BỘ
TÀI CHÍNH
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
222-TC/TQĐ
|
Hà
Nội, ngày 03 tháng 08 năm 1970
|
THÔNG TƯ
QUY ĐỊNH VỀ THỦ TỤC VÀ BIỆN PHÁP THU NỘP CÁC KHOẢN THUẾ LÃI,
CHÊNH LỆCH GIÁ ĐỐI VỚI CÁC XÍ NGHIỆP THƯƠNG NGHIỆP QUỐC DOANH THUỘC NGÀNH NỘI
THƯƠNG
BỘ TRƯỞNG BỘ TÀI CHÍNH
Căn cứ vào nghị định số 235-CP ngày
04-12-1969 của Hội đồng Chính phủ ban hành điều lệ tạm thời về chế độ thu tài
chính và chế độ phân phối lợi nhuận xí nghiệp quốc doanh trong ngành nội
thương; căn cứ vào quyết định số 258-CP ngày 29-12-1969 của Hội đồng Chính phủ ấn
định khoản thu của ngân sách địa phương về giao nộp nông sản, thực phẩm; căn cứ
vào thông tư liên Bộ Tài chính-Nội thương-Ngân hàng Nhà nước số 93-TT/LB ngày
16-4-1970 hướng dẫn việc thi hành các nghị định và quyết định nói trên, Bộ Tài
chính ban hành thông tư này nhằm quy định các thủ tục và biện pháp thu nộp vào
ngân sách Nhà nước các khoản chênh lệch giá phát sinh do thực hiện các chế độ
thu mới, ở các xí nghiệp thuộc ngành nội thương; nhắc lại các thủ tục và biện
pháp thu nộp vào ngân sách Nhà nước các khoản thuế, lãi, khấu hao cơ bản,
thu theo các chế độ, thể lệ hiện hành vào các hoạt động kinh doanh ăn uống, phục
vụ, chăn nuôi….và các hoạt động ngoài lưu thông thuần túy khác thuộc ngành nội
thương (thông tư số 93-TTg ngày 17-9-1962 của Thủ tướng Chính phủ và nghị định
số 45-CP ngày 23-9-1960 của Hội đồng Chính phủ )
I. THU CÁC KHOẢN CHÊNH LỆCH
GIÁ
Do áp dụng chế độ thu tài chính
mới trong ngành nội thương và do yêu cầu hạch toán kế toán của các xí nghiệp nội
thương nên đã có sự sắp xếp lại hệ thống giá cả áp dụng trong việc giao dịch giữa
các xí nghiệp lưu thông thuần túy thuộc ngành nội thương với các khách bán hàng
hoặc mua hàng.
Như đã giải thích trong thông tư
liên Bộ Tài chính-Nội thương-Ngân hàng Nhà nước số 93, sự sắp xếp lại hệ thống
giá nói trên nhằm làm cho các khoản thu quốc doanh, thuế, và đại bộ phận lãi
thương nghiệp mà trước đây, theo chế độ thu cũ, các xí nghiệp thương nghiệp cấp
I, cấp II thường nộp cho ngân sách, thì nay, theo chế độ thu mới: - một phần được
dồn về khâu sản xuất công nghiệp và do các xí nghiệp sản xuất công nghiệp nộp
cho ngân sách Nhà nước, hoặc là dồn về khâu ngoại thương và do các Tổng công
ty ngoại thương nộp cho ngân sách Nhà nước; - một phần được chuyển
thành các khoản thu về chênh lệch giá. Các khoản này hình thành mỗi khi có
phát sinh hoạt động kinh tế của xí nghiệp thương nghiệp, như:
- Khi nhập kho hàng lưu thông
thì có khoản: chênh lệch giá gia công (ở những đơn vị mà hoạt động gia công là
hoạt động phụ thuộc); chênh lệch giá thu mua hàng thủ công nghiệp; chênh lệch
giá thu mua nông sản, thực phẩm;
- Khi bán hàng thì có khoản:
chênh lệch giá gia công (đối với những đơn vị đã hạch toán kế toán độc lập);
chênh lệch giá khu vực; chênh lệch giá về hàng công nghiệp bán 2 giá; chênh lệch
giá về số nông sản thực phẩm tiêu thụ tại địa phương; v.v…
Nguyên tắc cơ bản là: Khoản
chênh lệch giá phát sinh khi nhập kho hay khi bán hàng thì xí nghiệp thương
nghiệp phải làm ngay thủ tục kê khai rành mạch và cụ thể cho cơ quan thu, để
thu nộp cho ngân sách Nhà nước.
Trường hợp có chênh lệch giá được
ngân sách cấp bù (nghĩa là phát sinh lỗ do chính sách giá cả hay do yêu cầu của
hạch toán kế toán) thì căn cứ vào các quy định về chế độ thu nộp mà Nhà nước đã
quy định: "xí nghiệp phải hạch toán và kê khai rõ ràng và được ngân sách cấp
bù kịp thời theo yêu cầu của xí nghiệp", tuyệt đối không được lấy thu để
bù lỗ, cũng như không được hạch toán thẳng vào tài khoản lỗ lãi.
A. Thu khoản
chênh lệch giá phát sinh lúc hàng hóa nhập kho lưu thông thương nghiệp;
Khoản này gồm có:
- Chênh lệch giá gia công, sản
xuất phát sinh ở các cơ sở gia công sản xuất phụ thuộc chưa hạch toán kinh tế độc
lập:
Mức chênh lệch = giá chỉ đạo nhập
kho trừ (-) giá thành kế hoạch;
- Chênh lệch giá mua hàng thủ
công nghiệp, hàng công nghiệp nhập khẩu và các hàng công nghiệp khác:
Mức chênh lệch = giá chỉ đạo nhập
kho trừ (-) giá mua thực tế.
- Chênh lệch giá thu mua hàng
nông sản thực phẩm:
Mức chênh lệch = giá chỉ đạo thu
mua trừ (-) giá mua thực tế;…
Theo chế độ thu mới thì đối với
hàng công nghiệp, xí nghiệp thương nghiệp nhập kho hàng hóa phải hạch toán theo
giá chỉ đạo nhập kho (giá lẻ trừ (-) chiết khấu thương nghiệp); đối với nông sản
thực phẩm thì hạch toán theo giá chỉ đạo thu mua tại thị trường chính địa
phương.
Ngân hàng cũng căn cứ vào giá nhập
kho như trên để cho xí nghiệp vay thu mua hoặc vay luân chuyển và dự trữ.
Nếu giá nhập kho cao hơn giá xí
nghiệp thương nghiệp trả cho người bán hàng, thì xí nghiệp phải nộp khoản chênh
lệch thừa vào ngân sách Nhà nước; nếu thấp hơn thì xí nghiệp được ngân
sách cấp bù khoản chênh lệch thiếu.
Biện pháp kê khai, thu
nộp:
a) Khi hàng hóa nhập kho thương
nghiệp, hoặc khi xí nghiệp nhận được chứng từ của bên bán đòi tiền hàng, thì
ngay trong ngày hoặc chậm nhất là ngày hôm sau, xí nghiệp phải làm thủ tục (bản
kê hàng hóa nhập kho, hóa đơn,…) để xin vay Ngân hàng theo giá nhập kho, bảo đảm
đúng thời hạn (3 ngày) do Ngân hàng quy định để cho vay thanh toán tiền mua
hàng, đồng thời làm tờ khai cho cơ quan thu (kiêm ủy nhiệm chi) yêu cầu Ngân
hàng Nhà nước trích nộp vào ngân sách khoản chênh lệch giá phát sinh về số hàng
hóa nhập kho đó.
b) Ngân hàng căn cứ vào các chứng
từ nói trên, cho xí nghiệp vay (theo giá nhập kho), đồng thời căn cứ tờ khai
(kiêm ủy nhiệm chi), trích nộp vào ngân sách khoản chênh lệch giá phát sinh.
Trên bản kê hàng hóa nhập kho
thương nghiệp, hóa đơn hàng nhập kho, cũng như tờ khai (kiêm ủy nhiệm chi), phải
ghi rõ mặt hàng, số lượng, giá cả theo giá chỉ đạo nhập kho và giá mua thực tế,
số chênh lệch giá phải nộp ngân sách (hoặc được ngân sách cấp bù). Tờ khai
(kiêm ủy nhiệm chi) nộp ngân sách, xí nghiệp phải làm thành 6 liên theo mẫu số
1 đính kèm thông tư này(1).
- Một liên gửi cho cơ quan thu địa
phương thay giấy báo nộp ngân sách.
- Bốn liên gửi cho Ngân hàng.
Sau khi Ngân hàng đã cho vay và trích nộp ngân sách thì trả lại cho cơ
quan thu địa phương một liên để báo cho biết đã thu vào kho bạc.
c) Các công ty cấp I phải thực
hiện việc kê khai và nộp các khoản chênh lệch giá vào ngân sách, theo từng chuyến
hàng nhập kho. Đối với các công ty cấp II thì cơ quan thu địa phương ấn định lịch
nộp cho từng công ty (hàng ngày, từ 3 đến 5 ngày một lần, hoặc mỗi tháng từ 2 đến
3 lần).
d) Nếu trong cùng một chuyến
hàng hóa nhập kho mà vừa có chênh lệch thừa và chênh lệch thiếu, thì xí nghiệp
phải ghi rành mạch trong bản kê hàng nhập kho, hóa đơn, tờ khai…lên cân đối để
nộp ngân sách hoặc xin ngân sách cấp bù; tùy theo yêu cầu của xí nghiệp, cơ
quan tài chính tiến hành việc cấp bù ngay hoặc thực hiện việc bù trừ trong
chuyến nhập kho kế tiếp.
e) Riêng đối với việc thu chênh
lệch giá gia công ở các cơ sở gia công phụ thuộc. Xí nghiệp thương nghiệp phải:
- Đăng ký với cơ quan thu (theo
mẫu số 2 đính kèm thông tư này)(1): tên các cơ sở nhận gia công, những mặt hàng
gia công, giá thành của đơn vị sản phẩm (giá thành kế hoạch hoặc giá thành tính
theo công thức);
- Mở thêm 2 cột ở bảng kê hàng
gia công nhập kho và sổ nhật ký (thường gọi là nhật biên) hàng gia công nhập
kho cột "giá thành kế hoạch của đơn vị sản phẩm" và cột "số
chênh lệch giá gia công phải nộp ngân sách (hoặc được ngân sách cấp bù)".
- Đối với hàng gia công thuộc loại
chịu thuế hàng hóa, khi nhập kho, xí nghiệp thương nghiệp phải khai số thuế
hàng hóa phải nộp, để ngân hàng trích chuyển vào ngân sách số thuế đó cùng một
lúc với số thu về chênh lệch giá gia công. Khai nộp thuế hàng hóa và khai
nộp khoản chênh lệch giá trên cùng một tờ khai (kiêm ủy nhiệm chi).
Việc tính số chênh lệch giá gia
công theo như quy định trong thông tư liên Bộ Tài chính-Ngân hàng Nhà nước-Nội
thương số 93-TT/LB ngày 16-4-1970, và giá tính thuế hàng hóa đối với hàng gia
công là giá bán buôn thương nghiệp của xí nghiệp thương nghiệp cho gia công.
B. Thu các
khoản chênh lệch giá phát sinh khi bán ra, thu được tiền về.
1. Khoản này gồm có:
- Chênh lệch giá gia công phát
sinh ở các đơn vị hạch toán kinh tế độc lập:
Mức chênh lệch = giá bán lẻ trừ
(-) chiết khấu thương nghiệp, trừ (-) giá thành kế hoạch;
- Chênh lệch giá khu vực:
Mức chênh lệch = giá bán lẻ thị
trường chính nơi xí nghiệp bán trừ (-) giá bán lẻ thị trường chính nơi xí nghiệp
mua;
- Chênh lệch do bán giá cao xe đạp,
phụ tùng xe đạp, mì chính nhập khẩu, vv…
Mức chênh lệch = giá bán lẻ tự
do trừ (-) giá bán cung cấp;
- Các khoản chênh lệch giá khác
(phát sinh do nông sản thực phẩm tiêu thụ tại địa phương, do bán vật tư kỹ thuật
và tư liệu sản xuất theo giá lẻ, vv…).
Tất cả các khoản chênh lệch giá
cả kể trên đều phát sinh khi xí nghiệp thương nghiệp bán hàng và thu tiền về,
nghĩa là trong số tiền hàng mà xí nghiệp thu được về có gồm cả giá vốn hàng bán
ra, khoản chiết khấu thương nghiệp định mức, và những khoản chênh lệch
giá nói trên.
Cần chú ý là không phải ở mọi xí
nghiệp thương nghiệp lưu thông thuần túy đều phát sinh tất cả các khoản chênh lệch
giá cả kể trên do đó, phải căn cứ vào đặc điểm hoạt động kinh doanh, giá cả mua
bán của từng đơn vị cơ sở mà tính toán cụ thể từng khoản chênh lệch giá phải
thu nộp vào ngân sách. Ở các công ty thương nghiệp cấp I, thường chỉ phát sinh
các khoản chênh lệch giá gia công và thuế hàng hóa, chênh lệch giá khu vực, chênh
lệch giá bán hàng nông sản thực phẩm; ở các công ty cấp II bán buôn và xí nghiệp
bán lẻ, ngoài các khoản kể trên còn có khoản chênh lệch giá do bán xe đạp, phụ
tùng xe đạp… theo giá cao, do bán vật tư kỹ thuật và tư liệu sản xuất theo giá
lẻ, do bán nông sản thực phẩm tiêu thụ tại địa phương theo giá bán lẻ, vv….
2. Biện pháp kê khai, thu nộp:
a) Mỗi khi xuất kho hàng hóa, xí
nghiệp thương nghiệp làm hóa đơn bán hàng và làm giấy nhờ Ngân hàng thu tiền
hàng (giấy nhờ thu nhận trả) thì ngay trên hóa đơn xí nghiệp phải ghi rõ số
chênh lệch giá phát sinh. Trên hóa đơn bán hàng, xí nghiệp thêm một dòng, theo
chiều ngang, để ghi tổng số chênh lệch giá phát sinh phải nộp ngân sách. Trường
hợp thu tiền bán hàng bằng séc định mức hay tiền mặt thì khi lập bảng kê nộp
séc, nộp tiền vào Ngân hàng, phải ghi rõ số chênh lệch giá phải nộp.
b) Căn cứ vào tình hình cụ thể của
từng đơn vị cơ sở mà làm thủ tục thu nộp:
Các công ty cấp I làm thủ tục nộp
theo từng giấy nhờ thu.
Ngay khi làm giấy nhờ thu phải
làm tờ khai (kiêm ủy nhiệm chi) kèm theo, gửi cho cơ quan thu và Ngân hàng Nhà
nước để Ngân hàng có căn cứ tính, chuyển nộp ngân sách ngay khi nhận được tiền
bán hàng (mẫu tờ khai và số liên tờ khai như quy định ở phần I điểm
A;2/b).
Đối với các công ty cấp II thì
cơ quan thu địa phương ấn định lịch nộp cho từng xí nghiệp nộp theo từng
hóa đơn bán hàng hoặc định kỳ.
Nếu xí nghiệp nộp theo định kỳ
thì khi đến kỳ nộp phải lập tờ khai (kiêm ủy nhiệm chi), số chênh lệch giá phát
sinh; Ngân hàng căn cứ chứng từ này trích chuyển vào ngân sách khoản chênh
lệch giá mà xí nghiệp phải nộp.
c) Ở các xí nghiệp thương nghiệp
bán lẻ chưa hạch toán kinh tế độc lập, các khoản chênh lệch giá phát sinh ngay
khi xí nghiệp bán lẻ trực tiếp cho người tiêu dùng. Cuối mỗi ngày, toàn bộ số
tiền bán hàng của các đơn vị này được gửi vào Ngân hàng, trong số tiền hàng
ngày có cả các khoản chênh lệch giá phải nộp ngân sách. Vì chưa hạch toán kinh
tế độc lập nên các đơn vị này không trực tiếp trích nộp vào ngân sách các khoản
chênh lệch giá, mặc dù đã phát sinh và tiền đã nộp vào Ngân hàng. Vì vậy những
khoản chênh lệch giá này đều phải do công ty thương nghiệp tập trung tính toán
và trích nộp cho ngân sách đầy đủ và kịp thời, theo thể thức như sau:
Các công ty thương nghiệp khi lập
kế hoạch tài vụ, thì trong bảng tính lỗ lãi phần chênh lệch giữa giá mua và giá
bán cần tách riêng khoản chiết khấu thương nghiệp định mức dành cho công ty và
các khoản chênh lệch giá phải nộp vào ngân sách ghi theo số tuyệt đối và tính
ra tỷ lệ phần trăm (%) trên doanh số bán;
Định kỳ (1 tháng mấy kỳ, do cơ
quan thu địa phương quy định), công ty có nhiệm vụ gửi thông báo yêu cầu Ngân
hàng trích chuyển nộp cho ngân sách các khoản chênh lệch giá tính trên doanh số
bán theo tỷ lệ kế hoạch nói trên. Trong 5 ngày đầu tháng sau, công ty phải tính
toán lại theo thực tế và thanh toán với ngân sách, nếu thiếu nộp thêm cho đủ,
thừa được trả lại hoặc để lại nộp cho kỳ sau tiếp theo yêu cầu của công ty.
Các công ty phải hướng dẫn các
xí nghiệp thương nghiệp bán lẻ định kỳ báo cáo đầy đủ và kịp thời doanh số bán
hàng và các khoản chênh lệch giá phát sinh phải nộp ngân sách.
d) Trường hợp trong số hàng bán
ra có mặt hàng phát sinh chênh lệch thiếu thì đựơc ngân sách cấp bù, cách giải
quyết như quy định ở điểm A2/d phần I trên đây.
e) Mỗi khi có tiền hàng về, Ngân
hàng căn cứ vào các chứng từ nói trên trích nộp ngay vào ngân sách khoản chênh
lệch giá mà xí nghiệp phải nộp, trong trường hợp xí nghiệp nộp theo từng hóa
đơn; sau đó trích khoản chiết khấu thương nghiệp hoặc thặng số thương nghiệp định
mức vào tài khoản tiền gửi của xí nghiệp thương nghiệp; hoặc định kỳ trích nộp
vào ngân sách theo bảng kê khai của xí nghiệp các khoản chênh lệch giá phải nộp
ngân sách.
g) Đối với các xí nghiệp cho gia
công, hạch toán kinh tế độc lập, xí nghiệp phải đăng ký với cơ quan thu các cơ
sở gia công, những mặt hàng gia công, giá thành của đơn vị sản phẩm (giá
thành kế hoạch hoặc giá thành tính theo công thức); mở thêm cột giá thành
kế hoạch của đơn vị sản phẩm ở bảng kê hàng gia công nhập kho cũng như sổ nhật
ký (thường gọi là nhật biên) hàng gia công nhập kho; ở sổ nhật ký bán hàng thêm
cột chênh lệch giá gia công nộp ngân sách (hoặc được cấp bù). Mỗi khi bán hàng,
ngay trên hóa đơn bán hàng kiêm phiếu xuất kho, ghi khoản chênh lệch giá gia
công phải nộp ngân sách (hoặc được cấp bù).
Việc thu nộp ngân sách,
theo như các quy định trên đây. Trường hợp có mặt hàng gia công thuộc loại chịu
thuế hàng hóa thì số thuế này, xí nghiệp phải làm thủ tục nộp ngay lúc nhập
kho, như quy định ở điểm A2/c, phần I trên đây.
II. THU CÁC KHOẢN THUẾ, LÃI,
KHẤU HAO CƠ BẢN… VÀO CÁC HOẠT ĐỘNG KINH DOANH, ĂN UỐNG, PHỤC VỤ, CHĂN NUÔI…
Trong ngành nội thương, ngoài
các khoản chênh lệch giá phải nộp vào ngân sách, như quy định ở trên, các
xí nghiệp thương nghiệp còn phải nộp thuế, lãi, khấu hao cơ bản… cho ngân sách
Nhà nước về các hoạt động kinh doanh không phải là lưu thông như kinh doanh ăn
uống, phục vụ, chăn nuôi, vận tải, kho, sản xuất v.v…
Dưới đây nhắc lại những quy định
hiện hành về việc thu nộp vào ngân sách các khoản tích lũy tài chính kể trên:
1. Trong ngành nội thương, các
xí nghiệp (ăn uống, phục vụ, chăn nuôi, vận tải, kho, sản xuất, v.v…) hạch toán
kinh tế độc lập, đều phải nộp thuế doanh nghiệp (hoặc thuế hàng hóa đối với những
mặt hàng thuộc loại chịu thuế hàng hóa), lãi, khấu hao cơ bản (và một vài khoản
khác như biến giá tài sản cố định, v.v…).
a) Thuế doanh nghiệp:
Tính trên doanh số hàng bán hoặc doanh thu về phục vụ, theo thuế suất Nhà nước
quy định đối với từng loại hoạt động (sản xuất 2%, phục vụ 3% vv…)
b) Thuế hàng hóa:
Các xí nghiệp sản xuất mặt hàng thuộc loại chịu thuế hàng hóa, không
phải nộp thuế doanh nghiệp về các mặt hàng đó. Thuế hàng hóa phải nộp ngay khi
bán hàng. Vì vậy mỗi tháng khi bán hàng, xí nghiệp phải làm thủ tục kê khai và
được Ngân hàng cho vay thanh toán cả giá thành và thuế hàng hóa. Giá tính thuế
hàng hóa là giá bán buôn công nghiệp, tức là giá bán lẻ trừ (-) chiết khấu
thương nghiệp.
b) Lãi: Các xí
nghiệp phải nộp lãi cho ngân sách Nhà nước theo như nghị định số 45-CP ngày
23-9-1960 của Hội đồng Chính phủ.
Riêng đối với các hoạt động về sản
xuất gia công phụ thuộc, ngoài các khoản chênh lệch giá gia công sản xuất, như ở
phần I kể trên, còn phải nộp lãi gia công, lãi sản xuất (như thông tư liên bộ
Tài chính-Nội thương-Ngân hàng Nhà nước số 27-TT/LB ngày 10-12-1964 đã quy định)
cụ thể là lãi gia công, lãi sản xuất phụ thuộc là khoản chênh lệch giữa giá
thành thực tế với giá thành kế hoạch (hoặc giá thành tính theo công thức). Nếu
xí nghiệp chưa tính được ngay giá thành thực tế thì xí nghiệp phải căn cứ vào tỉ
lệ lãi gia công thực tế, theo quyết toán kỳ trước mà làm tỷ lệ trích nộp,
khi có quyết toán sẽ điều chỉnh và thanh toán theo thực tế.
Các xí nghiệp vận tải phục vụ, sửa
chữa đã hạch toán kinh tế độc lập, được trích lập 3 quỹ theo chế độ mới ( quỹ
khuyến khích phát triển kinh doanh, quỹ phúc lợi, và quỹ khen thưởng), do đó, số
lãi nộp ngân sách là số lãi thực hiện, sau khi đã trừ (-) phần để lại cho
3 quỹ theo chế độ đã quy định.
c) Về khấu hao cơ bản:
tất cả các xí nghiệp kể trên đều phải trích nộp khấu hao cơ bản cho ngân sách
Nhà nước theo đúng mức quy định của Nhà nước. Riêng các xí nghiệp vận
tải, phục vụ, sửa chữa, chỉ nộp vào ngân sách Nhà nước có 30% số khấu hao cơ bản
phải trích nộp, xí nghiệp được giữ lại 30% số khấu hao cơ bản để đưa vào quỹ
khuyến khích phát triển kinh doanh và chuyển nộp cho Ty thương nghiệp 40%.
2. Tất cả các khoản thuế, lãi,
khấu hao cơ bản nói trên đây, xí nghiệp phải nộp vào ngân sách mỗi tháng từ 1 đến
2 lần, số trích nộp được tính theo kế hoạch và khi có quyết toán sẽ điều
chỉnh theo thực tế (thiếu nộp thêm, thừa được bù). Riêng đối với lãi gia
công thì theo như quy định ở phần II, điểm 1/b trên đây. Lịch nộp cụ thể do cơ
quan thu địa phương ấn định cho từng đơn vị cơ sở.
III. CÔNG TÁC KIỂM TRA,
GIÁM ĐỐC CỦA CƠ QUAN THU
Cơ quan thu địa phương (cơ quan
tài chính hoặc Chi cục thu quốc doanh thuế công thương nghiệp), trực tiếp là
cán bộ chuyên quản có nhiệm vụ giúp đỡ các đơn vị thương nghiệp cơ sở bố trí thực
hiện đầy đủ các quy định trong thông tư này, đi sâu vào từng hoạt động sản xuất,
kinh doanh để nắm thật chắc giá cả mua bán từng chuyến hàng, mặt hàng cụ thể;
giúp đỡ và thúc đẩy xí nghiệp hạch toán kế toán rõ ràng, phản ảnh rành mạch từng
khoản phải thu nộp cho ngân sách; đôn đốc xí nghiệp bảo đảm nhiệm vụ nộp tích
lũy tài chính cho ngân sách được đủ, đúng và kịp thời.
Công tác kiểm tra, đôn đốc thu nộp
cần thực hiện một cách chặt chẽ, thường xuyên và định kỳ, cụ thể là:
Đôn đốc các xí nghiệp kịp thời
làm các tờ khai (kiêm ủy nhiệm chi) phù hợp với tình hình kinh tế phát
sinh (lúc hàng hóa nhập kho hoặc lúc làm nhờ thu nhận trả, lúc làm bảng kê
nộp séc và tiền mặt vào Ngân hàng, vv…) kịp thời phát hiện các chuyến hàng, các
kỳ kê khai không đầy đủ.
Khi nhận được tờ khai (kiêm ủy
nhiệm chi), trước hết phải căn cứ số liệu kê khai, kiểm tra lại việc tính toán
xem xí nghiệp có tính đúng không? tiếp đó định kỳ đối chiếu số liệu trên tờ
khai với hóa đơn chứng từ gốc về mặt hàng, số lượng, giá cả, số phải nộp, xem
việc kê khai có đúng không? Qua kiểm tra, nếu phát hiện sai sót cần lập biên bản
kiểm tra thành 3 bản (theo mẫu đính kèm thông tư này)(1) 1 bản để lại xí
nghiệp, 1 bản cơ quan thu giữ, 1 bản gửi sở ty chủ quản và ra thông báo ngay
cho xí nghiệp tiến hành điều chỉnh lại số thu nộp (thiếu nộp thêm, thừa được bù
trừ). Các cơ quan thu địa phương (hoặc Chi cục thu quốc doanh và thuế), căn cứ
đặc điểm hoạt động kinh doanh cũng như tình hình thu nộp tích lũy cho ngân sách
của từng xí nghiệp thương nghiệp mà ấn định số lần cán bộ chuyên quản phải tiến
hành kiểm tra tại xí nghiệp.
Trường hợp đến ngày xí nghiệp phải
nộp ngân sách các khoản thuế, lãi, chênh lệch giá v.v… theo định kỳ kế hoạch hoặc
thực tế đã phát sinh, nhưng xí nghiệp chậm làm thủ tục nộp, cơ quan thu căn cứ
nhiệm vụ kế hoạch đã giao cho xí nghiệp hoặc hoạt động thực tế phát sinh mà
phát hành thông báo thu nộp gửi cho xí nghiệp và Ngân hàng. Ngân hàng căn cứ
thông báo này, tự động trích tài khoản tiền gửi của xí nghiệp, chuyển nộp vào
ngân sách số phải nộp ghi trong thông báo của cơ quan thu. Nếu tài khoản tiền gửi
của xí nghiệp không còn đủ số phải nộp thì tiếp đó, khi xí nghiệp có tiền về
tài khoản tiền gửi, Ngân hàng sẽ trích chuyển ngay số còn thiếu vào ngân sách,
theo đúng thứ tự ưu tiên Nhà nước đã quy định. Việc hoàn thành nhiệm vụ kế hoạch
tích lũy và nộp các khoản phải nộp cho ngân sách Nhà nước đủ và đúng hạn là một
điều kiện quan trọng để được xét trích lập các quỹ xí nghiệp; cơ quan thu cần
ghi nhận đầy đủ những cố gắng của xí nghiệp trong khi làm nhiệm vụ đối với ngân
sách cũng như những sai sót của xí nghiệp vi phạm về chế độ thể lệ tài chính, để
có cơ sở xét việc trích lập các quỹ của xí nghiệp được thỏa đáng.
Riêng đối với các hợp tác xã thủ
công nghiệp, tiểu công nghiệp có quan hệ làm gia công cho các xí nghiệp thương
nghiệp, cơ quan thu địa phương, ngoài việc đôn đốc thu nộp đủ và kịp thời cho
ngân sách các khoản thu về thuế doanh nghiệp, thuế hàng hóa, thuế lợi tức, còn
phải quản lý chặt chẽ giám đốc việc sử dụng nguyên liệu, giao nộp hàng
hóa…. để đóng góp phần tăng cường quản lý vật tư, hàng hóa của Nhà nước.
Việc thực hiện các thủ tục biện
pháp thu trên đây nhằm tăng cường thêm một bước công tác quản lý kinh tế tài
chính tại cơ sở, nhanh chóng đưa chế độ thu mới vào nề nếp, chế độ,
Bộ đề nghị các sở, Ty tài chính,
và các Chi cục thu quốc doanh và thuế nghiên cứu kỹ thông tư này, tổ chức cho
các cán bộ chuyên quản hướng dẫn chu đáo cho từng đơn vị thương nghiệp cơ sở
thi hành; đồng thời tranh thủ sự chỉ đạo của Ủy ban hành chính trong công tác
thu nộp tích lũy cho ngân sách Nhà nước cũng như phối hợp chặt chẽ giữa các
ngành liên quan, bảo đảm việc thực hiện thông tư này đạt kết quả tốt.
Trong quá trình thực hiện, nếu gặp
khó khăn mắc mứu, cần kịp thời báo cáo về Bộ để nghiên cứu và giải quyết.
|
KT. BỘ TRƯỞNG
BỘ TÀI CHÍNH
THỨ TRƯỞNG
Trịnh Văn Bính
|
(1)Không đăng các bản mẫu.