BỘ
NGOẠI GIAO
-------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 73/2016/TB-LPQT
|
Hà Nội,
ngày 08 tháng 12 năm
2016
|
THÔNG BÁO
VỀ
VIỆC ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ CÓ HIỆU LỰC
Thực hiện quy định tại Điều
56 của Luật Điều ước quốc tế năm 2016, Bộ Ngoại giao trân trọng thông báo:
Hiệp định giữa Chính phủ nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa Man-ta về tránh đánh thuế
hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với các loại thuế đánh vào thu nhập, ký tại U-lan Ba-to ngày 15 tháng 7 năm 2016, có hiệu lực kể từ ngày 25
tháng 11 năm 2016.
Bộ Ngoại giao trân trọng gửi Bản sao Hiệp
định theo quy định tại Điều 59 của Luật nêu trên./.
|
TL.
BỘ TRƯỞNG
QUYỀN VỤ TRƯỞNG
VỤ LUẬT PHÁP VÀ ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ
Lê Thị Tuyết Mai
|
HIỆP ĐỊNH
GIỮA CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM VÀ CHÍNH
PHỦ NƯỚC CỘNG HÒA MAN-TA VỀ TRÁNH ĐÁNH THUẾ HAI LẦN VÀ NGĂN NGỪA VIỆC TRỐN LẬU
THUẾ ĐỐI VỚI CÁC LOẠI THUẾ ĐÁNH VÀO THU NHẬP
Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa Man-ta,
Mong muốn ký kết một Hiệp định về tránh
đánh thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với các loại thuế đánh
vào thu nhập,
Đã thỏa thuận
dưới đây:
Điều 1
ĐỐI TƯỢNG ÁP DỤNG
Hiệp định này được áp dụng đối với các
đối tượng là những đối tượng cư trú của một hoặc của cả hai
Nước ký kết.
Điều 2
CÁC LOẠI THUẾ BAO GỒM TRONG HIỆP ĐỊNH
1. Hiệp định này áp dụng đối với các loại
thuế đánh vào thu nhập đại diện cho một Nước ký kết, bất kể hình thức áp dụng của các loại thuế đó như thế
nào.
2. Tất cả các loại thuế thu trên tổng
thu nhập hoặc những phần của thu nhập, bao gồm các loại thuế đối với thu nhập
từ chuyển nhượng động sản hoặc bất động sản và các loại
thuế đánh trên tổng số tiền lương hoặc tiền công do doanh nghiệp trả sẽ được
coi là thuế thu nhập.
3. Các loại thuế hiện hành được áp
dụng trong Hiệp định này cụ thể là:
(a) tại Việt Nam:
(i) thuế thu nhập cá nhân; và
(ii) thuế thu nhập doanh nghiệp;
(sau đây gọi là “thuế Việt Nam”); và
(b) tại Man-ta:
thuế đối với thu nhập;
(sau đây gọi là “thuế Man-ta”).
4. Hiệp định này cũng sẽ được áp dụng
đối với các loại thuế có tính chất tương tự hoặc về cơ bản giống như các loại thuế
nêu trên được ban hành sau ngày ký Hiệp định này để
bổ sung, hoặc thay thế các loại thuế hiện hành.
Các nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết sẽ
thông báo cho nhau biết những thay đổi cơ bản trong các luật thuế của từng Nước.
Điều 3
CÁC ĐỊNH NGHĨA CHUNG
1. Theo nội dung của Hiệp định này, trừ
trường hợp ngữ cảnh đòi hỏi có sự giải thích khác:
(a) thuật ngữ “Việt Nam” có nghĩa là nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; khi dùng theo nghĩa địa lý, thuật ngữ này
có nghĩa là lãnh thổ đất liền, các hải đảo, nội thủy, lãnh hải và vùng trời phía
trên đó, vùng biển ngoài lãnh hải, bao gồm cả đáy biển và lòng đất dưới đáy
biển mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện chủ quyền, quyền chủ
quyền và quyền tài phán phù hợp với pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế;
(b) thuật ngữ “Man-ta” có nghĩa là
nước Cộng hòa Man-ta và, khi dùng theo nghĩa địa lý, có nghĩa là đảo Man-ta,
đảo Gozo và các đảo khác của quần đảo Man-ta bao gồm cả
vùng lãnh hải của các đảo này, cũng
như bất kỳ khu vực đáy biển, lòng đất dưới đáy biển và khối nước ở trên tiếp
giáp với lãnh hải, tại đó Man-ta thực hiện quyền chủ quyền, quyền tài phán,
hoặc kiểm soát theo quy định của pháp luật quốc tế và luật pháp quốc gia, bao
gồm cả pháp luật liên quan đến việc thăm dò thềm lục địa và khai thác các nguồn
tài nguyên thiên nhiên ở đó;
(c) thuật ngữ “Nước ký kết” và “Nước ký
kết kia” có nghĩa là Việt Nam hoặc Man-ta tùy theo ngữ cảnh
đòi hỏi;
(d) thuật ngữ “đối tượng” bao gồm một
cá nhân, một công ty và bất kỳ tổ chức của nhiều đối tượng nào khác;
(e) thuật ngữ “công ty” có nghĩa là
bất kỳ tổ chức công ty hoặc bất kỳ một thực thể nào được coi là một tổ chức
công ty dưới giác độ thuế;
(f) thuật ngữ “doanh nghiệp của một Nước
ký kết” và “doanh nghiệp của Nước ký kết kia” theo thứ tự có nghĩa là một doanh
nghiệp được điều hành bởi một đối tượng cư trú của một Nước ký kết và một doanh
nghiệp được điều hành bởi một đối tượng cư trú của Nước ký kết kia;
(g) thuật ngữ “đối tượng mang quốc
tịch”, liên quan đến một Nước ký kết, có nghĩa là:
(i) bất kỳ cá nhân nào mang quốc tịch
của Nước ký kết đó; và
(ii) bất kỳ pháp nhân, công ty hợp danh
và hiệp hội nào có tư cách theo các luật có hiệu lực tại Nước ký kết đó;
(h) thuật ngữ “vận tải quốc tế” có nghĩa là bất kỳ sự vận chuyển nào bằng tàu thủy hoặc máy bay được
thực hiện bởi một doanh nghiệp của một Nước ký kết, trừ trường hợp khi chiếc tàu thủy hoặc máy bay đó chỉ hoạt động giữa
những địa điểm trong Nước ký kết kia; và
(i) thuật ngữ “nhà chức trách có thẩm
quyền” có nghĩa là:
(i) trong trường hợp của Việt Nam, là Bộ trưởng Bộ Tài chính hoặc
người đại diện được ủy quyền của Bộ trưởng;
(ii) trong trường hợp của Man-ta, là Bộ
trưởng chịu trách nhiệm về tài chính hoặc người đại diện được ủy quyền của Bộ trưởng.
2. Khi một Nước ký kết áp dụng Hiệp
định này vào bất kỳ thời điểm nào, bất kỳ thuật ngữ nào
chưa được định nghĩa tại Hiệp định này sẽ có nghĩa theo như định nghĩa tại luật
của Nước đó đối với các loại thuế mà Hiệp định này áp dụng vào thời điểm đó,
bất kỳ nghĩa nào theo các luật thuế được áp dụng của Nước đó sẽ có giá trị cao
hơn nghĩa của thuật ngữ đó theo các luật khác của Nước đó, trừ trường hợp ngữ
cảnh đòi hỏi có sự giải thích khác.
Điều 4
ĐỐI TƯỢNG CƯ TRÚ
1. Theo nội dung của Hiệp định này, thuật
ngữ “đối tượng cư trú của một Nước ký kết” có nghĩa là bất kỳ đối tượng nào, mà
theo các luật của Nước đó, là đối tượng chịu thuế căn cứ
vào nhà ở, nơi cư trú, trụ sở thành lập (hoặc đăng ký), trụ sở điều hành hoặc
bất kỳ các tiêu chuẩn khác có tính chất tương tự, và cũng bao gồm cả Nước đó
hoặc chính quyền địa phương của Nước đó. Tuy nhiên, thuật ngữ này không bao gồm bất kỳ đối tượng nào là đối tượng chịu thuế tại Nước đó chỉ đối
với thu nhập từ các nguồn tại Nước đó.
2. Trường hợp theo các quy định tại
khoản 1 khi một cá nhân là đối tượng cư trú của cả hai
Nước ký kết, thì thân phận cư trú của cá nhân đó sẽ được xác định như sau:
(a) cá nhân đó sẽ được coi là đối tượng cư trú chỉ của Nước mà cá nhân có nhà ở thường trú; nếu cá nhân
đó có nhà ở thường trú ở cả hai Nước, cá nhân đó sẽ được coi là đối tượng cư
trú chỉ của Nước mà cá nhân đó có các quan hệ cá nhân và kinh tế chặt chẽ hơn
(trung tâm của các quyền lợi chủ yếu);
(b) nếu không thể xác định được Nước mà
ở đó cá nhân đó có trung tâm của các quyền lợi chủ yếu, hoặc nếu cá nhân đó không
có nhà ở thường trú ở cả hai Nước, cá nhân đó sẽ được coi là đối tượng cư trú
chỉ của Nước mà cá nhân đó thường sống;
(c) nếu cá nhân đó thường xuyên sống
ở cả hai Nước hoặc không thường xuyên sống ở Nước nào, cá nhân đó sẽ được coi
là đối tượng cư trú chỉ của Nước mà cá nhân đó mang quốc
tịch;
(d) nếu cá nhân đó là đối tượng mang quốc
tịch của cả hai Nước hoặc không mang quốc tịch của cả hai Nước này, các nhà
chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết sẽ giải quyết
vấn đề đó bằng thỏa thuận chung.
3. Trường hợp theo các quy định tại
khoản 1 một đối tượng không phải là cá nhân, là đối tượng cư trú của cả hai
Nước ký kết, khi đó, đối tượng trên sẽ được coi là đối tượng cư trú chỉ của
Nước có trụ sở điều hành thực tế của đối tượng đó. Nếu không xác định được Nước
nơi có trụ sở điều hành thực tế, hoặc trụ sở điều hành thực tế không có ở Nước
nào, khi đó các nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết sẽ cố gắng để
xác định Nước mà có đối tượng sẽ được coi là đối tượng cư trú vì mục
đích của Hiệp định bằng thỏa thuận chung phù hợp với Điều 25, có xem xét tới
trụ sở điều hành, trụ sở đăng ký hoặc thành lập và bất kỳ các yếu tố liên quan
nào khác. Trong trường hợp không có thỏa thuận như vậy, đối tượng đó sẽ không
được quyền hưởng bất kỳ việc giảm hoặc miễn thuế nào quy định tại Hiệp định này.
Điều 5
CƠ SỞ THƯỜNG TRÚ
1. Theo nội dung của Hiệp định này, thuật
ngữ “cơ sở thường trú” có nghĩa là một địa điểm kinh doanh cố định mà qua đó
doanh nghiệp thực hiện toàn bộ hoặc một phần hoạt động kinh doanh của mình.
2. Thuật ngữ “cơ sở thường trú” chủ
yếu bao gồm:
(a) trụ sở điều hành;
(b) chi nhánh;
(c) văn phòng;
(d) nhà máy;
(e) xưởng; và
(f) mỏ, giếng dầu hoặc khí, mỏ đá
hoặc bất kỳ địa điểm khai thác tài nguyên thiên nhiên nào khác.
3. Thuật ngữ “cơ sở thường trú” cũng bao
gồm:
(a) một địa điểm xây dựng, dự án xây dựng,
lắp ráp hoặc lắp đặt hoặc các hoạt động giám sát liên quan, nhưng chỉ khi địa
điểm, dự án hoặc các hoạt động này kéo dài hơn sáu tháng;
(b) việc cung cấp các dịch vụ, bao
gồm cả các dịch vụ tư vấn, do một doanh nghiệp thực hiện thông qua những người
làm công hoặc những đối tượng khác được doanh nghiệp giao thực hiện các hoạt
động trên, nhưng chỉ khi các hoạt động mang tính chất nêu trên kéo dài (trong
cùng một dự án hoặc một dự án có liên quan) tại một Nước ký kết trong một giai
đoạn hoặc nhiều giai đoạn gộp lại hơn sáu tháng trong bất
kỳ giai đoạn mười hai tháng; và
(c) một đối tượng tiến hành các hoạt động
(bao gồm cả các hoạt động ở ngoài khơi) tại một Nước ký kết liên quan đến việc thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên có tại Nước ký kết đó
sẽ được coi như là tiến hành kinh doanh thông qua một cơ sở thường trú tại Nước
ký kết đó.
4. Mặc dù có những quy định trên của
Điều này, thuật ngữ “cơ sở thường trú” sẽ được coi là không bao gồm:
(a) việc sử dụng các phương tiện chỉ với
mục đích lưu kho hoặc trưng bày hàng hóa hoặc tài sản của doanh nghiệp;
(b) việc duy trì kho hàng hóa hoặc tài
sản của doanh nghiệp chỉ với mục đích lưu kho hoặc trưng
bày;
(c) việc duy trì kho hàng hóa hoặc tài
sản của doanh nghiệp chỉ với mục đích để cho doanh nghiệp khác gia công;
(d) việc duy trì một địa điểm kinh
doanh cố định chỉ với mục đích thu thập thông tin cho doanh
nghiệp;
(e) việc duy trì một địa điểm kinh doanh
cố định chỉ với mục đích tiến hành bất kỳ hoạt động nào khác mang tính chất chuẩn
bị hoặc phụ trợ cho doanh nghiệp;
(f) việc duy trì một địa điểm kinh doanh
cố định chỉ để phục vụ cho bất kỳ sự kết hợp nào của các hoạt động đã được nêu
từ tiết khoản (a) đến tiết khoản (e), với điều kiện toàn bộ hoạt động của cơ sở
kinh doanh cố định đó trên cơ sở sự kết hợp này mang tính
chất chuẩn bị hoặc phụ trợ.
5. Mặc dù có những quy định tại các khoản
1 và 2, trường hợp một đối tượng - trừ đại lý có tư cách độc lập được điều
chỉnh bởi khoản 6 - hoạt động tại một Nước ký kết thay mặt cho một doanh nghiệp
của Nước ký kết kia, doanh nghiệp đó sẽ được coi là có cơ sở thường trú tại
Nước ký kết thứ nhất đối với bất kỳ hoạt động nào mà đối tượng đó thực hiện cho
doanh nghiệp, nếu đối tượng đó:
(a) có và thường xuyên thực hiện tại Nước
đó thẩm quyền ký kết các hợp đồng đứng tên doanh nghiệp, trừ khi các hoạt động
của đối tượng đó chỉ giới hạn trong phạm vi các hoạt động nêu tại khoản 4 mà
những hoạt động đó nếu được thực hiện thông qua một địa điểm kinh doanh cố
định, sẽ không làm cho địa điểm kinh doanh cố định đó trở thành một cơ sở
thường trú theo những quy định tại khoản đó; hoặc
(b) không có thẩm quyền trên, nhưng thường xuyên duy trì tại Nước thứ nhất một kho hàng hóa
hoặc tài sản, qua đó đối tượng này thường xuyên thực hiện việc giao hàng hóa
hoặc tài sản thay mặt cho doanh nghiệp.
6. Một doanh nghiệp của một Nước ký
kết sẽ không được coi là có một cơ sở thường trú tại Nước ký kết kia chỉ vì
doanh nghiệp đó thực hiện kinh doanh tại Nước ký kết kia thông qua một đại lý
môi giới, một đại lý hoa hồng hoặc bất kỳ một đại lý nào khác có tư cách độc
lập, với điều kiện những đối tượng này hoạt động trong khuôn khổ kinh doanh
thông thường của mình. Tuy nhiên, khi những hoạt động của đại lý đó dành toàn
bộ hoặc hầu như toàn bộ thay mặt cho doanh nghiệp đó, và điều kiện được tạo ra
hoặc áp đặt giữa doanh nghiệp đó và đại lý đó trong quan hệ thương mại và quan
hệ tài chính khác với điều kiện được tạo ra giữa các doanh nghiệp độc lập, đại
lý đó sẽ không được coi là đại lý có tư cách độc lập theo nghĩa của khoản này.
7. Việc một công ty là đối tượng cư trú
của một Nước ký kết kiểm soát hoặc chịu sự kiểm soát bởi một công ty là đối tượng
cư trú của Nước ký kết kia hoặc tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước kia (có
thể thông qua một cơ sở thường trú hoặc dưới hình thức khác), sẽ không làm cho bất kỳ công ty nào trở thành cơ sở thường trú của công ty kia.
Điều 6
THU NHẬP TỪ BẤT ĐỘNG SẢN
1. Thu nhập mà một đối tượng cư trú
của một Nước ký kết thu được từ bất động sản (kể cả thu nhập từ nông nghiệp
hoặc lâm nghiệp) có tại Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
2. Thuật ngữ “bất động sản” sẽ có nghĩa
theo như luật của Nước ký kết nơi có bất động sản đó. Thuật ngữ này trong mọi
trường hợp sẽ bao gồm cả những phần tài
sản phụ kèm theo bất động sản, đàn gia súc và thiết bị sử dụng trong nông nghiệp
và lâm nghiệp, các quyền lợi được áp dụng theo các quy định tại luật chung về
điền sản, quyền sử dụng bất động sản và các quyền được hưởng
các khoản thanh toán cố định hoặc không cố định trả cho
việc khai thác hoặc quyền khai thác các mỏ, nguồn khoáng sản
và các tài nguyên thiên nhiên khác; các tàu thủy và máy bay sẽ không được coi
là bất động sản.
3. Các quy định tại khoản 1 sẽ áp
dụng đối với thu nhập phát sinh từ việc trực tiếp sử dụng, cho thuê, hoặc sử
dụng dưới bất kỳ hình thức nào khác của bất động sản.
4. Những quy định tại các khoản 1 và 3
cũng sẽ áp dụng đối với thu nhập từ bất động sản của một doanh nghiệp và đối với
thu nhập từ bất động sản được sử dụng để thực hiện các hoạt động dịch vụ cá nhân
độc lập.
Điều 7
LỢI NHUẬN KINH DOANH
1. Lợi nhuận của một doanh nghiệp của
một Nước ký kết sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó, trừ trường hợp doanh nghiệp có
tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước ký kết kia thông qua một cơ sở thường trú
tại Nước ký kết kia. Nếu doanh nghiệp có hoạt động kinh
doanh theo cách trên, thì các khoản lợi nhuận của doanh nghiệp có thể bị đánh
thuế tại Nước kia nhưng chỉ trên phần lợi nhuận phân bổ cho:
(a) cơ sở thường trú đó;
(b) việc bán tại Nước ký kết kia
những hàng hóa cùng loại hoặc tương tự như những hàng hóa bán qua cơ sở thường
trú đó. Được hiểu rằng lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ bao gồm lợi nhuận phân bổ
cho việc bán hàng hóa và tài sản nêu tại tiết khoản này chỉ khi nhà chức trách
có thẩm quyền của Nước ký kết nơi có cơ sở thường trú của doanh nghiệp cho rằng
doanh nghiệp đã tham gia vào một dàn xếp liên quan đến việc bán những hàng hóa hoặc
tài sản này để tránh thuế đánh vào lợi nhuận đó tại Nước ký kết đó.
2. Thể theo các quy định tại khoản 3,
khi một doanh nghiệp của một Nước ký kết tiến hành hoạt động kinh doanh tại
Nước ký kết kia thông qua một cơ sở thường trú tại Nước ký kết kia, thì tại mỗi Nước ký kết sẽ có những khoản lợi nhuận được phân bổ cho cơ sở thường
trú nói trên mà cơ sở thường trú đó có thể thu được, nếu nó là một doanh nghiệp
riêng và tách biệt cùng tham gia vào các hoạt động như nhau hoặc tương tự trong
cùng các điều kiện như nhau hoặc tương tự và có quan hệ hoàn toàn độc lập với doanh
nghiệp mà cơ sở đó được coi là cơ sở thường trú.
3. Trong khi xác định lợi nhuận của
một cơ sở thường trú, cơ sở thường trú này sẽ được phép khấu trừ các khoản chi
phí phát sinh phục vụ cho mục đích kinh doanh của cơ sở thường trú này, bao gồm
cả chi phí điều hành và chi phí quản lý chung cho dù chi phí đó phát sinh tại
Nước nơi cơ sở thường trú đó đóng hoặc ở bất kỳ nơi nào
khác. Tuy nhiên, sẽ không cho phép tính vào các khoản chi phí được trừ bất kỳ
khoản tiền nào, nếu có, do cơ sở thường trú trả cho (trừ
khi là khoản thanh toán các chi phí thực tế) trụ sở chính của doanh nghiệp hoặc
bất kỳ văn phòng nào khác của doanh nghiệp dưới hình thức tiền bản quyền, các
khoản phí hoặc bất kỳ khoản thanh toán tương tự nào khác để được phép sử dụng
sáng chế hoặc các quyền khác, hoặc dưới hình thức tiền hoa hồng trả cho việc
thực hiện các dịch vụ riêng biệt hoặc trả cho công việc quản lý, hoặc dưới hình
thức lãi tính trên tiền cho cơ sở thường trú vay, trừ trường hợp tiền lãi của
tổ chức ngân hàng. Tương tự như vậy, khi xác định lợi
nhuận của cơ sở thường trú sẽ không tính đến các khoản tiền (trừ các khoản tiền thanh toán các chi phí thực tế) do cơ sở thường trú thu từ trụ sở
chính của doanh nghiệp hoặc bất kỳ văn phòng nào khác của doanh nghiệp, dưới
hình thức tiền bản quyền, các khoản phí hoặc các khoản thanh toán tương tự để
cho phép sử dụng sáng chế hoặc các quyền khác, hoặc dưới hình thức tiền hoa
hồng trả cho việc thực hiện các dịch vụ riêng biệt hoặc trả cho công việc quản
lý, hoặc dưới hình thức lãi tính trên tiền cho trụ sở
chính của doanh nghiệp hoặc bất kỳ văn phòng nào của doanh nghiệp vay, trừ
trường hợp lãi từ tiền cho vay của tổ chức ngân hàng.
4. Trường hợp tại một Nước ký kết vẫn
thường xác định các khoản lợi nhuận được phân bổ cho một cơ sở thường trú trên cơ
sở phân chia tổng các khoản lợi nhuận của doanh nghiệp thành
những phần khác nhau, không có nội dung nào tại khoản 2
ngăn cản Nước ký kết đó xác định lợi nhuận chịu thuế theo cách phân chia theo thông
lệ trên; tuy nhiên, phương pháp phân chia được áp dụng như vậy phải đưa ra kết
quả phù hợp với những nguyên tắc nêu tại Điều này.
5. Theo nội dung các khoản trên, các
khoản lợi nhuận được phân bổ cho cơ sở thường trú sẽ được xác định theo cùng
một phương pháp giữa các năm trừ khi có đủ lý do chính đáng để xác định theo phương pháp khác.
6. Khi lợi nhuận bao gồm các khoản thu
nhập được đề cập riêng tại các Điều khác của Hiệp định này, thì các quy định của
các Điều đó không bị ảnh hưởng bởi các quy định tại Điều này.
Điều 8
VẬN TẢI BIỂN VÀ VẬN TẢI HÀNG KHÔNG
1. Lợi nhuận của một doanh nghiệp của
một Nước ký kết từ hoạt động của tàu thủy hoặc máy bay trong vận tải quốc tế sẽ
chỉ bị đánh thuế tại Nước đó.
2. Các quy định tại khoản 1 cũng sẽ áp
dụng cho các khoản lợi nhuận từ việc tham gia vào một tổ hợp,
một liên doanh hoặc một hãng hoạt
động quốc tế.
Điều 9
CÁC DOANH NGHIỆP LIÊN KẾT
1. Khi
(a) một doanh nghiệp của một Nước ký kết
tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào việc điều hành, kiểm soát hoặc góp vốn vào
một doanh nghiệp của Nước ký kết kia, hoặc
(b) các đối tượng cùng tham gia trực tiếp
hoặc gián tiếp vào việc điều hành, kiểm soát hoặc góp vốn vào một doanh nghiệp
của một Nước ký kết và vào một doanh nghiệp của Nước ký kết kia,
và trong cả hai trường hợp, trong mối
quan hệ thương mại hoặc tài chính giữa hai doanh nghiệp trên có những điều kiện
được xác lập hoặc áp đặt khác với điều kiện được đưa ra giữa các doanh nghiệp
độc lập, lúc đó mọi khoản lợi nhuận mà một doanh nghiệp có
thể thu được nếu không có các điều kiện trên, nhưng nay vì các điều kiện này mà
doanh nghiệp đó không thu được, sẽ vẫn được tính vào các khoản lợi nhuận của
doanh nghiệp đó và bị đánh thuế tương ứng.
2. Khi một Nước ký kết tính vào các
khoản lợi nhuận của một doanh nghiệp tại Nước đó - và đánh
thuế tương ứng - các khoản lợi nhuận mà một doanh nghiệp tại Nước ký kết kia đã
bị đánh thuế ở Nước kia và những khoản lợi nhuận được tính vào như vậy là những
khoản lợi nhuận lẽ ra thuộc về doanh nghiệp tại Nước thứ nhất nếu như những
điều kiện xác lập giữa hai doanh nghiệp trên là những điều kiện được xác lập
giữa các doanh nghiệp độc lập, khi đó Nước kia sẽ điều chỉnh các khoản thuế tại
Nước mình đối với các khoản lợi nhuận trên cho phù hợp.
Trong khi xác định sự điều chỉnh trên sẽ xem xét đến các
quy định khác của Hiệp định này và các nhà chức trách có thẩm quyền của hai
Nước ký kết sẽ tham khảo ý kiến của nhau khi cần thiết.
Điều 10
TIỀN LÃI CỔ PHẦN
1. Tiền lãi cổ phần do một công ty là
đối tượng cư trú của một Nước ký kết trả cho một đối tượng cư trú của Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
2. Tuy nhiên, những khoản tiền lãi cổ
phần đó cũng có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi công ty
trả tiền lãi cổ phần là đối tượng cư trú và theo các luật của Nước đó, nhưng nếu đối tượng thực hưởng tiền lãi cổ phần là đối tượng cư trú của Nước ký kết kia thì thuế được tính khi đó sẽ
không vượt quá:
(a) khi các khoản tiền lãi cổ phần
được một công ty là đối tượng cư trú của Việt Nam trả cho một đối tượng cư trú
của Man-ta:
(i) 5 phần trăm tổng số tiền lãi cổ phần
nếu đối tượng thực hưởng là công ty nắm giữ trực tiếp ít nhất 50 phần trăm quyền
bỏ phiếu tại công ty trả tiền lãi cổ phần; và
(ii) 15 phần trăm tổng số tiền lãi cổ
phần trong tất cả các trường hợp còn lại;
(b) khi các khoản tiền lãi cổ phần
được một công ty là đối tượng cư trú của Man-ta trả cho một đối tượng cư trú
của Việt Nam là đối tượng thực hưởng khoản tiền lãi cổ phần đó, thuế của Man-ta
đánh trên tổng số tiền lãi cổ phần sẽ không vượt quá số có thể đánh trên lợi
nhuận mà các khoản tiền lãi cổ phần được trả.
Khoản này sẽ không ảnh hưởng tới việc đánh thuế công ty đối với khoản lợi nhuận dùng để chia lãi cổ
phần.
3. Thuật ngữ “tiền lãi cổ phần” được sử
dụng tại Điều này có nghĩa là thu nhập từ cổ phần, cổ phần “jouissance” hoặc các
quyền lợi “jouissance”, cổ phần khai thác mỏ, cổ phần sáng lập hoặc các quyền lợi
khác không phải là các khoản cho vay, được hưởng lợi nhuận, cũng như thu nhập từ
các quyền lợi công ty khác cùng chịu sự điều chỉnh của chính sách thuế đối với thu
nhập từ cổ phần theo luật của Nước nơi công ty chia lãi cổ phần là đối tượng cư trú.
4. Những quy định tại các khoản 1 và 2
sẽ không áp dụng trong trường hợp đối tượng thực hưởng các khoản tiền lãi cổ phần
là đối tượng cư trú tại một Nước ký kết có tiến hành hoạt
động kinh doanh tại Nước ký kết kia, nơi công ty trả tiền lãi cổ phần là đối tượng
cư trú, thông qua một cơ sở thường trú nằm tại Nước đó,
hoặc tiến hành tại Nước ký kết kia các hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập thông
qua một cơ sở cố định tại Nước ký kết kia, và quyền nắm giữ cổ phần nhờ đó được hưởng tiền lãi cổ phần, có sự liên hệ thực tế đến cơ sở
thường trú hoặc cơ sở cố định nói trên. Trong trường hợp như vậy các quy định tại
Điều 7 hoặc Điều 15, tùy từng trường hợp, sẽ được áp dụng.
5. Khi một công ty là đối tượng cư trú
của một Nước ký kết có lợi nhuận hoặc thu nhập phát sinh từ Nước ký kết kia thì
Nước kia có thể không đánh thuế đối với những khoản tiền lãi cổ phần do công ty
này trả, trừ trường hợp những khoản tiền lãi cổ phần này được trả cho một đối tượng cư trú của Nước kia, hoặc quyền nắm giữ cổ
phần có các khoản tiền lãi cổ phần được trả có sự liên hệ thực tế với một cơ sở
thường trú hoặc một cơ sở cố định tại Nước kia, đồng thời Nước ký kết kia cũng
không buộc các khoản lợi nhuận không chia của công ty trên phải chịu thuế đối
với những khoản lợi nhuận không chia của công ty, cho dù những khoản tiền lãi
cổ phần được trả hoặc các khoản lợi nhuận không chia bao gồm toàn bộ hoặc một
phần các khoản lợi nhuận hoặc thu nhập phát sinh tại Nước kia.
Điều 11
LÃI TỪ TIỀN CHO VAY
1. Lãi từ tiền cho vay phát sinh tại một
Nước ký kết và được trả cho một đối tượng cư trú của Nước ký kết kia có thể bị
đánh thuế tại Nước kia.
2. Tuy nhiên, khoản lãi từ tiền cho vay
này cũng có thể bị đánh thuế ở Nước ký kết nơi phát sinh lãi và theo các luật của
Nước đó, nhưng nếu đối tượng thực hưởng các khoản tiền lãi này là đối tượng cư
trú của Nước ký kết kia thì mức thuế khi đó được tính sẽ không vượt quá mười phần
trăm của tổng số khoản lãi từ tiền cho vay.
3. Mặc dù có các quy định tại các
khoản 1 và 2, lãi từ tiền cho vay phát sinh tại một Nước ký kết sẽ được miễn
thuế tại Nước đó nếu lãi từ tiền vay được trả cho:
(a) Chính phủ của Nước ký kết đó hoặc
Ngân hàng trung ương của Nước đó liên quan đến bất kỳ khoản vay, khoản nợ phát sinh
hoặc khoản tín dụng do các cơ quan này cấp;
(b) đối với khoản cho vay, khoản nợ hoặc
khoản tín dụng được bảo lãnh hoặc đảm bảo bởi một tổ chức bảo hiểm hoặc tổ chức
tài chính về các giao dịch thương mại quốc tế do Nước ký
kết kia hoặc Chính phủ của Nước ký kết kia sở hữu toàn bộ, tùy theo từng trường
hợp.
4. Thuật ngữ “lãi từ tiền cho vay”
được sử dụng tại Điều này có nghĩa là thu nhập từ các khoản cho vay dưới bất kỳ
dạng nào, có hoặc không được đảm bảo bằng thế chấp và có hoặc không có quyền
được hưởng lợi nhuận của người đi vay, và đặc biệt là khoản thu nhập từ chứng
khoán của chính phủ và thu nhập từ trái phiếu hoặc trái phiếu thông thường, kể cả các khoản tiền thưởng và giải thưởng kèm theo các khoản chứng khoán,
trái phiếu hoặc trái phiếu thông thường đó. Các khoản phạt
trả chậm sẽ không được coi là lãi từ tiền cho vay theo quy định của Điều này.
5. Những quy định tại các khoản 1 và 2
sẽ không được áp dụng nếu người thực hưởng các khoản lãi từ tiền cho vay là đối
tượng cư trú tại một Nước ký kết, tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước ký
kết kia nơi phát sinh các khoản lãi từ tiền cho vay thông qua một cơ sở thường
trú tại Nước ký kết kia hoặc thực hiện tại Nước ký kết kia các hoạt động dịch
vụ cá nhân độc lập thông qua một cơ sở cố định tại Nước đó và khoản nợ có các
khoản tiền lãi được trả có sự liên hệ thực tế với cơ sở thường trú hoặc cơ sở
cố định đó. Trong trường hợp này, các quy định tại Điều 7 hoặc Điều 15, tùy
từng trường hợp, sẽ được áp dụng.
6. Lãi từ tiền cho vay sẽ được coi là
phát sinh tại một Nước ký kết khi đối tượng trả là Nhà nước đó, chính quyền địa
phương hoặc một đối tượng cư trú của Nước đó. Tuy nhiên, khi đối tượng trả lãi từ
tiền cho vay có ở một Nước ký kết một cơ sở thường trú hoặc một cơ sở cố định liên quan đến các khoản nợ đã phát sinh các khoản lãi từ tiền
cho vay này, và khoản lãi từ tiền cho vay đó do cơ sở thường trú hoặc cơ sở
cố định đó chịu thì dù đối tượng có là đối tượng cư trú của một Nước
ký kết hay không, khoản lãi từ tiền cho vay này sẽ vẫn được coi là phát sinh ở
Nước nơi cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó đóng.
7. Trường hợp do mối quan hệ đặc biệt
giữa đối tượng trả lãi và đối tượng thực hưởng hoặc giữa cả hai đối tượng trên và
các đối tượng khác, khoản lãi từ tiền cho vay, liên quan đến khoản cho vay có số
tiền lãi được trả vượt quá khoản tiền được thỏa thuận giữa đối
tượng đi vay và đối tượng thực hưởng khi không có mối quan
hệ này, thì khi đó, các quy định của Điều này sẽ chỉ áp dụng đối với các khoản
tiền thanh toán khi không có mối quan hệ đặc biệt trên.
Trong trường hợp này, phần thanh toán vượt sẽ bị đánh thuế
theo luật của từng Nước ký kết có xem xét tới các quy định khác của Hiệp định
này.
Điều 12
TIỀN BẢN QUYỀN
1. Tiền bản quyền phát sinh tại một Nước
ký kết và được trả cho đối tượng cư trú của Nước ký kết
kia có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết kia.
2. Tuy nhiên, những khoản tiền bản quyền
đó cũng có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi phát sinh tiền bản quyền theo
các luật của Nước này, nhưng nếu người nhận là đối tượng thực hưởng tiền bản quyền
đó thì mức thuế được tính khi đó sẽ không vượt quá:
(a) 5 phần trăm tổng số tiền bản
quyền nếu số tiền này được trả cho việc sử dụng, hay quyền sử dụng, bằng phát
minh, thiết kế hay mẫu, đồ án, công thức hay quy trình bí mật, hay trả cho các
thông tin liên quan đến kinh nghiệm công nghiệp hay khoa học;
(b) 10 phần trăm tổng số tiền bản
quyền nếu số tiền này được trả cho việc sử dụng hay quyền sử dụng, nhãn hiệu thương
mại hay thông tin liên quan đến kinh nghiệm thương mại;
(c) 15 phần trăm tổng số tiền bản quyền trong tất cả các trường hợp khác.
3. Thuật ngữ “tiền bản quyền” được sử
dụng tại Điều này có nghĩa là các khoản thanh toán ở bất kỳ dạng nào được trả cho
việc sử dụng, hoặc quyền sử dụng, bất kỳ bản quyền tác giả của một tác phẩm văn học, nghệ thuật hoặc khoa học, kể cả phim điện ảnh, hoặc các loại
phim hoặc băng dùng cho phát thanh hoặc truyền hình, bất kỳ sáng chế, nhãn
hiệu, thiết kế hoặc mẫu, đồ án, công thức hoặc quy trình bí mật, hoặc trả cho
thông tin liên quan đến các kinh nghiệm công nghiệp, thương mại hoặc khoa học.
4. Những quy định tại các khoản 1 và 2
sẽ không áp dụng nếu đối tượng thực hưởng các khoản tiền bản quyền, là đối tượng cư trú của một Nước ký kết, tiến hành kinh doanh tại Nước ký
kết kia nơi có khoản tiền bản quyền phát sinh, thông qua một cơ sở thường trú
có tại Nước đó hoặc thực hiện tại Nước ký kết kia các hoạt động dịch vụ cá nhân
độc lập thông qua một cơ sở cố định tại Nước ký kết kia, và quyền hoặc tài sản
có các khoản tiền bản quyền được trả có sự liên hệ thực tế với cơ sở thường trú
hoặc cơ sở cố định đó. Trong trường hợp này các quy định tại Điều 7 hoặc Điều
15, tùy từng trường hợp, sẽ được áp dụng.
5. Tiền bản quyền sẽ được coi là phát
sinh tại một Nước ký kết khi đối tượng trả tiền bản quyền là Nhà nước đó, chính
quyền địa phương, hoặc một tổ chức của chính quyền địa phương, hoặc một đối
tượng cư trú của Nước đó. Tuy nhiên, khi đối tượng trả tiền bản quyền, là hoặc
không là đối tượng cư trú của một Nước ký kết, có ở một Nước ký kết một cơ sở
thường trú hoặc cơ sở cố định liên quan đến trách nhiệm trả tiền bản quyền đã
phát sinh, và khoản tiền bản quyền đó do cơ sở thường trú
hoặc cơ sở cố định đó chịu thì khoản tiền bản quyền này sẽ vẫn được coi là phát
sinh ở Nước nơi cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó đóng.
6. Trường hợp vì mối quan hệ đặc biệt giữa đối tượng trả và đối tượng thực hưởng hoặc giữa cả hai đối tượng trên với các đối tượng khác, khoản tiền
bản quyền, liên quan đến việc sử dụng, quyền hoặc thông tin có số tiền bản quyền được trả, vượt quá khoản tiền được thỏa
thuận giữa đối tượng trả tiền và đối tượng thực hưởng khi
không có mối quan hệ đặc biệt này, thì các quy định của Điều
này sẽ chỉ áp dụng đối với khoản tiền thanh toán khi không có mối quan hệ trên.
Trong trường hợp này, phần thanh toán vượt sẽ bị đánh thuế
theo các luật của từng Nước ký kết có xem xét đến các quy
định khác của Hiệp định này.
Điều 13
PHÍ DỊCH VỤ KỸ THUẬT
1. Phí dịch vụ kỹ thuật phát sinh tại
một Nước ký kết và được trả cho một đối tượng cư trú của Nước ký kết kia có thể
bị đánh thuế tại Nước ký kết kia.
2. Tuy nhiên, các khoản phí dịch vụ
kỹ thuật đó cũng có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi phát sinh, và theo các
luật của Nước này, nhưng nếu đối tượng thực hưởng phí dịch
vụ kỹ thuật là đối tượng cư trú của Nước ký kết kia thì mức thuế được tính khi
đó sẽ không vượt quá 7,5 phần trăm tổng số tiền phí dịch
vụ kỹ thuật.
3. Thuật ngữ “phí dịch vụ kỹ thuật” được
sử dụng tại Điều này có nghĩa là các khoản thanh toán dưới
bất kỳ hình thức nào được trả cho một đối tượng, không phải là một người làm
công của đối tượng trả tiền phí dịch vụ, vì các dịch vụ mang tính chất kỹ thuật,
quản lý hoặc tư vấn.
4. Những quy định tại các khoản 1 và 2 sẽ không áp dụng nếu đối tượng thực hưởng các khoản phí dịch
vụ kỹ thuật, là đối tượng cư trú của một Nước ký kết, tiến hành hoạt động kinh
doanh ở Nước ký kết kia nơi có khoản tiền dịch vụ kỹ thuật phát sinh, thông qua
một cơ sở thường trú có tại Nước ký kết kia hoặc tiến hành tại Nước ký kết kia
các hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập thông qua một cơ sở
cố định và phí dịch vụ kỹ thuật được trả có sự liên hệ thực tế với cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó. Trong
trường hợp này các quy định của Điều 7 hoặc Điều 15, tùy từng trường hợp, sẽ
được áp dụng.
5. Phí dịch vụ kỹ thuật sẽ được coi là
phát sinh tại một Nước ký kết khi đối tượng trả phí dịch vụ
kỹ thuật chính là Nhà nước đó, là chính quyền địa phương hoặc chính quyền cơ sở,
hoặc một đối tượng cư trú của Nước đó. Tuy nhiên, khi một đối tượng trả phí dịch
vụ kỹ thuật, là hoặc không là đối tượng cư trú của một Nước ký kết, có ở một Nước
ký kết một cơ sở thường trú hoặc một cơ sở cố định liên quan đến trách nhiệm trả
phí dịch vụ kỹ thuật đã phát sinh và phí dịch vụ kỹ thuật đó do cơ sở thường trú
hoặc cơ sở cố định đó chịu thì khoản phí dịch vụ kỹ thuật này sẽ vẫn được coi
là phát sinh ở Nước nơi có cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó đóng.
6. Trường hợp vì mối quan hệ đặc biệt
giữa đối tượng trả và đối tượng thực hưởng hoặc giữa cả hai đối tượng trên với các
đối tượng khác, khoản phí dịch vụ kỹ thuật vượt quá khoản tiền được thỏa thuận
giữa đối tượng trả tiền và đối tượng thực hưởng khi không có mối quan hệ đặc
biệt này, thì các quy định của Điều này sẽ chỉ áp dụng đối với khoản tiền thanh
toán khi không có mối quan hệ trên. Trong trường hợp này, phần thanh toán vượt sẽ bị đánh thuế theo các luật của từng Nước ký kết có
xem xét đến các quy định khác của Hiệp định này.
Điều 14
THU NHẬP TỪ CHUYỂN NHƯỢNG TÀI SẢN
1. Thu nhập do một đối tượng cư trú
của một Nước ký kết nhận được từ chuyển nhượng bất động sản được nêu tại Điều 6
và có tại Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
2. Thu nhập từ chuyển nhượng động sản
là một phần của tài sản kinh doanh của một cơ sở thường trú mà một doanh nghiệp
của một Nước ký kết có tại Nước ký kết kia, hoặc động sản thuộc một cơ sở cố
định của một đối tượng cư trú của một Nước ký kết có tại Nước ký kết kia để
tiến hành hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập, kể cả thu nhập từ
chuyển nhượng cơ sở thường trú đó (chuyển nhượng riêng cơ sở thường trú đó hoặc
cùng với toàn bộ doanh nghiệp) hoặc cơ sở cố định đó, có thể bị đánh thuế tại
Nước kia.
3. Thu nhập do một doanh nghiệp của
một Nước ký kết thu được từ việc chuyển nhượng các tàu thủy hoặc máy bay hoạt
động trong vận tải quốc tế hoặc từ chuyển nhượng động sản gắn liền với hoạt
động của các tàu thủy hoặc máy bay đó sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó.
4. Thu nhập do một đối tượng cư trú
của một Nước ký kết thu được từ chuyển nhượng các cổ phần trong vốn cổ phần của
một công ty, hoặc phần quyền lợi trong một công ty hợp danh, tín thác hoặc di
sản có trên 50% giá trị tài sản trực tiếp hoặc gián tiếp
là bất động sản nằm tại Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế tại Nước đó.
5. Thu nhập thu được từ chuyển nhượng
các cổ phiếu không phải là các cổ phiếu được đề cập tới tại khoản 4 trong một công
ty là đối tượng cư trú của một Nước ký kết có thể bị đánh thuế tại Nước đó nếu
đối tượng chuyển nhượng, vào bất kỳ thời điểm nào trong giai đoạn mười hai tháng
trước thời điểm chuyển nhượng tài sản đó, nắm giữ trực tiếp hoặc gián tiếp ít
nhất 15 phần trăm vốn của công ty đó.
6. Thu nhập thu được từ chuyển nhượng
bất kỳ tải sản nào khác với những tài sản đã được nêu tại các khoản 1, 2, 3, 4 và
5 sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi đối tượng chuyển
nhượng là đối tượng cư trú.
Điều 15
DỊCH VỤ CÁ NHÂN ĐỘC LẬP
1. Thu nhập do một cá nhân là đối
tượng cư trú của một Nước ký kết thư được từ các dịch vụ ngành nghề hoặc các
hoạt động khác có tính chất độc lập
sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó trừ các trường hợp dưới đây, khi đó các khoản
thu nhập đó cũng có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết kia:
(a) Nếu đối tượng đó thường xuyên có tại
Nước ký kết kia một cơ sở cố định để thực hiện các hoạt động này; trong trường hợp
đó, chỉ phần thu nhập phân bổ cho cơ sở cố định đó có thể bị đánh thuế tại Nước
ký kết kia; hoặc
(b) Nếu đối tượng đó có mặt tại Nước ký
kết kia trong một khoảng thời gian hoặc nhiều khoảng thời gian
gộp lại đến hoặc vượt quá 183 ngày trong bất kỳ giai đoạn 12 tháng nào bắt đầu hoặc kết thúc trong năm tài chính có liên quan; trong trường hợp đó,
chỉ phần thu nhập phát sinh từ các hoạt động của đối tượng
đó được thực hiện tại Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết kia.
2. Thuật ngữ “dịch vụ ngành nghề” bao
gồm chủ yếu những hoạt động khoa học, văn học, nghệ thuật, giáo dục hoặc giảng dạy
mang tính chất độc lập như các hoạt động độc lập của các thầy thuốc, luật sư,
kỹ sư, kiến trúc sư, nha sĩ, và kế toán viên.
Điều 16
DỊCH VỤ CÁ NHÂN PHỤ THUỘC
1. Thể theo các quy định tại các Điều
17, 19, 20 và 21 các khoản tiền lương, tiền công, và các khoản tiền thù lao tương
tự khác do một đối tượng cư trú của một Nước ký kết thu được từ lao động làm
công sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó, trừ khi lao động làm công của đối tượng đó
được thực hiện tại Nước ký kết kia. Nếu công việc làm công
được thực hiện như vậy, số tiền công trả cho lao động đó có thể bị đánh thuế
tại Nước kia.
2. Mặc dù có
những quy định tại khoản 1, tiền công do một đối tượng cư trú của một Nước ký
kết thu được từ lao động làm công tại Nước ký kết kia sẽ chỉ bị đánh thuế tại
Nước thứ nhất nếu:
(a) người nhận tiền công có mặt tại Nước
kia trong một khoảng thời gian hoặc nhiều khoảng thời gian gộp lại không quá
183 ngày trong bất kỳ giai đoạn 12 tháng nào bắt đầu hoặc
kết thúc trong năm tài chính có liên quan, và
(b) chủ lao động hoặc đối tượng đại diện
chủ lao động trả tiền công lao động không phải là đối tượng cư trú tại Nước
kia, và
(c) số tiền thù lao không phải phát sinh
tại một cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định mà chủ lao động có tại Nước kia.
3. Mặc dù có những quy định trên của
Điều này, tiền công thu được từ lao động làm công được thực hiện trên tàu thủy
hoặc máy bay do một doanh nghiệp của một Nước ký kết thực hiện trong vận tải
quốc tế có thể bị đánh thuế tại Nước đó.
Điều
17
THÙ LAO GIÁM ĐỐC
Các khoản thù lao cho giám đốc và các khoản thanh toán
tương tự khác do một đối tượng cư trú của một Nước ký kết nhận được với tư cách
là thành viên của Ban Giám đốc của một công ty là đối tượng cư trú của Nước ký
kết kia có thể bị đánh thuế tại nước kia.
Điều 18
NGƯỜI BIỂU DIỄN VÀ VẬN ĐỘNG VIÊN
1. Mặc dù có những quy định tại các
Điều 15 và 16, thu nhập của một đối tượng cư trú của một Nước ký kết thu được
với tư cách người biểu diễn như diễn viên sân khấu, điện
ảnh, phát thanh hoặc truyền hình, hoặc nhạc công, hoặc với
tư cách là vận động viên từ những hoạt động cá nhân của mình thực hiện tại Nước
ký kết kia có thể bị đánh thuế ở Nước kia.
2. Trường hợp thu nhập liên quan đến các
hoạt động trình diễn cá nhân của người biểu diễn hoặc vận động viên nhưng không
được trả cho bản thân người biểu diễn hoặc vận động viên, mà trả cho một đối
tượng khác thì thu nhập này có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi diễn ra những
hoạt động trình diễn của người biểu diễn hoặc vận động viên, mặc dù đã có những
quy định tại các Điều 7, 15 và 16.
3. Mặc dù đã có những quy định tại các
khoản 1 và 2, thu nhập do người biểu diễn hoặc vận động viên là đối tượng cư
trú của một Nước ký kết thu được từ các hoạt động trình diễn
tại Nước ký kết kia theo một chương trình trao đổi văn hóa giữa Chính phủ của
hai Nước ký kết sẽ được miễn thuế tại Nước ký kết kia.
Điều 19
TIỀN LƯƠNG HƯU VÀ CÁC KHOẢN THANH TOÁN BẢO
HIỂM XÃ HỘI
1. Thể theo các quy định tại khoản 2
Điều 20, tiền lương hưu và các khoản thù lao tương tự khác
được trả cho một đối tượng cư trú của một Nước ký kết do các công việc đã làm
trước đây sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó.
2. Mặc dù đã có các quy định tại
khoản 1, tiền lương hưu và các khoản thanh toán khác theo một chương trình phúc
lợi công cộng được tổ chức bởi chính phủ của một Nước ký kết là một phần của hệ thống bảo hiểm xã hội của Nước đó sẽ chỉ bị đánh thuế ở Nước
đó.
Điều 20
PHỤC VỤ CHÍNH PHỦ
1. (a) Tiền lương, tiền công và các
khoản tiền thù lao tương tự khác, trừ tiền lương hưu, do một Nước ký kết hoặc
chính quyền địa phương của Nước ký kết đó trả cho một cá nhân đối với việc phục
vụ cho Nhà nước đó hoặc chính quyền địa phương đó sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước
đó.
(b) Tuy nhiên, khoản tiền lương, tiền
công và các khoản tiền thù lao tương tự khác nêu trên sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước
ký kết kia nếu việc phục vụ này được thực hiện tại Nước kia và nếu cá nhân này
là đối tượng cư trú của Nước kia, đồng thời:
(i) là đối tượng mang quốc tịch của Nước
kia; hoặc
(ii) không trở thành đối tượng cư trú
của Nước kia chỉ đơn thuần vì thực hiện những công việc
trên.
2. (a) Bất kỳ khoản tiền lương hưu do
một Nước ký kết hoặc chính quyền địa phương của Nước ký kết đó hoặc do các quỹ của những cơ quan này lập ra trả cho một cá nhân đối với các công
việc phục vụ cho Nhà nước hoặc chính quyền địa phương đó sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó.
(b) Tuy nhiên, khoản tiền lương hưu
và các khoản tiền thù lao này sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước ký kết
kia nếu cá nhân này là đối tượng cư trú và là đối tượng mang quốc tịch của Nước
đó.
3. Những quy định tại các Điều 16, 17,
18 và 19 sẽ áp dụng đối với những khoản tiền lương, tiền công và các khoản tiền
thù lao tương tự khác và tiền lương hưu đối với các công việc liên quan đến một
hoạt động kinh doanh được tiến hành bởi một Nước ký kết hoặc chính quyền địa phương
của Nước ký kết đó.
Điều 21
SINH VIÊN VÀ THỰC TẬP SINH
1. Những khoản tiền mà một sinh viên hoặc
thực tập sinh nhận được để trang trải các chi phí sinh hoạt, học tập hoặc đào
tạo mà người sinh viên hoặc thực tập sinh này ngay trước khi
đến một Nước ký kết đang hoặc đã là đối tượng cư trú của Nước ký kết kia và hiện
có mặt tại Nước thứ nhất chỉ với mục đích học tập hoặc đào tạo, sẽ không bị đánh
thuế tại Nước thứ nhất đó, với điều kiện những khoản thanh toán đó phát sinh từ
các nguồn ở bên ngoài Nước đó.
2. Mặc dù đã có các quy định tại các
Điều 15 và 16, các khoản tiền công mà một sinh viên hoặc thực tập sinh nhận
được từ công việc thực hiện tại một Nước ký kết sẽ không bị đánh thuế tại Nước
kia nếu tổng số tiền này lên đến 10,000 đô la Mĩ hoặc số
tiền tương đương của Nước đó trong một năm tài chính.
Điều 22
THU NHẬP KHÁC
1. Các khoản thu nhập của một đối
tượng cư trú của một Nước ký kết, cho dù phát sinh ở đâu, chưa được đề cập đến
tại những Điều trên của Hiệp định này, sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó.
2. Các quy định tại khoản 1 sẽ không áp
dụng đối với thu nhập, trừ thu nhập từ bất động sản được định nghĩa tại khoản 2
Điều 6, nếu đối tượng nhận thu nhập là đối tượng cư trú của một Nước ký kết, có
tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước ký kết kia thông qua một cơ sở thường trú
nằm tại Nước kia, hoặc thực hiện tại Nước kia những hoạt động dịch vụ cá nhân
độc lập thông qua một cơ sở cố định tại Nước kia, và quyền hoặc tài sản liên
quan đến số thu nhập được trả có sự
liên hệ thực tế với cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định như trên. Trong trường hợp
như vậy những quy định tại Điều 7 hoặc Điều 15, tùy từng trường hợp, sẽ được áp
dụng.
Điều 23
CÁC BIỆN PHÁP XOÁ BỎ VIỆC ĐÁNH THUẾ HAI LẦN
1. Tại Việt Nam, việc tránh đánh thuế
hai lần sẽ được thực hiện như sau:
(a) Trường hợp một đối tượng cư trú
của Việt Nam nhận được thu nhập phù hợp với các quy định của Hiệp định này, có
thể bị đánh thuế tại Man-ta bằng phương pháp trực tiếp
hoặc khấu trừ, Việt Nam sẽ cho phép khấu trừ vào thuế đối
với thu nhập của đối tượng cư trú đó, một khoản tiền bằng số tiền thuế thu nhập
đã nộp tại Man-ta.
Số thuế được khấu trừ theo quy định nêu
trên sẽ không vượt quá số thuế đáng ra đã được thu trên
cùng thu nhập tại Việt Nam theo thuế suất áp dụng tại Nước đó;
(b) Trong trường hợp một đối tượng cư
trú của Việt Nam nhận được thu nhập mà phù hợp với các quy định của Hiệp định này,
sẽ chỉ bị đánh thuế tại Man-ta, Việt Nam có thể gộp thu nhập này vào cơ sở tính
thuế nhưng chỉ để xác định thuế suất đối với thu nhập đó như là thu nhập phải
chịu thuế tại Việt Nam.
2. Tại Man-ta, việc tránh đánh thuế hai
lần sẽ được thực hiện như sau:
Thể theo các quy định của luật Man-ta
về việc cho phép khấu trừ thuế nước ngoài vào thuế Man-ta theo các quy định của
Hiệp định này, khoản thu nhập phát sinh tại Việt Nam được tính vào thu nhập tính
thuế Man-ta, thuế Việt Nam trên khoản thu nhập này được phép
khấu trừ vào thuế Man-ta phải nộp trên thu nhập đó.
Điều 24
KHÔNG PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ
1. Các đối tượng mang quốc tịch của một Nước ký kết sẽ không phải chịu tại Nước ký kết kia bất
kỳ chế độ thuế nào hoặc bất kỳ yêu cầu nào liên quan đến chế độ thuế đó khác
với hoặc nặng hơn chế độ thuế và các
yêu cầu liên quan hiện đang hoặc có thể áp dụng cho những
đối tượng mang quốc tịch của Nước kia trong cùng các hoàn cảnh như nhau, nhất
là trên phương diện cư trú.
2. Chế độ thuế áp dụng đối với một cơ
sở thường trú của một doanh nghiệp của một Nước ký kết có tại Nước ký kết kia
sẽ không kém thuận lợi hơn tại Nước kia so với chế độ thuế áp dụng cho các
doanh nghiệp của Nước kia cùng tiến hành các hoạt động tương tự. Các quy định
này sẽ không được giải thích là buộc một Nước ký kết phải cho các đối tượng cư
trú của Nước ký kết kia được hưởng bất kỳ khoản miễn thu cá nhân, khoản miễn và
giảm nào vì mục đích thuế căn cứ vào tư cách dân sự hoặc trách nhiệm gia đình
mà Nước đó cho đối tượng cư trú của Nước mình được hưởng.
3. Trừ trường hợp áp dụng các quy
định tại khoản 1 Điều 9, khoản 7 Điều 11, khoản 6 Điều 12
hoặc khoản 6 Điều 13, lãi từ tiền cho vay, tiền bản quyền, phí dịch vụ kỹ thuật
và các khoản thanh toán khác do một doanh nghiệp của một Nước ký kết trả cho
đối tượng cư trú của Nước ký kết kia, khi xác định các khoản lợi nhuận chịu
thuế của doanh nghiệp đó, sẽ được trừ theo cùng các điều kiện như thể các khoản tiền đó được trả cho đối tượng cư trú của Nước thứ nhất.
Tương tự như vậy, bất kỳ một khoản nợ nào của một doanh nghiệp của một Nước ký
kết trả cho một đối tượng cư trú của Nước ký kết kia khi xác định tài sản chịu
thuế của doanh nghiệp đó, sẽ được trừ theo cùng các điều kiện như thể các khoản
nợ đó được giảm trừ đối với một đối tượng cư trú của Nước thứ nhất.
4. Các doanh nghiệp của một Nước ký
kết có toàn bộ hoặc một phần vốn do một hoặc nhiều đối tượng cư trú của Nước ký
kết kia sở hữu hoặc kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp, sẽ không phải chịu tại
Nước thứ nhất bất kỳ chế độ thuế hoặc yêu cầu liên quan đến chế độ thuế đó khác
với hoặc nặng hơn chế độ thuế và các yêu cầu liên quan
hiện đang hoặc có thể được áp dụng cho các doanh nghiệp tương tự khác của Nước
thứ nhất.
5. Các quy định tại Điều này sẽ chỉ áp
dụng đối với các loại thuế bao gồm trong Hiệp định.
Điều 25
THỦ TỤC THOẢ THUẬN SONG PHƯƠNG
1. Trường hợp một đối tượng là đối
tượng cư trú của một Nước ký kết nhận thấy rằng việc giải quyết của một hoặc cả
hai Nước ký kết làm cho hoặc sẽ làm cho đối tượng đó phải nộp thuế không đúng
với các quy định của Hiệp định này, đối tượng này có thể giải trình trường hợp
của mình với nhà chức trách có thẩm quyền của Nước ký kết nơi đối tượng đó là
đối tượng cư trú, mặc dù trong các luật trong nước của hai Nước đã quy định về
các chế độ xử lý khiếu nại. Trường hợp đó phải được giải trình trong thời hạn 3
năm kể từ lần thông báo đầu tiên dẫn đến chế độ thuế áp dụng không đúng với
những quy định của Hiệp định.
2. Nhà chức trách có thẩm quyền sẽ cố
gắng, nếu như việc khiếu nại là hợp lý và nếu bản thân nhà chức trách
đó không thể đi đến một giải pháp thỏa đáng, phối hợp với
nhà chức trách có thẩm quyền của Nước ký kết kia để cùng giải quyết trường hợp
khiếu nại bằng thỏa thuận chung, nhằm mục đích tránh đánh
thuế không phù hợp với quy định của Hiệp định. Mọi thỏa thuận đạt được sẽ được
thực hiện không căn cứ vào những giới hạn thời gian quy định tại luật trong
nước của hai Nước ký kết.
3. Nhà chức trách có thẩm quyền của hai
Nước ký kết sẽ cùng nhau cố gắng giải quyết bằng thỏa thuận
chung mọi khó khăn hoặc vướng mắc nảy sinh trong quá trình
giải thích hoặc áp dụng Hiệp định này. Nhà chức trách có thẩm quyền của hai
Nước cũng có thể trao đổi với nhau nhằm xóa bỏ việc đánh thuế hai lần trong các trường hợp không được quy
định tại Hiệp định.
4. Nhà chức trách có thẩm quyền của hai
Nước ký kết có thể liên hệ trực tiếp với nhau nhằm mục đích đạt được một thỏa thuận
theo nội dung những khoản trên đây.
Điều 26
TRAO ĐỔI THÔNG TIN
1. Các nhà chức trách có thẩm quyền
của hai Nước ký kết sẽ trao đổi với nhau các thông tin dự
đoán có thể cần thiết cho việc triển khai thực hiện những
quy định của Hiệp định này hoặc việc quản lý hoặc thực thi nội luật của từng
Nước ký kết liên quan đến các loại thuế được đánh bởi Nước ký kết hoặc chính
quyền địa phương trong phạm vi việc đánh thuế không trái với Hiệp định này.
Việc trao đổi thông tin không bị giới hạn bởi các Điều 1
và 2.
2. Mọi thông tin do một Nước ký kết nhận
được theo khoản 1 sẽ được giữ bí mật giống như thông tin thu nhận theo nội luật
của Nước này và thông tin đó sẽ chỉ được cung cấp cho các đối tượng hoặc các cơ
quan chức năng (bao gồm cả tòa án và các cơ quan hành chính) có liên quan đến
việc tính toán hoặc thu, cưỡng chế hoặc truy tố hoặc xác định các khiếu nại về
các loại thuế nêu tại khoản 1, hoặc giám sát các nội dung trên. Các đối tượng
hoặc các cơ quan chức năng này sẽ chỉ sử dụng các thông tin đó vào các mục đích
nêu trên. Các đối tượng và các cơ quan đó có thể cung cấp các thông tin này
trong quá trình tố tụng công khai của tòa án hoặc trong các quyết định của tòa
án.
3. Không có trường hợp nào mà các quy
định tại các khoản 1 và 2 được giải thích là buộc một Nước ký kết có nghĩa vụ:
(a) thực hiện các biện pháp hành chính
khác với pháp luật hoặc thông lệ về quản lý hành chính của Nước ký kết đó hoặc
của Nước ký kết kia;
(b) cung cấp các thông tin không thể đạt
được theo các luật hoặc theo như quá trình quản lý hành chính thông thường của
Nước ký kết đó hoặc của Nước ký kết kia;
(c) cung cấp các thông tin có thể làm
tiết lộ bí mật về mua bán, kinh doanh, công nghiệp, thương mại hoặc bí mật nghề
nghiệp hoặc các quy trình kinh doanh, hoặc cung cấp các thông tin mà việc tiết lộ
chúng có thể trái với chính sách nhà nước.
4. Nếu thông tin do một Nước ký kết yêu
cầu phù hợp với Điều này, Nước ký kết kia sẽ sử dụng các biện pháp thu thập thông
tin của mình để có được các thông tin theo yêu cầu, mặc dù Nước kia có thể không
cần các thông tin như vậy cho mục đích thuế của mình. Nghĩa vụ được quy định tại
câu trên phụ thuộc vào các giới hạn tại khoản 3 nhưng trong mọi trường hợp, các
giới hạn này không có nghĩa là cho phép một Nước ký kết từ
chối việc cung cấp thông tin chỉ vì Nước ký kết đó không
có lợi ích trong nước đối với các thông tin như vậy.
5. Trong mọi trường hợp, các quy định
tại khoản 3 sẽ không cho phép một Nước ký kết từ chối việc cung cấp thông tin chỉ
vì thông tin do một ngân hàng, tổ chức tài chính, đối tượng được chỉ định hoặc
đối tượng với tư cách đại lý hoặc đối tượng được ủy thác khác nắm giữ hoặc chỉ vì thông tin có liên quan tới các
lợi ích về sở hữu trong một đối tượng.
Điều 27
CÁC THÀNH VIÊN CƠ QUAN ĐẠI DIỆN NGOẠI GIAO
VÀ CƠ QUAN ĐẠI DIỆN LÃNH SỰ
Không nội dung nào tại Hiệp định này sẽ
ảnh hưởng đến các ưu đãi về thuế của thành viên cơ quan đại diện ngoại giao hoặc
cơ quan đại diện lãnh sự theo các nguyên tắc chung của luật pháp quốc tế hoặc
các quy định tại các hiệp định đặc biệt.
Điều 28
HIỆU LỰC
1. Từng Nước ký kết sẽ thông báo cho Nước
ký kết kia bằng văn bản thông qua đường ngoại giao việc hoàn thành các thủ tục cần
thiết theo luật pháp của nước mình để Hiệp định có hiệu lực. Hiệp
định này sẽ có hiệu lực vào ngày nhận được thông báo sau cùng.
2. Hiệp định này sẽ có hiệu lực thi
hành:
(a) tại Việt Nam:
(i) đối với các khoản thuế khấu trừ
tại nguồn, liên quan đến các khoản thu nhập chịu thuế phát sinh vào ngày hoặc
sau ngày đầu tiên của tháng Một tiếp sau năm dương lịch
Hiệp định có hiệu lực, và trong các năm dương lịch tiếp theo; và
(ii) đối với các khoản thuế Việt Nam khác,
liên quan đến thu nhập, lợi nhuận, hoặc giá trị tăng thêm phát sinh vào ngày
hoặc sau ngày đầu tiên của tháng Một tiếp sau năm dương
lịch Hiệp định có hiệu lực, và trong các năm dương lịch tiếp theo; và
(b) tại Man-ta:
đối với các khoản thuế đánh vào thu nhập
phát sinh trong kỳ kế toán hoặc năm dương lịch, tùy từng trường hợp, bắt đầu từ
ngày đầu tiên tháng Một của năm sau năm Hiệp định có hiệu lực.
Điều 29
CHẤM DỨT HIỆU LỰC
Hiệp định này sẽ vẫn còn hiệu lực cho tới khi một Nước ký kết tuyên bố chấm dứt hiệu lực. Từng
Nước ký kết thông qua đường ngoại giao có thể chấm dứt hiệu
lực Hiệp định bằng cách gửi cho Nước ký kết kia một văn bản thông báo chấm dứt
hiệu lực Hiệp định ít nhất 6 tháng trước khi kết thúc bất kỳ năm dương lịch nào bắt đầu từ sau thời hạn 5 năm kể từ ngày
Hiệp định có hiệu lực. Trong trường hợp như vậy, Hiệp định sẽ hết hiệu lực thi hành:
(a) tại Việt Nam:
(i) đối với các loại thuế khấu trừ
tại nguồn thu trên các khoản thu nhập chịu thuế phát sinh vào ngày hoặc sau
ngày đầu tiên của tháng Một của năm dương lịch nhận được thông báo kết thúc
hiệu lực, và trong các năm dương lịch tiếp theo; và
(ii) đối với các loại thuế Việt Nam khác,
liên quan đến thu nhập, lợi nhuận, hoặc giá trị tăng thêm phát sinh vào ngày
hoặc sau ngày mùng Một tháng Một năm dương lịch tiếp sau năm nhận được thông
báo; và
(b) tại Man-ta:
đối với các khoản thuế đánh vào thu nhập
phát sinh trong kỳ kế toán hoặc năm dương lịch, tùy từng trường hợp, bắt đầu từ ngày đầu tiên tháng 1 của năm sau ngày nhận được thông báo kết thúc
hiệu lực.
Để làm bằng những người có tên dưới đây, được sự ủy
quyền của từng Chính phủ đã ký vào Hiệp định này.
Làm thành hai bản tại U-lan Ba-to ngày 15 tháng 7 năm
2016 bằng tiếng Việt và tiếng Anh, cả hai văn bản đều có giá trị như nhau.
THAY MẶT CHÍNH PHỦ
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM
Phạm Bình Minh
Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao
|
THAY MẶT CHÍNH PHỦ
NƯỚC CỘNG HÒA
MAN-TA
GEORGE W.VELLA
Bộ trưởng Ngoại giao
|