HIỆP ĐỊNH
SỐ 07/LPQT NGÀY 14 THÁNG 2 NĂM 2002 GIỮA CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM VÀ CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HOÀ AI-XƠ-LEN VỀ TRÁNH
ĐÁNH THUẾ HAI LẦN VÀ NGĂN NGỪA VIỆC TRỐN LẬU THUẾ ĐỐI VỚI CÁC LOẠI THUẾ
ĐÁNH VÀO THU NHẬP
(Có
hiệu lực từ ngày 27 tháng 12 năm 2002)
Chính phủ nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hoà Ai-xơ-len, mong muốn ký kết một
Hiệp định về việc tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối
với các loại thuế đánh vào thu nhập,
Đã thoả thuận dưới đây:
Điều 1: Phạm
vi áp dụng
Hiệp định này được áp dụng cho
các đối tượng là những đối tượng cư trú của một hoặc của cả hai nước ký kết.
Điều 2.: Các
loại thuế bao gồm trong Hiệp định
1. Hiệp định này áp dụng đối với
các loại thuế do một Nước ký kết hoặc các cơ quan chính quyền cơ sở hay chính
quyền địa phương của Nước đó, đánh vào thu nhập, bất kể hình thức áp dụng của
các loại thuế đó như thế nào.
2. Tất cả các loại thuế thu trên
tổng thu nhập, hoặc những phần của thu nhập bao gồm các loại thuế đối với lợi
nhuận từ việc chuyển nhượng động sản hoặc bất động sản, các loại thuế đánh trên
tổng số tiền lương hoặc tiền công do xí nghiệp trả, cũng như các loại thuế đánh
vào phần vốn tăng thêm đều được coi là thuế đánh vào thu nhập.
3. Những loại thuế hiện hành
được áp dụng trong Hiệp định này là:
a) Tại Việt Nam:
(i) Thuế thu nhập cá nhân;
(ii) Thuế lợi tức; và
(iii) Thuế chuyển lợi nhuận ra
nước ngoài;
(dưới đây được gọi là "thuế
Việt Nam");
b) Tại Ai-xơ-len:
(i) Thuế thu nhập quốc gia;
(ii) Thuế thu nhập bổ sung;
(iii) Thuế thu nhập địa phương;
và
(iv) Thuế đánh vào thu nhập của
các tổ chức ngân hàng;
(dưới đây được gọi là "thuế
Ai-xơ-len").
4. Hiệp định này cũng sẽ được áp
dụng cho các loại thuế có tính chất tương tự hay về căn bản giống như các loại
thuế được ban hành sau ngày ký Hiệp định này để bổ sung, hoặc thay thế các loại
thuế hiện hành. Các nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết sẽ thông
báo cho nhau biết những thay đổi cơ bản trong các luật thuế của từng nước.
Điều 3 : Các
định nghĩa chung
1. Theo nội dung của Hiệp định
này, trừ trường hợp ngữ cảnh đòi hỏi có sự giải thích khác:
a) Từ "Việt Nam" có
nghĩa là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; khi dùng theo nghĩa địa lý,
từ đó bao gồm toàn lãnh thổ quốc gia Việt Nam, kể cả lãnh hải Việt Nam, và mọi
vùng ở ngoài và đi liền với lãnh hải Việt Nam mà theo luật pháp Việt Nam và phù
hợp với luật pháp quốc tế, Việt Nam có quyền chủ quyền đối với việc thăm dò và
khai thác tài nguyên thiên nhiên của đáy biển, lòng đất dưới đáy biển và khối
nước ở trên;
b) Từ "Ai-xơ-len" có
nghĩa là nước Cộng hoà Ai-xơ-len và, khi dùng theo nghĩa địa lý, từ đó bao gồm
nước Cộng hoà Ai-xơ-len kể cả lãnh hải Ai-xơ-len và mọi vùng ở ngoài lãnh hải
mà theo luật pháp quốc tế, Ai-xơ-len có quyền tài phán hay chủ quyền đối với
đáy biển, lòng đất dưới đáy biển và khối nước ở trên, và tài nguyên thiên nhiên
ở đó;
c) Thuật ngữ "Nước ký
kết" và "Nước ký kết kia" có nghĩa là Việt Nam hay Ai-xơ-len tuỳ theo ngữ cảnh đòi hỏi;
d) Thuật ngữ "đối
tượng" bao gồm cá nhân, công ty và bất cứ tổ chức nhiều đối tượng nào khác;
e) Thuật ngữ "công ty"
để chỉ các tổ chức công ty hoặc bất kỳ một thực thể nào được coi là tổ chức
công ty dưới giác độ thuế;
f) Thuật ngữ "xí nghiệp của
Nước ký kết" và "xí nghiệp của Nước ký kết kia" theo thứ tự có
nghĩa là một xí nghiệp được điều hành bởi đối tượng cư trú của một Nước ký kết
và một xí nghiệp được điều hành bởi đối tượng cư trú của Nước ký kết kia;
g) Thuật ngữ "các đối tượng
mang quốc tịch" có nghĩa:
(i) Các cá nhân mang quốc tịch
một Nước ký kết;
(ii) Các pháp nhân, tổ chức hùn
vốn và hiệp hội có tư cách được chấp nhận theo các luật có hiệu lực tại một
Nước ký kết;
h) Thuật ngữ "vận tải quốc
tế" có nghĩa là bất cứ sự vận chuyển nào bằng tầu thuỷ hoặc máy bay được
thực hiện bởi một xí nghiệp của một Nước ký kết, trừ trường hợp khi chiếc tàu
thuỷ hoặc máy bay đó chỉ hoạt động giữa những địa điểm trong Nước ký kết kia; và
i) Thuật ngữ "nhà chức
trách có thẩm quyền" có nghĩa:
(i) Trong trường hợp đối với
Việt Nam, là Bộ trưởng Bộ Tài chính hoặc người đại diện được uỷ quyền của Bộ
trưởng Bộ Tài chính; và
(ii) Trong trường hợp đối với
Ai-xơ-len, là Bộ trưởng Bộ Tài chính hoặc người đại diện được uỷ quyền của Bộ
trưởng Bộ Tài chính.
2. Trong khi một Nước ký kết áp
dụng Hiệp định này tại bất kỳ thời điểm nào, bất kỳ thuật ngữ chưa được định
nghĩa trong Hiệp định này sẽ có nghĩa vào thời điểm đó theo như định nghĩa
trong luật của Nước đó đối với các loại thuế mà Hiệp định này áp dụng, bất kỳ
nghĩa nào theo các luật thuế được áp dụng sẽ có giá trị cao hơn nghĩa của thuật
ngữ đó theo các luật khác của nước đó, trừ trường hợp ngữ cảnh đòi hỏi có sự
giải thích khác.
Điều 4: Đối
tượng cư trú
1. Theo nghĩa của Hiệp định này,
thuật ngữ "đối tượng cư trú của một Nước ký kết" có nghĩa là bất cứ
đối tượng nào, mà theo các luật của Nước đó, là đối tượng chịu thuế căn cứ vào
nhà ở, nơi cư trú, trụ sở điều hành, trụ sở thành lập, trụ sở đăng ký hoặc các
tiêu chuẩn khác có tính chất tương tự. Tuy nhiên, thuật ngữ này không bao gồm
các đối tượng là đối tượng chịu thuế tại Nước đó chỉ đối với thu nhập từ các
nguồn tại Nước đó.
2. Trường hợp theo những quy
định tại khoản 1, khi một cá nhân là đối tượng cư trú của cả hai Nước ký kết,
thì thân phận cư trú của cá nhân đó sẽ được xác định như sau:
a) Cá nhân đó sẽ được coi là đối
tượng cư trú chỉ của Nước mà tại đó cá nhân đó có nhà ở thường trú. Nếu cá nhân
đó có nhà ở thường trú ở cả hai Nước, cá nhân đó sẽ được coi là đối tượng cư
trú chỉ của Nước mà cá nhân đó có các quan hệ cá nhân và kinh tế chặt chẽ hơn
(trung tâm của các quyền lợi chủ yếu);
b) Nếu như không thể xác định
được Nước mà ở đó, cá nhân đó có trung tâm các quyền lợi chủ yếu, hoặc nếu cá
nhân đó không có nhà ở thường trú ở cả hai Nước thì cá nhân đó sẽ được coi là
đối tượng cư trú chỉ của Nước mà cá nhân đó thường sống;
c) Nếu cá nhân đó thường sống ở
cả hai Nước hay không sống thường xuyên ở Nước nào thì cá nhân đó sẽ được coi
là đối tượng cư trú chỉ của Nước mà cá nhân đó mang quốc tịch;
d) Nếu cá nhân đó là đối tượng
mang quốc tịch của cả hai Nước hay không mang quốc tịch của cả hai Nước này thì
các nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết sẽ giải quyết vấn đề đó
bằng thoả thuận chung.
3. Trường hợp do những quy định
tại khoản 1, khi một đối tượng không phải là cá nhân, là đối tượng cư trú của
cả hai Nước ký kết, lúc đó, đối tượng trên sẽ được coi là đối tượng cư trú của
Nước có trụ sở đăng ký của đối tượng đó. Tuy nhiên, trường hợp đối tượng đó có
trụ sở đăng ký tại một trong hai Nước và trụ sở điều hành thực tế của đối tượng
đó nằm tại Nước kia, khi đó nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết sẽ
xác định Nước mà đối tượng đó sẽ là đối tượng cư trú theo nghĩa của Hiệp định
này bằng thoả thuận chung. Trong trường hợp không đạt được thoả thuận chung như
trên, thì theo nội dung của Hiệp định này, tại mỗi Nước ký kết đối tượng đó sẽ
không được coi là đối tượng cư trú của Nước ký kết kia.
Điều 5: Cơ
sở thường trú
1. Theo nội dung của Hiệp định
này, thuật ngữ "cơ sở thường trú" có nghĩa là một cơ sở kinh doanh cố
định mà qua đó xí nghiệp thực hiện toàn bộ hay một phần hoạt động kinh doanh
của mình.
2. Thuật ngữ "cơ sở thường
trú" chủ yếu bao gồm:
a) Trụ sở điều hành;
b) Chi nhánh;
c) Văn phòng;
d) Nhà máy;
e) Xưởng;
f) Mỏ, giếng dầu hoặc khí, mỏ đá
hoặc bất kỳ địa điểm khai thác tài nguyên thiên nhiên nào khác; và
g) Công trình lắp đặt, hoặc
thiết bị được sử dụng để thăm dò các nguồn tài nguyên thiên nhiên ngoài khơi.
3. Thuật ngữ "cơ sở thường
trú" cũng bao gồm:
a) Một địa điểm xây dựng, công
trình xây dựng lắp ráp hoặc lắp đặt hoặc các hoạt độnh giám sát có liên quan,
nhưng chỉ khi địa điểm, công trình hoặc các hoạt động đó kéo dài trong giai
đoạn hơn sáu tháng;
b) Việc cung ứng các dịch vụ,
bao gồm cả dịch vụ tư vấn do một xí nghiệp thực hiện thông qua người làm công
cho xí nghiệp hay một đối tượng khác được xí nghiệp uỷ nhiệm thực hiện tại Nước
ký kết kia, nhưng chỉ trong trường hợp những hoạt động mang tính chất nói trên
(trong cùng một dự án hoặc một dự án có liên quan) kéo dài tại một Nước trong
khoảng thời gian hay nhiều khoảng thời gian gộp lại hơn sáu tháng trong bất kỳ
giai đoạn 12 tháng.
4. Mặc dù có những quy định trên
của Điều này, thuật ngữ "cơ sở thường trú" sẽ được coi là không bao
gồm:
a) Việc sử dụng các phương tiện
riêng cho mục đích lưu kho hoặc trưng bày hàng hoá hay tài sản của xí nghiệp;
b) Việc duy trì kho hàng hoá
hoặc tài sản của xí nghiệp chỉ với mục đích lưu kho hoặc trưng bày;
c) Việc duy trì kho hàng hoá
hoặc tài sản của xí nghiệp với mục đích chỉ để cho xí nghiệp khác gia công;
d) Việc duy trì một cơ sở kinh
doanh cố định chỉ nhằm mục đích mua hàng hoá hoặc tài sản hay để thu thập thông
tin cho xí nghiệp đó;
e) Việc duy trì một cơ sở kinh
doanh cố định chỉ với mục đích tiến hành bất kỳ hoạt động nào khác mang tính
chất phụ trợ hoặc chuẩn bị cho xí nghiệp;
f) Việc duy trì một cơ sở kinh
doanh cố định chỉ với mục đích kết hợp bất kỳ hoạt động nào nêu từ điểm (a) đến
điểm (e), với điều kiện toàn bộ hoạt động của cơ sở kinh doanh cố định từ sự
kết hợp trên mang tính chất chuẩn bị hay phụ trợ.
5. Mặc dù có những quy định tại
khoản 1 và 2, trường hợp một đối tượng - trừ đại lý có tư cách độc lập được
điều chỉnh bởi khoản 7 - hoạt động tại một Nước ký kết thay mặt cho một xí
nghiệp của Nước ký kết kia, xí nghiệp đó sẽ được coi là có cơ sở thường trú tại
Nước thứ nhất đối với các hoạt động mà đối tượng này thực hiện cho xí nghiệp,
nếu đối tượng đó:
a) Có và thường xuyên thực hiện
tại Nước thứ nhất thẩm quyền ký kết hợp đồng đứng tên xí nghiệp, trừ khi các
hoạt động của đối tượng này chỉ giới hạn trong phạm vi các hoạt động nêu tại
khoản 4 mà những hoạt động đó nếu được thực hiện thông qua một cơ sở kinh doanh
cố định sẽ không làm cho cơ sở kinh doanh cố định này trở thành một cơ sở
thường trú theo những quy định tại khoản đó; hay
b) Không có thẩm quyền trên,
nhưng thường xuyên duy trì tại Nước thứ nhất một kho hàng hoá hoặc tài sản, từ
đó đối tượng trên thường xuyên thực hiện việc giao hàng hoá hoặc tài sản đại
diện cho xí nghiệp.
6. Mặc dù có những quy định trên
của Điều này, một tổ chức bảo hiểm của một Nước ký kết, trừ trường hợp tái bảo
hiểm, sẽ được coi là có cơ sở thường trú tại Nước ký kết kia nếu tổ chức đó thu
phí bảo hiểm hoặc bảo hiểm các rủi ro tại Nước kia thông qua một đối tượng
không phải là một đại lý có tư cách độc lập được điều chỉnh bởi khoản 7.
7. Một xí nghiệp sẽ không được
coi là có cơ sở thường trú ở một Nước ký kết chỉ vì xí nghiệp đó chỉ thực hiện
hoạt động kinh doanh tại Nước kia thông qua một đại lý môi giới, một đại lý hoa
hồng hoặc bất kỳ một đại lý nào khác có tư cách độc lập, với điều kiện những
đối tượng này hoạt động trong khuôn khổ kinh doanh thông thường của họ. Tuy
nhiên, khi các hoạt động của đại lý đó giành toàn bộ hay hầu như toàn bộ cho
hoạt động đại diện cho xí nghiệp đó, đại lý đó sẽ không được coi là đại lý có
tư cách độc lập theo nghĩa của khoản này.
8. Việc một công ty là đối tượng
cư trú của một Nước ký kết kiểm soát hoặc chịu sự kiểm soát bởi một công ty là
đối tượng cư trú của Nước ký kết kia hoặc tiến hành hoạt động kinh doanh tại
Nưóc kia (có thể thông qua một cơ sở thường trú hay dưới hình thức khác), sẽ
không làm cho bất kỳ công ty nào trở thành cơ sở thường trú của công ty kia.
Điều 6:
Thu nhập từ bất động sản
1. Thu nhập mà một đối tượng cư
trú tại một Nước ký kết thu được từ bất động sản (kể cả thu nhập từ nông nghiệp
hoặc lâm nghiệp) nằm tại Nước ký kết kia thì có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
2. Thuật ngữ "bất động
sản" sẽ có nghĩa theo như luật của Nước ký kết nơi có bất động sản đó.
Thuật ngữ này trong mọi trường hợp sẽ bao gồm cả những phần tài sản phụ kèm
theo bất động sản, đàn gia súc và thiết bị sử dụng trong nông nghiệp và lâm
nghiệp, các quyền lợi được áp dụng theo như những quy định tại luật chung về
điền sản, quyền sử dụng bất động sản và các quyền được hưởng các khoản thanh
toán thay đổi hay cố định trả cho việc khai thác hay quyền khai thác các mỏ,
nguồn khoáng sản và các tài nguyên thiên nhiên khác; các tầu thuỷ và máy bay sẽ
không được coi là bất động sản.
3. Những quy định tại khoản 1 sẽ
áp dụng đối với thu nhập phát sinh từ việc trực tiếp sử dụng, cho thuê hay sử
dụng các loại bất động sản dưới bất kỳ hình thức nào khác.
4. Những quy định tại khoản 1 và
3 cũng sẽ áp dụng cho thu nhập từ bất động sản của một xí nghiệp và đối với thu
nhập từ bất động sản được sử dụng để thực hiện các hoạt động dịch vụ cá nhân
độc lập.
Điều 7: Lợi
tức doanh nghiệp
1. Lợi tức của một xí nghiệp của
một Nước ký kết sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó, trừ trường hợp xí nghiệp có
tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước ký kết kia thông qua một cơ sở thường
trú tại Nước kia. Nếu xí nghiệp có hoạt động kinh doanh theo cách trên, thì các
khoản lợi tức của xí nghiệp có thể bị đánh thuế tại nước kia, nhưng chỉ trên
phần lợi tức phân bổ cho:
a) Cơ sở thường trú đó;
b) Việc bán tại Nước kia các
hàng hoá hoặc tài sản cùng loại tương tự với các loại hàng hoá hoặc tài sản
được bán thông qua cơ sở thường trú đó; hoặc
c) Các hoạt động kinh doanh khác
được thực hiện tại Nước kia cùng loại hay tương tự với những hoạt động được thực
hiện thông qua cơ sở thường trú đó.
2. Thể theo các quy định tại
khoản 3, khi một xí nghiệp của một Nước ký kết tiến hành hoạt động kinh doanh
tại Nước ký kết kia, thông qua một cơ sở thường trú tại Nước kia, thì tại mỗi
Nước ký kết sẽ có những khoản lợi tức được phân bổ cho cơ sở thường trú nói
trên mà cơ sở đó có thể thu được, nếu nó là một xí nghiệp riêng, tách biệt cùng
tham gia vào các hoạt động như nhau hay tương tự trong cùng điều kiện như nhau
hay tương tự và có quan hệ hoàn toàn độc lập với xí nghiệp mà cơ sở đó được coi
là cơ sở thường trú.
3. Trong khi xác định lợi tức
của một cơ sở thường trú, cơ sở này sẽ được phép khấu trừ các khoản chi phí
phát sinh phục vụ cho mục đích kinh doanh của cơ sở thường trú này, bao gồm cả
chi phí điều hành và chi phí quản lý chung cho dù chi phí đó phát sinh tại Nước
nơi cơ sở thường trú đó đóng hoặc ở bất kỳ nơi nào khác. Tuy nhiên, sẽ không
cho phép tính vào các khoản chi phí được trừ bất kỳ khoản tiền nào, nếu có, do
cơ sở thường trú trả cho (trừ khi là khoản thanh toán các chi phí thực tế) trụ
sở chính của xí nghiệp hay bất kỳ văn phòng nào khác của xí nghiệp dưới hình
thức tiền bản quyền, các khoản lệ phí hay bất kỳ khoản thanh toán nào tương tự
khác để được phép sử dụng bằng phát minh hay các quyền khác, hay dưới hình thức
tiền hoa hồng trả cho việc thực hiện các dịch vụ riêng biệt hay trả cho công
việc quản lý, hay dưới hình thức lãi tính trên tiền cho cơ sở thường trú vay,
trừ trường hợp tiền lãi của cơ sở ngân hàng. Cũng tương tự, trong khi xác định
lợi tức của cơ sở thường trú sẽ không tính đến các khoản tiền (trừ các khoản
tiền thanh toán các chi phí (thực tế) do cơ sở thường trú thu từ trụ sở chính
của xí nghiệp hay bất kỳ văn phòng khác của xí nghiệp, dưới hình hình thức tiền
bản quyền, các khoản lệ phí hay các khoản thanh toán tương tự để cho phép sử
dụng bằng phát minh hay các quyền khác, hay dưới hình thức tiền hoa hồng trả
cho việc thực hiện các dịch vụ riêng biệt hay trả cho công việc quản lý, hay
dưới hình thức lãi tính trên tiền cho trụ sở chính của xí nghiệp hay bất kỳ văn
phòng nào của xí nghiệp vay, trừ trường hợp lãi từ tiền cho vay của cơ sở ngân
hàng.
4. Không nội dung nào tại Điều
này ảnh hưởng tới việc áp dụng bất kỳ luật nào của một Nước ký kết liên quan
tới việc xác định nghĩa vụ thuế của một đối tượng trong các trường hợp mà thông
tin cung cấp cho nhà chức trách có thẩm quyền của Nước đó không đủ để có thể
xác định các khoản lợi tức được phân bổ cho cơ sở thường trú, với điều kiện là
luật này sẽ được áp dụng, trong phạm vi thông tin cung cấp cho nhà chức trách
có thẩm quyền cho phép, phù hợp với các nguyên tắc tại Điều này.
5. Trường hợp tại một Nước ký
kết vẫn thường xác định các khoản lợi tức phân bổ cho cơ sở thường trú trên cơ
sở phân chia tổng lợi tức của xí nghiệp thành các thành phần khác nhau, thì
không có nội dung nào tại khoản 2 ngăn cản Nước ký kết đó xác định lợi tức chịu
thuế theo cách phân chia theo thông lệ đó; tuy nhiên, phương pháp phân chia
được áp dụng như vậy phải đưa ra kết quả phù hợp với những nguyên tắc của Điều
này.
6. Theo nội dung những khoản
trên, các khoản lợi tức được phân bổ cho cơ sở thường trú sẽ được xác định theo
cùng một phương pháp qua các năm trừ khi có đủ lý do chính đáng để thay đổi
phương pháp tính.
7. Khi lợi tức bao gồm các khoản
thu nhập được đề cập riêng tại các Điều khác của Hiệp định này, thì các quy
định chung của các Điều đó không bị ảnh hưởng bởi những quy định tại Điều này.
Điều 8:
Vận tải hàng không và vận tải biển
1. Lợi tức do một xí nghiệp của
một Nước ký kết thu được từ hoạt động của các tàu thuỷ hoặc máy bay trong vận
tải quốc tế sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước ký kết đó.
2. Những quy định tại khoản 1
cũng sẽ áp dụng cho các khoản lợi tức thu được từ việc tham gia vào một tổ hợp,
một liên doanh hay một hãng hoạt động quốc tế.
Điều 9.:
Những xí nghiệp liên kết
Khi:
a) Một xí nghiệp của một Nước ký
kết tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào việc quản lý, kiểm soát hoặc góp vốn
vào một xí nghiệp của Nước ký kết kia, hoặc
b) Các đối tượng cùng tham gia
trực tiếp hoặc gián tiếp vào việc quản lý, kiểm soát hoặc góp vốn vào một xí
nghiệp của một Nước ký kết và vào một xí ngiệp của Nước ký kết kia, và trong cả
hai trường hợp, trong mối quan hệ tài chính và thương mại giữa hai xí nghiệp
trên có những điều kiện được đưa ra hoặc áp đặt khác với điều kiện được đưa ra
giữa các xí nghiệp độc lập, lúc đó mọi khoản lợi tức mà một xí nghiệp có thể
thu được nếu không có những điều kiện trên nhưng nay vì những điều kiện này mà
xí nghiệp đó không thu được, sẽ vẫn bị một Nước ký kết tính vào các khoản lợi
tức của xí nghiệp đó và bị đánh thuế tương ứng.
Điều 10.:Tiền
lãi cổ phần
1. Tiền lãi cổ phần do một công
ty là đối tượng cư trú của một Nước ký kết trả cho một đối tượng cư trú của
Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
2. Tuy nhiên, những khoản tiền
lãi cổ phần đó cũng có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi công ty trả tiền
lãi cổ phần là đối tượng cư trú và theo các luật của Nước đó, nhưng nếu đối
tượng nhận là đối tượng thực hưởng tiền lãi cổ phần thì thuế được tính khi đó
sẽ không vượt quá:
a) 10 phần trăm tổng số tiền lãi
cổ phần nếu đối tượng thực hưởng là một công ty (không phải là một tổ chức hùn
vốn) nắm giữ trực tiếp ít nhất 25 phần trăm vốn của công ty trả lãi cổ phần;
b) 15 phần trăm tổng số tiền lãi
cổ phần trong tất cả các trường hợp khác.
Các nhà chức trách có thẩm quyền
của hai Nước ký kết sẽ xây dựng phương thức áp dụng giới hạn này bằng thoả
thuận chung.
Khoản này sẽ không ảnh hưởng tới
việc đánh thuế công ty đối với lợi tức dùng để chia lãi cổ phần.
3. Mặc dù các quy định tại điểm
(a) khoản 2, chừng nào theo các luật của một Nước ký kết tiền lãi cổ phần do
một công ty là đối tượng cư trú của Nước đó trả có thể được khấu trừ vào lợi
tức chịu thuế hoặc có thể được chuyển sang năm sau như lỗ trong hoạt động của
công ty đó dưới giác độ thuế thu nhập, tiền lãi cổ phần do công ty đó trả cho
một đối tượng cư trú của Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết
thứ nhất và theo các luật của Nước đó, nhưng nếu đối tượng nhận là đối tượng thực
hưởng tiền lãi cổ phần, thuế được tính khi đó sẽ không vượt quá 15 phần trăm
đối với phần tiền lãi cổ phần được khấu trừ vào lợi tức chịu thuế của công ty
hoặc có thể được chuyển sang năm sau như một khoản lỗ hoạt động của công ty.
4. Thuật ngữ "tiền lãi cổ
phần" được sử dụng trong Điều này có nghĩa là thu nhập từ cổ phần, hoặc
các quyền khác, không kể các khoản nợ, được hưởng lợi tức, và thu nhập từ các
quyền lợi công ty khác phải chịu thuế giống như thu nhập từ cổ phần theo các
luật của Nước nơi công ty chia lãi cổ phần là đối tượng cư trú.
5. Những quy định tại khoản 1, 2
và 3 sẽ không áp dụng trong trường hợp đối tượng thực hưởng các khoản tiền lãi
cổ phần là đối tượng cư trú của một Nước ký kết có tiến hành hoạt động kinh
doanh tại Nước ký kết kia, nơi công ty trả tiền lãi cổ phần là đối tượng cư trú
thông qua một cơ sở thường trú nằm tại Nước đó, hay tiến hành tại Nước kia các
hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập thông qua một cơ sở cố định tại Nước kia, và
quyền nắm giữ các cổ phần được hưởng tiền lãi cổ phần, có sự liên hệ thực tế
đến cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định nói trên. Trong trường hợp như vậy các
quy định tại Điều 7 hoặc Điều 14, tuỳ từng trường hợp, sẽ được áp dụng.
6. Khi một công ty là đối tượng
cư trú của một Nước ký kết có lợi tức hay thu nhập phát sinh từ Nước ký kết kia
thì Nước kia có thể không đánh thuế đối với những khoản tiền lãi cổ phần do
công ty này trả, trừ trường hợp những khoản tiền lãi cổ phần do công ty này
trả, trừ trường hợp khoản tiền lãi cổ phần này được trả cho đối tượng cư trú
của Nước ký kết kia, hoặc quyền nắm giữ cổ phần có các khoản tiền lãi cổ phần
được trả có sự liên hệ thực tế với một cơ sở thường trú hay một cơ sở cố định
nằm tại Nước kia, đồng thời Nước kia cũng không buộc các khoản lợi tức không
chia của công ty trên phải chịu thuế đối với những khoản lợi tức không chia của
công ty, cho dù những khoản tiền lãi cổ phần được chia hoặc các khoản lợi tức
không chia bao gồm toàn bộ hay một phần các khoản lợi tức hoặc thu nhập phát
sinh tại Nước kia.
Điều 11:
Lãi từ tiền cho vay
1. Lãi từ tiền cho vay phát sinh
tại một Nước ký kết và được trả cho đối tượng cư trú của Nước ký kết kia có thể
bị đánh thuế tại Nước kia.
2. Tuy nhiên, khoản tiền lãi này
cũng có thể bị đánh thuế ở Nước ký kết nơi phát sinh lãi và theo các luật của
Nước đó, nhưng nếu người nhận là đối tượng thực hưởng các khoản tiền lãi này
thì mức thuế khi đó được tính sẽ không vượt quá 10 phần trăm của tổng số khoản
lãi từ tiền cho vay. Các nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết sẽ
xây dựng phương thức áp dụng giới hạn bằng thoả thuận chung.
3. Mặc dù có những quy định tại
khoản 1 và 2,
a) Lãi từ tiền cho vay phát sinh
tại Việt Nam sẽ được miễn thuế Việt Nam nếu số tiền lãi đó được trả cho:
(i) Nhà nước Ai-xơ-len, một cơ
quan chính quyền cơ sở, chính quyền địa phương hoặc một tổ chức hợp pháp của
Nhà nước đó,
(ii) Ngân hàng Trung ương
Ai-xơ-len;
(iii) Quỹ Vay Công nghiệp hoặc
Quỹ phát triển Công nghiệp, hoặc bất kỳ tổ chức tương tự nào khác được nhà chức
trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết thoả thuận trong từng thời kỳ;
(iv) Bất kỳ tổ chức nào khác
tương tự như những tổ chức được đề cập tới tại điểm (iii) được nhà chức trách
có thẩm quyền của hai Nước ký kết thoả thuận trong từng thời kỳ;
b) Lãi từ tiền cho vay phát sinh
tại Ai-xơ-len sẽ được miễn thuế Ai-xơ-len nếu lãi từ tiền cho vay được trả cho:
(i) Chính phủ Việt Nam, một cơ quan chính quyền cơ sở, chính quyền địa phương hoặc một tổ chức hợp pháp của
Chính phủ đó;
(ii) Ngân hàng Nhà nước Việt Nam;
(iii) Một tổ chức hợp pháp, hoặc
bất kỳ tổ chức nào khác có vốn thuộc sở hữu toàn bộ hay chủ yếu của Chính phủ
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được nhà chức trách có thẩm quyền của
hai Nước ký kết thoả thuận trong từng thời kỳ.
4. Thuật ngữ "lãi từ tiền
cho vay" dùng ở Điều này có nghĩa là thu nhập từ các khoản cho vay dưới
bất kỳ dạng nào, có hay không được đảm bảo bằng thế chấp và có hoặc không có
quyền được hưởng lợi tức của người đi vay, và đặc biệt là khoản thu nhập từ chứng
khoán của Chính phủ và thu nhập từ trái phiếu hoặc trái phiếu thông thường, kể
cả các khoản tiền thưởng và giải thưởng kèm theo các khoản chứng khoán, trái
phiếu hoặc trái phiếu thông thường đó. Tiền phạt thanh toán chậm sẽ không được
coi là lãi từ tiền cho vay theo nội dung của Điều này.
5. Những quy định tại khoản 1, 2
và 3 sẽ không áp dụng nếu đối tượng thực hưởng các khoản lãi từ tiền cho vay là
đối tượng cư trú của một Nước ký kết, tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước
ký kết kia nơi phát sinh các khoản lãi từ tiền cho vay thông qua một cơ sở
thường trú nằm tại Nước kia hoặc thực hiện tại Nước kia các hoạt động dịch vụ
cá nhân độc lập thông qua một cơ sở cố định tại Nước kia và khoản nợ có các
khoản tiền lãi được trả có sự liên hệ thực tế với (a) cơ sở thường trú hay cơ
sở cố định đó hoặc (b) với hoạt động kinh doanh nêu tại điểm (c) khoản 1 Điều
7. Trong trường hợp này, các quy định tại Điều 7 hoặc Điều 14, tuỳ từng trường
hợp, sẽ được áp dụng.
6. Lãi từ tiền cho vay sẽ được
coi là phát sinh tại một Nước ký kết khi người trả chính là Nhà nước đó, chính
quyền cơ sở, cơ quan chính quyền địa phương, hoặc đối tượng cư trú của Nước đó.
Tuy nhiên, khi đối tượng trả lãi có ở một Nước ký kết một cơ sở thường trú hay
một cơ sở cố định liên quan đến các khoản nợ đã phát sinh các khoản lãi này, và
khoản tiền lãi đó do cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó chịu thì dù đối
tượng có là đối tượng cư trú của một Nước ký kết hay không, khoản tiền lãi này
sẽ vẫn được coi là phát sinh ở Nước nơi cơ sở thường trú hay cở sở cố định đó
đóng.
7. Trường hợp do mối quan hệ đặc
biệt giữa đối tượng trả lãi và đối tượng hưởng lãi hoặc giữa cả hai đối tượng
trên và các đối tượng khác, khoản lãi tiền cho vay được trả cho khoản nợ có
liên quan, vượt quá khoản tiền được thoả thuận giữa đối tượng đi vay và đối
tượng thực hưởng khi không có mối quan hệ này, thì khi đó, các quy định tại
Điều này sẽ chỉ áp dụng đối với các khoản tiền thanh toán khi không có mối quan
hệ đặc biệt trên. Trong trường hợp này, phần thanh toán vượt sẽ bị đánh thuế theo
các luật của từng Nước ký kết có xem xét tới các quy định khác của Hiệp định
này.
Điều 12.:Tiền
bản quyền
1. Tiền bản quyền phát sinh tại
một Nước ký kết và được trả cho đối tượng cư trú của Nước ký kết kia có thể bị
đánh thuế tại Nước ký kết kia.
2. Tuy nhiên, những khoản tiền
bản quyền đó cũng có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi phát sinh, và theo
luật của Nước đó, nhưng nếu đối tượng nhận là đối tượng thực hưởng tiền bản
quyền thì mức thuế được tính khi đó sẽ không vượt quá 10 phần trăm tổng số tiền
bản quyền.
3. Thuật ngữ "tiền bản
quyền" được sử dụng trong Điều này có nghĩa là các khoản thanh toán ở bất
kỳ dạng nào được trả cho việc sử dụng, hoặc quyền sử dụng, bản quyền tác giả
của một tác phẩm văn học, nghệ thuật hay khoa học, kể cả phim điện ảnh hoặc
phim hoặc các loại băng dùng cho phát thanh hoặc truyền hình, bằng phát minh
nhãn hiệu thương mại, thiết kế hoặc mẫu, đồ án, công thức hoặc quy trình bí
mật, hệ thống máy tính hay phần mềm mạng máy tính, hay trả cho việc sử dụng,
hay quyền sử dụng thiết bị công nghiệp, thương mại hoặc khoa học, hay trả cho
thông tin liên quan đến các kinh nghiệm công nghiệp thương mại hoặc khoa học.
4. Những quy định tại khoản 1 và
2 sẽ không áp dụng nếu đối tượng thực hưởng các khoản tiền bản quyền, là đối
tượng cư trú của một Nước ký kết, tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước ký
kết kia nơi có khoản tiền bản quyền phát sinh, thông qua một cơ sở thường trú
nằm tại Nước kia, và quyền hay tài sản có các khoản tiền bản quyền được trả có
sự liên hệ thực tế với (a) cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó hoặc (b) các
hoạt động kinh doanh được được nêu tại điểm c khoản 1 Điều 7. Trong trường hợp
này các quy định tại Điều 7 hoặc Điều 14, tuỳ từng trường hợp, sẽ được áp dụng.
5. Tiền bản quyền sẽ được coi là
phát sinh tại một Nước ký kết khi đối tượng trả tiền bản quyền chính Nhà nước
đó, chính quyền cơ sở, cơ quan chính quyền địa phương hoặc là đối tượng cư trú
của Nước đó. Tuy nhiên, khi một đối tượng trả tiền bản quyền, là hay không là
đối tượng cư trú của một Nước ký kết, có ở một Nước ký kết một cơ sở thường trú
hay một cơ sở cố định liên quan đến trách nhiệm trả tiền bản quyền đã phát sinh
và tiền bản quyền đó do cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó chịu thì khoản
tiền bản quyền này sẽ vẫn được coi là phát sinh ở Nước nơi cơ sở thường trú hay
cơ sở cố định đó đóng.
6. Trường hợp vì mối quan hệ đặc
biệ giữa đối tượng trả và đối tượng thực hưởng hoặc giữa cả hai đối tượng trên
với các đối tượng khác, khoản tiền bản quyền được trả cho việc sử dụng, quyền
hoặc thông tin, vì bất cứ lý do gì, vượt quá khoản tiền được thoả thuận giữa
đối tượng trả tiền và đối tượng thực hưởng khi không có mối quan hệ đặc biệt
này, thì các quy định của Điều này sẽ chỉ áp dụng đối với khoản tiền thanh toán
khi không có mối quan hệ trên. Trong trường hợp này, phần thanh toán vượt sẽ bị
đánh thuế theo các luật của từng Nước ký kêt có xem xét đến các quy định khác
của Hiệp định này.
Điều 13:
Lợi tức từ chuyển nhượng tài sản
1. Lợi tức do một đối tượng cư
trú của một Nước ký kết nhận được từ việc chuyển nhượng bất động sản được nêu
tại Điều 6 và nằm tại Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
2. Lợi tức từ việc chuyển nhượng
động sản là một phần của tài sản kinh doanh của một cơ sở thường trú mà một xí
nghiệp của một Nước ký kết có tại Nước ký kết kia hoặc động sản thuộc một cơ sở
cố định của một đối tượng cư trú của một Nước ký kết có ở Nước ký kết kia để
tiến hành hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập, kể cả lợi tức từ việc chuyển
nhượng cơ sở thường trú đó (riêng cơ sở thường trú đó hoặc cùng với toàn bộ xí
nghiệp) hoặc cơ sở cố định đó có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
3. Lợi tức thu được từ việc
chuyển nhượng tầu thuỷ hoặc máy bay do xí nghiệp của một Nước ký kết điều hành
trong vận tải quốc tế hoặc động sản gắn liền với việc hoạt động của các tầu
thuỷ hay máy bay đó sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước ký kết đó.
4. Lợi tức do một đối tượng cư
trú của một Nước ký kết thu được từ việc chuyển nhượng các cổ phần hay các
quyền lợi tương ứng trong một công ty mà tài sản của công ty đó bao gồm toàn bộ
hay chủ yếu bất động sản nằm tại Nước kia có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
5. Lợi tức thu được từ việc
chuyển nhượng các cổ phần trong một công ty là đối tượng cư trú của một Nước ký
kết không phải là những cổ phần được đề cập tới khoản 4 có thể bị đánh thuế tại
Nước đó.
6. Lợi tức từ việc chuyển nhượng
bất kỳ tài sản nào khác với những tài sản đã được nêu tại khoản 1, 2, 3, 4 và 5
sẽ chỉ bị đánh thế tại Nước ký kết nơi đối tượng chuyển nhượng là đối tượng cư
trú.
Điều 14: Hoạt
động dịch vụ cá nhân độc lập
1. Thu nhập do một cá nhân là
đối tượng cư trú của một Nước ký kết thu được từ các hoạt động dịch vụ ngành
nghề hay các hoạt động khác có tính chất độc lập sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước
đó trừ các trường hợp sau, khi đó các khoản thu nhập đó cũng có thể bị đánh
thuế tại Nước ký kết kia:
a) Nếu đối tượng đó thường xuyên
có tại Nước ký kết kia một cơ sở cố định để thực hiện các hoạt động này; trong
trường hợp đó, chỉ phần thu nhập phân bổ cho cơ sở cố định đó có thể bị đánh
thuế tại Nước ký kết kia; hoặc
b) Nếu đối tượng đó có mặt tại
Nước ký kết kia trong khoảng thời gian hay nhiều khoảng thời gian gộp lại đến
hay vượt quá 183 ngày trong bất kỳ giai đoạn 12 tháng nào bắt đầu hoặc kết thúc
trong năm tài chính có liên quan; trong trường hợp đó, chỉ phần thu nhập phát
sinh từ các hoạt động của đối tượng đó được thực hiện tại Nước kia có thể bị
đánh thuế tại Nước kia.
2. Thuật ngữ "dịch vụ ngành
nghề" bao gồm chủ yếu những hoạt động khoa học, văn học, nghệ thuật, giáo
dục hay giảng dạy mang tính chất độc lập như các hoạt động độc lập của các thầy
thuốc, bác sỹ, luật sư, kỹ sư, kiến trúc sư, nha sỹ và kế toán viên.
Điều 15.:
Hoạt động dịch vụ cá nhân phụ thuộc
1. Thể theo các quy định tại
Điều 16, 18, 19, 20 và 21 các khoản tiền lương, tiền công, và các khoản tiền
thù lao tương tự khác do một đối tượng cư trú của Nước ký kết thu được từ lao
động làm công sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó, trừ khi công việc của đối tượng
đó được thực hiện tại Nước ký kết kia. Nếu công việc lao động được thực hiện
như vậy, số tiền công trả cho lao động đó có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
2. Mặc dù có những quy định tại
khoản 1, tiền công do một đối tượng cư trú của một Nước ký kết thu được từ lao
động làm công tại Nước ký kết kia sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước thứ nhất nếu:
a) Người nhận tiền công hiện có
mặt tại Nước kia trong một thời gian hoặc nhiều thời gian gộp lại không quá 183
ngày trong bất kỳ giai đoạn 12 tháng liên tục bắt đầu hay kết thúc trong năm
tài chính liên quan, và
b) Chủ lao động hay người đại
diện chủ lao động trả tiền công lao động không phải là đối tượng cư trú tại
Nước kia, và
c) Số tiền thù lao không phải
phát sinh tại một cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định mà đối tượng chủ lao động
có tại Nước kia.
3. Mặc dù có những quy định trên
của Điều này, tiền công từ công việc làm trên tàu thuỷ hoặc máy bay do một xí
nghiệp của một Nước ký kết hoạt động trong vận tải quốc tế sẽ chỉ bị đánh thuế
tại Nước đó.
Điều 16.:
Thù lao cho giám đốc
Các khoản thù lao cho giám đốc
và các khoản thanh toán tương tự khác do một đối tượng cư trú của một Nước ký
kết nhận được với tư cách là thành viên của ban giám đốc hoặc các bộ phận tương
tự khác của một công ty là đối tượng cư trú của Nước ký kết kia có thể bị đánh
thuế tại Nước kia.
Điều 17:
Nghệ sỹ và vận động viên
1. Mặc dù có những quy định tại
Điều 15 và 16, thu nhập của một đối tượng cư trú của một Nước ký kết thu được
với tư cách người biểu diễn như diễn viên sân khấu, diễn viên điện ảnh, nghệ sỹ
phát thanh hay truyền hình, hoặc nhạc công, hoặc với tư cách là vận động viên
từ những hoạt động cá nhân của mình thực hiện tại Nước ký kết kia, có thể bị
đánh thuế ở Nước kia.
2. Trường hợp thu nhập liên quan
đến các hoạt động trình diễn cá nhân của người biểu diễn hoặc vận động viên
nhưng không được trả cho bản thân người biểu diễn hoặc vận động viên, mà trả
cho một đối tượng khác thì thu nhập này có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi
diễn ra những hoạt động trình diễn của người biểu diễn hoặc vận động viên, mặc
dù đã có những quy định tại Điều 7, 15 và 16.
3. Mặc dù đã có những quy định
tại khoản 1 và 2, thu nhập do các nghệ sỹ hoặc vận động viên là đối tượng cư
trú của một Nước ký kết thu được từ các hoạt động tại Nước ký kết kia theo
khuôn khổ chương trình trao đổi văn hoá giữa hai Chính phủ của hai Nước ký kết,
sẽ được miễn thuế tại Nước ký kết kia.
Điều 18.:Tiền
lương hưu
1. Thể theo các quy định tại
khoản 2 Điều 19, tiền lương hưu và các khoản tiền thù lao tương tự khác được
trả cho một cá nhân là đối tượng cư trú của một Nước ký kết do các công việc đã
làm trước đây sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó.
2. Mặc dù có các quy định tại
khoản 1, và quy định tại khoản 2 Điều 19, tiền lương hưu được trả và các quyền
lợi khác dù được cấp định kỳ hay một lần, theo luật bảo hiểm xã hội của một
Nước ký kết hay bất kỳ chương trình công nào do một Nước ký kết tổ chức vì mục
đích phúc lợi xã hội có thể bị đánh thuế tại Nước đó.
Điều 19.:
Phục vụ nhà nước
1.a. Tiền lương, tiền công và
các khoản tiền thù lao tương tự khác, trừ tiền lương hưu, do một Nước ký kết
hoặc cơ quan chính quyền cơ sở hoặc chính quyền địa phương của Nước đó trả cho
một cá nhân đối với việc phục vụ cho Nhà nước hoặc chính quyền cơ sở hoặc chính
quyền địa phương đó sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó.
b. Tuy nhiên khoản tiền lương,
tiền công và các khoản tiền thù lao tương tự khác nói trên sẽ chỉ bị đánh thuế
tại Nước ký kết kia nếu việc phục vụ này được thực hiện tại Nước ký kết kia và
nếu cá nhân này là đối tượng cư trú của Nước kia, đồng thời:
(i) Là đối tượng mang quốc tịch
của Nước kia; hoặc
(ii) Không trở thành đối tượng cư
trú của Nước kia chỉ đơn thuần vì thực hiện những công việc trên.
2.a. Bất kỳ khoản tiền lương hưu
nào do một Nước ký kết hoặc cơ quan chính quyền cơ sở hoặc cơ quan chính quyền
địa phương của Nước đó hoặc do các quỹ của những cơ quan đó lập ra trả cho một
cá nhân đối với công việc phục vụ cho Nhà nước hoặc các cơ quan chính quyền cơ
sở hoặc chính quyền địa phương đó sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó.
b. Tuy nhiên, những khoản tiền
lương hưu này sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước ký kết kia nếu cá nhân này là đối
tượng cư trú và là đối tượng mang quốc tịch của Nước ký kết kia.
3. Các quy định của Điều 15, 16
và 18 sẽ áp dụng đối với những khoản tiền lương, tiền công và tiền thù lao
tương tự khác và lương hưu đối với các công việc liên quan đến một hoạt động
kinh doanh được tiến hành bởi một Nước ký kết hoặc cơ quan chính quyền cơ sở
hoặc chính quyền địa phương của Nước đó.
Điều 20.:
Sinh viên và thực tập sinh
Những khoản tiền mà một sinh
viên hay thực tập sinh nhận được để trang trải các chi phí sinh hoạt, học tập
hay đào tạo mà người sinh viên hay thực tập sinh này ngay trước khi đến một
Nước ký kết đã hoặc đang là người cư trú của Nước ký kết kia và hiện có mặt tại
Nước thứ nhất chỉ với mục đích học tập hay đào tạo, sẽ không bị đánh thuế tại
Nước đó, với điều kiện những khoản tiền đó có nguồn gốc từ bên ngoài Nước này.
Điều 21.:
Giáo viên, giáo sư và nhà nghiên cứu.
1. Một cá nhân, người hiện nay
hay ngay trước khi sang một Nước ký kết đã là đối tượng cư trú của Nước ký kết
kia và hiện có mặt tại Nước ký kết thứ nhất với mục đích chủ yếu là giảng dạy,
thuyết trình hay tiến hành nghiên cứu tại một trường đại học, trường cao đẳng,
trường học hay cơ sở giáo dục hoặc cơ sở nghiên cứu khoa học được Chính phủ của
Nước ký kết thứ nhất chấp nhận sẽ được miễn thuế tại Nước ký kết thứ nhất đối
với tiền công trả cho công việc giảng dạy, thuyết trình hay nghiên cứu trong
một khoảng thời gian 2 năm kể từ ngày đầu tiên cá nhân đó đến Nước ký kết thứ
nhất.
2. Điều này sẽ chỉ áp dụng đối
với thu nhập từ việc nghiên cứu nếu việc nghiên cứu này được một cá nhân tiến
hành vì lợi ích công cộng và trước tiên không phải vì lợi ích riêng của một hay
nhiều đối tượng khác.
Điều 22:
Thu nhập khác
1. Những khoản thu nhập của một
đối tượng cư trú của một Nước ký kết, bất kể phát sinh ở đâu, chưa được đề cập
đến trong các Điều trên của Hiệp định này, sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó.
2. Những quy định tại khoản 1 sẽ
không áp dụng đối với thu nhập, trừ thu nhập từ bất động sản được định nghĩa
tại khoản 2 Điều 6, nếu đối tượng nhận khoản thu nhập đó là đối tượng cư trú
của một Nước ký kết, có tiến hành kinh doanh tại Nước ký kết kia thông qua một
cơ sở thường trú nằm tại Nước kia hay thực hiện tại Nước kia những hoạt động
dịch vụ cá nhân độc lập thông qua một sơ sở cố định tại Nước kia, và quyền hay
tài sản liên quan đến số thu nhập được chi trả có sự liên hệ thực tế với cơ sở
thường trú hay cơ sở cố định nói trên. Trong trường hợp như vậy những quy định
tại Điều 7 hoặc Điều 14, tuỳ từng trường hợp, sẽ được áp dụng.
3. Mặc dù có những quy định tại
khoản 1 và 2, các khoản thu nhập của một đối tượng cư trú của một Nước ký kết
chưa được đề cập tới các Điều trước của Hiệp định này và phát sinh tại Nước ký
kết kia cũng có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
Điều 23.:
Các biện pháp xoá bỏ việc đánh thuế hai lần
1. Tại Việt Nam việc đánh thuế hai lần sẽ được xoá bỏ như sau:
Trường hợp một đối tượng cư trú
của Việt Nam thu được thu nhập, lợi tức hay lợi tức từ việc chuyển nhượng tài
sản mà theo luật của Ai-xơ-len và phù hợp với Hiệp định này có thể bị đánh thuế
tại Ai-xơ-len, Việt Nam sẽ cho khấu trừ vào thuế Việt Nam thu trên thu nhập,
lợi tức hay lợi tức từ chuyển nhượng tài sản một khoản tiền tương đương với số
thuế đã nộp tại Ai-xơ-len. Tuy nhiên, số thuế được khấu trừ sẽ không vượt quá
số thuế Việt Nam trên thu nhập, lợi tức hay lợi tức từ việc chuyển nhượng tài
sản đó được tính phù hợp với các luật và quy định về thuế của Việt Nam trước
khi thực hiện khấu trừ.
2. Tại Ai-xơ-len, việc đánh thuế
hai lần sẽ được xoá bỏ như sau:
a. Trường hợp một đối tượng cư
trú của Ai-xơ-len thu được các khoản thu nhập mà theo các quy định của Hiệp
định này sẽ chỉ bị đánh thuế hoặc có thể bị đánh thuế tại Việt Nam, căn cứ vào
quy định của điểm b, khoản này, Ai-xơ-len sẽ cho trừ vào thuế thu nhập
Ai-xơ-len phần thuế thu nhập của Ai-xơ-len áp dụng cho thu nhập thu được từ
Việt Nam được tính theo cùng cách tính và cùng thuế suất như các khoản thuế thu
nhập Ai-xơ-len khác thu trên thu nhập không phải từ Việt Nam.
b. Trường hợp một đối tượng cư
trú của Ai-xơ-len thu được các khoản thu nhập mà theo các quy định của khoản 2
và 3 Điều 10, khoản 2 Điều 11, khoản 2 Điều 12, khoản 4 và 5 Điều 13, khoản 1
và 3 Điều 15, Điều 16, khoản 1 và 2 Điều 17, khoản 2 Điều 18 và khoản 3 Điều 22
có thể bị đánh thuế tại Việt Nam, Ai-xơ-len sẽ cho trừ vào thuế thu nhập của
đối tượng cư trú đó một khoản tương đương đối với số thuế đã nộp tại Việt Nam.
Tuy nhiên, số thuế được trừ sẽ không vượt quá phần thuế phân bổ cho những khoản
thu nhập thu được từ Việt Nam như đã tính trước khi khấu trừ.
c. Theo nội dung của điểm (b)
khoản này, số thuế nộp tại Việt Nam trong bất kỳ trường hợp nào sẽ được coi là
15 phần trăm tổng số tiền lãi cổ phần, lãi từ tiền cho vay, tiền bản quyền thu
được từ Việt Nam. Các quy định tại điểm này sẽ được áp dụng trong giai đoạn 15
năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực thi hành.
Điều 24 :
Không phân biệt đối xử
1. Những đối tượng mang quốc
tịch của một Nước ký kết sẽ không phải chịu thuế tại Nước ký kết kia bất kỳ
hình thức thuế nào hay bất kỳ yêu cầu nào liên quan đến hình thức thuế đó khác
với hay nặng hơn hình thức thuế và các yêu cầu liên quan hiện đang và có thể áp
dụng cho các đối tượng mang quốc tịch của Nước ký kết kia trong cùng những hoàn
cảnh như nhau đặc biệt là trong vấn đề cư trú.
2. Thuế đối với một cơ sở thường
trú của một xí nghiệp của một Nước ký kết đặt tại Nước ký kết kia sẽ không kém
thuận lợi hơn thuế áp dụng đối với các xí nghiệp của Nước ký kết kia cùng thực
hiện những hoạt động tương tự. Quy định này sẽ không được hiểu là buộc một Nước
ký kết kia phải dành cho đối tượng cư trú của Nưóc ký kết kia được hưởng bất kỳ
suất miễn thu cá nhân, khoản miễn và giảm thuế nào về thân phận dân sự và trách
nhiệm gia đình mà Nước ký kết thứ nhất dành cho những đối tượng cư trú của mình.
3. Các xí nghiệp của một Nước ký
kết có toàn bộ hay một phần vốn thuộc sở hữu hoặc chịu sự kiểm soát, trực tiếp
hay gián tiếp, bởi một hay nhiều đối tượng cư trú của Nước ký kết kia, sẽ không
phải chịu ở Nước thứ nhất bất kỳ hình thức thuế nào hay bất kỳ yêu cầu nào liên
quan đến hình thức thuế đó khác với hay nặng hơn hình thức thuế và các yêu cầu
liên quan hiện đang và có thể áp dụng cho các xí nghiệp tương tự khác của Nước
thứ nhất.
4. Những quy định của khoản 2 và
3 Điều này sẽ không áp dụng đối với thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài của
Việt Nam, mà thuế này trong bất kỳ trường hợp nào sẽ không vượt quá 10 phần
trăm tổng số lợi tức chuyển ra nước ngoài, và thuế Việt Nam đối với các hoạt
động sản xuất nông nghiệp.
5. Trừ trường hợp các quy định
tại khoản 1 Điều 9 hoặc khoản 6 Điều 12 được áp dụng, tiền bản quyền và những
khoản tiền thanh toán khác không phải là lãi từ tiền cho vay do xí nghiệp của
một Nước ký kết trả cho đối tượng cư trú của Nước ký kết kia, khi xác định lợi
tức chịu thuế của xí nghiệp đó, sẽ được khấu trừ theo cùng những điều kiện như
khi những khoản tiền này được trả cho một đối tượng cư trú của Nước thứ nhất.
6. Không có quy định nào tại
Điều này sẽ được hiểu là buộc từng Nước ký kết phải dành cho các cá nhân không
phải là đối tượng cư trú của Nước đó được hưởng bất kỳ suất miễn thu cá nhân,
khoản miễn và giảm thuế nào mà Nước đó dành cho những cá nhân là đối tượng cư
trú được hưởng.
7. Mặc dù có các quy định tại
Điều này, chừng nào Việt Nam tiếp tục cấp giấy phép cho các nhà đầu tư theo
Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, trong đó có quy định chế độ thuế áp cho
nhà đầu tư, việc đánh thuế như vậy sẽ không bị coi là vi phạm các quy định tại
khoản 2 và 3 Điều này.
8. Những quy định tại Điều này
sẽ chỉ áp dụng đối với các loại thuế chịu sự điều chỉnh của Hiệp định.
Điều 25.:Thủ
tục thoả thuận song phương
1. Trường hợp một đối tượng là
đối tượng cư trú của một Nước ký kết nhận thấy rằng việc giải quyết của nhà
chức trách có thẩm quyền tại một hay cả hai Nước ký kết làm cho hay sẽ làm cho
đối tượng đó phải nộp thuế không đúng theo những quy định của Hiệp định này,
lúc đó đối tượng này có thể giải trình trường hợp của mình với nhà chức trách
có thẩm quyền của Nước ký kết nơi đối tượng đó là đối tượng cư trú, mặc dù
trong luật của hai Nước ký kết đã quy định những chế độ xử lý khiếu nại. Trường
hợp đó phải được giải trình trong thời hạn 3 năm kể từ lần thông báo giải quyết
đầu tiên dẫn đến hình thức thuế áp dụng không đúng với những quy định của Hiệp
định.
2. Nhà chức trách có thẩm quyền
sẽ cố gắng, nếu như việc khiếu nại là hợp lý và nếu bản thân nhà chức trách đó
không thể đi đến một giải pháp thoả đáng, phối hợp với nhà chức trách có thẩm
quyền của Nước ký kết kia để cùng giải quyết trường hợp khiếu nại bằng sự thoả
thuận chung, nhằm mục đích tránh đánh thuế không phù hợp với nội dung của Hiệp
định này. Bất kỳ thoả thuận nào đạt được sẽ được áp dụng không căn cứ vào bất
kỳ giới hạn thời gian nào ghi trong luật trong nước của hai Nước ký kết.
3. Nhà chức trách có thẩm quyền
của hai Nước ký kết sẽ cố gắng giải quyết mọi khó khăn hay vướng mắc nảy sinh
trong quá trình áp dụng Hiệp định này. Hai bên cũng có thể trao đổi với nhau
nhằm xoá bỏ việc đánh thuế hai lần trong những trường hợp chưa được quy định
trong Hiệp định.
4. Nhà chức trách có thẩm quyền
của hai Nước ký kết có thể trực tiếp liên hệ với nhau với mục đích nhằm đạt
được một thoả thuận theo nội dung của những khoản trên đây. Các nhà chức trách
có thẩm quyền, thông qua trao đổi, sẽ xây dựng các thủ tục, điều kiện, biện
pháp và kỹ thuật thích ứng song phương để thực hiện thủ tục thoả thuận song
phương được quy định tại điều này.
Điều 26:
Trao đổi thông tin
1. Nhà chức trách có thẩm quyền
của hai Nước ký kết sẽ trao đổi với nhau những thông tin cần thiết cho việc
triển khai thực hiện những quy định của Hiệp định này hay của các luật trong
nước của hai Nước ký kết liên quan đến các loại thuế mà Hiệp định này hay của
các luật trong nước của hai Nước ký kết liên quan đến các loại thuế mà Hiệp
định này áp dụng sao cho việc đánh thuế theo các luật trong nước sẽ không trái
với Hiệp định này, đặc biệt nhằm ngăn chặn việc trốn, hay lậu các loại thuế đó.
Mọi thông tin do một Nước ký kết nhận được sẽ được giữ bí mật giống như thông
tin thu nhận theo các luật trong nước của Nước đó và sẽ chỉ được cung cấp cho
các đối tượng hay các cơ quan chức trách (bao gồm cả toà án và các cơ quan hành
chính) có liên quan đến việc tính toán, thu, cưỡng chế hay truy tố hoặc xác
định các khiếu nại về các loại thuế mà Hiệp định này áp dụng. Các đối tượng
hoặc các cơ quan chức trách này sẽ chỉ sử dụng các thông tin đó vào các mục
đích nêu trên. Các đối tượng và các cơ quan đó có thể cung cấp các thông tin
này trong quá trình tố tụng công khai của toà án hay trong các quyết định của
toà án.
2. Không có trường hợp nào những
quy định tại khoản 1 được giải thích là buộc một Nước ký kết có nghĩa vụ:
a. Thực hiện các biện pháp hành
chính khác với luật pháp hay thông lệ về quản lý hành chính của Nước ký kết đó
hay của Nước ký kết kia;
b. Cung cấp những thông tin
không thể thu thập được theo các luật hay trong khuôn khổ quản lý hành chính
thông thường của Nước ký kết đó hay của Nước ký kết kia;
c. Cung cấp những thông tin có
thể làm tiết lộ bí mật về mậu dịch, thương mại, công nghiệp, thương nghiệp hay
bí mật nghề nghiệp hoặc các phương thức kinh doanh, hoặc cung cấp những thông
tin mà việc tiết lộ các thông tin này có thể trái với chính sách nhà nước.
Điều 27:
Các viên chức ngoại giao và lãnh sự
Không nội dung nào trong Hiệp
định này sẽ ảnh hưởng đến những ưu đãi về thuế hoặc dành cho các viên chức
ngoại giao hoặc các viên chức lãnh sự theo những nguyên tắc chung của luật pháp
quốc tế hay những quy định trong các hiệp định đặc biệt.
Điều 28:
Hiệu lực
1. Từng Nước ký kết sẽ thông báo
cho Nước ký kết kia bằng văn bản thông qua đường ngoại giao việc hoàn thành các
thủ tục cần thiết theo quy định của luật pháp Nước mình để Hiệp định có hiệu
lực. Hiệp định này sẽ có hiệu lực vào ngày thông báo sau cùng.
2. Hiệp định này sẽ có hiệu lực
thi hành:
a. Đối với các khoản thuế khấu
trừ tại nguồn, liên quan đến các khoản thu nhập chịu thuế được chi trả vào ngày
hoặc sau ngày 01 tháng 01 của năm tiếp theo năm dương lịch mà Hiệp định này có
hiệu lực và trong các năm dương lịch tiếp sau đó;
b. Đối với các khoản thuế khác
thu trên thu nhập, lợi tức hay lợi tức chuyển nhượng tài sản phát sinh trong
năm dương lịch tiếp theo năm dương lịch mà Hiệp định có hiệu lực và trong các
năm dương lịch tiếp sau đó.
Điều 29.:
Kết thúc
Hiệp định này sẽ vẫn còn hiệu
lực cho tới khi một trong hai Nước ký kết tuyên bố kết thúc. Từng Nước ký kết
thông qua đường ngoại giao, có thể kết thúc Hiệp định bằng cách gửi cho Nước ký
kết kia văn bản thông báo kết thúc Hiệp định ít nhất 6 tháng trước khi kết thúc
bất kỳ năm dương lịch nào bắt đầu sau thời hạn 5 năm kể từ ngày Hiệp định có
hiệu lực. Trong trường hợp như vậy, Hiệp định sẽ hết hiệu lực thi hành:
a. Đối với các khoản thuế khấu
trừ tại nguồn, liên quan đến các khoản thu nhập chịu thuế được chi trả vào ngày
hoặc sau ngày 01 tháng 01 của năm kế tiếp theo năm dương lịch gửi thông báo kết
thúc và trong các năm dương lịch tiếp sau đó;
b. Đối với các khoản thuế khác,
thu trên thu nhập, lợi tức hay lợi tức chuyển nhượng tài sản phát sinh trong
năm dương lịch tiếp theo năm dương lịch gửi thông báo kết thúc Hiệp định và
trong những năm dương lịch tiếp sau đó.
Để làm bằng những người được uỷ
quyền của từng Chính phủ dưới đây đã ký vào Hiệp định này.
Hiệp định được làm thành hai bản
tại Hà Nội vào ngày 03/4/2002, bằng các thứ tiếng: tiếng Việt, tiếng Ai-xơ-len
và tiếng Anh, tất cả các văn bản đều có giá trị ngang nhau. Trường hợp có sự
giải thích khác nhau giữa các văn bản, bản tiếng Anh sẽ có giá trị quyết định.
NGHỊ ĐỊNH THƯ
Tại thời điểm ký kết Hiệp định
giữa Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng
hoà Ai-xơ-len về tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối
với các loại thuế đánh vào thu nhập, những người ký tên dưới đây đã thoả thuận
những điều khoản sau đây sẽ là một bộ phận hợp thành của Hiệp định.
Hai bên đều hiểu là thuế đánh
vào tiền lương của Ai-xơ-len được dùng để trang trải cho hệ thống bảo hiểm xã
hội của Ai-xơ-len căn cứ vào Đạo luật số 113 từ năm 1990 sẽ không bao gồm trong
khoản 2 Điều 2 của Hiệp định này.
Để làm bằng những người
được uỷ quyền của từng Chính phủ dưới đây, đã ký vào Nghị định thư này.
Nghị định thư được làm thành hai
bản tại Hà Nội vào ngày 03/4/2002, bằng các thứ tiếng: tiếng Việt, tiếng
Ai-xơ-len và tiếng Anh, tất cả các văn bản đều có giá trị ngang nhau. Trường
hợp có sự giải thích khác nhau giữa các văn bản, bản tiếng Anh sẽ có giá trị
quyết định.
Nguyễn
Sinh Hùng
(Đã
ký)
|
Ô-láp-phua
Ê-gin-xơn
(Đã
ký)
|