BỘ
TÀI CHÍNH
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
14-TC/TNN
|
Hà
Nội, ngày 21 tháng 3 năm 1984
|
THÔNG TƯ
CỦA BỘ TÀI CHÍNH SỐ 14-TC/TNN NGÀY 21-3-1984 QUY ĐỊNH SỐ LƯỢNG
CÁN BỘ BAN THUẾ NÔNG NGHIỆP XÃ VÀ CHẾ ĐỘ TRỢ CẤP CÁN BỘ THUẾ XÃ
Tại Điều 22 Pháp lệnh thuế nông
nghiệp quy định: "Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn có nhiệm vụ tổ chức
thực hiện công tác thuế nông nghiệp ở địa phương mình...; kiện toàn tổ chức
giúp việc là Ban thuế nông nghiệp xã, phường, thị trấn". Tiếp theo Thông tư
số 49-TC/TCCB ngày 31 tháng 12 năm 1983 của Bộ Tài chính quy định tổ chức bộ
máy thuế nông nghiệp ở cơ quan Tài chính các cấp, Thông tư này Bộ Tài chính quy
định số lượng cán bộ Ban thuế nông nghiệp xã và chế độ trợ cấp cán bộ thuế xã.
Những căn cứ để
quy định số lượng cán bộ Ban thuế nông nghiệp xã.
Để bố trí cán bộ thuế nông nghiệp
phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ thu thuế nông nghiệp ở từng xã và ở từng vùng đã hợp
tác hoá hay chưa hợp tác hoá, số lượng cán bộ Ban thuế nông nghiệp xã được quy
định như sau:
a) Ở các xã thuộc vùng chưa hoàn
thành hợp tác hoá:
Mỗi ấp (có số thuế quy thóc phải
thu hàng năm từ 80 tấn ở vùng đồng bằng, 60 tấn ở vùng trung du và 20 tấn ở
vùng miền núi trở lên) thì được 1 cán bộ thuế nông nghiệp.
Những ấp có số thuế phải thu dưới
mức nói ở trên, thì 2 ấp được 1 cán bộ thuế nông nghiệp.
b) Ở các xã thuộc vùng đã hoàn
thành hợp tác hoá:
Mỗi xã (có số thuế quy thóc phải
thu hàng năm từ 150 tấn ở vùng đồng bằng, 100 tấn ở vùng trung du và 50 tấn ở
vùng miền núi trở lên) thì được 2 cán bộ thuế nông nghiệp.
Những xã có số thuế phải thu dưới
mức nói ở trên được 1 cán bộ thuế nông nghiệp xã.
c) Những xã có thu thuế cây lâu
năm bằng tiền trên 250.000 đồng/năm thì được cử thêm 1 cán bộ thuế nông nghiệp
(những xã có số thu dưới mức nói trên không được tăng thêm cán bộ thuế).
Định mức số lượng cán bộ Ban thuế
nông nghiệp xã nói ở trên là tính số cán bộ, không kể Trưởng ban thuế nông nghiệp
xã là Chủ tịch hoặc Phó chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã.
Cán bộ thuế nông nghiệp xã nói ở
trên phải có các tiêu chuẩn sau đây:
- Là nông dân lao động tiền tiến.
- Hăng hái tích cực công tác, có
nhiệt tình với công tác tài chính; bản thân và gia đình chấp hành nghiêm chỉnh
các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, được nhân dân tín nhiệm.
- Có trình độ văn hoá tối thiểu
lớp 8 phổ thông, có khả năng nắm được chính sách, nghiệp vụ công tác thuế nông
nghiệp và biết tuyên truyền vận động nhân dân nộp thuế, bảo đảm hoàn thành nhiệm
vụ được giao.
Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố
đặc khu cần chỉ đạo chặt chẽ ngành tài chính và Uỷ ban nhân dân các huyện, các
xã lựa chọn cán bộ thuế nông nghiệp xã bảo đảm các yêu cầu về số lượng và chất
lượng nói trên. Đối với những cán bộ đang làm công tác thuế, nếu còn thiếu tiêu
chuẩn nào thì phải bồi dưỡng và sau một thời gian nhất định nếu vẫn không đủ
các tiêu chuẩn trên, không phát huy được tác dụng thì cần thay thế cán bộ có đủ
tiêu chuẩn để bảo đảm nhiệm vụ thu thuế nông nghiệp ở từng xã.
Ban thuế nông nghiệp huyện hướng
dẫn Uỷ ban nhân dân xã nắm vững các tiêu chuẩn để lựa chọn cán bộ thuế cho từng
xã đủ số lượng và đúng tiêu chuẩn; sau đó giúp Uỷ ban nhân dân huyện xét quyết
định công nhận danh sách cán bộ thuế xã do Uỷ ban nhân dân xã đề nghị. Cán bộ
thuế xã phải được phân công chuyên trách, không điều động cán bộ thuế đi công tác
khác. Trường hợp cần thiết phải thay đổi cán bộ thuế xã thì Uỷ ban nhân dân xã
phải trao đổi với Ban thuế nông nghiệp huyện trước khi báo cáo Uỷ ban nhân dân
huyện quyết định.
II- TRỢ CẤP
THÙ LAO HÀNG THÁNG CHO CÁN BỘ THUẾ NÔNG NGHIỆP XÃ
1. Chủ tịch hoặc Phó chủ tịch Uỷ
ban nhân dân xã làm Trưởng Ban thuế nông nghiệp xã đã được hưởng trợ cấp theo
Quyết định số 111-HĐBT ngày 13-10-1981 của Hội đồng bộ trưởng, không hưởng trợ
cấp kinh phí thuế nông nghiệp.
2. Cán bộ thuế nông nghiệp xã được
hưởng trợ cấp hàng tháng được vận dụng theo tinh thần Quyết định số 111-HĐBT
ngày 13-10-1981 của Hội đồng Bộ trưởng như sau:
Phó ban thuế nông nghiệp xã được
hưởng trợ cấp hàng tháng từ 90 đồng đến 100 đồng.
Cán bộ chuyên trách thuế nông
nghiệp xã được hưởng trợ cấp hàng tháng từ 80 đồng đến 100 đồng.
Số trợ cấp hàng tháng nói trên
được hưởng cả 12 tháng trong năm.
3. ở những xã có thu tiền thuế
cây lâu năm thì những cán bộ trực tiếp làm công tác kê khai tính thuế, thu nhận
tiền thuế, được hưởng theo tiền thù lao bằng 0,4% tính trên số thuế cây lâu năm
thu được hàng năm.
4. Mỗi vụ thu thuế (chỉ tính các
vụ chính) ở vùng chưa hợp tác hoá được chi 500 đồng 1 xã, ở vùng đã hoàn thành
hợp tác hoá được chi 200 đồng 1 xã để trợ cấp thêm cho cán bộ thuế nông nghiệp
xã trong những ngày làm việc tại kho thu nhận thóc thuế, phát biên lai thu thuế,
làm biên bản xác nhận số thuế đã nộp kho để thanh toán nộp tiền vào ngân sách.
5. Những ngày cán bộ đi họp, đi
công tác thì được hưởng chế độ công tác phí hiện hàng đối với cán bộ xã.
Ngoài những chế độ nói trên, cán
bộ thuế nông nghiệp còn được hưởng chế độ tiền thưởng hoàn thành nhiệm vụ thu
thuế từng vụ và cả năm theo Thông tư số 50-TC ngày 31-12-1983 của Bộ Tài chính.
III- CHẾ ĐỘ
CHI TIÊU CHO CÔNG TÁC THUẾ NÔNG NGHIỆP Ở XÃ
Ban thuế nông nghiệp xã được chi
bình quân mỗi xã một số tiền bằng 600 kg thóc 1 năm (tính thành tiền theo giá
tính thanh toán thuế nông nghiệp hiện hành ở địa phương) để mua giấy, bút, mực,
dầu đèn, chè nước cho hội nghị thuế nông nghiệp ở xã, v.v...
Những khoản chi theo chế độ nói
trong điểm II và III thuộc kinh phí sự nghiệp do Ngân sách trung ương đài thọ,
ghi vào kinh phí ngành thuế nông nghiệp của cả nước.
Hàng năm, căn cứ vào chế độ quy
định của Nhà nước, Sở Tài chính (Ban thuế nông nghiệp tỉnh) lập dự toán chi cho
công tác thuế nông nghiệp gửi Bộ Tài chính xét duyệt và chuyển kinh phí uỷ quyền
hàng quý để Sở Tài chính cấp cho Ban thuế nông nghiệp các cấp.
Đề nghị Uỷ ban nhân dân các tỉnh,
thành phố, đặc khu thực hiện đúng những quy định và các chế độ trên đây đối với
cán bộ thuế nông nghiệp xã, đồng thời tạo mọi điều kiện bồi dưỡng, động viên
cán bộ thuế xã yên tâm, phấn khởi công tác để bảo đảm chi tiêu kế hoạch thu thuế
nông nghiệp hàng năm đúng chính sách và thời gian quy định.
Thông tư này có hiệu lực từ ngày
ký.