BỘ
TÀI CHÍNH
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
89-TC/TCT
|
Hà
Nội, ngày 09 tháng 11 năm 1993
|
THÔNG TƯ
CỦA BỘ TÀI CHÍNH SỐ 89-TC/TCT NGÀY 9 THÁNG 11 NĂM 1993 HƯỚNG
DẪN THI HÀNH NGHỊ ĐỊNH SỐ 74/CP NGÀY 25-10-1993 CỦA CHÍNH PHỦ QUY ĐỊNH CHI TIẾT
THI HÀNH LUẬT THUẾ SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP
Thi hành Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp được Quốc hội
khoá IX thông qua ngày 10-7-1993 và Nghị định số 74/CP
ngày 25-10-1993 của Chính phủ về quy định chi tiết thi hành Luật này. Bộ Tài
chính hướng dẫn cụ thể như sau:
I. PHẠM VI ÁP
DỤNG THUẾ SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP
1. Những tổ chức, cá nhân nộp
thuế sử dụng đất nông nghiệp đã được quy định ở Điều 1 Luật thuế
sử dụng đất nông nghiệp và ở Điều 1 Nghị định số 74/CP ngày
25-10-1993 của Chính phủ, cụ thể thêm: hợp tác xã, tập đoàn sản xuất nông nghiệp
là hộp nộp thuế chỉ trong các trường hợp địa phương chưa thực hiện xong việc
giao ruộng đất cho từng hộ nông dân, hợp tác xã, tập đoàn sản xuất còn nộp thuế
chung.
2. Những loại
đất phải chịu thuế sử dụng đất nông nghiệp đã được quy định tại Điều 2 Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp và
chi tiết tại Điều 2 Nghị định số 74/CP ngày 25-10-1993 của Chính phủ xin giải thích thêm như
sau:
- Uỷ ban nhân
dân xã sử dụng đất nông nghiệp thuộc quỹ đất dành cho nhu cầu công ích của xã để
cho hộ gia đình, cá nhân thuê thì Uỷ ban nhân dân xã là người nộp thuế sử dụng
đất nông nghiệp.
- Đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ
sản chịu thuế sử dụng đất nông nghiệp là đất đất chuyên nuôi trồng thuỷ sản hoặc
vừa nuôi trồng thuỷ sản vừa trồng trọt, về cơ bản không sử dụng vào mục đích
khác, bao gồm: ruộng, mặt nước, đầm, hồ, ao, chuôm, ngòi, rạch, sông cụt... đã
bao ngăn và có chủ sử dụng.
- Đất trồng cỏ chịu thuế sử dụng
đất nông nghiệp là đất đã giao cho chủ sử dụng vào trồng có thể chăn nuôi.
- Đất trồng rừng chịu thuế sử dụng
đất nông nghiệp là đất rừng có chủ trồng, chăm sóc, khai thác và đất vườn rừng
liền nhà.
3. Những loại đất
không phải chịu thuế sử dụng đất nông nghiệp đã được quy định ở Điều Nghị định
số 74/CP ngày 25-10-1993 của Chính phủ, hướng dẫn rõ thêm một số trường hợp như
sau:
- Hồ chứa nước cho nhà máy thuỷ
điện có kết hợp dịch vụ du lịch và nuôi trồng thuỷ sản;
- Hồ, đầm vừa dùng vào kinh
doanh, du lịch, dịch vụ .. . có kết hợp nuôi trồng thuỷ sản;
- Nuôi cá lồng ở hồ, đầm, sông;
- Đất do Chính phủ, Uỷ ban nhân
dân các cấp cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân thuê dùng vào sản xuất nông
nghiệp đã thu tiền thuê đất (có bao hàm cả thuế sử dụng đất nông nghiệp), trừ Uỷ
ban nhân dân xã cho thuê đất dành cho nhu cầu công ích của xã đã nói ở mục I phần I Thông tư này.
II. CĂN CỨ
TÍNH THUẾ VÀ BIỂU THUẾ
1. Xác định diện
tích tính thuế: Theo quy định tại Điều Nghị định số 74/CP ngày 25-10-1993, chậm
nhất vào ngày 30 tháng 11 năm 1993, mọi tổ chức, cá nhân sử dụng đất vào sản xuất
nông nghiệp, kể cả diện được miễn thuế hoặc tạm miễn thuế đều phải kê khai diện
tích từng thửa ruộng, đất sử dụng vào sản xuất nông nghiệp theo hướng dẫn của
cơ quan thuế.
Diện tích tính thuế của từng thửa
ruộng, đất là diện tích thực sử dụng kể cả bờ xung quanh ruộng phục vụ trực tiếp
cho sản xuất của thửa ruộng, đất, không tính phần bờ dùng cho giao thông nội đồng
hoặc dùng chung cho từ một cánh đồng trở lên.
a. Xác định diện tích tính thuế
của từng hộ phải căn cứ vào tờ khai của hộ, đồng thời phải dựa vào các tài liệu
sau đây để kiểm tra tính chính xác của tờ khai:
- Diện tích đang tính thuế nông
nghiệp năm 1993, diện tích khai hoang đã đến hạn chịu thuế;
- Kết quả đo đạc gần nhất được
cơ quan quản lý ruộng đất huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (trong văn
bản này gọi chung là huyện) xác nhận. Nếu địa phương chưa đo đạc hoặc số liệu
đo đạc chưa chính xác thì phải sử dụng tài liệu: bản đồ, địa bàn cũ, tài liệu về
giao đất hoặc giao khoán, đất làm kinh tế gia đình, các quyết định giao đất đối
với các doanh nghiệp, nông lâm nghiệp (nông trường, lâm trường, trạm trại...).
b. Trình tự xác định diện tích
tính thuế như sau:
- Hộ sử dụng đất tự kê khai diện
tích đất được giao, đất nhận khoán và đất tự khai phá gọi chung là đất đang sử
dụng theo mẫu biểu hướng dẫn của cơ quan thuế và gửi bản kê khai đó đến Uỷ ban
nhân dân xã, phường, thị trấn (trong văn bản này gọi chung là xã) đối với các hộ
nộp thuế lập sổ thuế tại xã, đến Chi cục thuế đối với các hộ nộp thuế lập sổ
thuế tại huyện, đúng thời gian và địa điểm theo quy định tại Điều
9 Nghị định số 74/CP ngày 25-10-1993 của Chính phủ;
- Đội thuế xã giúp Uỷ ban nhân
dân xã tiếp nhận tờ khai, kiểm tra, đối chiếu tờ khai của từng hộ nộp thuế với
các tài liệu hiện có đã nói ở trên, xác định diện tích tính thuế của từng hộ.
Trong quá trình xác định diện
tích tính thuế sử dụng đất nông nghiệp, cơ quan thuế phải cùng Hội đồng tư vấn
thuế xã xem xét cụ thể từng trường hợp, nếu thấy tờ khai chưa chính xác thì phải
đề nghị chủ hộ kê khai lại và phải tổ chức kiểm tra điển hình để xác định đúng
diện tích đất chịu thuế của những hộ kê khai chưa chính xác.
Trường hợp có sự khác nhau giữa
diện tích đo đạc với kê khai tính thuế của hộ nộp thuế hoặc của một xã, một huyện
thì trước mắt tạm duyệt diện tích tính thuế năm 94 theo tờ khai của từng hộ, Uỷ
ban nhân dân huyện phối hợp với cơ quan quản lý ruộng đất tỉnh chỉ đạo xác định
lại diện tích ngay từ quý I năm 2994 để cuối năm tính thuế, thu thuế và quyết
toán thuế theo diện tích đã được xác định lại.
Đội thuế xã thông báo kết quả
xác định diện tích tính thuế cho từng hộ nộp thuế, tổng hợp và giúp Uỷ ban nhân
dân xã báo cáo Uỷ ban nhân dân huyện và Chi cục thuế.
2. Việc phân hạng đất tính thuế
thực hiện theo quy định của Nghị định số 73/CP
ngày 25-10-1993 của Chính phủ được hướng dẫn riêng bằng một văn bản khác.
3. Biểu thuế
được quy định tại Điều 8 Nghị định số 74/CP ngày
25-10-1993 của Chính phủ, hướng dẫn để tính thuế như sau:
- Khoản 1 áp dụng cho đất trồng
cây hàng năm, đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản, đồng cỏ dùng vào chăn nuôi;
- Khoản 2 áp dụng cho đất trồng
cây lâu năm.
- Đất trồng cây hàng năm chuyển
sang trồng cây ăn quả lâu năm thì hạng đất tính thuế vẫn là hạng đất cây hàng
năm đã được xác định, nhưng tính thuế bằng 1, 3 lần thuế đất cây hàng năm cùng
hạng nếu thuộc đất hạng 1, 2, 3; các hạng đất 4, 5, 6 của đất trồng cây hàng
năm chuyển sang trồng cây ăn quả vẫn thu thuế như đất trồng cây hàng năm cùng hạng.
Quy định này chỉ thực hiện kể từ sau khi hạng đất tính thuế sử dụng đất nông
nghiệp được phê chuẩn. Cây ăn quả trồng trên đất cây hàng năm từ trước khi phân
hạng đất tính thuế theo Luật thuế sử dụng đất
nông nghiệp thì áp dụng phân hạng đất và tính thuế như đất trồng cây lâu
năm.
- Đối với đất trồng cây lấy gỗ
và cây lâu năm thu hoạch một lần khác chịu thuế bằng 4% giá trị sản lượng khai
thác.
III. TÍNH THUẾ
VÀ LẬP SỔ THUẾ
1. Tính thuế.
- Căn cứ vào tờ khai của các hộ
nộp thuế do xã gửi lên, Chi cục thuế cùng cán bộ đội thuế xã xem xét và kiểm
tra lại các căn cứ tính thuế của hộ nộp thuế trên tờ khai, nếu phát hiện có sự
sai sót thì yêu cầu Uỷ ban nhân dân xã giải trình cụ thể.
- Căn cứ vào tờ khai của hộ nộp
thuế đã được kiểm tra, tổ kế toán hoặc nghiệp vụ tại Chi cục thuế tính thuế cho
từng hộ nộp thuế. Thuế ghi thu của từng hộ nộp thuế được xác định như sau:
Thuế
ghi thu đất trồng cây hàng năm và đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản, đất trồng
cỏ
|
=
|
Diện
tích tính thuế của từng hạng đất trồng cây hàng năm
|
x
|
Định
suất thuế từng hạng đất của đất trồng cây hàng năm
|
Thuế
ghi thu đất trồng cây lâu năm
|
=
|
Diện
tích tính thuế của từng hạng đất trồng cây lâu năm
|
x
|
Định
suất thuế từng hạng đất của đất trồng cây lâu năm
|
- Căn cứ vào kết quả tính thuế của
từng hộ nộp thuế do Chi cục thuế huyện gửi lại cho Uỷ ban nhân dân xã, đội thuế
xã giúp Uỷ ban nhân dân xã lập danh sách từng hộ nộp thuế theo mẫu đính kèm Thông
tư này, niêm yết các căn cứ tính thuế và mức thuế ghi thu của từng hộ nộp thuế
để hộ nộp thuế xác nhận và nhân dân tham gia ý kiến trong thời hạn 20 ngày trước
khi lập và trình duyệt sổ thuế.
- Tổ chức, cá nhân sử dụng đất ở
nhiều xã, phường, thị trấn hoặc quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thì
phải gửi bản kê khai đến cơ quan thuế nơi lập sổ thuế theo quy định tại khoản 2 Điều 9 Nghị định số 74/CP ngày 25-10-1993 của Chính phủ.
Cơ quan thuế tiếp nhận tờ khai, kiểm tra, xác định các căn cứ tính thuế và
thông báo cho hộ nộp thuế.
- Trường hợp hộ nộp thuế không
kê khai, thì cơ quan thuế được quyền ấn định số thuế phải nộp theo quy định tại
Điều 9 Nghị định số 74/CP ngày 25-10-1993 của Chính phủ và Điều 13 của Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp.
2. Lập sổ thuế:
Nguyên tắc là đất đăng ký sổ địa
chính ở địa phương nào thì lập sổ thuế ở địa phương đó theo quy định tại Điều 9 Nghị định số 74/CP ngày 25-10-1993 của Chính phủ.
Theo quy định tại Điều
10 Nghị định số 74/CP ngày 25-10-1993 việc lập sổ thuế tiến hành như sau:
- Đội thuế xã tổng hợp kết quả
tiếp thu ý kiến nhân dân và từng hộ nộp thuế ngay sau khi hết thời hạn niêm yết
và báo cáo Uỷ ban nhân dân xã. Nếu có ý kiến trái ngược lớn về diện tích hoặc hạng
đất tính thuế, thì phải kiểm tra xác định lại, sau đó tiến hành lập sổ thuế
theo từng thôn (ấp, bản xóm) theo mẫu của Bộ Tài chính. ..
- Hội đồng tư vấn thuế xã giúp Uỷ
ban nhân dân xã kết hợp với đội thuế xã kiểm tra, xác định các căn cứ tính thuế
của từng hộ nộp thuế, đảm bảo phù hợp với tờ khai của hộ và kết quả phân hạng đất
tính thuế. Những trường hợp sau khi niêm yết, hộ nộp thuế chưa thống nhất với Hội
đồng tư vấn thuế xã và đội thuế xã về căn cứ tính thuế, mà Hội đồng tư vấn xã
và đội thuế xã không giải quyết được thì phải báo cáo Uỷ ban nhân dân xã để có
ý kiến bằng văn bản cho hộ nộp thuế, trên cơ sở đó tiếp tục lập và hoàn thiện sổ
thuế.
3. Tổ chức xét duyệt sổ thuế.
Sau khi lập xong sổ thuế, Chủ tịch
Uỷ ban nhân dân xã ký xác nhận và trình Uỷ ban nhân dân huyện, đồng gửi Chi cục
thuế. Chi cục thuế cùng Hội đồng tư vấn thuế giúp Uỷ ban nhân dân huyện tổ chức
duyệt: diện tích tính thuế, hạng đất tính thuế cho từng xã.
Trên cơ sở sổ thuế do các xã đã
lập và ý kiến của Hội đồng tư vấn, Chi cục thuế hoàn chỉnh tổng hợp kết quả duyệt
sổ thuế báo cáo Uỷ ban nhân dân huyện thông qua để trình Uỷ ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương (trong văn bản này gọi chung là tỉnh) và Cục
thuế.
Cục thuế giúp Uỷ ban nhân dân kiểm
tra, xét duyệt sổ thuế của các huyện có sự tham gia của các ngành liên quan (Hội
đồng tư vấn). Trường hợp có ý kiến khác nhau thì Uỷ ban nhân dân tỉnh ra quyết
định chỉ đạo huyện phải duyệt lại sổ thuế.
Sổ thuế của huyện đã được Uỷ ban
nhân dân tỉnh duyệt theo đề nghị của Cục thuế được dùng làm căn cứ để Uỷ ban
nhân dân huyện duyệt sổ thuế chính thức cho các xã và cho các hộ nộp thuế do
huyện quản lý.
Tổng cục Thuế có trách nhiệm thường
xuyên hoặc định kỳ kiểm tra sổ thuế sử dụng đất nông nghiệp của các địa phương.
4. Điều chỉnh sổ thuế.
- Sau khi sổ thuế được duyệt,
các năm tiếp theo nếu có thay đổi về hộ nộp thuế, về căn cứ tính thuế, thì chậm
nhất là 31-1 hàng năm hộ nộp thuế phải lập tờ khai gửi đến Uỷ ban nhân dân nơi
lập sổ thuế.
- Căn cứ vào tờ khai của hộp nộp
thuế và kết quả kiểm tra xác minh, cơ quan thuế thực hiện điều chỉnh vào tháng
3 hàng năm.
- Những trường hợp sau đây được
điều chỉnh sổ thuế ngay trong năm thuế: hộ sử dụng đất (hộ nộp thuế) chuyển đi
nơi khác mà đất của họ không có người sử dụng, đất bị lấp, lở do thiên tai địch
hoạ không sản xuất được và các trường hợp tương tự khác.
IV. TỔ CHỨC
THU NỘP THUẾ
1. Căn cứ số thuế được duyệt:
căn cứ vào mùa vụ và khả năng thu hoạch, thực tế giá cả và yêu cầu lương thực
(nếu có). Cục thuế tỉnh chủ động trình Uỷ ban nhân dân tỉnh quyết định các vấn
đề theo quy định tại Điều 11, 12 Nghị định số 74/CP ngày
25-10-1993 của Chính phủ, cụ thể thêm một số vấn đề như sau:
- Lập kế hoạch thu thuế của vụ
và cả năm xác định rõ số thuế thu bằng tiền, thu bằng thóc (trong trường hợp đặc
biệt);
- Giá thu thuế của từng vụ trong
năm;
- Quy định thời gian thu nộp thuế:
ngày bắt đầu và ngày kết thúc vụ thu thuế;
- Biện pháp chỉ đạo và tổ chức
thu thuế;
- Phát động phong trào thi đua,
tuyên truyền nhằm hoàn thành nhiệm vụ thu thuế.
2. Căn cứ vào sổ thuế đã được
duyệt và khả năng thu thuế của từng vụ, đội thuế xã giúp Uỷ ban nhân dân xã gửi
thông báo số thuế phải nộp cho các hộ nộp thuế, thông báo phải ghi rõ:
+ Thời gian nộp thuế;
+ Sổ thuế nộp trong vụ: cây hàng
năm, cây lâu năm, thuế bằng tiền, bằng thóc (nếu có) và được chia ra: thuế
trong năm và nợ thuế (nếu có);
+ Địa điểm nộp thuế;
+ Lần thông báo thứ mấy.
Thông báo gửi cho hộ nộp thuế một
bản và một bản lưu ở cơ quan thuế, đồng thời phải thông báo về thời hạn nộp thuế
trên các phương tiện thông tin của xã.
Trong thời gian nộp thuế đội thuế
xã có trách nhiệm đôn đốc nộpthuế theo đúng quy định tại thông báo nộp thuế.
3. Thu, nộp thuế.
a. Thu, nộp thuế bằng tiền mặt:
khi thu thuế của dân, cán bộ thuế hoặc cán bộ kho bạc phải kiểm tra, đối chiếu
số tiền thuế phải nộp ghi trên thông báo với số tiền hộ nộp thuế mang đến nộp,
đồng thời viết và cấp biên lai cho người nộp thuế và ghi vào sổ theo dõi thu thuế.
Trong trường hợp người nộp thuế
không trực tiếp nộp vào kho bạc thì cuối mỗi ngày, cán bộ thu thuế phải đối chiếu
biên lai thu thuế với số tiền thuế đã thu 10 ngày một lần phải nộp hết số tiền
thuế đã thu vào Kho bạc Nhà nước. Nếu số tiền thuế thu được từ 5 triệu đồng trở
lên thì phải nộp ngay vào Kho bạc Nhà nước, để tiền thuế vượt quá mức quy định
này chưa nộp vào Kho bạc Nhà nước thì bị coi là hành vi chiếm dụng tiền thuế.
b. Thu, nộp thuế bằng chuyển khoản:
nộp thuế bằng chuyển khoản do hộ hộp thuế làm thủ tục nộp thuế. Cơ quan thuế phải
mở sổ theo dõi các hộ nộp thuế bằng chuyển khoản để đối chiếu định kỳ với kho bạc
và đôn đốc hộ nộp thuế.
c. Thu thuế bằng thóc (nếu có):
tổ chức thu thóc phải nhận trực tiếp của người nộp thuế có đại diện cơ quan thuế
để viết biên lai thu thuế cho các hộ nộp thuế. Tổ chức mua thóc thuế phải thanh
toán với ngân sách Nhà nước ngay trong vụ thu thuế theo quy định của Chủ tịch Uỷ
ban nhân dân tỉnh.
4. Kết thúc năm thuế cơ quan thuế
các cấp phải tổ chức quyết toán kết quả thu nộp thuế với từng hộ nộp thuế và lập
báo cáo quyết toán thu thuế với Uỷ ban nhân dân cùng cấp và cơ quan thuế cấp
trên theo quy định tại Điều 18 của Luật thuế sử dụng đất nông
nghiệp như sau:
a. Ở cấp xã: Lập quyết toán kết
quả thu nộp thuế trong năm theo từng hộ nộp thuế, căn cứ vào các tài liệu sau:
Số thuế ghi thu trong số thuế được duyệt; số thuế được giảm miễn (nếu có);
Số
thuế phải nộp trong năm
|
=
|
Thuế
ghi thu
|
-
|
Giảm,
miễn thuế
|
+
Thiếu
- Thừa
|
(năm
trước)
|
Số
thuế đã nộp trong năm; tổng hợp từ sổ theo dõi thu thế và đối chiếu với biên
lai thu thuế; từ đó xác định số thuế nộp đủ, nộp thừa hoặc thiếu của từng hộ nộp
thuế và tổng hợp quyết toán kết quả thu thuế của xã.
b. Ở cấp huyện: Chi cục thuế kiểm
tra xét duyệt quyết toán kết quả thu thuế của các xã trong huyện và tổng hợp
quyết toán kết quả thu thuế chung toàn huyện, báo cáo Uỷ ban nhân dân huyện
trình Uỷ ban nhân dân tỉnh và Cục thuế tỉnh kiểm tra xét duyệt.
c. Ở cấp tỉnh: Cục thuế tổ chức
kiểm tra xét duyệt quyết toán kết quả thu thuế của các huyện; tổng hợp quyết
toán của tỉnh bao gồm các chỉ tiêu chủ yếu sau: số thuế ghi thu theo sổ thuế; số
thuế thừa, thiếu năm trước chuyển sang (nếu có); số thuế được giảm miễn (nếu
có);
Số thuế đã thu; số thuế đã thanh
toán nộp vào Kho bạc Nhà nước; xác định số thuế còn thừa hoặc thiếu.
Quyết toán của tỉnh sau khi được
Uỷ ban nhân dân tỉnh duyệt, thì gửi báo cáo Bộ Tài chính (Tổng cục Thuế).
Tổng cục Thuế thường xuyên hoặc
định kỳ kiểm tra việc quyết toán kết quả thu thuế của các địa phương.
5. Theo quy định tại Điều 11 Nghị định số 74/CP ngày 25-10-1993 của Chính phủ; việc
tạm thu thuế năm 1994 chi thực hiện đối với những địa phương mà bước vào vụ thu
thuế đầutiên của năm thuế 1994 chưa lập xong sổ thuế sử dụng đất nông nghiệp.
Việc tạm thu phải dựa vào sổ thuế nông nghiệp năm 1993; đồng thời điều chỉnh số
thuế phù hợp với sự biến động về diện tích đất chịu thuế. Đến vụ cuối cùng của
năm thuế phải thu theo sổ thuế sử dụng đất nông nghiệp mới và cuối năm thanh
quyết toán theo sổ thuế sử dụng đất nông nghiệp năm 1994; nếu thu thừa thì chuyển
sang năm sau, nếu thiếu thì năm sau truy thu.
V. GIẢM THUẾ
VÀ MIỄN THUẾ
Theo quy định tại Chương
V của Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp và Chương V của Nghị
định số 74/CP ngày 25-10-1993 của Chính phủ; Bộ Tài chính hướng dẫn
thêm như sau:
1. Việc miễn thuế sử dụng đất
nông nghiệp đối với đất trồng cây lâu năm chuyển sang trồng lại mới, và đất trồng
cây hàng năm chuyển sang trồng cây lâu năm, cây ăn quả theo quy định tại khoản 2 Điều 14 của Nghị định số 74/CP ngày 25-10-1993 không
áp dụng cho các trường hợp trồng bằng phương pháp ghép, chiết và các trường hợp
tương tự khác.
2. Sự giảm thuế trong trường hợp
thiên tai địch hoạ làm mùa màng thiệt hại.
a. Khi xảy ra thiên tai, địch hoạ,
sâu bệnh làm mùa màng bị thiệt hại, Cục thuế phải chủ động phối hợp với Cục thống
kê tham mưu cho Uỷ ban nhân dân cùng cấp chỉ đạo ngành thuế, các ngành có liên
quan và các huyện bị thiệt hại tổ chức điều tra xác minh phạm vi, mức độ thiệt
hại của từng cánh đồng trong vùng bị thiệt hại theo địa bàn, lập biên bản xác
nhận để làm cơ sở cho việc xác định thiệt hại cây trồng khi thu hoạch. Chi cục
thuế và đội thuế xã phải theo dõi diễn biến kịp thời báo cáo Uỷ ban nhân dân
cùng cấp và cơ quan thuế cấp trên về tình hình thiệt hại.
b. Đến vụ thu hoạch Cục thuế chỉ
đạo các Chi cục thuế phối hợp với các ngành liên quan hướng dẫn, kiểm tra các
xã, xác định năng suất thu hoạch thực tế của diện tích bị thiên tai sâu bệnh
làm mùa màng bị thiệt hại, lập biên bản thăm đồng, trong đó phải xác định rõ.
- Diện tích bị thiệt hại và số hộ
có ruộng đất nằm trong diện tích này;
- Năng suất thực tế bình quân của
diện tích bị thiệt hại.
c. Xác định tỉ
lệ thiệt hại theo công thức:
Tỷ
lệ thiệt hại của vụ xét
|
|
Sản
lượng tính theo năng suất tham khảo của hạng đất tính thuế của vụ xét giảm,
miễn thuế của hộ nộp thuế
|
-
|
Sản
lượng thực tế của vụ xét giảm, miễn thuế của hộ nộp thuế
|
|
|
giảm,
|
=
|
|
|
|
x
|
100%
|
miễn
thuế (%)
|
|
Sản
lượng tính theo năng suất tham khảo của hạng đất tính thuế của vụ xét giảm,
miễn thuế của hộ nộp thuế
|
|
|
Sản
lượng thực tế của vụ xét giảm, miễn thuế của hộ nộp thuế
|
=
|
Sản
lượng tính theo năng suất tham khảo hạng đất tính thuế của diện tích
|
+
|
Sản
lượng thực tế của diện tích bị thiệt hại
|
Điều kiện thực hiện giảm thuế,
miễn thuế theo vụ do thiên tai làm mùa màng bị thiệt hại là phải lập sổ thuế
theo vụ ngay từ đầu năm thuế theo quy định tại Điều 9 Nghị định
số 74/CP ngày 25-10-1993 của Chính phủ. Trường hợp cá biệt không lập sổ thuế
theo vụ ngay từ đầu năm, thì cả năm thực hiện giảm miễn thuế một lần. Xác định
tỉ lệ thiệt hại theo công thức sau.
Tỷ lệ
|
|
Sản
lượng tính theo năng suất tham khảo của hạng đất tính thuế cả năm của hộ nộp
thuế
|
-
|
Sản
lượng thực tế cả năm của hộ nộp thuế
|
|
|
thiệt
hại
|
=
|
|
|
|
x
|
100%
|
cả
năm (%)
|
|
Sản
lượng cả năm tính theo năng suất tham khảo của hạng đất tính thuế cả năm của
hộ nộp thuế
|
|
|
Sản
lượng thực tế cả năm của hộ nộp thuế
|
=
|
Sản
lượng cả năm tính theo năng suất tham khảo của hạng đất tính thuế của diện
tích không bị thiệt hại
|
-
|
Sản
lượng thực tế của diện tích bị thiệt hại
|
Căn cứ vào tỷ lệ thiệt hại đã
xác định để tính mức thuế được giảm miễn theo quy định tại Điều
17 Nghị định số 74/CP ngày 25-10-1993 của Chính phủ.
3- Hội đồng tư vấn thuế xã phải
duyệt từng đối tượng thuộc chính sách: Hội được xét giảm hoặc miễn thuế theo
quy định tại Điều 16 Nghị định số 74/CP ngày 25-10-1993 của
Chính phủ.
4. Trình tự việc xem xét và tổng
hợp đề nghị giảm, miễn thuế ở các cấp như sau:
a. Ở cấp xã: Căn cứ vào thực tế
thiệt hại, biên bản xác nhận đánh giá khi thiên tai, địch hoạ, sâu bệnh... xảy
ra và biên bản thăm đồng; căn cứ vào thực tế đời sống các đối tượng chính sách
thuộc diện được xét giảm, miễn thuế; cơ quan thuế và Hội đồng tư vấn giúp Uỷ
ban nhân dân đề nghị xin giảm miễn thuế của xã, lập danh sách các hộ về diện
tích, mức độ (năng suất thiệt hại, mức thuế xin giảm, miễn do thiên tai, các hộ
xin giảm, miễn thuế thuộc đối tượng chính sách xã hội theo mẫu đính kèm Thông
tư này niêm yết trong thời hạn 20 ngày. Cơ quan thuế tiếp thu ý kiến của nhân
dân, hoàn chỉnh, tổng hợp, báo cáo Uỷ ban nhân dân xã duyệt danh sách và mức
nghị giảm, miễn thuế báo cáo Uỷ ban nhân dân huyện và Chi cục thuế.
b. Ở cấp huyện: Căn cứ vào:
- Biên bản xác định phạm vi và mức
độ thiệt hại xảy ra thiên tai;
- Báo cáo thống kê tình hình
năng suất sản lượng các loại cây trồng kết quả thăm đồng, đánh giá sản lượng
thu hoạch thực tế của diện tích thiệt hại;
- Biên bản xét duyệt của các xã;
- Đơn đề nghị xét giảm miễn thuế
của hộ nộp thuế do huyện quản lý;
- Căn cứ vào đời sống của các hộ
thuộc đối tượng chính sách. ..
Chi cục thuế dự kiến đề nghị xét
giảm, miễn thuế của các xã và các hộ nộp thuế đưa ra Hội đồng tư vấn thuế xem
xét có sự tham gia của các ngành liên quan, trên cơ sở đó, tổng hợp báo cáo Uỷ
ban nhân dân huyện trình Uỷ ban nhân dân tỉnh và Cục thuế tỉnh. Hồ sơ xin giảm,
miễn thuế của các huyện gồm:
- Hồ sơ trình của Uỷ ban nhân
dân các xã và các đơn vị doanh nghiệp thuộc huyện;
- Tờ trình Uỷ ban nhân dân huyện;
- Biên bản xét duyệt đề nghị giảm,
miễn thuế của huyện;
- Báo cáo chi tiết của cơ quan
thuế.
c. Cục thuế kiểm tra và duyệt giảm,
miễn thuế cho các huyện có sự tham gia của Hội đồng tư vấn thuế (các ngành liên
quan) trên cơ sở đó đề nghị Uỷ ban nhân dân tỉnh quyết định. Khi kiểm tra cục
thuế phải:
- Đối chiếu giữa biên bản xác định
diện tích bị thiên tai làm thiệt hại với diện tích thực tế bị thiệt hại, mức độ
thiệt hại và biên bản đánh giá sản lượng thực tế thu hoạch, so sánh giữa các
huyện trong tỉnh, so sánh với các vụ trước v.v...
- Xác định đúng sản lượng của
năm sản xuất theo quy định tại Điều 17 Nghị định số 74/CP ngày
25-10-1993 của Chính phủ;
- Khi xem xét giảm miễn thuế cho
các đối tượng chính sách xã hội phải có xác nhận của ngành thương binh xã hội;
đồng thời phải chú ý xem xét đời sống thực tế ở địa phương và giữa các huyện
trong tỉnh.
5. Trình tự thi hành quyết định
giảm thuế, miễn thuế.
- Uỷ ban nhân dân huyện thực hiện
thông báo bằngvăn bản đến từng hộ nộp thuế về số thuế được giảm, miễn theo đúng
quyết định của Uỷ ban nhân dân tỉnh. Trường hợp số hộ được giảm, miễn quá nhiều
thì có thể uỷ quyền bằng văn bản cho Uỷ ban nhân dân xã thông báo.
- Những trường hợp thông báo
không đúng quyết định của cấp ra quyết định là hành vi phạm luật và Cục thuế được
quyền thu hồi quyết định giảm, miễn thuế hoặc thu hồi số thuế được giảm, miễn
chưa thông báo hết nộp vào ngân sách Nhà nước.
6. Tổng cục Thuế có trách nhiệm
kiểm tra việc thực hiện giảm, miễn thuế của các địa phương, trình Bộ Tài chính
ra quyết định bãi bỏ các quyết định giảm miễn thuế không đúng luật và báo cáo
Thủ tướng Chính phủ theo quy định tại Điều 18 Nghị định 74/CP ngày
25-10-1993 của Chính phủ.
VI. XỬ LÝ VI
PHẠM
Theo quy định tại Điều
26, 27, 28, 29 của Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp và Điều
19, Điều 20 của Nghị định số 74/CP của Chính phủ ngày 25-10-1993, Bộ Tài
chính hướng dẫn thủ tục xử lý vi phạm như sau:
1. Căn cứ vào tính chất và mức độ
vi phạm của các đối tượng, cán bộ thuế lập biên bản vi phạm Luật thuế có chữ ký
của người vi phạm và Uỷ ban nhân dân xã sở tại.
2. Căn cứ vào biên bản xác định
vi phạm mà nghiên cứu xử lý các trường hợp sau:
a. Đối với tổ chức, cá nhân (hộ
nộp thuế) áp dụng các hình thức xử lý từ thấp tới cao:
- Cảnh cáo;
- Phạt tiền;
- Truy cứu trách nhiệm hình sự.
b. Đối với cán bộ thuế hoặc người
lợi dụng chức vụ quyền hạn, áp dụng xử lý theo các hình thức sau:
- Xử lý kỷ luật;
- Xử phạt hành chính;
- Truy cứu trách nhiệm hình sự nếu
hành vi vi phạm gây ra hậu quả nghiêm trọng.
Trường hợp kỷ luật hành chính:
Cơ quan thuế phải đề nghị hình thức kỷ luật với cơ quan có người vi phạm; nếu
là cán bộ thuế phải xử lý theo 10 điều kỷ luật theo các hình thức kỷ luật từ thấp
đến cao: từ phê bình, cảnh cáo đến buộc thôi việc.
c. Trường hợp truy cứu trách nhiệm
hình sự theo Bộ luật hình sự, cơ quan thuế phải
lập hồ sơ chuyển cho cơ quan điều tra để xem xét xử lý.
VII. GIẢI QUYẾT
KHIẾU NẠI
Khi nhận được đơn khiếu nại, thủ
tục giải quyết như sau:
1. Phân loại đơn khiếu nại của tổ
chức, cá nhân khiếu nại về thuế theo tính chất của sự việc.
- Khiếu nại về việc xác định các
căn cứ tính thuế như diện tích tính thuế, thuế ghi thu, thuế phải nộp...;
- Khiếu nại về những chính sách
mà tổ chức hoặc cá nhân nộp thuế được hưởng;
- Khiếu nại về quyết định xử lý
vi phạm của cơ quan thuế và Uỷ ban nhân dân.
2. Xử lý đơn khiếu nại:
- Tổ chức kiểm tra việc thực hiện
thi hành chính sách thuế của Uỷ ban nhân dân và cơ quan thuế mà đơn khiếu nại đề
cập;
- Trực tiếp gặp người khiếu nại
(nếu có điều kiện) hoặc những tổ chức, cá nhân có liên quan để tìm hiểu, kiểm
tra xác minh tại chỗ, lập biên bản về từng vụ việc xác minh.
- Căn cứ vào kết quả kiểm tra
xác minh mà có kết luận về việc khiếu nại của công dân (tổ chức, cá nhân) để:
- Giải quyết kịp thời, nếu nội
dung khiếu nại của đương sự là đúng.
+ Trả lời, giải thích cho đương
sự nếu khiếu nại của đương sự là không đúng hoặc do chưa nắm được rõ chính
sách.
Trong khi xem xét giải quyết khiếu
nại đồng thời phải hướng dẫn cho tổ chức cá nhân nộp đủ và đúng thời hạn số thuế
hoặc tiền phạt ấn định.
VIII. TỔ CHỨC
THỰC HIỆN
1. Cơ quan thuế các cấp có nhiệm
vụ giúp chính quyền các cấp chỉ đạo các ngành có liên quan và Uỷ ban nhân dân cấp
dưới thực hiện việc thi hành Luật thuế sử dụng
đất nông nghiệp tại địa phương mình.
2. Theo quy định tại Điều 29 Nghị định số 74/CP ngày 25-10-1993 của Chính phủ: Hàng
năm, Tổng cục thuế được trích số tiền bằng 4,5% trên số thuế sử dụng đất nông
nghiệp thu được đảm bảo kinh phí cho đội thuế xã thực hiện việc thu thuế ở xã
và hoạt động của Hội đồng tư vấn thuế các cấp. Khoản kinh phí này do ngân sách
trung ương chi, Bộ Tài chính cấp theo kế hoạch từng tháng, quý cho Tổng cục thuế
như các khoản kinh phí khác, cuối năm thanh quyết toán số thuế thực thu.
3. Thông tư này có hiệu lực thi
hành kể từ ngày 1-1-1994. Những quy định trước đây về thuế nông nghiệp của Bộ
Tài chính chỉ có hiệu lực thi hành đến hết ngày 31-12-1993. Riêng việc kê khai
diện tích thuế, phân hạng đất tính thuế và lập sổ thuế năm 1994 được thi hành từ
ngày 25-10-1993.
4. Các Bộ, các ngành, Uỷ ban
nhân dân các tỉnh, thành phổ trực thuộc trung ương trong khi thi hành Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp, Nghị định của
Chính phủ và Thông tư hướng dẫn này, nếu có điều gì chưa rõ cần phản ánh kịp thời
cho Bộ Tài chính.