HIỆP ĐỊNH
GIỮA
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM VÀ VƯƠNG QUỐC Ô-MAN VỀ TRÁNH ĐÁNH THUẾ
HAI LẦN VÀ NGĂN NGỪA VIỆC TRỐN LẬU THUẾ ĐỐI VỚI CÁC LOẠI THUẾ ĐÁNH VÀO THU NHẬP
Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
và Chính phủ Vương quốc Ô-man,
Mong muốn ký kết một Hiệp định về việc tránh đánh thuế
hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với các loại thuế đánh vào thu nhập,
Đã thỏa thuận dưới đây:
ĐIỀU 1. PHẠM VI ÁP DỤNG
Hiệp định này áp dụng đối với các đối tượng là những
đối tượng cư trú của một hoặc của cả hai Nước ký kết.
ĐIỀU 2. CÁC LOẠI THUẾ BAO GỒM
TRONG HIỆP ĐỊNH
1. Hiệp định này áp dụng đối với các loại thuế do một
Nước ký kết đánh vào thu nhập, bất kể hình thức áp dụng của các loại thuế đó
như thế nào.
2. Tất cả các loại thuế thu trên tổng thu nhập, hoặc
những phần của thu nhập, bao gồm các loại thuế đối với thu nhập từ việc chuyển
nhượng động sản hoặc bất động sản, các loại thuế đánh trên tổng số tiền lương
hoặc tiền công do doanh nghiệp trả, cũng như các loại thuế đánh trên phần giá
trị tài sản tăng thêm đều được coi là thuế đánh vào thu nhập.
3. Các loại thuế hiện hành được áp dụng trong Hiệp định
này cụ thể là:
a. tại Việt Nam:
(i) thuế thu nhập cá nhân; và (ii) thuế thu nhập doanh
nghiệp;
(sau đây gọi là “thuế Việt Nam”);
b. tại Vương quốc Ô-man:
(i) thuế thu nhập công ty thu theo Nghị định Hoàng gia
số 47/1981 và các văn bản sửa đổi bổ sung; và (ii) thuế lợi nhuận đối với các
cơ sở thu theo Nghị định Hoàng gia số No. 77/1989 và các văn bản sửa đổi bổ
sung;
(sau đây gọi là “thuế Ô-man”).
4. Hiệp định này cũng sẽ được áp dụng đối với bất kỳ
các loại thuế nào có tính chất tương tự hoặc về cơ bản giống như các loại thuế
trên được ban hành sau ngày ký Hiệp định này để bổ sung, hoặc thay thế các loại
thuế hiện hành. Các nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết sẽ thông
báo cho nhau những thay đổi quan trọng trong các luật thuế của từng Nước.
ĐIỀU 3. CÁC ĐỊNH NGHĨA CHUNG
1. Theo nội dung của Hiệp định này, trừ trường hợp ngữ
cảnh đòi hỏi có sự giải thích khác.
a. thuật ngữ “Việt Nam” có nghĩa là nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, khi dùng theo nghĩa địa lý, thuật ngữ này có nghĩa là
lãnh thổ đất liền, các hải đảo, nội thủy, lãnh hải và vùng trời phía trên đó,
vùng biển ngoài lãnh hải, bao gồm cả đáy biển và lòng đất dưới đáy biển mà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền
tài phán phù hợp với pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế;
b. thuật ngữ “Vương quốc Ô-man” có nghĩa là lãnh thổ
của Vương quốc Ô-man và các hải đảo thuộc quyền sở hữu của Vương quốc Ô-man,
bao gồm lãnh hải và mọi vùng bên ngoài lãnh hải mà Vương quốc Ô-man có thể, phù
hợp với pháp luật quốc tế và các luật của Vương quốc Ô-man, thực hiện các quyền
chủ quyền đối với việc thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên của đáy biển
và lòng đất dưới đáy biển và khối nước ở trên;
c. thuật ngữ “Nước ký kết” và “Nước ký kết kia” có nghĩa
là Việt Nam hoặc Vương quốc Ô-man tùy ngữ cảnh đòi hỏi;
d. thuật ngữ “đối tượng” bao gồm cá nhân, công ty và
bất kỳ tổ chức nào khác của các đối tượng;
e. thuật ngữ “công ty” để chỉ bất kỳ tổ chức công ty
hoặc bất kỳ một thực thể nào được coi là tổ chức công ty dưới giác độ thuế;
f. thuật ngữ “doanh nghiệp của một Nước ký kết” và “doanh
nghiệp của Nước ký kết kia” theo thứ tự có nghĩa là một doanh nghiệp được điều
hành bởi một đối tượng cư trú của một Nước ký kết và một doanh nghiệp được điều
hành bởi một đối tượng cư trú của Nước ký kết kia;
g. thuật ngữ “đối tượng mang quốc tịch”, có liên quan
đến một Nước ký kết, có nghĩa là:
(i) bất kỳ cá nhân nào mang quốc tịch của Nước ký kết
đó; và (ii) bất kỳ pháp nhân, công ty hợp danh hoặc hiệp hội nào có tư cách được
chấp nhận theo các luật có hiệu lực tại Nước ký kết đó;
h. thuật ngữ “vận tải quốc tế” có nghĩa là bất kỳ sự
vận chuyển nào bằng tàu thủy hoặc máy bay được thực hiện bởi một doanh nghiệp
của một Nước ký kết, trừ trường hợp khi chiếc tàu thủy hoặc máy bay đó chỉ hoạt
động giữa những địa điểm trong Nước ký kết kia;
i. thuật ngữ “nhà chức trách có thẩm quyền” có nghĩa
là:
(i) đối với Việt Nam, là Bộ trưởng Bộ Tài chính hoặc
người đại diện được ủy quyền của Bộ trưởng; (ii) đối với Vương quốc Ô-man, là
Bộ trưởng Kinh tế Quốc gia kiêm Giám sát Bộ Tài chính hoặc người đại diện được
ủy quyền của Bộ trưởng;
j. thuật ngữ “thuế” có nghĩa là thuế Việt Nam hoặc thuế
Ô-man, tùy ngữ cảnh đòi hỏi, nhưng sẽ không bao gồm bất kỳ khoản tiền phải nộp
do vi phạm hoặc bỏ sót liên quan đến các loại thuế mà Hiệp định này áp dụng hoặc
số tiền có tính chất tiền phạt được áp dụng liên quan đến các loại thuế đó.
2. Khi một Nước ký kết áp dụng Hiệp định này vào bất
kỳ thời điểm nào, các thuật ngữ chưa được định nghĩa tại Hiệp định này sẽ có
nghĩa theo như định nghĩa tại luật của Nước đó đối với các loại thuế mà Hiệp định
này áp dụng vào thời điểm đó, bất kỳ nghĩa nào theo các luật thuế được áp dụng
của Nước đó sẽ có giá trị cao hơn nghĩa của thuật ngữ đó theo các luật khác của
Nước đó, trừ trường hợp ngữ cảnh đòi hỏi có sự giải thích khác.
ĐIỀU 4. ĐỐI TƯỢNG CƯ TRÚ
1. Theo nội dung của Hiệp định này, thuật ngữ “đối tượng
cư trú của một Nước ký kết” có nghĩa là bất kỳ đối tượng nào, mà theo các luật
của Nước đó, là đối tượng chịu thuế căn cứ vào nhà ở, nơi cư trú, trụ sở đăng
ký, trụ sở điều hành, hoặc các tiêu chuẩn khác có tính chất tương tự. Tuy nhiên,
thuật ngữ này không bao gồm bất kỳ đối tượng nào là đối tượng chịu thuế tại
Nước đó chỉ đối với thu nhập từ các nguồn tại Nước đó hoặc tài sản nằm tại Nước
đó.
Trong trường hợp của Vương quốc Ô-man, thuật ngữ
“đối tượng cư trú của một Nước ký kết” cũng sẽ bao gồm:
a. Nhà nước đó hoặc tổ chức hợp pháp của Nhà nước
đó; và
b. bất kỳ cá nhân nào có sự hiện diện đáng kể, nhà ở
thường trú hoặc nơi thường xuyên sống ở Nước đó và có các quan hệ cá nhân và kinh
tế ở Nước đó chặt chẽ hơn bất kỳ Nước nào khác.
2. Trường hợp theo các quy định tại khoản 1, khi một
cá nhân là đối tượng cư trú của cả hai Nước ký kết, thì thân phận cư trú của cá
nhân đó sẽ được xác định như sau:
a. cá nhân đó sẽ được coi là đối tượng cư trú chỉ của
Nước mà tại đó cá nhân đó có nhà ở thường trú; nếu cá nhân đó có nhà ở thường
trú ở cả hai Nước, cá nhân đó sẽ được coi là đối tượng cư trú chỉ của Nước mà
cá nhân đó có các quan hệ cá nhân và kinh tế chặt chẽ hơn (trung tâm của các
quyền lợi chủ yếu);
b. nếu không thể xác định được Nước ký kết mà ở đó cá
nhân đó có trung tâm của các quyền lợi chủ yếu, hoặc nếu cá nhân đó không có nhà
ở thường trú ở cả hai Nước, thì cá nhân đó sẽ được coi là đối tượng cư trú chỉ
của Nước mà cá nhân đó thường xuyên sống;
c. nếu cá nhân đó thường xuyên sống ở cả hai Nước hoặc
không thường xuyên sống ở Nước nào, thì cá nhân đó sẽ được coi là đối tượng cư
trú chỉ của Nước mà cá nhân đó mang quốc tịch;
d. nếu thân phận cư trú của cá nhân đó không thể xác
định được bởi lý do theo trình tự của các điểm từ a) đến c) thì các nhà chức
trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết sẽ giải quyết vấn đề bằng thỏa thuận
song phương.
3. Trường hợp do những quy định tại khoản 1, khi một
đối tượng không phải là cá nhân, là đối tượng cư trú của cả hai Nước ký kết,
lúc đó đối tượng đó sẽ được coi là đối tượng cư trú chỉ của Nước mà đối tượng
đó có trụ sở đăng ký thành lập và trụ sở đăng ký.
ĐIỀU 5. CƠ SỞ THƯỜNG TRÚ
1. Theo nội dung của Hiệp định này, thuật ngữ “cơ sở
thường trú” có nghĩa là một địa điểm kinh doanh cố định mà qua đó doanh nghiệp thực
hiện toàn bộ hoặc một phần hoạt động kinh doanh của mình.
2. Thuật ngữ “cơ sở thường trú” chủ yếu bao gồm:
a. trụ sở điều hành;
b. chi nhánh;
c. văn phòng;
d. nhà máy;
e. xưởng;
f. kho hàng;
g. mỏ, giếng dầu hoặc khí, mỏ đá hoặc bất kỳ địa điểm
khai thác tài nguyên thiên nhiên nào khác; và
h. kết cấu lắp đặt, hoặc thiết bị được sử dụng để
thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên.
3. Thuật ngữ “cơ sở thường trú” cũng bao gồm:
a. một địa điểm xây dựng, dự án xây dựng, lắp ráp hoặc
lắp đặt hoặc các hoạt động giám sát liên quan, nhưng chỉ khi địa điểm, dự án
hoặc các hoạt động này kéo dài hơn sáu tháng;
b. việc cung cấp các dịch vụ, bao gồm cả dịch vụ tư
vấn do một doanh nghiệp thực hiện thông qua những người làm công hoặc những đối
tượng khác được doanh nghiệp giao thực hiện các hoạt động trên, nhưng chỉ khi các
hoạt động mang tính chất nêu trên kéo dài (trong cùng một dự án hoặc một dự án
có liên quan) tại một Nước ký kết trong một giai đoạn hoặc nhiều giai đoạn gộp
lại hơn 6 tháng trong bất kỳ giai đoạn 12 tháng.
4. Mặc dù có các quy định trên của Điều này, thuật ngữ
“cơ sở thường trú” sẽ được coi là không bao gồm:
a. việc sử dụng các phương tiện chỉ với mục đích lưu
kho hoặc trưng bày hàng hóa của doanh nghiệp;
b. việc duy trì kho hàng hóa của doanh nghiệp chỉ với
mục đích lưu kho hoặc trưng bày;
c. việc duy trì kho hàng hóa của doanh nghiệp chỉ với
mục đích để cho doanh nghiệp khác gia công;
d. việc duy trì một địa điểm kinh doanh cố định chỉ
với mục đích mua hàng hóa, hoặc để thu thập thông tin cho doanh nghiệp;
e. việc duy trì một địa điểm kinh doanh cố định chỉ
với mục đích tiến hành bất kỳ hoạt động nào khác mang tính chất chuẩn bị hoặc phụ
trợ cho doanh nghiệp; và
f. việc duy trì một địa điểm kinh doanh cố định chỉ
để phục vụ cho bất kỳ sự kết hợp nào của các hoạt động đã được nêu từ điểm a. đến
điểm (e), với điều kiện toàn bộ hoạt động của địa điểm kinh doanh cố định bắt
nguồn từ sự kết hợp này có tính chất chuẩn bị hoặc phụ trợ.
5. Mặc dù có những quy định tại các khoản 1 và 2, trường
hợp một đối tượng – trừ đại lý có tư cách độc lập được điều chỉnh bởi khoản 7 –
hoạt động tại một Nước ký kết thay mặt cho một doanh nghiệp của Nước ký kết
kia, doanh nghiệp đó sẽ được coi là có cơ sở thường trú tại Nước ký kết thứ
nhất đối với bất kỳ các hoạt động nào mà đối tượng trên thực hiện cho doanh nghiệp,
nếu đối tượng đó:
a. có và thường xuyên thực hiện tại Nước đó thẩm quyền
ký kết các hợp đồng đứng tên doanh nghiệp, trừ khi các hoạt động của đối tượng
đó chỉ giới hạn trong phạm vi các hoạt động nêu tại khoản 4 mà những hoạt động
đó nếu được thực hiện thông qua một địa điểm kinh doanh cố định thì sẽ không
làm cho địa điểm kinh doanh cố định đó trở thành một cơ sở thường trú theo các
quy định tại khoản đó; hoặc
b. không có thẩm quyền trên, nhưng thường xuyên duy
trì tại Nước thứ nhất một kho hàng hóa, qua đó đối tượng này thường xuyên thực hiện
giao hàng hóa thay mặt cho doanh nghiệp.
6. Mặc dù có các quy định trên của Điều này, một tổ
chức bảo hiểm của một Nước ký kết, trừ trường hợp tái bảo hiểm, sẽ được coi là có
cơ sở thường trú tại Nước ký kết kia nếu tổ chức đó thu phí bảo hiểm hoặc bảo
hiểm các rủi ro tại Nước ký kết kia thông qua một đối tượng không phải là một
đại lý có tư cách độc lập được điều chỉnh bởi khoản 7.
7. Một doanh nghiệp của một Nước ký kết sẽ không được
coi là có một cơ sở thường trú tại Nước ký kết kia chỉ vì doanh nghiệp đó chỉ
thực hiện hoạt động kinh doanh tại Nước ký kết đó thông qua một đại lý môi giới,
một đại lý hoa hồng, hoặc bất kỳ một đại lý nào khác có tư cách độc lập, với
điều kiện các đối tượng này hoạt động trong khuôn khổ kinh doanh thông thường
của họ. Tuy nhiên, khi các hoạt động của đại lý đó dành toàn bộ hoặc hầu như
toàn bộ thay mặt cho doanh nghiệp đó và điều kiện được xác lập hoặc áp đặt giữa
doanh nghiệp đó và đại lý đó trong các quan hệ thương mại và quan hệ tài chính
khác với điều kiện được tạo ra giữa các doanh nghiệp độc lập, đại lý đó sẽ
không được coi là đại lý có tư cách độc lập theo nghĩa của khoản này.
8. Việc một công ty là đối tượng cư trú của một
Nước ký kết kiểm soát hoặc chịu sự kiểm soát bởi một công ty là đối tượng cư
trú của Nước ký kết kia hoặc tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước ký kết kia
(có thể thông qua một cơ sở thường trú hoặc dưới hình thức khác), sẽ không làm
cho bất kỳ công ty nào trở thành cơ sở thường trú của công ty kia.
ĐIỀU 6 THU NHẬP TỪ BẤT ĐỘNG SẢN
1. Thu nhập mà một đối tượng cư trú của một Nước ký
kết thu được từ bất động sản (kể cả thu nhập từ nông nghiệp hoặc lâm nghiệp) có
tại Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết kia.
2. Thuật ngữ “bất động sản” sẽ có nghĩa theo như luật
của Nước ký kết nơi có bất động sản đó. Thuật ngữ này trong mọi trường hợp sẽ
bao gồm cả những phần tài sản phụ kèm theo bất động sản, đàn gia súc và thiết
bị sử dụng trong nông nghiệp (bao gồm cả sự gây giống và nuôi dưỡng cá) và lâm
nghiệp, các quyền lợi được áp dụng theo như các quy định tại luật chung về điền
sản. Quyền hưởng lợi của bất động sản và các quyền được hưởng các khoản thanh
toán cố định hoặc không cố định trả cho việc khai thác hoặc quyền khai thác các
mỏ, nguồn khoáng sản và các tài nguyên thiên nhiên khác cũng sẽ được coi là
“bất động sản”. Các tàu thủy và máy bay sẽ không được coi là bất động sản.
3. Các quy định tại khoản 1 sẽ áp dụng đối với thu nhập
phát sinh từ việc trực tiếp sử dụng, cho thuê, hoặc sử dụng dưới bất kỳ hình thức
nào khác của bất động sản.
4. Những quy định tại các khoản 1 và 3 cũng sẽ áp dụng
đối với thu nhập từ bất động sản của một doanh nghiệp và đối với thu nhập từ bất
động sản được sử dụng để thực hiện các dịch vụ cá nhân độc lập.
ĐIỀU 7. LỢI NHUẬN KINH DOANH
1. Lợi nhuận của một doanh nghiệp của một Nước ký kết
sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó, trừ trường hợp doanh nghiệp có tiến hành hoạt
động kinh doanh tại Nước ký kết kia thông qua một cơ sở thường trú tại Nước ký
kết kia. Nếu doanh nghiệp có hoạt động kinh doanh theo cách trên, thì các khoản
lợi nhuận của doanh nghiệp có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết kia nhưng chỉ
trên phần lợi nhuận phân bổ cho: a. cơ sở thường trú đó; b. việc bán tại Nước
ký kết kia những hàng hóa cùng loại hoặc tương tự như những hàng hóa bán qua cơ
sở thường trú đó; hoặc c. các hoạt động kinh doanh khác được thực hiện tại Nước
ký kết kia cùng loại hoặc tương tự với những hoạt động được thực hiện thông qua
cơ sở thường trú đó.
2. Thể theo các quy định tại khoản 3, khi một doanh
nghiệp của một Nước ký kết tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước ký kết kia, thông
qua một cơ sở thường trú tại Nước ký kết kia, thì tại mỗi Nước ký kết sẽ có
những khoản lợi nhuận được phân bổ cho cơ sở thường trú nói trên mà cơ sở thường
trú đó có thể thu được nếu nó là một doanh nghiệp riêng và tách biệt cùng tham
gia vào các hoạt động như nhau hoặc tương tự trong cùng các điều kiện như nhau
hoặc tương tự và có quan hệ hoàn toàn độc lập với doanh nghiệp mà cơ sở đó được
coi là cơ sở thường trú.
3. Trong khi xác định lợi nhuận của một cơ sở thường
trú, cơ sở thường trú này sẽ được phép khấu trừ các khoản chi phí phát sinh
phục vụ cho mục đích kinh doanh của cơ sở thường trú này, bao gồm cả chi phí
điều hành và chi phí quản lý chung cho dù chi phí đó phát sinh tại Nước nơi cơ
sở thường trú đó đóng hoặc ở bất kỳ nơi nào khác, với điều kiện là các khoản chi
phí được trừ này phù hợp với các điều khoản và tùy thuộc vào các giới hạn của
các luật thuế của Nước đó. Tuy nhiên, sẽ không cho phép tính vào các khoản chi
phí được trừ bất kỳ khoản tiền nào, nếu có, do cơ sở thường trú trả cho (trừ
khi là khoản thanh toán các chi phí thực tế) trụ sở chính của doanh nghiệp hoặc
bất kỳ văn phòng nào khác của doanh nghiệp dưới hình thức tiền bản quyền, các
khoản phí hoặc bất kỳ khoản thanh toán tương tự nào khác để được phép sử dụng
bằng phát minh hoặc các quyền khác, hoặc dưới hình thức tiền hoa hồng trả cho
việc thực hiện các dịch vụ riêng biệt hoặc trả cho công việc quản lý, hoặc dưới
hình thức lãi tiền vay tính trên khoản tiền cho cơ sở thường trú vay, trừ trường
hợp tiền lãi của tổ chức ngân hàng. Tương tự như vậy, khi xác định lợi nhuận
của cơ sở thường trú sẽ không tính đến các khoản tiền (trừ khi là các khoản
tiền thanh toán các chi phí thực tế) do cơ sở thường trú thu từ trụ sở chính
của doanh nghiệp hoặc bất kỳ văn phòng nào khác của doanh nghiệp, dưới hình thức
tiền bản quyền, các khoản phí hoặc các khoản thanh toán tương tự để cho phép sử
dụng bằng phát minh hoặc các quyền khác, hoặc dưới hình thức tiền hoa hồng trả
cho việc thực hiện các dịch vụ riêng biệt hoặc trả cho công việc quản lý, hoặc
dưới hình thức lãi tiền vay tính trên khoản tiền cho trụ sở chính của doanh
nghiệp hoặc bất kỳ văn phòng nào của doanh nghiệp vay, trừ trường hợp lãi từ
tiền cho vay của tổ chức ngân hàng.
4. Trường hợp tại một Nước ký kết vẫn thường xác định
các khoản lợi nhuận được phân bổ cho một cơ sở thường trú trên cơ sở phân chia
tổng các khoản lợi nhuận của doanh nghiệp thành những phần khác nhau, không có
nội dung nào tại khoản 2 ngăn cản Nước ký kết đó xác định lợi nhuận chịu thuế
theo cách phân chia theo thông lệ trên; tuy nhiên, phương pháp phân chia được
áp dụng như vậy phải đưa ra kết quả phù hợp với những nguyên tắc nêu tại Điều
này.
5. Theo nội dung các khoản trên, các khoản lợi nhuận
được phân bổ cho cơ sở thường trú sẽ được xác định theo cùng một phương pháp
giữa các năm trừ khi có đủ lý do chính đáng để xác định theo phương pháp khác.
6. Khi lợi nhuận bao gồm các khoản thu nhập được đề
cập riêng tại các Điều khác của Hiệp định này, thì các quy định của các Điều đó
không bị ảnh hưởng bởi các quy định tại Điều này.
ĐIỀU 8. VẬN TẢI BIỂN VÀ VẬN TẢI
HÀNG KHÔNG
1. Lợi nhuận do một doanh nghiệp của một Nước ký kết
thu được từ hoạt động của tàu thủy hoặc máy bay trong vận tải quốc tế sẽ chỉ
chịu thuế ở Nước ký kết đó.
2. Các quy định tại khoản 1 của Điều này cũng sẽ áp
dụng cho các khoản lợi nhuận thu được từ việc tham gia vào một tổ hợp, một liên
doanh hoặc một hãng hoạt động quốc tế.
3. Thuật ngữ “hoạt động của tàu thủy hoặc máy bay” có
nghĩa là việc kinh doanh vận chuyển hành khách, thư, đàn gia súc hoặc hàng hóa
bằng đường biển hoặc đường hàng không được thực hiện bởi các chủ sở hữu, những
người thuê theo hợp đồng hoặc người thuê tàu thủy hoặc máy bay.
ĐIỀU 9. CÁC DOANH NGHIỆP LIÊN
KẾT
1. Khi
a. một doanh nghiệp của một Nước ký kết tham gia trực
tiếp hoặc gián tiếp vào việc điều hành, kiểm soát hoặc góp vốn vào một doanh
nghiệp của Nước ký kết kia, hoặc
b. các đối tượng cùng tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp
vào việc điều hành, kiểm soát hoặc góp vốn vào một doanh nghiệp của một Nước ký
kết và vào một doanh nghiệp của Nước ký kết kia, và trong cả hai trường hợp,
trong các mối quan hệ thương mại hoặc quan hệ tài chính giữa hai doanh nghiệp
trên có những điều kiện được xác lập hoặc áp đặt khác với điều kiện được đưa ra
giữa các doanh nghiệp độc lập, lúc đó mọi khoản lợi nhuận mà một doanh nghiệp
có thể thu được nếu không có các điều kiện trên, nhưng nay vì những điều kiện
này mà doanh nghiệp đó đã không thu được, sẽ vẫn được tính vào các khoản lợi
nhuận của doanh nghiệp đó và bị đánh thuế tương ứng.
2. Khi một Nước ký kết tính vào, phù hợp với các quy
định tại khoản 1, các khoản lợi nhuận của một doanh nghiệp tại Nước đó – và đánh
thuế tương ứng – các khoản lợi nhuận mà một doanh nghiệp tại Nước ký kết kia đã
bị đánh thuế ở Nước kia và khi các nhà chức trách có thẩm quyền của các Nước ký
kết đồng ý, sau khi tham khảo ý kiến của nhau, tất cả hoặc một phần của những
khoản lợi nhuận được tính vào như vậy là những khoản lợi nhuận lẽ ra đã thu
được bởi doanh nghiệp tại Nước thứ nhất nếu những điều kiện đưa ra giữa hai doanh
nghiệp trên như là những điều kiện được xác lập giữa các doanh nghiệp độc lập,
khi đó Nước kia sẽ điều chỉnh khoản thuế tại Nước mình đối với các khoản lợi
nhuận đã thỏa thuận đó cho phù hợp. Khi xác định sự điều chỉnh như vậy, sẽ xem
xét đến các quy định khác của Hiệp định này.
ĐIỀU 10. TIỀN LÃI CỔ PHẦN
1. Tiền lãi cổ phần do một công ty là đối tượng cư trú
của một Nước ký kết trả cho một đối tượng cư trú của Nước ký kết kia có thể bị
đánh thuế ở Nước ký kết kia.
2. Tuy nhiên các khoản tiền lãi cổ phần đó cũng có thể
bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi công ty trả tiền lãi cổ phần là đối tượng cư
trú và theo các luật của Nước ký kết đó, nhưng nếu đối tượng thực hưởng tiền lãi
cổ phần là đối tượng cư trú của Nước ký kết kia thì thuế được tính khi đó sẽ
không vượt quá:
a. năm (5) phần trăm tổng số tiền lãi cổ phần nếu đối
tượng thực hưởng là một công ty (không kể công ty hợp danh) nắm giữ trực tiếp
ít nhất sáu mươi (60) phần trăm vốn tại công ty trả tiền lãi cổ phần;
b. mười (10) phần trăm tổng số tiền lãi cổ phần nếu
đối tượng thực hưởng là một công ty (không kể công ty hợp danh) nắm giữa trực tiếp
ít nhất hai mươi lăm (25) phần trăm nhưng thấp hơn sáu mươi (60) phần trăm vốn
tại công ty trả tiền lãi cổ phần;
c. mười lăm (15) phần trăm tổng số tiền lãi cổ phần
trong tất cả các trường hợp khác.
Khoản này sẽ không ảnh hưởng tới việc đánh thuế công
ty đối với lợi nhuận dùng để chia lãi cổ phần.
3. Thuật ngữ “tiền lãi cổ phần” được sử dụng tại Điều
này có nghĩa là thu nhập từ cổ phần hoặc các quyền khác không phải các khoản
nợ, được hưởng lợi nhuận, cũng như thu nhập từ các quyền lợi công ty khác cùng
chịu sự điều chỉnh của chính sách thuế đối với thu nhập từ cổ phần theo các
luật của Nước nơi công ty thực hiện phân chia là đối tượng cư trú.
4. Những quy định tại các khoản 1 và 2 sẽ không áp dụng
trong trường hợp đối tượng thực hưởng các khoản tiền lãi cổ phần là đối tượng
cư trú của một Nước ký kết có tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước ký kết
kia nơi công ty trả tiền lãi cổ phần là đối tượng cư trú thông qua một cơ sở
thường trú nằm tại Nước ký kết đó, hoặc tiến hành tại Nước ký kết kia các hoạt
động dịch vụ cá nhân độc lập thông qua một cơ sở cố định nằm tại Nước ký kết
kia, và quyền nắm giữ các cổ phần có các khoản tiền lãi cổ phần được trả, có sự
liên hệ thực tế đến cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định nói trên. Trong trường
hợp như vậy các quy định tại Điều 7 hoặc Điều 15, tùy từng trường hợp, sẽ được
áp dụng.
5. Khi một công ty là đối tượng cư trú của một Nước
ký kết nhận được lợi nhuận hoặc thu nhập phát sinh từ Nước ký kết kia thì Nước ký
kết kia có thể không đánh thuế đối với những khoản tiền lãi cổ phần do công ty
này trả, trừ trường hợp các khoản tiền lãi cổ phần này được trả cho một đối tượng
cư trú của Nước ký kết kia hoặc quyền nắm giữ các cổ phần có các khoản tiền lãi
cổ phần được trả có sự liên hệ thực tế với một cơ sở thường trú hoặc một cơ sở
cố định tại Nước ký kết kia, đồng thời Nước ký kết kia cũng không buộc các
khoản lợi nhuận không chia của công ty trên phải chịu thuế đối với những khoản
lợi nhuận không chia của công ty, cho dù các khoản tiền lãi cổ phần được chia
hoặc các khoản lợi nhuận không chia bao gồm toàn bộ hoặc một phần các khoản lợi
nhuận hoặc thu nhập phát sinh tại Nước ký kết kia.
6. Những quy định tại Điều này sẽ không áp dụng nếu
mục đích chính hoặc một trong những mục đích chính của bất kỳ đối tượng nào liên
quan đến việc tạo ra hoặc chuyển nhượng cổ phần hoặc các quyền lợi khác có các
khoản tiền lãi cổ phần được trả nhằm lợi dụng Điều này bằng cách tạo ra hoặc
chuyển nhượng cổ phần đó.
ĐIỀU 11. LÃI TỪ TIỀN CHO VAY
1. Lãi từ tiền cho vay phát sinh tại một Nước ký kết
và được trả cho một đối tượng cư trú của Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế
tại Nước ký kết kia.
2. Tuy nhiên, khoản tiền lãi này cũng có thể bị đánh
thuế ở Nước ký kết nơi phát sinh lãi và theo luật pháp của Nước ký kết đó, nhưng
nếu đối tượng thực hưởng các khoản tiền lãi này là đối tượng cư trú của Nước ký
kết kia thì mức thuế khi đó được tính sẽ không quá mười (10) phần trăm tổng số
khoản lãi từ tiền cho vay.
3. Mặc dù đã có các quy định tại khoản 2, lãi từ tiền
cho vay phát sinh tại một Nước ký kết và trả cho Chính phủ của Nước ký kết kia
sẽ được miễn thuế tại Nước thứ nhất.
4. Theo nội dung của khoản 3, thuật ngữ “Chính phủ”
sẽ bao gồm:
a. trong trường hợp đối với Việt Nam:
(i) Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; (ii) Ngân hàng Phát
triển Việt Nam; (iii) bất kỳ tổ chức hợp pháp hoặc bất kỳ thể chế nào khác do
Chính phủ Việt Nam sở hữu toàn bộ mà có thể được các nhà chức trách có thẩm quyền
của hai Nước ký kết nhất trí trong từng thời kỳ;
b. trong trường hợp đối với Vương quốc Ô-man:
(i) Quỹ Dự trữ Chung Nhà nước; (ii) Quỹ Đầu tư Ô-man;
(iii) bất kỳ tổ chức hợp pháp hoặc bất kỳ thể chế nào khác do Chính phủ Vương
quốc Ô-man sở hữu toàn bộ mà có thể được các nhà chức trách có thẩm quyền của
hai Nước ký kết nhất trí trong từng thời kỳ.
5. Thuật ngữ “lãi từ tiền cho vay” được sử dụng trong
Điều này có nghĩa là thu nhập từ các khoản cho vay dưới bất kỳ hình thức nào,
có hoặc không được đảm bảo bằng thế chấp và có hoặc không có quyền được hưởng
lợi nhuận của người đi vay và đặc biệt là khoản thu nhập từ chứng khoán của
Chính phủ và thu nhập từ trái phiếu hoặc trái phiếu công ty, bao gồm cả tiền
thưởng và giải thưởng đi liền với các chứng khoán, trái phiếu hoặc trái phiếu
công ty đó. Các khoản phạt trả chậm sẽ không được coi là lãi từ tiền cho vay
theo quy định của Điều này.
6. Những quy định tại các khoản 1 và 2 sẽ không áp dụng
nếu đối tượng thực hưởng các khoản lãi từ tiền cho vay là đối tượng cư trú tại
một Nước ký kết, tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước ký kết kia nơi phát
sinh các khoản lãi từ tiền cho vay thông qua một cơ sở thường trú tại Nước ký
kết kia, hoặc thực hiện tại Nước kia các hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập thông
qua một cơ sở cố định tại Nước ký kết kia và khoản nợ có các khoản tiền lãi
được trả có sự liên hệ thực tế với a. cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó,
hoặc với b. các hoạt động kinh doanh nêu tại điểm c. khoản 1 Điều 7. Trong trường
hợp này, các quy định tại Điều 7 hoặc Điều 15, tùy từng trường hợp, sẽ được áp
dụng.
7. Lãi từ tiền cho vay sẽ được coi là phát sinh tại
một Nước ký kết khi người trả lãi chính Nước đó hoặc là đối tượng cư trú của Nước
đó. Tuy nhiên, khi đối tượng trả lãi có ở một Nước ký kết một cơ sở thường trú
hoặc một cơ sở cố định liên quan đến các khoản nợ đã phát sinh các khoản lãi
này, và khoản tiền lãi đó do cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó chịu thì dù
đối tượng có là đối tượng cư trú của một Nước ký kết hay không, khoản tiền lãi
này sẽ vẫn được coi là phát sinh ở Nước nơi có cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố
định đó.
8. Trường hợp do mối quan hệ đặc biệt giữa đối tượng
trả lãi và đối tượng thực hưởng lãi hoặc giữa cả hai đối tượng trên và các đối
tượng khác, khoản lãi từ tiền cho vay được trả cho khoản nợ có liên quan, vượt
quá khoản tiền được thỏa thuận giữa đối tượng trả lãi và đối tượng thực hưởng
khi không có mối quan hệ này, thì khi đó, các quy định tại Điều này sẽ chỉ áp
dụng đối với các khoản tiền thanh toán lãi từ tiền cho vay khi không có mối
quan hệ đặc biệt trên. Trong trường hợp này, phần thanh toán vượt sẽ bị đánh
thuế theo các luật của từng Nước ký kết, có xem xét tới các quy định khác của
Hiệp định này.
9. Những quy định tại Điều này sẽ không áp dụng nếu
mục đích chính hoặc một trong những mục đích chính của bất kỳ đối tượng nào liên
quan đến việc tạo ra hoặc chuyển nhượng khoản vay nợ có số lãi tiền cho vay
phải trả nhằm lợi dụng Điều này bằng cách tạo ra hoặc chuyển nhượng khoản vay
nợ đó.
ĐIỀU 12. TIỀN BẢN QUYỀN
1. Tiền bản quyền phát sinh tại một Nước ký kết và được
trả cho đối tượng cư trú của Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết
kia.
2. Tuy nhiên, các khoản tiền bản quyền đó cũng có thể
bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi phát sinh tiền bản quyền, và theo các luật của
Nước ký kết đó, nhưng nếu người thực hưởng tiền bản quyền đó là đối tượng cư
trú của Nước ký kết kia thì mức thuế được tính sẽ không vượt quá mười (10) phần
trăm tổng số tiền bản quyền.
3. Thuật ngữ “tiền bản quyền” được sử dụng tại Điều
này có nghĩa là các khoản thanh toán dưới bất kỳ hình thức nào được trả cho việc
sử dụng, hoặc quyền sử dụng, bất kỳ bản quyền tác giả nào của một tác phẩm văn
học, nghệ thuật hoặc công trình khoa học, kể cả phần mềm máy tính, phim điện
ảnh, hoặc các loại phim, đĩa hoặc băng dùng cho phát thanh hoặc truyền hình,
bất kỳ bằng phát minh, nhãn hiệu thương mại, thiết kế hoặc mẫu, đồ án, công
thức hoặc quy trình bí mật, hoặc trả cho việc sử dụng, hoặc quyền sử dụng thiết
bị công nghiệp, thương mại hoặc khoa học hoặc trả cho thông tin liên quan đến
các kinh nghiệm công nghiệp, thương mại hoặc khoa học.
4. Những quy định tại các khoản 1 và 2 sẽ không áp dụng
nếu đối tượng thực hưởng các khoản tiền bản quyền, là đối tượng cư trú của một
Nước ký kết, tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước ký kết kia nơi có khoản tiền
bản quyền phát sinh, thông qua một cơ sở thường trú có tại Nước ký kết kia,
hoặc tiến hành tại Nước kia các hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập thông qua một
cơ sở cố định có tại Nước ký kết kia, và quyền hoặc tài sản có các khoản tiền
bản quyền được trả có sự liên hệ thực tế với a. cơ sở thường trú hoặc với cơ sở
cố định đó, hoặc với b. các hoạt động kinh doanh được nêu tại điểm c. khoản 1
Điều 7. Trong trường hợp này, các quy định tại Điều 7 hoặc Điều 15, tùy từng
trường hợp, sẽ được áp dụng.
5. Tiền bản quyền sẽ được coi là phát sinh tại một Nước
ký kết khi người trả chính là Nước đó hoặc đối tượng cư trú của Nước đó. Tuy
nhiên, khi một đối tượng trả tiền bản quyền, là hoặc không là đối tượng cư trú
của một Nước ký kết, có ở một Nước ký kết một cơ sở thường trú hoặc một cơ sở
cố định liên quan đến trách nhiệm trả tiền bản quyền đã phát sinh và tiền bản
quyền đó do cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó chịu thì khoản tiền bản quyền
này sẽ vẫn được coi là phát sinh ở Nước nơi có cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố
định đó.
6. Trường hợp do mối quan hệ đặc biệt giữa đối tượng
trả và đối tượng thực hưởng hoặc giữa cả hai đối tượng trên với các đối tượng
khác, khoản tiền bản quyền được trả cho việc sử dụng, quyền hoặc thông tin,
vượt quá khoản tiền được thỏa thuận giữa đối tượng trả và đối tượng thực hưởng
khi không có mối quan hệ đặc biệt này, thì các quy định của Điều này sẽ chỉ áp
dụng đối với khoản tiền thanh toán tiền bản quyền khi không có mối quan hệ
trên. Trong trường hợp này, phần thanh toán vượt sẽ bị đánh thuế theo các luật
của từng Nước ký kết, có xem xét đến các quy định khác của Hiệp định này.
7. Những quy định tại Điều này sẽ không áp dụng nếu
mục đích chính hoặc một trong những mục đích chính của bất kỳ đối tượng nào liên
quan đến việc tạo ra hoặc chuyển nhượng các quyền có số tiền bản quyền được trả
nhằm lợi dụng Điều này bằng cách tạo ra hoặc chuyển nhượng các quyền trên.
ĐIỀU 13. PHÍ DỊCH VỤ KỸ THUẬT
1. Phí dịch vụ kỹ thuật phát sinh tại một Nước ký kết
và được trả cho đối tượng cư trú của Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế tại
Nước ký kết kia.
2. Tuy nhiên, các khoản phí dịch vụ kỹ thuật đó cũng
có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi phát sinh và theo các luật của Nước đó,
nhưng nếu đối tượng thực hưởng các khoản phí dịch vụ kỹ thuật này là đối tượng
cư trú của Nước ký kết kia thì mức thuế được tính khi đó sẽ không vượt quá mười
(10) phần trăm của tổng số tiền phí dịch vụ kỹ thuật.
3. Thuật ngữ “phí dịch vụ kỹ thuật” được sử dụng tại
Điều này có nghĩa là các khoản thanh toán dưới bất kỳ hình thức nào được trả
cho bất kỳ một đối tượng nào, không phải là một người làm thuê của đối tượng
tiến hành chi trả, vì các dịch vụ mang tính chất kỹ thuật, quản lý hoặc tư vấn.
4. Những quy định tại các khoản 1 và 2 sẽ không áp dụng
nếu đối tượng thực hưởng các khoản tiền phí dịch vụ kỹ thuật, là đối tượng cư
trú của một Nước ký kết, tiến hành hoạt động kinh doanh ở Nước ký kết kia nơi
có khoản phí dịch vụ kỹ thuật phát sinh, thông qua một cơ sở thường trú đặt tại
đó, hoặc tiến hành tại Nước ký kết kia các hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập
thông qua một cơ sở cố định, và phí dịch vụ kỹ thuật có sự liên hệ thực tế với
a. cơ sở thường trú hoặc với cơ sở cố định đó, hoặc b. các hoạt động kinh doanh
được nêu tại điểm c. khoản 1 Điều 7. Trong trường hợp này, các quy định tại
Điều 7 hoặc Điều 15, tùy từng trường hợp, sẽ được áp dụng.
5. Phí dịch vụ kỹ thuật sẽ được coi là phát sinh tại
một Nước ký kết khi người trả chính là Nước đó hoặc đối tượng cư trú của Nước
đó. Tuy nhiên, khi một đối tượng trả tiền phí dịch vụ kỹ thuật, là hoặc không
là đối tượng cư trú của một Nước ký kết, có ở một Nước ký kết một cơ sở thường
trú hoặc một cơ sở cố định liên quan đến trách nhiệm trả tiền phí dịch vụ kỹ
thuật đã phát sinh, và tiền phí dịch vụ kỹ thuật đó do cơ sở thường trú hoặc cơ
sở cố định đó chịu thì khoản tiền phí dịch vụ kỹ thuật này sẽ vẫn được coi là
phát sinh ở Nước nơi có cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó.
6. Trường hợp do mối quan hệ đặc biệt giữa đối tượng
trả và đối tượng thực hưởng hoặc giữa cả hai đối tượng trên với các đối tượng
khác, khoản tiền phí dịch vụ kỹ thuật vượt quá, vì bất kỳ lý do gì, khoản tiền
được thỏa thuận giữa đối tượng trả và đối tượng thực hưởng khi không có mối
quan hệ đặc biệt này, thì các quy định của Điều này sẽ chỉ áp dụng đối với khoản
tiền thanh toán phí dịch vụ kỹ thuật khi không có mối quan hệ trên. Trong trường
hợp này, phần thanh toán vượt sẽ bị đánh thuế theo các luật của từng Nước ký
kết, có xem xét đến các quy định khác của Hiệp định này.
7. Những quy định tại Điều này sẽ không áp dụng nếu
mục đích chính hoặc một trong những mục đích chính của bất kỳ đối tượng nào liên
quan đến việc tạo ra hoặc chuyển nhượng các quyền có số tiền phí dịch vụ kỹ
thuật được trả nhằm lợi dụng Điều này bằng cách tạo ra hoặc chuyển nhượng các
quyền trên.
ĐIỀU 14. THU NHẬP TỪ CHUYỂN
NHƯỢNG TÀI SẢN
1. Thu nhập do một đối tượng cư trú của một Nước ký
kết nhận được từ chuyển nhượng bất động sản được nêu tại Điều 6 và có tại Nước ký
kết kia có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
2. Thu nhập từ chuyển nhượng động sản là một phần của
tài sản kinh doanh của một cơ sở thường trú mà một doanh nghiệp của một Nước ký
kết có tại Nước ký kết kia, hoặc động sản thuộc một cơ sở cố định của một đối
tượng cư trú của một Nước ký kết có ở Nước ký kết kia để tiến hành hoạt động
dịch vụ cá nhân độc lập, kể cả thu nhập từ việc chuyển nhượng cơ sở thường trú
đó (chuyển nhượng riêng cơ sở thường trú đó hoặc cùng với toàn bộ doanh nghiệp)
hoặc cơ sở cố định đó có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
3. Thu nhập do một doanh nghiệp của một Nước ký kết
nhận được từ chuyển nhượng tàu thủy hoặc máy bay hoạt động trong vận tải quốc tế
hoặc động sản gắn liền với việc hoạt động của các tàu thủy hoặc máy bay đó sẽ
chỉ bị đánh thuế tại Nước ký kết đó.
4. Thu nhập thu được từ việc chuyển nhượng các cổ phần
trong vốn cổ phần của một công ty, hoặc phần quyền lợi trong một công ty hợp
danh, tín thác hoặc di sản, mà tài sản của các tổ chức này trực tiếp hoặc gián
tiếp chủ yếu bao gồm bất động sản nằm tại Nước ký kết kia, có thể bị đánh thuế
tại Nước đó. Theo nội dung của khoản này, “chủ yếu” liên quan đến quyền sở hữu
của bất động sản có nghĩa là giá trị của bất động sản đó vượt quá năm mươi (50)
phần trăm giá trị gộp của tất cả các tài sản do công ty, công ty hợp danh, tín
thác hoặc di sản sở hữu.
5. Thu nhập thu được từ việc chuyển nhượng một phần
vốn từ hai mươi lăm (25) phần trăm trở lên trong vốn cổ phần của một công ty là
đối tượng cư trú của một Nước ký kết, không phải là các cổ phần được đề cập tới
tại khoản 4, có thể bị đánh thuế tại Nước đó.
6. Thu nhập thu được từ việc chuyển nhượng bất kỳ tài
sản nào khác với tài sản nêu tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 sẽ chỉ bị đánh thuế
tại Nước ký kết nơi đối tượng chuyển nhượng là đối tượng cư trú.
ĐIỀU 15. DỊCH VỤ CÁ NHÂN ĐỘC
LẬP
1. Thu nhập do một cá nhân là đối tượng cư trú của Nước
ký kết thu được từ các dịch vụ ngành nghề hoặc các hoạt động khác có tính chất
độc lập sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó trừ các trường hợp dưới đây, khi đó các
khoản thu nhập đó cũng có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết kia:
a. nếu đối tượng đó thường xuyên có tại Nước ký kết
kia một cơ sở cố định để thực hiện các hoạt động của đối tượng này; trong trường
hợp đó, chỉ phần thu nhập phân bổ cho cơ sở cố định đó có thể bị đánh thuế tại
Nước ký kết kia; hoặc
b. nếu đối tượng đó có mặt tại Nước ký kết kia trong
một khoảng thời gian hoặc nhiều khoảng thời gian gộp lại đến hoặc vượt quá 183
ngày trong bất kỳ giai đoạn 12 tháng liên tục bắt đầu hoặc kết thúc trong năm
tính thuế có liên quan; trong trường hợp đó, chỉ phần thu nhập phát sinh từ các
hoạt động của đối tượng đó được thực hiện tại Nước ký kết kia có thể bị đánh
thuế tại Nước ký kết kia; hoặc
c. nếu tiền thù lao trả cho các hoạt động của đối tượng
đó thực hiện tại Nước ký kết kia do một đối tượng cư trú của Nước ký kết kia
trả hoặc do một cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định tại Nước ký kết kia chịu và
tổng số tiền thù lao (trước khi trừ chi phí) do đối tượng này nhận được vượt
quá ba nghìn (3.000) đô-la Mỹ hoặc số tiền tương đương của một Nước ký kết trong
năm tính thuế.
2. Thuật ngữ “dịch vụ ngành nghề” bao gồm chủ yếu các
hoạt động khoa học, văn học, nghệ thuật, giáo dục hoặc giảng dạy mang tính chất
độc lập cũng như các hoạt động độc lập của các thầy thuốc, luật sư, kỹ sư, kiến
trúc sư, nha sĩ và kế toán viên.
ĐIỀU 16. DỊCH VỤ CÁ NHÂN PHỤ
THUỘC
1. Thể theo quy định tại các Điều 17, 19, 20 và 21 của
Hiệp định này, các khoản tiền lương, tiền công và các khoản tiền thù lao tương
tự khác do một đối tượng cư trú của một Nước ký kết thu được từ lao động làm
công sẽ bị đánh thuế tại Nước đó, trừ khi công việc của đối tượng đó được thực
hiện tại Nước ký kết kia. Nếu lao động làm công được thực hiện như vậy, số tiền
công trả cho lao động đó có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết kia.
2. Mặc dù có các quy định tại khoản 1, tiền công do
một đối tượng cư trú của một Nước ký kết thu được từ lao động làm công được thực
hiện tại Nước ký kết kia sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước thứ nhất nếu:
a. người nhận tiền công hiện có mặt tại Nước ký kết
kia trong một khoảng thời gian hoặc nhiều khoảng thời gian gộp lại không quá 183
ngày trong bất kỳ giai đoạn 12 tháng liên tục bắt đầu hoặc kết thúc trong năm
tính thuế có liên quan, và
b. chủ lao động hay đối tượng đại diện chủ lao động
trả tiền công lao động không phải là đối tượng cư trú tại Nước kia, và
c. số tiền thù lao không phải phát sinh tại một cơ sở
thường trú hoặc cơ sở cố định mà chủ lao động có tại Nước kia.
3. Mặc dù có những quy định trên của Điều này, tiền
công từ lao động làm trên tàu thủy hoặc máy bay do một doanh nghiệp của một Nước
ký kết điều hành trong vận tải quốc tế sẽ chỉ bị đánh thuế ở Nước ký kết đó.
ĐIỀU 17. THÙ LAO GIÁM ĐỐC
Các khoản thù lao cho giám đốc và các khoản thanh toán
tương tự khác do một đối tượng cư trú của một Nước ký kết nhận được với tư cách
là thành viên của ban giám đốc hoặc các thực thể tương tự khác của một công ty
là đối tượng cư trú của Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết kia.
ĐIỀU 18. NGHỆ SĨ VÀ VẬN ĐỘNG
VIÊN
1. Mặc dù có những quy định tại các Điều 15 và 16, thu
nhập của một đối tượng cư trú của một Nước ký kết thu được với tư cách người
biểu diễn như diễn viên sân khấu, diễn viên điện ảnh, nghệ sĩ phát thanh, truyền
hình, hoặc nhạc công, hoặc với tư cách là vận động viên từ những hoạt động cá
nhân của mình thực hiện tại Nước ký kết kia, có thể bị đánh thuế ở Nước ký kết
kia.
2. Trường hợp thu nhập liên quan đến các hoạt động trình
diễn cá nhân của người biểu diễn hoặc vận động viên nhưng không được trả cho
bản thân người biểu diễn hoặc vận động viên, mà trả cho một đối tượng khác thì
thu nhập này có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi diễn ra những hoạt động
trình diễn của người biểu diễn hoặc vận động viên, mặc dù đã có những quy định
tại các Điều 7, 15 và 16.
3. Mặc dù đã có những quy định tại các khoản 1 và 2,
thu nhập do một đối tượng cư trú của một Nước ký kết thu được từ các hoạt động
cá nhân của mình như là một nghệ sĩ hoặc vận động viên tại Nước ký kết kia sẽ
được miễn thuế tại Nước ký kết kia nếu các hoạt động này được trình diễn tại Nước
ký kết kia trong khuôn khổ chương trình trao đổi văn hóa giữa Chính phủ của cả
hai Nước ký kết.
ĐIỀU 19. TIỀN LƯƠNG HƯU VÀ CÁC
KHOẢN THANH TOÁN BẢO HIỂM XÃ HỘI
1. Thể theo các quy định tại khoản 2 Điều 20, tiền lương
hưu và các khoản thù lao tương tự khác được trả cho một đối tượng cư trú của
một Nước ký kết do các công việc đã làm trước đây sẽ chỉ bị đánh thuế ở Nước đó.
2. Mặc dù đã có những quy định tại khoản 1, tiền lương
hưu và các khoản tiền thanh toán khác được trả theo một chương trình công cộng
là một phần của hệ thống bảo hiểm xã hội của một Nước ký kết sẽ chỉ bị đánh
thuế ở Nước đó.
ĐIỀU 20. PHỤC VỤ CHÍNH PHỦ
1. a. Tiền lương, tiền công và các khoản tiền thù lao
tương tự khác, trừ tiền lương hưu, do một Nước ký kết trả cho một cá nhân đối
với việc phục vụ cho Nước ký kết đó sẽ bị đánh thuế tại Nước đó.
b. Tuy nhiên, khoản tiền lương, tiền công và các khoản
tiền thù lao tương tự khác nêu trên sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước ký kết kia nếu
việc phục vụ này được thực hiện tại Nước ký kết kia và nếu cá nhân này là đối
tượng cư trú của Nước ký kết kia, đồng thời:
(i) là đối tượng mang quốc tịch của Nước ký kết kia;
hoặc (ii) không trở thành đối tượng cư trú của Nước ký kết kia chỉ đơn thuần vì
thực hiện các công việc trên.
2. Bất kỳ khoản tiền lương hưu nào do một Nước ký kết
hoặc do các quỹ của Nước ký kết đó lập ra trả cho một cá nhân đối với công việc
phục vụ cho Nhà nước đó sẽ bị đánh thuế tại Nước ký kết đó.
b. Tuy nhiên, các khoản tiền lương hưu này sẽ chỉ bị
đánh thuế tại Nước ký kết kia nếu cá nhân này là đối tượng cư trú, và là đối tượng
mang quốc tịch của Nước ký kết kia.
3. Những quy định của các Điều 16, 17, 18 và 19 sẽ áp
dụng đối với những khoản tiền lương, tiền công và các khoản tiền thù lao tương
tự khác và tiền lương hưu đối với các công việc liên quan đến một hoạt động
kinh doanh được tiến hành bởi một Nước ký kết.
ĐIỀU 21. SINH VIÊN VÀ THỰC TẬP
SINH
Những khoản tiền mà một sinh viên hoặc thực tập sinh
nhận được để trang trải các khoản chi phí sinh hoạt, học tập hoặc đào tạo mà
người sinh viên hoặc thực tập sinh này ngay trước khi đến một Nước ký kết đang
và đã là đối tượng cư trú của Nước ký kết kia và hiện có mặt tại Nước thứ nhất
chỉ với mục đích sinh hoạt, học tập hoặc đào tạo, sẽ không bị đánh thuế tại
Nước đó:
a. đối với các khoản thanh toán có nguồn gốc từ bên
ngoài Nước đó dùng để trang trải các chi phí sinh hoạt, học tập hoặc đào tạo; và
b. mặc dù đã có những quy định tại các Điều 15 và 16,
khoản thanh toán, không vượt quá tám nghìn (8.000) đô-la Mỹ hoặc số tiền tương
đương của một Nước ký kết, thu được từ các hoạt động dịch vụ của đối tượng đó
trong một năm tính thuế.
ĐIỀU 22. THU NHẬP KHÁC
1. Các khoản thu nhập của một đối tượng cư trú của một
Nước ký kết, cho dù phát sinh ở đâu, chưa được đề cập đến tại những Điều trên
của Hiệp định này, sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó.
2. Các quy định tại khoản 1 sẽ không áp dụng đối với
thu nhập, trừ thu nhập từ bất động sản được định nghĩa tại khoản 2 Điều 6, nếu
đối tượng thực hưởng thu nhập là đối tượng cư trú của một Nước ký kết, có tiến
hành hoạt động kinh doanh tại Nước ký kết kia thông qua một cơ sở thường trú
nằm tại Nước kia hoặc thực hiện tại Nước kia những hoạt động dịch vụ cá nhân
độc lập thông qua một cơ sở cố định tại Nước kia, và quyền hoặc tài sản liên
quan đến số thu nhập được trả có sự liên hệ thực tế với cơ sở thường trú hoặc
cơ sở cố định như trên. Trong trường hợp đó những quy định tại Điều 7 hoặc Điều
15, tùy từng trường hợp, sẽ được áp dụng.
3. Mặc dù có những quy định tại các khoản 1 và 2, các
khoản thu nhập của một đối tượng cư trú của một Nước ký kết chưa được đề cập
đến tại các Điều trên của Hiệp định này và phát sinh tại Nước ký kết kia cũng
có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết kia.
ĐIỀU 23. CÁC BIỆN PHÁP XÓA BỎ
VIỆC ĐÁNH THUẾ HAI LẦN
1. Việc tránh đánh thuế hai lần sẽ được thực hiện
như sau:
a. Khi một đối tượng cư trú của một Nước ký kết có
thu nhập, mà theo các quy định của Hiệp định này, có thể bị đánh thuế tại Nước
ký kết kia bằng phương pháp trực tiếp hoặc khấu trừ, Nước ký kết thứ nhất sẽ
cho phép đối tượng đó được khấu trừ vào thuế tính trên thu nhập của đối tượng
cư trú đó một khoản tiền tương đương với số thuế đã nộp tại Nước ký kết kia.
Số thuế được khấu trừ theo quy định nêu trên sẽ không
vượt quá số thuế đáng ra đã được thu trên cùng thu nhập tại Nước ký kết thứ
nhất theo thuế suất áp dụng tại Nước ký kết.
b. Trong trường hợp một đối tượng cư trú của một Nước
ký kết thu được thu nhập mà theo các quy định của Hiệp định này, sẽ chỉ bị đánh
thuế tại Nước ký kết kia, Nước ký kết thứ nhất có thể gộp thu nhập này vào cơ
sở tính thuế nhưng chỉ để xác định thuế suất đối với thu nhập đó như là thu nhập
phải chịu thuế tại Nước ký kết đó.
2. Theo nội dung khoản 1 của Điều này, số thuế thu nhập
đã nộp tại một Nước ký kết sẽ được coi như bao gồm cả số thuế đáng ra đã phải
nộp nhưng được miễn thuế hoặc giảm thuế phù hợp với các luật được xây dựng nhằm
mục đích phát triển kinh tế tại Nước ký kết đó.
ĐIỀU 24. KHÔNG PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ
1. Các đối tượng mang quốc tịch của một Nước ký kết
sẽ không phải chịu tại Nước ký kết kia bất kỳ chế độ thuế nào hoặc bất kỳ yêu cầu
nào liên quan đến chế độ thuế đó khác với hoặc nặng hơn chế độ thuế và các yêu
cầu liên quan hiện đang và có thể áp dụng cho những đối tượng mang quốc tịch
của Nước ký kết kia trong cùng những hoàn cảnh như nhau.
2. Chế độ thuế áp dụng đối với một cơ sở thường trú
của một doanh nghiệp của một Nước ký kết có tại Nước ký kết kia sẽ không kém thuận
lợi hơn tại Nước ký kết kia so với chế độ thuế áp dụng cho các doanh nghiệp của
Nước ký kết kia cùng tiến hành các hoạt động tương tự.
3. Trừ trường hợp áp dụng những quy định tại khoản 1
Điều 9, khoản 8 Điều 11, khoản 6 Điều 12 hoặc khoản 6 Điều 13, lãi từ tiền cho
vay, tiền bản quyền, phí dịch vụ kỹ thuật và các khoản thanh toán khác do một
doanh nghiệp của một Nước ký kết trả cho đối tượng cư trú của Nước ký kết kia,
khi xác định các khoản lợi nhuận chịu thuế của doanh nghiệp đó, sẽ được tính
vào chi phí theo cùng các điều kiện như các khoản đó được trả cho đối tượng cư
trú của Nước thứ nhất.
4. Các doanh nghiệp của một Nước ký kết có toàn bộ hoặc
một phần vốn do một hoặc nhiều đối tượng cư trú của Nước ký kết kia sở hữu hoặc
kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp, sẽ không phải chịu tại Nước thứ nhất bất kỳ
chế độ thuế hoặc yêu cầu liên quan đến chế độ thuế đó khác với hoặc nặng hơn
chế độ thuế và những yêu cầu liên quan hiện đang hoặc có thể được áp dụng cho các
doanh nghiệp tương tự khác của Nước thứ nhất.
5. Không có nội dung nào tại Điều này được giải thích
là buộc một Nước ký kết phải cho cá nhân không cư trú tại Nước đó được hưởng
bất kỳ khoản miễn thu cá nhân, khoản miễn thuế và giảm thuế vì các quy định dân
sự hoặc trách nhiệm gia đình mà Nước đó dành cho đối tượng cư trú của mình.
6. Những quy định của Điều này sẽ chỉ áp dụng đối với
các loại thuế chịu sự điều chỉnh của Hiệp định này.
7. Điều này sẽ không được Vương quốc Ô-man thực hiện
đầy đủ cho đến khi Vương quốc Ô-man làm hài hòa các mức thuế suất có thể áp
dụng cho các doanh nghiệp thực hiện các hoạt động tại Vương quốc Ô-man.
ĐIỀU 25. THỦ TỤC THỎA THUẬN
SONG PHƯƠNG
1. Trường hợp một đối tượng là đối tượng cư trú của
một Nước ký kết nhận thấy rằng việc giải quyết của nhà chức trách có thẩm quyền
của một hoặc cả hai Nước ký kết làm cho hoặc sẽ làm cho đối tượng đó phải nộp thuế
không đúng với những quy định của Hiệp định này, đối tượng này có thể giải trình
trường hợp của mình với nhà chức trách có thẩm quyền của Nước ký kết mà đối
tượng đó là đối tượng cư trú, mặc dù trong nội luật của hai Nước đã quy định về
chế độ xử lý khiếu nại. Trường hợp đó phải được giải trình trong thời hạn 2 năm
kể từ lần thông báo giải quyết đầu tiên dẫn đến chế độ thuế áp dụng không đúng
với những quy định của Hiệp định.
2. Nhà chức trách có thẩm quyền sẽ cố gắng, nếu như
việc khiếu nại là hợp lý và nếu bản thân nhà chức trách đó không thể đi đến một
giải pháp thỏa đáng, phối hợp với nhà chức trách có thẩm quyền của Nước ký kết kia
để cùng giải quyết trường hợp khiếu nại bằng thỏa thuận chung, nhằm mục đích
tránh đánh thuế không phù hợp với nội dung của Hiệp định này. Mọi thỏa thuận
đạt được sẽ được thực hiện không căn cứ vào những giới hạn thời gian ghi trong
nội luật của hai Nước ký kết.
3. Nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết
sẽ cố gắng giải quyết bằng thỏa thuận chung mọi khó khăn hoặc vướng mắc nảy sinh
trong quá trình giải thích hoặc áp dụng Hiệp định này.
4. Nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết
có thể liên hệ trực tiếp với nhau, nhằm mục đích đạt được một thỏa thuận theo nội
dung những khoản trên đây.
ĐIỀU 26. TRAO ĐỔI THÔNG TIN
1. Các nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký
kết sẽ trao đổi với nhau những thông tin cần thiết cho việc thực hiện những quy
định của Hiệp định này hoặc nội luật của từng Nước ký kết liên quan đến các loại
thuế mà Hiệp định này áp dụng sao cho việc đánh thuế theo nội luật sẽ không trái
với Hiệp định này cũng như để ngăn ngừa việc trốn thuế. Việc trao đổi thông tin
không bị giới hạn bởi Điều 1.
2. Mọi thông tin do một Nước ký kết nhận được theo khoản
1 sẽ được giữ bí mật giống như thông tin thu nhận theo nội luật của Nước này và
thông tin đó sẽ chỉ được cung cấp cho các đối tượng hoặc các cơ quan chức năng
(bao gồm cả tòa án và các cơ quan hành chính) có liên quan đến việc tính toán
hoặc truy thu, cưỡng chế hoặc truy tố hoặc xác định các khiếu nại về các loại
thuế nêu tại khoản 1, hoặc đã thấy trước như đã nêu trên. Các đối tượng hoặc
các cơ quan chức năng này sẽ chỉ sử dụng các thông tin đó vào các mục đích nêu
trên. Các đối tượng và các cơ quan đó có thể cung cấp các thông tin này trong
quá trình tố tụng công khai của tòa án hoặc trong các quyết định của tòa án.
3. Không có trường hợp nào mà những quy định tại các
khoản 1 và 2 được giải thích là buộc nhà chức trách có thẩm quyền của một Nước
ký kết có nghĩa vụ:
a. thực hiện các biện pháp hành chính khác với luật
pháp và thông lệ về quản lý hành chính của Nước ký kết đó hoặc của Nước ký kết
kia;
b. cung cấp các thông tin không thể tiết lộ được theo
các luật hoặc theo như quá trình quản lý hành chính thông thường của Nước ký
kết đó hoặc của Nước ký kết kia;
c. cung cấp các thông tin có thể làm tiết lộ bí mật
về mua bán, kinh doanh, công nghiệp, thương mại hoặc bí mật nghề nghiệp hoặc các
quy trình kinh doanh, hoặc cung cấp các thông tin mà việc tiết lộ chúng có thể
trái với chính sách nhà nước (ordre public).
4. Nếu thông tin do một Nước ký kết yêu cầu phù hợp
với Điều này, Nước ký kết kia sẽ sử dụng các biện pháp thu thập thông tin theo nội
luật của Nước mình để có được các thông tin theo yêu cầu, mặc dù Nước kia có
thể không cần các thông tin như vậy cho mục đích thuế của mình. Nghĩa vụ được
quy định tại câu trên phụ thuộc vào các giới hạn tại khoản 3 nhưng trong mọi
trường hợp, các giới hạn này không có nghĩa là cho phép một Nước ký kết từ chối
việc cung cấp thông tin chỉ vì Nước ký kết đó không có lợi ích trong nước từ
các thông tin như vậy.
ĐIỀU 27. TRỢ GIÚP THU THUẾ
1. Các Nước ký kết cam kết giúp đỡ lẫn nhau trong việc
thu các loại thuế mà Hiệp định này áp dụng, cũng như các khoản tiền lãi, tiền
phạt hành chính và các khoản phạt không mang tính chất hình sự.
2. Yêu cầu trợ giúp thu các loại thuế của một Nước ký
kết sẽ bao gồm một giấy chứng nhận của nhà chức trách có thẩm quyền của Nước đó,
mà theo các luật của Nước đó, các loại thuế này đã được xác định cuối cùng. Theo
nội dung của Điều này, một khoản thuế được xác định cuối cùng khi một Nước ký
kết có quyền theo nội luật của mình để thu thuế và người nộp thuế không có quyền
để cản trở việc thu thuế này.
3. Các yêu cầu được nêu tại khoản 2 sẽ được kèm theo
một văn bản chính thức cho phép thi hành, khi phù hợp kèm theo một văn bản chính
thức của quyết định pháp lý hoặc hành chính.
4. Yêu cầu của một Nước ký kết mà được Nước ký kết kia
chấp nhận thu thuế sẽ được thực hiện bởi Nước kia như thể là yêu cầu có liên
quan đến thuế của Nước mình.
5. Đối với các khoản nợ thuế được yêu cầu truy thu,
nhà chức trách có thẩm quyền của một Nước ký kết có thể, để bảo vệ các quyền của
nước mình, yêu cầu nhà chức trách có thẩm quyền của Nước ký kết kia thực hiện
các biện pháp phòng ngừa. Yêu cầu của một Nước ký kết mà đã được chấp nhận sẽ
được thực hiện bởi Nước kia như thể là yêu cầu có liên quan đến thuế của Nước
mình.
6. Số thuế do nhà chức trách có thẩm quyền của một Nước
ký kết thu được chiếu theo Điều này sẽ được chuyển cho nhà chức trách có thẩm
quyền của Nước ký kết kia. Trừ trường hợp các nhà chức trách có thẩm quyền của
hai Nước ký kết có thỏa thuận khác, các chi phí thông thường phát sinh trong
việc trợ giúp thu thuế sẽ do Nước yêu cầu chịu.
7. Không có nội dung nào tại Điều này sẽ được giải thích
là buộc một Nước ký kết có nghĩa vụ:
a. thực hiện các biện pháp hành chính khác với luật
pháp và thông lệ về quản lý hành chính của Nước ký kết đó hoặc của Nước ký kết
kia;
b. thực hiện các biện pháp trái với chính sách nhà nước
(ordre public);
c. cung cấp sự trợ giúp nếu Nước ký kết kia đã không
tiến hành các biện pháp hợp lý để thu, có thể được áp dụng theo luật hoặc thông
lệ về quản lý hành chính của Nước ký kết kia;
d. cung cấp sự trợ giúp trong các trường hợp mà gánh
nặng hành chính của Nước đó cho thấy hoàn toàn không phù hợp với lợi ích đạt
được bởi Nước ký kết kia.
ĐIỀU 28. CÁC THÀNH VIÊN CƠ
QUAN ĐẠI DIỆN NGOẠI GIAO VÀ CƠ QUAN LÃNH SỰ
Không có nội dung nào tại Hiệp định này ảnh hưởng đến
các ưu đãi về thuế của các thành viên cơ quan đại diện ngoại giao hoặc cơ quan
lãnh sự theo các nguyên tắc chung của luật pháp quốc tế hoặc các quy định tại
các hiệp định đặc biệt.
ĐIỀU 29. HIỆU LỰC
1. Mỗi Nước ký kết, thông qua đường ngoại giao, sẽ thông
báo cho nhau biết bằng văn bản việc hoàn tất các thủ tục theo yêu cầu của luật
pháp nước mình để Hiệp định có hiệu lực. Hiệp định này sẽ có hiệu lực vào ngày
nhận được thông báo sau cùng.
2. Hiệp định này sẽ có hiệu lực thi hành:
a. tại Việt Nam:
(i) đối với các khoản thuế khấu trừ tại nguồn, liên
quan đến các khoản thu nhập chịu thuế được trả hoặc bị khấu trừ thuế vào ngày hoặc
sau ngày 01 tháng 01 của năm dương lịch tiếp sau năm Hiệp định có hiệu lực;
(ii) đối với các khoản thuế khác, liên quan đến thu nhập, lợi nhuận hoặc thu
nhập từ chuyển nhượng tài sản phát sinh vào ngày hoặc sau ngày 01 tháng 01 của
năm dương lịch tiếp sau năm dương lịch Hiệp định có hiệu lực;
b. tại Vương quốc Ô-man:
(i) đối với các khoản thuế khấu trừ tại nguồn: đối với
các khoản được trả hoặc bị khấu trừ thuế vào ngày hoặc sau ngày 01 tháng 01 tiếp
theo ngày Hiệp định này có hiệu lực; và (ii) đối với các khoản thuế khác: đối
với bất kỳ năm tính thuế nào bắt đầu vào ngày hoặc sau ngày 01 tháng 01 tiếp
theo ngày Hiệp định này có hiệu lực.
ĐIỀU 30. CHẤM DỨT HIỆU LỰC
Hiệp định này có hiệu lực cho đến khi một Nước ký kết
chấm dứt hiệu lực. Từng Nước ký kết thông qua đường ngoại giao có thể chấm dứt
hiệu lực Hiệp định bằng cách gửi cho Nước ký kết kia thông báo chấm dứt hiệu
lực Hiệp định ít nhất 6 tháng trước khi kết thúc bất kỳ năm dương lịch nào bắt
đầu từ sau thời hạn 5 năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực. Trong trường hợp
này, Hiệp định sẽ hết hiệu lực thi hành:
a. tại Việt Nam:
(i) đối với các khoản thuế khấu trừ tại nguồn, liên
quan đến các khoản thu nhập chịu thuế được trả hoặc bị khấu trừ thuế vào ngày hoặc
sau ngày 01 tháng 01 của năm dương lịch tiếp sau năm gửi thông báo kết thúc
hiệu lực; và (ii) đối với các khoản thuế khác, liên quan đến thu nhập, lợi nhuận
hoặc thu nhập từ chuyển nhượng tài sản phát sinh vào ngày hoặc sau ngày 01
tháng 01 của năm dương lịch tiếp sau năm dương lịch gửi thông báo kết thúc hiệu
lực.
b. tại Vương quốc Ô-man:
(i) đối với các khoản thuế khấu trừ tại nguồn: đối với
các khoản được trả hoặc bị khấu trừ thuế vào ngày hoặc sau ngày 01 tháng 01 của
năm dương lịch ngay sau năm gửi thông báo kết thúc hiệu lực; và (ii) đối với các
khoản thuế khác: đối với bất kỳ năm tính thuế nào bắt đầu vào ngày hoặc sau ngày
01 tháng 01 của năm dương lịch ngay sau năm gửi thông báo kết thúc hiệu lực.
ĐỂ LÀM BẰNG những người có tên dưới đây, được sự ủy
quyền hợp thức của Chính phủ nước mình, đã ký vào Hiệp định này.
Hiệp định làm tại Hà Nội ngày 18 tháng 4 năm 2008, tương
ứng với ngày 11/4/1429 AH, thành hai bản, mỗi bản bằng tiếng Việt, tiếng A-rập
và tiếng Anh, tất cả các văn bản đều có giá trị pháp lý ngang nhau. Trường hợp
có sự giải thích khác nhau về Hiệp định, văn bản tiếng Anh sẽ có giá trị quyết
định./.
THAY MẶT CHÍNH PHỦ
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
BỘ TRƯỞNG TÀI CHÍNH
Vũ Văn Ninh
|
THAY MẶT CHÍNH PHỦ
VƯƠNG QUỐC Ô-MAN
BỘ TRƯỞNG KINH TẾ QUỐC GIA
KIÊM GIÁM SÁT BỘ TÀI CHÍNH
Ahmed Macki
|