tax this income in the same manner applicable to business income (Article 7: Business profits, of the Vietnam-Great Britain Agreement).

The above-said provisions on taxation on royalties are included in the Article Royalties (usually Article 12) of the Agreements.

Section 7. INCOME FROM THE PROVISION OF TECHNICAL SERVICES

Article 24. Definition of technical service charges

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

Article 25. Determination of tax obligation for incomes from technical services

1. Under the Agreements, Vietnam is entitled to tax technical service charges arising in Vietnam and paid to a resident of the Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam at a limit rate (usually not exceeding 10%), depending on each Agreement, provided that the recipient is the beneficial owner.

Technical service charges arising in Vietnam mean payments borne and made in any forms by any resident of Vietnam, including those borne and paid by the Vietnamese Government and local authorities or Vietnam-based permanent establishments or fixed places of foreign residents.

Example 40: Company X, a resident of Vietnam, specializes in producing canned fruits.  In order to expand its outlets to Europe, it hires company M in Germany to give legal advice on the procedures for opening a branch or finding a sale agent.  This consultancy service is provided in Germany and company M has no permanent establishment in Vietnam.

In this case, when paying service charges to company M, company X must deduct an enterprise income tax at a rate not exceeding 7.5% according to the Vietnam-Germany Agreement (Clause 1.b of Article 12: Royalties and technical service charges).

2. Where a resident of Vietnam receives a technical service charge arising in the Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam, such Contracting State is entitled to impose income tax thereon as stipulated at Clause 1 above and Vietnam is also entitled to tax this income in accordance with Vietnam’s current tax law but, at the same time, Vietnam must apply methods for elimination of double taxation on this income (prescribed in Chapter III: Methods for elimination of double taxation in Vietnam, of this Circular).

The above-said provisions on taxation on technical service charges are included in the Article Technical service charges (usually Article 13) of the Agreements.

Section 8. INCOME FROM THE ALIENATION OF PROPERTY

Article 26. Definition of income from the alienation of property

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

Article 27. Definition of tax obligation for income from the alienation of property

1. Tax obligation for income from the alienation of immovable property in Vietnam

Under the Agreements, Vietnam is entitled to tax income derived from the alienation of immovable property in Vietnam by a resident of the Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam in accordance with Vietnam’s current tax law.

Example 41: A French oil-exploiting firm transfers its right to exploit oil at a location in Vietnam’s sea; income derived therefrom shall be taxed in accordance with Vietnam’s law.

2. Tax obligation for Income from the alienation of movable property being business property of a Vietnam-based permanent establishment

Under the Agreements, Vietnam is entitled to tax income earned from the alienation of business property by a Vietnam-based permanent establishment of a resident of the Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam in accordance with Vietnam’s current tax law.

Example 42. Bank branch C of State P (the Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam) operates in Hanoi.  In 2004, the branch terminated its operation and sold all equipment and property already used for its business purpose.  Income from the above-said alienation must be declared for tax payment (after subtracting the residual value of the equipment and property) at the current enterprise income tax rate in Vietnam (of 25%).

3. Tax obligation for income from the alienation of ships and aircraft operated in international transport

Under the Agreements, income from the alienation of ships and aircraft operated in international transport (in line with the definition at Article 12. Definition of international transport, of this Circular) and managed by international transport enterprises of the Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam shall not be taxed in Vietnam.

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

Most of the Agreements between Vietnam and foreign countries provide that Vietnam is entitled to collect income tax in cases where the foreign parties alienate their capital in enterprises, entrusts or partnerships being resident of Vietnam and the value of immovable property occupies a principal rate in total assets of enterprises.

Rate of immovable property value in total properties of enterprise is simple average of rate of immovable property value in total properties of enterprise at time of alienation  of property, the beginning time and ending time of Taxable year is time prior to year when properties are transferred.  Determination of immovable property value is based in the audited property summary table of enterprise at the aforesaid times.

The principal rate of immovable property value in total properties of enterprise is determined as follows:

- Where Agreement specifies the rate or principal rate, complying with the rate prescribed in Agreement, such as at Clause 4 Article 13 of Vietnam - Spain Agreement  specified the rate of over 50%, or at clause 4 Article 14 of Vietnam-Oman Agreement and at Clause 4 Article 13 of Vietnam - United Arab Emirates Agreement specified the principal rate of over 50%. 

- Where an Agreement fails to specify the rate or the principal rate, the principal is determined over 50%

Example 43: On 30/3/2012, an investor, resident of Indonesia, transfers its capital part in an enterprise V in Vietnam.  Rate of immovable property value in total properties of enterprise V at times of 30/3/2012, 01/01/2011 and 31/12/2011 will be respectively60%, 40% and 53%.    Determination of the principal rate of immovable property value in total properties of enterprise V for purpose of tax obligation determination of Indonesian investor as follows:

Clause 4 Article 13: Gains from alienation of property, Vietnam-Indonesia Agreement prescribes as follows:

“4. Gains derived by a resident of a Contracting State from the alienation of shares or comparable interests in a company, the assets of which consist wholly or principally or immovable property situated in the other Contracting State, may be taxed in that other State." 

The provision above does not specify rate of immovable property value in assets of company, so the rate of over 50% will be principal.

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

(60% + 40% + 53%) / 3 = 51%.

So that, in this example, the value of immovable property has occupied principally in assets of company V.

5. Tax obligation for income from the alienation of shares in a Vietnam-based company

In some Agreements, prescribed that income from alienation of shares of a resident of the Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam in a company being resident of Vietnam must tax in Vietnam.

Example 44: Clause 5 Article 13: Gains from alienation of property, Vietnam-Indonesia Agreement prescribes as follows:

“Gains from the alienation of shares other than those mentioned in clause 4 in a company which is a resident of a Contracting State may be taxed in that State."

According to the provision above, if an Indonesian resident earns income from transfer of shares to a company which is resident of Vietnam, that income will be taxed in Vietnam.

6. Tax obligation for income from the alienation of other property in Vietnam

Under the Agreements, income earned from the alienation of property other than the kinds of property stated at Clause 1 thru Clause 5 above in Vietnam by a resident of the Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam shall not be taxed in Vietnam.

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

The above-said provisions on taxation on income from the alienation of property are included in the Article Income from the alienation of property (usually Article 13) of the Agreements.

Section 9. INCOME FROM INDEPENDENT PROFESSIONAL SERVICES

Article 28. Definition of income from independent professional services

Under the Agreements, income from independent professional services means income earned by an individual who is a resident of the Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam from independent activities of providing professional services such as scientific, literature, art, education or training services, particularly independent professional services of doctors, lawyers, engineers, architects, dentists, accountants and auditors.

Income from individual professional services does not include remuneration from employment (prescribed in the Article Income from dependent personal activities), directors’ fees (prescribed in the Article Directors’ fees), pensions (prescribed in the Article Pensions), government services (prescribed in the Article Income from government services), income of pupils and students (prescribed in the Article Income of students), teachers and professors (prescribed in the Article Income of professors, teachers and researchers), and independent performances of artistes and athletes (prescribed in the Article Income of artistes and athletes).

Article 29. Determination of tax obligation for income from independent professional services

Under Agreements, a resident of the Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam conducts supply of independent professional service in Vietnam must pay individual income tax in Vietnam in the following cases:

1. That individual does practice independently through a fixed place of business.

The phrase “fixed place” refers to a place or an address of a habitual or stable nature within the territory of a nation, through which an individual provides professional services (for example, a medial counseling room, an architect’s or lawyer’s office, etc.).  The principle for determination of a “fixed place” is similar to that for determination of a “permanent establishment” of an enterprise stated at Point 1.2, Article 11 of this Circular.

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

3. That individual earns a total fixed income, depending on each Agreement, from independent practice implementation in Vietnam in a defined duration (usually a financial year).

Example 46: in 2012, a doctor, resident of Bangladesh, conducted an operation at an international hospital in Vietnam and received a remuneration of VND 50,000,000.    Duration for doctor to be present in Vietnam for operation is 5 days. According to provision of Vietnam (Clause 1c Article 15: Independent professional service activity), because the income of doctor is VND 50,000,000 (in excess of USD 1,500), so this doctor has obligation to pay individual income tax in Vietnam.

The above-mentioned provisions on taxation on income from independent professional service activity are included in the Article Independent personal services (usually Article 14) of the Agreements.

Section 10. INCOME FROM DEPENDENT PROFESSIONAL SERVICES

Article 30. Definition of income from dependent professional services

Under the Agreements, income from dependent personal services means income in the form of remuneration derived by a person who is a resident of a Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam from his employment in Vietnam and vice versa.  Income from dependent personal services does not include income of individuals in the capacity as independent professional practitioners (prescribed in the Article Independent professional services), members of enterprises’ directorates (prescribed in the Article Directors’ fees), artistes and athletes (prescribed in the Article Income of artistes and athletes), employees serving foreign governments (prescribed in the Article Income from government services), and remuneration in the form of pensions (prescribed in the Article on Pensions.

Article 31. Determination of tax obligation for incomes from dependent individual services

1. Under the Agreements, an individual, who is a resident of a Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam, derives income from his/her employment in Vietnam, shall have to pay income tax in Vietnam in accordance with Vietnam’s current regulations on personal income tax.

Example 47. In 2003, Mr. A, a resident of France, worked for bank branch F, a Vietnam-based branch of a French bank, for 2 months.  All of his salary and other income were paid by branch F.  In the years preceding and following 2003, Mr. A was not present in Vietnam.  In this case, Mr. A is obliged to pay personal income tax on the income he earns during the time of working in Vietnam in accordance with Vietnam’s current regulations on personal income tax.

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

a) That individual is present in Vietnam for less than 183 days in a period of 12 months starting or ending within the taxable year concerned; and

b) The employer is not a resident of Vietnam, regardless of whether that remuneration is directly paid by the employer or through the employer’s representative; and

c) This remuneration is not borne and paid by the Vietnam-based permanent establishment set up by the employer.

Example 48: Japanese company N participates in setting up joint venture S specialized in the distribution of goods in Vietnam.  In 2002, company N sent Mr. Z to Vietnam in the capacity as its representative to negotiate on a contract on company N’s supply of sale “know-how” to joint venture S for one month.  In the years preceding and following the year 2002, Mr. Z was not present in Vietnam.  All of his income and expenses were paid by company N.  In this case, Mr. Z concurrently satisfies all the three conditions stated at Clause 2 above, so he is exempt from personal income tax in Vietnam.

3. The term “employer” used at Point 2b) refers to real employer.  As usual, a person shall be regarded as real employer in the following cases:

a) That person has rights on the products and services created by the employee and bearing responsibility as well as risks for such labor; or

b) That person gives instructions and supplies working tools to the employee; or;

c) That person is entitled to control and bears responsibility for the working place.

Example 49: Using example 29 above with the assumption that in 2003 Mr. Z visited Vietnam in the capacity as specialist of joint venture S to guide the application of the “know-how” for 3 months.  In the years preceding and following that year, Mr. Z was not present in Vietnam.  In the spirit of assisting joint venture S, company N paid for all incomes and expenses of Mr. Z during his working time in Vietnam.  In this case, in terms of form, Mr. Z concurrently satisfies all three conditions stated at Clause 2 above, but, in essence, compared to real employer’s criteria, the real employer of Mr. Z during his working time in Vietnam is joint venture S, not company N. So, Mr. Z is not exempt from personal income tax in Vietnam

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

Example 50: In 2011, Vietnamese Construction Company V assigned its workers go to Laos for work at a construction site of it in Laws within duration of 12 months. Income from salary of these workers for working in Laws will not be taxed in Vietnam.

5. Income earned by individuals employed aboard ships, boats or aircraft (crews) operated in international transport by enterprises that are residents of, or have places of effective management in, Vietnam shall be taxed in Vietnam.

Example 51: Company S, a Vietnamese ocean shipping company, charters ships and foreign crews to operate on the China-Singapore international route. It is obliged to deduct personal income tax according to Vietnam’s laws from the salaries paid to individual crewmembers though these salaries constitute part of the ship charter costs.

The above-mentioned provisions on taxation on income from dependent professional service activity are included in the Article Dependent personal services (usually Article 15) of the Agreements.

Section 11. INCOME FROM DIRECTORS’ FEES

Article 32. Definition of income from directors’ fees

Under the Agreements, directors’ fees mean incomes received in Vietnam by a person being a resident of the Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam in the capacity as a member of Board of Directors, Managing  Board of a company or as a senior manager of an enterprise being a resident of Vietnam; and vice versa.  This income does not include salaries received by such members for other functions performed by them as employee, consultant or advisor, salaries of foreigners holding a post in Vietnam-based representative offices of foreign companies.  These normal incomes shall be regarded as incomes from dependent personal services (prescribed in Section 10: Income from dependent personal services, Chapter II of this Circular).

Article 33. Definition of tax obligation for income from directors’ fees

Under the Agreements, individuals who are residents of the Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam receive remuneration in the capacity as members of Board of Directors, Managing Board or as senior managers of a company being a resident of Vietnam shall pay tax on such type of income in accordance with the regulations on individual income tax in Vietnam (regardless whether they are present in Vietnam or not)

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

Provisions on tax for incomes from directors' fee above are included in Article directors' fee (usually Article 16) of the Agreements.

Section 12. INCOME FROM PERFORMANCES OF ARTISTES AND ATHLETES

Article 34. Definition of income from performances of artistes and athletes

Under the Agreements, income from performances in Vietnam by artistes and  athletes means income from art or sport performances in Vietnam by artistes or athletes themselves, who are residents of the Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam; and vice versa.

Article 35. Determination of tax obligation for income from performances of artistes and athletes

1. Notwithstanding the provisions of Section 9 - Income from independent professional services and Section 10 - Income from dependent personal services, Chapter II of this Circular, income earned by an individual, who is a resident of the Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam, from his/her art, sport performance in Vietnam shall be taxed in accordance with Vietnam’s laws.

Example 53: In 2012, at the invitation of Vietnamese Performance Company V, a singer, resident of Korea, had a performance in Vietnam and received a remuneration of VND 500,000,000.   Duration for the singer to be present in Vietnam for performance is 3 days. According to provision of Vietnam-Korea Agreement (Clause 1 Article 17: artistes and athletes), this singer has obligation to pay individual income tax in Vietnam.

2. Notwithstanding the provisions of Section 2 - Business income, Section 9 - Income from independent professional services and Section 10 - Income from dependent personal services, Chapter II of this Circular, income from art or sport performances which is not paid to the performing individuals being residents of the Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam but to other persons shall be taxed in Vietnam in accordance with Vietnam’s laws.

Example 54: Using example 53 above, Korean singer arrived Vietnam for performance on the basis of a contract (which is signed in Korea) between Vietnamese performances Company V and Korean Star Company. According to provision of Vietnam-Korea Agreement (Clause 2 Article 17: artistes and athletes), the income of Star Company from this contract will be taxed enterprise income tax in Vietnam.

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

Example 55: In 2012, in framework of cultural exchange signed between Vietnamese Government and Korean Government, a singer, resident of Korea, had a performance in Vietnam and received a remuneration of VND 500,000,0000.  According to provision of Vietnam-Korea Agreement (Clause 3 Article 17: artistes and athletes), this singer does not have obligation to pay individual income tax in Vietnam.

The above-said provisions on taxation on income of artistes and athletes are included in the Article Artistes and Athletes (usually Article 17) of the Agreements.

Section 13. INCOME FROM PENSIONS

Article 36. Definition of income from pensions

Under the Agreement, pensions mean pensions received by a resident of the Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam from his/her past employment in Vietnam; and vice versa.  This income does not include pensions paid by the governments, local authorities of Vietnam and the Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam because this income is regarded as income from Government services (prescribed in Section 14: Income from Government services, Chapter II of this Circular).

Article 37. Determination of tax obligation for incomes from pensions

Depending on each particular Agreement, pensions shall be taxed:

a) Only in the State of which the pension recipients are residents; or

b) Only in the State where pensions are paid; or

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

Example 56: Mr. F is a French citizen and works for private sector in France, when he retires, he lives in Vietnam.  According to Article 17: the pensions, Vietnam-France Agreement, income from pension received from France will be taxed only in Vietnam irrespective of any retirement fund of France paying that pension.

Example 57: Mr. M is an Oman citizen and works for private sector in Oman. During his work, he paid his pension insurance premiums to the pension insurance fund of Oman Government, at his retirement; he came to live in Vietnam.  According to Clause 2 Article 19: The pension and social insurance payments, Vietnam-Oman Agreement, income derived from pension paid by this pension insurance fund will be taxed in Oman only.

Example 58: Mr. M is a resident of Denmark and works for private sector in Denmark, at his retirement, he lives in Vietnam.  According to Article 18: the pensions and similar amounts, Vietnam – Denmark Agreement, income from pension derived from Denmark will be taxed in Vietnam and Denmark if National Law of Denmark provides for imposing tax on that pension.

The above-said provisions on taxation on pensions are included in the Article Pensions (usually Article 18) of the Agreements.

Section 14. INCOME FROM GOVERNMENT SERVICES

Article 38. Definition of income from Government services

Under the Agreements, income from Government services means wages, salaries or pensions paid by the Government, local authorities of the Contracting State to an Agreement to an individual for the tasks performed for that Contracting State.

Article 39. Determination of tax obligation for salaries from Government services

1. In cases where a foreigner sent by the Government of the Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam to work in Vietnam for a Vietnam-based organization of that Government or for a program of economic, cultural co-operation or aid between the two States, his salary or wage paid by that foreign Government shall be exempt from income tax in Vietnam even though such person has become a resident of Vietnam for the purpose of performing such jobs.

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

2. Salaries or wages paid by the Government of the Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam shall only be taxed in Vietnam if they are paid to an individual being a resident of Vietnam for the tasks performed for that foreign Government in Vietnam and this individual satisfies two following conditions:

a) Holding the Vietnamese nationality; or

b) Being a resident of Vietnam before performing the tasks in Vietnam for the foreign Government.

Example 60: Mr. V is a Vietnamese citizen and works for JICA office (of Japanese Government) in Vietnam. Income from salary of Mr. V during working in Vietnam shall be taxed personal income tax in Vietnam as prescribed in Vietnamese Law on personal income tax (Clause 1.b(i), Article 19 of Vietnam-Japan Agreement).

Article 40. Determination of tax obligation for pensions from Government services

A pension paid to an individual from a fund set up by the Vietnamese State or local authorities (hereinafter collectively referred to as Vietnamese State) or paid directly by the Vietnamese State, for his/her past employment, shall only be taxed in Vietnam, unless the above-said individual is concurrently a resident of the Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam and holds the nationality of that Contracting State.  In this case, the above-said individual is resident of the Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam and holds nationality of that Contracting State, the pension of above-said individual shall be taxed in that Contracting State only.

Example 61: Mr. V is a Vietnamese citizen and works for Vietnamese Government. At his retirement, he lives in Japan. Then, the pension due to the employment for Vietnamese Government shall be exempt from personal income tax in Japan (Clause 2.a, Article 19 of Vietnam-Japan Agreement).

Example 62: Mr. J is a Japanese citizen and works for Embassy of Vietnam in Japan. At his retirement, he still lives in Japan. Then, the pension due to the employment for Vietnamese Government shall be taxed personal income tax in Japan (Clause 2.b, Article 19 of Vietnam-Japan Agreement).

Article 41. Determination of tax obligation for salaries, pensions from Government’s business activities

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

The above-said provisions on taxation on income from Government services are included in the Article Government services (usually Article 19) of the Agreements.

Section 15. INCOME OF STUDENTS, APPRENTICES AND INTERNS

Article 42. Income of students, apprentices and interns

Under the Agreements, income of students, apprentices and interns in Vietnam in service of their education, study or job training in Vietnam, falling within the scope of regulation of this Article, only includes:

1. Income received from overseas sources for the purpose of their learning and maintenance in Vietnam.

2. Income received from their employment in Vietnam directly related to the education, study or job training in Vietnam (in the case it is specified in the Agreement).  In some Agreements, only a certain level of this income is exempt from tax.

Article 43. Determination of tax obligation for income of students, apprentices and interns

If immediately before visiting Vietnam for education, study or job training, foreign students, apprentices or interns were residents of the Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam, they shall be exempt from income tax in Vietnam on the types of income stated in Article 42.

Example 63: A student, a resident of China, comes to Vietnam to study folk arts for 4 years. During the time of study in Vietnam, he receives a monthly scholarship of VND 800,000 from China, a monthly income of USD 50 from teaching Chinese at a school in Hanoi and a total annual income of USD 2,500 for participation in Vietnamese folk art performances.  Under the Vietnam- China Agreement (Article 20: Students, apprentices and interns), this student shall be exempt from income tax on the scholarship and income from art performance within the limit of USD 2,000; and pay tax on income from teaching and the amount in excess of USD 2,000 earned from performances.

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

Section 16. INCOME OF TEACHERS, PROFESSORS, AND RESEARCHERS

Article 44. Definition of income of teachers, professors, and researchers

Some Agreements specifically provide for the taxation of income earned by foreign teachers, professors and researchers from teaching, lecturing, researching activities in Vietnam. This income includes incomes derived from teaching, lecturing or researching activities at universities or educational facilities recognized by Vietnamese Government.

Article 45. Determination of tax obligation for income of teachers, professors, and researchers

1. Income of foreign teachers, professors and researchers from teaching, lecturing, researching activities in Vietnam according to Article 44 above will be exempt tax in Vietnam (in duration specified in Agreement), if the following conditions are satisfied:

- If immediately before visiting Vietnam for teaching, lecturing, researching activities, foreign teachers, professors and researchers were residents of the Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam, and

- The teaching, lecturing or researching activities are conducted at universities or educational facilities recognized by Vietnamese Government.

Example 64. According to linkage program between a Vietnamese University V and a Philippine University P, from school year 2012, University P assigned a lecturer to teach in University V for 3 years. This lecturer will be exempt individual income tax in Vietnam for income from lecturing at University V for 2 years since arriving Vietnam and will pay individual income tax in Vietnam for income from lecturing in University B for third year (Clause 1, Article 21: teachers, professors, and researchers, Vietnam-Philippine Agreement).

2. The above-said tax exemption shall not apply to teaching or researching activities for the purposes of an individual or a private organization.

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

The above-said provisions on taxation on income of teachers, professors, and researchers are included in the Article teachers, professors, and researchers (usually Article 21) of the Agreements.

Section 17. OTHER INCOME

Article 46. Definition of other income

Under the Agreements, other income means all other incomes not yet mentioned in the above-said articles, such as income from lottery win, amounts won from gambling at casinos, financial supports from familial or marital obligations, etc

Article 47. Determination of tax obligation for other income

1. Under the Agreements, a resident of the Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam, who derives other income from Vietnam, shall have to pay tax in accordance with Vietnam’s current tax law.  Nevertheless, in some Agreements (for example, the Vietnam- France Agreement, the Vietnam-Great Britain Agreement), Vietnam commits to grant tax exemption for other income in this case.

Example 66: Mr. H is a resident of China and Mr. P is a resident of France. During a two-week tour in Vietnam, both of them won a lottery prize of VND 20 million in Hanoi.  According to Vietnam’s personal income tax regulations, this type of income is irregular, so both of them have to pay tax in Vietnam on this prize.  Under the Vietnam-China Agreement (Clause 2 of Article 22: Other income), Vietnam may tax Mr. H’s income. Under the Vietnam-France Agreement (Clause 1 of Article 20: Other income), Mr. P’s income is exempt from tax in Vietnam.

2. In cases where other income is related to a Vietnam-based permanent establishment of a resident of the Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam, Vietnam is entitled to tax such income in accordance with the provisions of Vietnam’s current tax law and the provisions of Section 2- Business income and Section 9 - Income from independent professional services, Chapter II this Circular, as the case may be.

Example 67. Bank branch V, a Vietnam-based branch of Japanese bank S, purchases a car of a company in State X and wins a sale promotion prize worth USD 10,000.  This car is used for the business purpose of branch V. Notwithstanding the internal policy of bank S, which says that such income must be regarded as income of the headquarters and transferred into bank S’s account in Japan, the income being this prize shall still be regarded as actually related to branch V, a Vietnam-based permanent establishment of bank S in accordance with the Vietnam-Japan Agreement (Clause 2 of Article 21), and, therefore, Vietnam is entitled to tax this income in accordance with the provisions of Vietnam’s current tax law and the provisions of Section 2- Business income, Chapter II of this Circular (Article 7 of the Vietnam-Japan Agreement).

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

Chapter III

METHODS FOR ELIMINATION OF DOUBLE TAXATION IN VIETNAM

Under the Agreements, when a taxpayer being a resident of Vietnam, derives an income from the Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam and has paid tax in that State (under the provisions of the Agreement and that State’s laws), Vietnam may still tax such income but, at the same time, it is also obliged to apply methods for elimination of double taxation so that that taxpayer does not have to pay double tax.

Depending on each concluded Agreement, Vietnam may apply one or a combination of the following methods for elimination of double taxation as prescribed in Articles 48, 49, and 50 of this Circular.

Article 48. Tax deduction method

In cases where a resident of Vietnam derives income from and has paid tax in the Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam, if in that Agreement Vietnam commits to apply the tax deduction method, then, when this resident makes income tax declaration in Vietnam, such income shall be included in his/her taxable income in Vietnam in accordance with Vietnam’s current tax law and the tax amount already paid in the Contracting State shall be deducted from the tax amount payable in Vietnam.  Tax deduction shall comply with the following principles:

a) Tax amount already paid in the Contracting State shall be deducted from the taxes specified in Agreement;

b) The deducted tax amount shall not exceed the tax amount payable in Vietnam, which is computed on the income derived in the Contracting State in accordance with Vietnam’s current tax law and also not be deducted or refunded tax more than the paid tax amount in foreign State;

c) Tax amount already paid in the Contracting State is the taxes arising in time of taxable year in Vietnam.

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

- Determination of Mr. A’s taxable income in taxable year 2011 (according to Vietnam’s current tax law):

(VND 40,000,000 + VND 80,000,000) = VND 120,000,000

- Determination of Mr. A’s income tax in taxable year 2011 (according to Vietnam’s current tax law):

(VND 60,000,000 x 5% + VND 60,000,000 x 10%) = VND 9,000,000

- The tax amount paid in Laos (according to Laos’ tax law):

VND 80,000,000 x 20% = VND 16,000,000

- The tax amount calculated according to Vietnam’s law on the income derived in Laos:

VND 9,000,000 : 12 months x 4 months = VND 3,000,000

So, Mr. A is only entitled to the deduction of VND 3,000,000 from the total tax of VND 16,000,000 already paid on VND 80,000,000 derived from Laos.

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

- Determination of the tax amount paid in Laos (according to Laos’s tax law):

USD 100,000 x 20% = USD 20,000

- Determination of the tax amount payable in Vietnam (according to Vietnam’s current tax law):

USD 100,000 x 25% = USD 25,000

- The tax amount further payable in Vietnam:

USD 25,000 – USD 20,000 = USD 5,000

Example 70: Using example 69 above, with the assumption that company V is a joint- venture eligible for an enterprise income tax rate of 10% in Vietnam.  Then, in Vietnam Company V shall make tax declaration and payment and enjoy a deduction of the tax already paid in Laos as follows:

- Determination of the tax amount paid in Laos (according to Laos’s tax law):

USD 100,000 x 20% = USD 20,000

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

USD 100,000 x 10% = USD 10,000

- The maximum tax amount to be deductible in Vietnam: USD 10,000

In this case, company V shall enjoy a deduction of USD 10,000 from the total tax amount of USD 20,000 already paid in Laos.  The difference of USD 10,000 (USD 20,000 - USD 10,000) must not be deducted from the income tax on company V’s derived domestically income and not be forwarded to next year.

Article 49. Method of deduction of deemed tax

In cases where a resident of Vietnam derives income from and must pay tax in the Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam (a reduced or exempted tax as a special preference), if, in that Agreement Vietnam commits to apply the method for deduction of deemed tax, when this resident makes income tax declaration in Vietnam,  such income shall be included in his/her taxable income in Vietnam in accordance with Vietnam’s current tax law and the deemed tax amount shall be deducted from the tax amount payable in Vietnam.  The deemed tax amount is the amount which should have been paid by a resident of Vietnam in the Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam on the income derived from that Contracting State, which, however, according to that Contracting State’s law, is exempted or reduced as a special preference.

Tax deduction shall comply with the following principles:

a) Tax amount already paid in the Contracting State and deducted must be taxes specified in Agreement;

b) The deducted tax amount shall not exceed the tax amount payable in Vietnam, which is computed on the income derived in the Contracting State in accordance with Vietnam’s current tax law;

c) Tax amount already paid in the Contracting State is the taxes arising in time of taxable year in Vietnam.

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

- Determination of the deemed tax amount paid in Uzbekistan (according to Uzbekistan’s tax law):

USD 100,000 x 33% = USD 33,000

- Determination of the tax amount payable in Vietnam (according to Vietnam’s current tax law):

USD 100,000 x 25% = USD 25,000

So, company Q shall be regarded as having paid, though in fact being exempted from paying, USD 25,000 (out of a total of USD 33,000 computed according to Uzbekistan’s tax law before the preference is granted) and have this tax amount deducted from the tax amount payable in Vietnam (meaning that it does not have to pay tax in Vietnam).

Article 50. Method of deduction of indirect tax

1. In cases where a resident of Vietnam derives an income from the Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam, for which corporate income tax has been paid before it is divided to that resident, if in the Agreement Vietnam commits to apply the method for deduction of indirect tax, in making income tax declaration in Vietnam,  such income shall be included in the taxable income in Vietnam in accordance with Vietnam’s current tax law and the indirect tax amount already paid in the Contracting State shall be deducted from the tax amount payable in Vietnam.  Nevertheless, in all cases, the deductible tax amount shall not exceed the tax amount payable in Vietnam, which is computed on the income derived from abroad in accordance with Vietnam’s current tax law.

The deductible indirect tax amount is the tax amount already paid by a joint-stock company being a resident of the Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam in that Contracting State in the form of corporate income tax before the dividend is divided to a resident of Vietnam, provided that the resident of Vietnam directly controls a minimum percentage (usually 10%) of the voting right in the joint-stock company.

Example 72: Vietnamese company V invests USD 10,000,000 (equivalent to 20% of the equity) in company N of the Russian Federation.  In 2010, company N earned an income of USD 100,000 and had to pay tax according to the tax law of the Russian Federation (at the rate of 30%).  The after-tax profit of company N was divided to company V according to its share percentage and taxed in the Russian Federation at the rate of 10% (Clause 2.a of Article 10: Dividends, the Vietnam-Russian Federation Agreement).  Company V was obliged to pay tax according to Vietnam’s tax law at the current rate (of 25%).  In this case, company V’s tax declaration and payment and deduction of the indirect tax in Vietnam shall be as follows:

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

USD 100,000 x 20% = USD 20,000

- The enterprise income tax amount already paid by company N in the Russian Federation on the above-said profit of company V according to the Russian Federation’s tax law is:

USD 20,000 x 30% = USD 6,000

- The after-tax dividend divided to company V is:

USD 20,000 – USD 6,000 = USD 14,000

- The tax amount payable by company V in the Russian Federation on its dividend divided under the Vietnam-Russian Federation Agreement is:

USD 14,000 x 10% = USD 1,400

- The total tax amount payable by company V in the Russian Federation (including the direct tax paid by company V on its dividend and the indirect tax paid by company N, which has investment capital of company V, on its income) is:

USD 1,400 + USD 6,000 = USD 7,400

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

USD 20,000 x 25% = USD 5,000

In this case, company V shall enjoy a maximum deduction of USD 5,000 out of the total of USD 7,400 already paid in the Russian Federation.  The difference of USD 2,400 (USD 7,400 - USD 5,000) is not allowed to be deducted from the tax on the domestic income of company V (if any).

2. Notwithstanding the provision above, under which Vietnam shall apply the method of deduction of indirect tax only when it so commits in the Agreements, if, according to Vietnam’s laws, incomes derived from abroad by residents of Vietnam enjoy deduction of indirect tax, this provision is still implemented.

Example 73: Using example 41 above with the assumption that company N’s investment in the Russian Federation is an overseas direct investment project of company V according to Vietnam’s laws, even when the investment percentage of company V accounts for less than 10% of the equity of company N, the methods of deduction of indirect tax shall still be applied (point 21 Article 7 Chapter II of the Finance Ministry’s Circular No. 123/2012/TT-BTC dated 27/2/2012, guiding the implementation of a number of articles of Law on Enterprise Income Tax No.14/2008/QH12 and guidelines on implementation of Decree No.124/2008/ND-CP dated December 11, 2008, Decree No.122/2011/ND-CP dated December 27, 2011 of the Government detailing the implementation of a number of articles of Law on Enterprise Income Tax, though it is not so prescribed in the Vietnam-Russian Federation Agreement (Clause 2 of Article 23: Methods for elimination of double taxation).

Notwithstanding the above-said provisions on methods for elimination of double taxation, if, according to the provisions of an Agreement, incomes derived from abroad by residents of Vietnam are exempt from tax in Vietnam, these incomes shall be exempt from tax and the tax amounts already paid overseas shall not be deducted (meaning that it shall be taxed only once and it is not necessary to apply methods for elimination of double taxation). Example scholarships of foreign students and apprentices during the time of their study in Vietnam (Section 15: Incomes of students and apprentices, Chapter II of this Circular)

The above-said provisions on methods for elimination of double taxation are included in the Article Methods for elimination of double taxation (usually Article 23) of the Agreements.

Chapter IV

RESPONSIBILITIES AND POWERS OF COMPETENT AUTHORITIES

Article 51. Competent authorities

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

The General Department of Taxation is authorized by the Finance Minister to perform the tasks and powers defined in Article 52.

Article 52. Responsibilities and powers of the General Department of Taxation in implementation of provisions of Agreements

To implement provisions of Agreements, the General Department of Taxation is authorized by the Finance Minister to perform the following tasks and powers:

1. To promulgate documents notifying the entry into force or termination of effect of each Agreement within the tax service after the effect notices are issued by the Foreign Ministry;

2. To organize the direction, guidance, examination and inspection of the Tax Departments, Tax Sub-Departments and organizations authorized with the collection task in the implementation of the Agreements;

3. To act as “competent authorities” of Vietnam to deal with matters related to the Agreements, including:

a) Studying and settling disputes, complaints, proposals and relevant matters in the course of implementation of the Agreements with the competent authorities of the Contracting State to the Agreements concluded with Vietnam through bilateral agreement procedure prescribed in the Agreements;

b) Exchanging information with foreign tax authorities, using information supplied by foreign tax authorities and be responsible for keeping such information secret under the provisions of the Agreements;

c) Performing measures to support tax administrative management as prescribed by Agreements and in accordance with Vietnamese law.

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

ORGANIZATION OF IMPLEMENTATION

Article 53. This Circular takes effect on February 06, 2014, replaces Circular No. 133/2004/TT-BTC dated December 31, 2004, of the Ministry of Finance, guiding the implementation of the Agreements on double taxation avoidance with respect to taxes on income and property between Vietnam and other countries and in force in Vietnam.    Procedures for applying Agreements shall comply with the Law on tax administration and current guiding documents.

In the course of implementation, any arising problems should be reported to the Ministry of Finance for research and settlement.

 

 

 

FOR THE FINANCE MINISTER
DEPUTY MINISTER




Do Hoang Anh Tuan

 

Bạn Chưa Đăng Nhập Thành Viên!


Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của văn bản.
Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...


Nếu chưa là Thành Viên, mời Bạn Đăng ký Thành viên tại đây


Bạn Chưa Đăng Nhập Thành Viên!


Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của văn bản.
Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...


Nếu chưa là Thành Viên, mời Bạn Đăng ký Thành viên tại đây


Bạn Chưa Đăng Nhập Thành Viên!


Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của văn bản.
Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...


Nếu chưa là Thành Viên, mời Bạn Đăng ký Thành viên tại đây


Bạn Chưa Đăng Nhập Thành Viên!


Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của văn bản.
Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...


Nếu chưa là Thành Viên, mời Bạn Đăng ký Thành viên tại đây


Circular No. 205/2013/TT-BTC dated December 24, 2013, guiding the implementation of The Agreements on double taxation avoidance and prevention of tax evasion with respect to taxes on income and property between Vietnam and other states or territories and in force in Vietnam

Bạn Chưa Đăng Nhập Thành Viên!


Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của văn bản.
Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...


Nếu chưa là Thành Viên, mời Bạn Đăng ký Thành viên tại đây


11.595

DMCA.com Protection Status
IP: 3.133.143.25
Hãy để chúng tôi hỗ trợ bạn!