BỘ
TÀI CHÍNH
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
47-TC/ST
|
Hà
Nội, ngày 05 tháng 12 năm 1959
|
THÔNG TƯ
QUY ĐỊNH MỘT SỐ ĐIỂM CỤ THỂ VỀ VIỆC THU THUẾ LỢI TỨC DOANH
NGHIỆP VÀ THUẾ DOANH NGHIỆP ĐỐI VỚI CÁC TỔ CHỨC HỢP TÁC THỦ CÔNG NGHIỆP VÀ TIỂU
THƯƠNG
Căn cứ Nghị quyết của Hội nghị
Thường vụ Hội đồng Chính phủ và Nghị định số 425 ngày
01-12-1959 của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài chính quy định dưới đây một số điểm
cụ thể về việc thu thuế lợi tức doanh nghiệp và thuế doanh nghiệp đối với các tổ
chức hợp tác thủ công nghiệp và tiểu thương.
1. Về tỷ lệ
huy động cố định (nói trong điều 3 bảng quy định tạm thời biện pháp thu thuế
đối với Hợp tác xã thủ công).
- Nhằm khuyến khích phát triển sản
xuất, cải tiến kỹ thuật, tỷ lệ huy động này được cố định trong thời gian từ đầu
1959 cho đến khi có chính sách thuế lợi tức mới đối với Hợp tác xã.
- Tỷ lệ huy động cố định tính
riêng cho từng tổ chức hợp tác theo phương pháp sau:
- Căn cứ tình hình kinh doanh 06
tháng kể từ khi tổ chức hợp tác bắt đầu sản xuất kinh doanh, tìm ra thực lãi chịu
thuế bình quân một xã viên (có trừ phí tổn sinh hoạt theo thể lệ hiện hành).
(Riêng đối với các tổ chức hợp tác hoạt động trước năm 1959 thì thời gian 06
tháng tính từ tháng 01-1959).
- Đối chiếu thực lãi bình quân
nói trên (sau khi quy ra cả năm theo thể lệ hiện hành) với biểu thuế lợi tức
công nghiệp tìm ra số thuế một xã viên phải đóng.
- Chia số thuế 1 xã viên phải
đóng cho số thực lãi bình quân 1 xã viên thành tỷ lệ huy động cố định cho tổ chức
hợp tác.
Trong trường hợp nhiều tổ chức hợp
tác sát nhập thành một tổ chức mới thì tỷ lệ huy động sẽ được tính lại căn cứ
vào những số thực lãi đã dùng làm cơ sở để tìm tỷ lệ huy động của những tổ chức
hợp tác cũ.
2. Về thời hạn
thu thuế:
Để thuận tiện cho việc đóng góp
của tổ chức hợp tác, nay quy định:
- Đối với tổ chức hợp tác thủ
công, thuế lợi tức tạm thu hàng tháng hay 03 tháng một lần, do chính quyền địa
phương quyết định, việc thanh toán thuế sẽ tiến hành vào mỗi kỳ quyết toán lỗ
lãi (03 tháng hoặc 06 tháng hoặc một năm) tùy theo nội quy của tổ chức hợp tác.
- Đối với các tổ chức hợp tác tiểu
thương, thuế lợi tức nộp dứt khoát hàng tháng, cuối năm không phải kê khai tính
lại thuế nữa.
3. Về việc
miễn giảm thuế:
Thi hành điều 5 quy định nguyên
tắc miễn giảm thuế cho những xã viên đời sống khó khăn, nay qui định cụ thể:
Trong các tổ chức hợp tác, có những xã viên thu nhập bình quân nhân khẩu thấp,
nằm trong diện miễn giảm thuế lợi tức và thuế doanh nghiệp theo tiêu chuẩn
chung áp dụng cho hộ cá thể ở địa phương, thì xã viên đó cũng được miễn giảm về
thuế lợi tức và thuế doanh nghiệp. Về thuế lợi tức sẽ miễn giảm cho xã viên đó
trong phạm vi số thuế tính trên thu nhập của người ấy. Về thuế doanh nghiệp sẽ
miễn giảm cho xã viên đó trong phạm vi số thuế doanh nghiệp tính trên doanh thu
bình quân đầu người của tổ chức hợp tác. Sau khi tính toàn bộ số thuế của tổ chức
hợp tác, sẽ tính trừ ra phần được miễn giảm để lại cho cá nhân xã viên được chiếu
cố.
Về thuế doanh nghiệp đối với tổ
chức hợp tác, căn cứ tinh thần những qui định hiện hành, chính quyền địa phương
cần xét miễn trong các trường hợp sau:
- Đối với các tổ chức hợp tác, tập
họp những thành phần nghèo, khi cá thể không đóng thuế, hiện nay qui mô kinh
doanh nhỏ và thu nhập thấp, thì nay tổ chức hợp tác đó vẫn tiếp tục được miễn
thuế doanh nghiệp.
- Đối với những người thợ không
có vốn, không có công cụ sản xuất, hoạt động có tính chất làm công cho Mậu dịch
khi cá thể được miễn thuế doanh nghiệp, nay được tổ chức lại thì tổ chức hợp
tác cũng tiếp tục được miễn thuế doanh nghiệp.
4. Về phạm
vi áp dụng các biện pháp tính thuế mới:
Căn cứ tinh thần điều 8 của biện
pháp thuế đối với hợp tác thủ công, để khuyến khích các ngành sản xuất, Bộ quy
định đối với các tổ chức hợp tác các ngành kiến trúc, vận tải, chăn nuôi và một
số nghề phục vụ dùng sức lao động là chủ yếu (như cắt tóc, chữa xe đạp, khắc dấu...)
và khi tổ chức thì theo hình thức và qui tắc tổ chức hợp tác tiểu thủ công,
cũng được áp dụng biện pháp tính thuế như đối với hợp tác thủ công. (Đối với
các nghề phục vụ này, thuế lợi tức đối với hộ cá thể vẫn thu theo biểu thuế
thương nghiệp, còn thuế doanh nghiệp đối với tổ chức hợp tác cũng như đối với hộ
cá thể vẫn thu theo thuế suất hiện hành).
Trong trường hợp tổ hợp tác tiểu
thương chuyển hướng sang các nghề chăn nuôi, vận tải, kiến trúc hay số nghề phục
vụ nói trên đây, thì bộ phận chăn nuôi, vận tải, kiến trúc... đó cũng được hưởng
sự ưu đãi (miễn thuế lợi tức trong 06 tháng đầu) như đối với trường hợp tổ hợp
tác tiểu thương chuyển hướng sang sản xuất thủ công nghiệp.
Trường hợp tổ chức hợp tác tập hợp
những người thợ thủ công và tiểu thương vào một hợp tác xã hoạt động cả tiểu thủ
công và thương mại thì thuế lợi tức tính riêng vào bộ phận tiểu thủ công theo
chế độ thuế đối với tổ chức hợp tác tiểu thủ công và vào bộ phận thương mại
theo chế độ thuế đối với tổ chức hợp tác tiểu thương.
Đối với hoạt động sản xuất thủ
công trong hợp tác xã nông nghiệp, trong khi chờ nghiên cứu một chính sách lâu
dài, để khuyến khích hợp tác xã kinh doanh nhiều mặt, nhưng không vì đó mà ảnh
hưởng đến sản xuất nông nghiệp và các nghề thủ công chuyên nghiệp, đồng thời
cũng để việc thu thuế của Nhà nước không bị gián đoạn, thì hướng giải quyết tạm
thời như sau:
- Trường hợp trước đã làm nghề
tiểu thủ công và đã đóng thuế công thương nghiệp, nay vào hợp tác xã nông nghiệp
tiếp tục sản xuất tiểu thủ công cho hợp tác xã nông nghiệp thì hợp tác xã phải
đóng thuế lợi tức và thuế doanh nghiệp về phần sản xuất thủ công và được chiếu
cố như đối với các tổ chức hợp tác thủ công khác.
- Trường hợp phần kinh doanh thủ
công của Hợp tác xã nông nghiệp trước là nghề phụ của nông dân cá thể không phải
đóng thuế doanh nghiệp thì nay cũng tiếp tục được miễn thuế doanh nghiệp.
- Trường hợp hợp tác xã nông
nghiệp tổ chức những cơ sở thủ công tương đối lớn, có bán ra thị trường một phần
sản phẩm thủ công thì phải chịu thuế doanh nghiệp về phần bán ra còn thuế lợi tức
thì chưa thu.
Việc nghiên cứu chính sách thuế
đối với hợp tác xã nông nghiệp là một vấn đề phức tạp, đòi hỏi phải nắm vững
tình hình và đi sâu về nhiều mặt cho nên chưa thể có ngay những biện pháp đối với
từng trường hợp cụ thể của từng địa phương. Trên đây chỉ là một số hướng giải
quyết tạm thời, các Ủy ban cần chú ý nghiên cứu tình hình phát triển của Hợp
tác xã nông nghiệp kinh doanh nhiều mặt phản ảnh lên Bộ kèm theo những ý kiến đề
nghị xây dựng về chính sách.
Chi tiết thi hành Nghị định số
425 ngày 01-12-1959 và Thông tư này sẽ có hướng dẫn riêng (xem Thông tư số 48
ngày 05-12-1959 của Bộ).
|
K.T.
BỘ TRƯỞNG BỘ TÀI CHÍNH
THỨ TRƯỞNG
Trịnh Văn Bính
|