BỘ NỘI VỤ-TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
********
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh
phúc
********
|
Số: 03/TTLN
|
Hà Nội , ngày 30
tháng 6 năm 1993
|
THÔNG
TƯ LIÊN NGÀNH
SỐ 03/TTLN NGÀY
30-6-1993 CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO, BỘ NỘI VỤ, VIỆN KIỂM SÁT NHÂN
DÂN TỐI CAO VỀ VIỆC HƯỚNG DẪN
THỰC HIỆN MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LỆNH THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ
Để thực hiện đúng Pháp lệnh thi hành án phạt tù, Toà án nhân dân tối
cao, Bộ Nội vụ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn thực hiện một số quy định
sau đây:
1. Thủ tục đưa
người bị kết án tù vào trại giam để chấp hành hình phạt
Theo Điều 15 Pháp
lệnh thi hành án phạt tù khi đưa người bị kết án tù vào trại giam để chấp
hành hình phạt, cơ quan thi hành án phạt tù phải bảo đảm có bản sao bản án, quyết
định phạt tù đã có hiệu lực pháp luật và quyết định thi hành bản án, quyết định
đó của toà án. Theo quy định tại Khoản 3 Điều 226 Bộ luật tố tụng
hình sự thì "Trong thời hạn mười lăm ngày kể từ khi bản án hoặc quyết
định của Toà án có hiệu lực pháp luật, Chánh án Toà án đã xử sơ thẩm phải ra quyết
định thi hành". Do đó, để cơ quan thi hành án phạt tù bảo đảm có đủ các giấy
tờ nói trên, chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày bản án hoặc quyết định của Toà án
có hiệu lực pháp luật, Chánh án Toà án đã xử sơ thẩm phải gửi cho cơ quan Công
an cùng cấp bản sao bản án, bản án phạt tù đã có hiệu lực pháp luật và quyết định
thi hành bản án, quyết định đó của toà án.
Trong trường hợp Toà án đã xử sơ
thẩm uỷ thác cho toà án khác cùng cấp ra quyết định thi hành án thì Toà án đã
ra quyết định uỷ thác thi hành án phải gửi cho Toà án được uỷ thác thi hành án
hai bản sao bản án, quyết định phạt tù đã có hiệu lực pháp luật kèm theo quyết
định uỷ thác thi hành án. Bộ luật tố tụng hình sự
không quy định trong thời hạn bao nhiêu ngày, kể từ ngày nhận được quyết định uỷ
thác thi hành án, Chánh án toà án nhận được quyết định uỷ thác phải ra quyết định
thi hành án; tuy nhiên để bảo đảm cho việc thi hành án phạt tù được thực hiện
nghiêm chỉnh thì trong 15 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định uỷ thác thi
hành án, Chánh án Toà án nhận được quyết định uỷ thác phải ra quyết định thi
hành án và gửi bản sao bản án, quyết định phạt tù đã có hiệu lực pháp luật kèm
theo quyết định thi hành án cho cơ quan công an cùng cấp. Để Chánh án Toà án đã
xử sơ thẩm ra quyết định thi hành án hoặc uỷ thác cho toà án khác cùng cấp ra quyết
định thi hành đúng thời hạn luật định, thì sau khi kết thúc phiên toà phúc thẩm,
toà án cấp phúc thẩm phải gửi ngay bản sao bản án, quyết định phúc thẩm cho toà
án đã xử sơ thẩm vụ án đó.
Trong thời hạn 7 ngày, kể từ
ngày tiếp nhận người bị kết án tù vào trại giam, giám thị trại giam phải thông
báo bằng văn bản cho toà án đã ra quyết định thi hành án, cơ quan quản lý thi
hành án và thân nhân người bị kết án biết.
2. Việc hoãn
thi hành án phạt tù, tạm đình chỉ thi hành án phạt tù, giảm thời hạn chấp hành
hình phạt tù.
a. Theo Điều 17 Pháp
lệnh thi hành án phạt tù thì "Việc hoãn thi hành án phạt tù phải theo
đúng quy định tại các Điều 231, 233 của Bộ luật tố tụng hình sự",
vì vậy đối với người bị kết án đang được tại ngoại Chánh án Toà án có thể tự
mình hoặc theo đề nghị của Viện Kiểm sát, cơ quan công an hoặc người bị kết án
cho hoãn chấp hành hình phạt tù chỉ trong những trường hợp quy định tại Điều 231 Bộ luật tố tụng hình sự, không có trường hợp ngoại lệ.
Toà án phải giao người được hoãn chấp hành hình phạt tù cho chính quyền xã, phường,
thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi họ cư trú hoặc làm việc quản lý. Nếu trong
thời gian được hoãn chấp hành hình phạt tù mà người bị kết án có hành vi vi phạm
pháp luật nghiêm trọng hoặc định trốn thì Chánh án Toà án đã cho hoãn thi hành
án huỷ quyết định đó và ra lệnh bắt họ chấp hành hình phạt tù. Trong các trường
hợp này, cơ quan công an cùng cấp nhận được lệnh bắt người bị kết án đi chấp
hành hình phạt tù có nhiệm vụ tổ chức bắt, áp giải họ đi chấp hành hình phạt
tù.
Điều 17 Pháp lệnh
thi hành án phạt tù có quy định "Toà án đã cho hoãn chấp hành hình phạt
tù phải ra quyết định thi hành án để khi kết thúc thời hạn được hoãn người bị kết
án tù phải vào ngay trại giam để chấp hành hình phạt tù". Để thực hiện quy
định này, chậm nhất là 7 ngày trước khi hết thời hạn hoãn chấp hành hình phạt
tù, Toà án đã cho hoãn chấp hành hình phạt tù phải ra quyết định thi hành án và
gửi ngay quyết định thi hành án cùng bản sao bản án, quyết định phạt tù đã có
hiệu lực pháp luật cho cơ quan công an cùng cấp và người bị kết án trước khi hết
thời hạn hoãn chấp hành hình phạt tù. Nếu quá thời hạn 7 ngày, kể từ ngày hết
thời hạn hoãn chấp hành hình phạt tù, mà người bị kết án không có mặt ở cơ quan
công an để đi chấp hành hình phạt tù, thì cơ quan công an phải tổ chức áp giải
người bị kết án đi chấp hành hình phạt tù.
b. Theo Điều 17 Pháp
lệnh thi hành án phạt tù thì "Việc tạm đình chỉ thi hành án phạt tù phải
theo đúng quy định tại các điều 232, 233 của Bộ luật tố tụng
hình sự", vì vậy, Chánh án Toà án đã ra quyết định thi hành án có thể
cho người bị kết án không phải phần tử nguy hiểm được tạm đình chỉ chấp hành
hình phạt tù chỉ trong các trường hợp quy định tại Điều 231 Bộ luật
tố tụng hình sự khi và chỉ khi có đề nghị của Viện kiểm sát hoặc của giám
thị trại giam. Việc tạm đình chỉ để xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái
thẩm phải do người đã kháng nghị hoặc do Toà án cấp giám đốc thẩm hoặc tái thẩm
quyết định.
Toà án phải giao người được tạm
đình chỉ chấp hành hình phạt tù cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ
quan, tổ chức nơi họ cư trú hoặc làm việc quản lý. Nếu trong thời gian được tạm
đình chỉ chấp hành hình phạt tù mà người bị kết án có hành vi vi phạm pháp luật
nghiêm trọng hoặc định trốn thì Chánh án Toà án đã ra quyết định tạm đình chỉ
thi hành án phạt tù ra quyết định huỷ quyết định đó và ra quyết định tiếp tục
thi hành án để bắt họ đi chấp hành hình phạt tù. Trong trường hợp này, cơ quan
công an cùng cấp nhận được quyết định tiếp tục thi hành án có nhiệm vụ tổ chức
bắt, áp giải người bị kết án đi chấp hành hình phạt tù.
Những người sau đây bị coi là phần
tử nguy hiểm cho xã hội: người bị phạt tù về tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an
ninh quốc gia; người đang chấp hành hình phạt tù chung thân; người bị phạt tù từ
10 năm trở lên về hành vi giết người, cố ý gây thương tích dẫn đến chết người,
cướp tài sản, hiếp dâm và người bị tù từ 15 năm trở lên (kể cả trường hợp tổng
hợp hình phạt) về các tội phạm cố ý khác; người là phần tử lưu manh chuyên nghiệp,
côn đồ hung hãn, tái phạm nguy hiểm bị kết án về tội phạm nghiêm trọng.
Điều 17 Pháp lệnh
thi hành án phạt tù có quy định: "Toà án đã cho tạm đình chỉ thi hành
án phạt tù phải ra quyết định tiếp tục thi hành án để khi hết thời hạn, người
được tạm đình chỉ thi hành án phải vào ngay trại giam để tiếp tục chấp hành
hình phạt". Để thực hiện quy định này, chậm nhất là 7 ngày trước khi hết
thời hạn tạm đình chỉ thi hành án phạt tù, Toà án đã cho tạm đình chỉ thi hành
án phạt tù ra quyết định tiếp tục thi hành án và gửi quyết định đó cho cơ quan
Công an cùng cấp và người bị kết án trước khi hết thời hạn tạm đình chỉ thi
hành án phạt tù. Nếu quá thời hạn 7 ngày, kể từ ngày hết thời hạn tạm đình chỉ
thi hành án phạt tù mà người bị kết án không có mặt ở cơ quan Công an để tiếp tục
chấp hành hình phạt tù, thì cơ quan công an phải tổ chức áp giải người bị kết
án đi chấp hành hình phạt tù.
c. Trong trường hợp người bị kết
án được hoãn chấp hành hình phạt tù hoặc được tạm đình chỉ chấp hành phạt tù đã
bỏ trốn, cũng như trong trường hợp người đang chấp hành hình phạt tù đã trốn khỏi
trại giam, thì co quan công an phải ra lệnh truy nã đối với họ và gửi cho Toà
án đã ra quyết định thi hành án bản sao lệnh truy nã đó, để Toà án theo dõi việc
thi hành án và có căn cứ trong việc tính thời hiệu thi hành bản án.
d. Một trong
những lý do để Toà án cho người bị kết án được hoãn hoặc tạm đình chỉ thi hành
án phạt tù là "Người bị kết án ốn nặng". "Người bị kết án ốm nặng"
là người bị kết án đau ốm tới mức không thể đi chấp hành hình phạt tù hoặc tiếp
tục chấp hành hình phạt tù được, việc đi chấp hành hình phạt tù hoặc tiếp tục
chấp hành hình phạt tù sẽ rất nguy hiểm đến tính mạng của họ và cần thiết phải
cho họ được hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù để họ có điều kiện chữa
bệnh (như bị bệnh ung thư, bị lao nặng, bị bại liệt...). Toà án chỉ xem xét để quyết
định việc đó cho người bị kết án được hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt
tù khi đã có quyết luận của giám định y khoa. Vì vậy, tuỳ trường hợp cụ thể mà
giám thị trại giam, cơ quan công an, Viện Kiểm sát hoặc Toà án tổ chức giám định
sức khoẻ của người bị kết án để có kết luận về bệnh trạng của họ (chi phí giám
định do người bị kết án chịu).
Toà án đã ra quyết định hoãn hoặc
tạm đình chỉ thi hành hình phạt tù có trách nhiệm phối hợp với chính quyền xã,
phường, thị trấn nơi người bị kết án cư trú theo dõi bệnh trạng của họ để nếu
thấy sức khoẻ của họ đã phục hồi thì ra ngay quyết định thi hành án đối với người
được tạm hoãn chấp hành hình phạt tù hoặc quyết định tiếp tục thi hành án đối với
người được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù. Nếu toà án thấy khó đánh giá là
sức khoẻ của người bị kết án đã phục hồi hay chưa, thì cần tổ chức giám định sức
khoẻ của họ (chi phí giám định do người bị kết án chịu). Kết luận của giám định
y khoa là căn cứ để Toà án quyết định việc cho họ tiếp tục được hoãn hoặc tạm
đình chỉ chấp hành hình phạt tù hay ra quyết định thi hành án hoặc quyết định
tiếp tục thi hành án đối với họ.
đ. Theo Điều 17 Pháp
lệnh thi hành án phạt tù thì "Việc giảm thời hạn chấp hành hình phạt
tù phải theo đúng quy định tại các Điều 49, 51 của Bộ luật hình
sự và các điều 237, 238 của Bộ luật tố tụng hình sự",
vì vậy, khi tiến hành việc giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù, cơ quan Công
an, Viện Kiểm sát, Toà án phải theo đúng quy định tại các điều
49, 51 của Bộ luật hình sự và các điều 237, 238 của Bộ luật
tố tụng hình sự về đối tượng được xét giảm, điều kiện để xét giảm và thời hạn
giảm; phải thực hiện đúng các hướng dẫn tại Thông tư liên ngành số 04-89/TTLN
ngày 15-8-1989 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát Nhân dân tối cao, Bộ
Tư pháp, Bộ Nội vụ về việc giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù.
3. Việc đưa người
đang chấp hành hình phạt tù bị mắc bệnh tâm thần vào cơ sở chuyên khoa để bắt
buộc chữa bệnh.
Theo Điều 27 Pháp
lệnh thi hành án phạt tù thì khi người đang chấp hành hình phạt tù có dấu
hiệu mắc bệnh tâm thần thì theo đề nghị của giám thị trại giam, cơ quan quản lý
thi hành án phạt tù có thẩm quyền phải trưng cầu giám định pháp y và gửi kết luận
giám định cho Toà án có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa
bệnh; Căn cứ vào kết luận của hội đồng giám định pháp y, Toà án ra quyết định
đưa người bị mắc bệnh tâm thần vào cơ sở chuyên khoa y tế để bắt buộc chữa bệnh,
(việc tổ chức các cơ sở chuyên khoa y tế để bắt buộc chữa bệnh đối với người
đang chấp hành hình phạt tù mắc bệnh tâm thần sẽ được Bộ Y tế phối hợp với Bộ Nội
vụ, Bộ Quốc phòng và Bộ tài chính quy định cụ thể).
Cơ quan quản lý thi hành án phạt
tù có trách nhiệm theo dõi kết quả chữa bệnh. Khi có báo cáo của cơ sở chữa bệnh
về việc người bị bắt buộc chữa bệnh đã khỏi bệnh, đơn yêu cầu của thân nhân người
bị bắt buộc chữa bệnh hoặc yêu cầu của Viện Kiểm sát về việc đình chỉ thực hiện
biện pháp bắt buộc chữa bệnh và kết luận của Hội đồng giám định pháp y, thì cơ
quan quản lý thi hành án phạt tù phải gửi cho Toà án đã ra quyết định áp dụng
biện pháp bắt buộc chữa bệnh để Toà án xem xét việc quyết định đình chỉ thực hiện
biện pháp bắt buộc chữa bệnh và buộc người bị kết án tiếp tục chấp hành hình phạt
tù.
Theo Điều 36 Bộ
luật hình sự thì "Thời gian bắt buộc chữa bệnh được trừ vào thời gian
chấp hành hình phạt tù", Vì vậy, nếu thời hạn chấp hành hình phạt tù hết
trong khi người bị kết án đang bị bắt buộc chữa bệnh tại cơ sở chuyên khoa y tế
dành cho người đang chấp hành hình phạt tù mắc bệnh tâm thần, thì cơ quan quản
lý thi hành án phạt tù cần phải thông báo cho Toà án đã ra quyết định bắt buộc
chữa bệnh biết là thời hạn chấp hành hình phạt tù của người bị kết án đã hết và
thông báo cho gia đình họ biết để gia đình họ đến đưa họ về nhà hoặc đưa họ đến
cơ sở chuyên khoa y tế (không phải dành riêng cho người đang chấp hành hình phạt
tù mắc bệnh tâm thần) để chữa bệnh tiếp. Trong trường hợp người bị kết án không
có gia đình, người thân thích ruột thịt, thì cơ quan quản lý thi hành án phạt
tù phải phối hợp với cơ quan y tế, lao động - thương binh xã hội để chuyển họ đến
cơ sở chuyên khoa y tế khác của ngành y tế để chữa bệnh cho họ.
4. Việc giải
quyết người đang chấp hành hình phạt tù chết trong trại giam.
Theo Điều 28 Pháp
lệnh thi hành án phạt tù thì "khi người đang chấp hành hình phạt tù chết
trong trại giam, giám thị trại giam có trách nhiệm báo ngay cho cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát và cơ quan y tế gần nhất đến lập biên bản xác nhận nguyên
nhân chết, có chứng kiến của đại diện những người đang chấp hành hình phạt tù;
làm thủ tục khai tử với chính quyền cơ sở; đồng thời thông báo cho thân nhân
người chết và Toà cấp tỉnh hoặc Toà án cấp quân sự cấp quân khu nơi có trại
giam biết trước khi tổ chức việc chôn cất". Do đó, khi nhận được thông báo
(như đã nhận được điện thoại, đã được báo trực tiếp bằng miệng hoặc bằng văn bản...),
thì cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát và cơ quan y tế phải cử người có thẩm quyền
đến trại giam để cùng giám thị trại giam lập biên bản theo đúng thủ tục quy định.
Sau 24 giờ, kể từ khi đã được báo mà các cơ quan nói trên không đến, thì giám
thị trại giam tiến hành lập biên bản xác nhận nguyên nhân chết, có chứng kiến của
đại diện những người đang chấp hành hình phạt tù, làm thủ tục khai tử với chính
quyền cơ sở nơi có trại giam và tổ chức việc chôn cất. Toà án cấp tỉnh hoặc Toà
án quân sự cấp quân khu cần kiểm tra để xem trong số những người đang chấp hành
hình phạt tù được đề nghị tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù hoặc xét giảm thời
hạn chấp hành hình phạt tù mà Toà án chưa giải quyết có tên người chết này hay
không và nếu có thì ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vì lý do người đó đã
chết.
5. Để bảo đảm
cho việc thi hành án phạt tù được thực hiện nghiêm chỉnh, bảo đảm công bằng xã
hội, thì đối với những người bị kết án phạt tù, nhưng chưa chấp hành hình phạt
tù hoặc chưa chấp hành xong hình phạt tù đã bỏ trốn ra nước ngoài và sau đó trở
về Việt Nam đều phải bị bắt đi chấp hành hình phạt tù hoặc tiếp tục chấp hành
hình phạt tù, nếu vẫn còn thời hiệu thi hành bản án quy định tại Điều 46 Bộ luật Hình sự.
6. Để tạo điều
kiện cho Viện Kiểm sát thực hiện đúng các chức năng kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong công tác thi hành án phạt tù, thì các bản sao quyết định hoặc
các văn bản của Toà án, cơ quan công an, giám thị trại giam có nội dung liên
quan đến việc thi hành án phạt tù đều được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp.
7. Việc trích
xuất người đang chấp hành hình phạt tù
Việc trích xuất người đang chấp
hành hình phạt tù ở các trại giam theo yêu cầu của cơ quan điều tra, Viện Kiểm
sát, Toà án phải do thủ trưởng cơ quan quản lý trại giam quyết định. Theo quy định
của Bộ Nội vụ về việc tổ chức quản lý trại giam hiện nay, thì việc trích xuất
người đang chấp hành hình phạt tù ở các trại giam do V26 Bộ Nội vụ quản lý do
thủ trưởng V26 Bộ Nội vụ quyết định; việc trích xuất người đang chấp hành hình
phạt tù ở các trại giam do cơ quan công an tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương quản lý là do Giám đốc công an tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết
định.
Trong trường hợp sau khi nhận được
văn bản yêu cầu của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án về việc trích xuất
người đang chấp hành hình phạt tù mà những người có thẩm quyền quyết định việc
trích xuất nói trên thấy rằng người đang chấp hành hình phạt tù đã được chuyển
đến trại giam khác không thuộc quyền quản lý của cơ quan mình, thì những người
đó có trách nhiệm chuyển văn bản yêu cầu của cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát,
Toà án cho cơ quan quản lý trại giam, nơi người bị kết án đang chấp hành hình
phạt tù để quyết định việc trích xuất người đang chấp hành hình phạt tù theo thẩm
quyền.
8. Thông tư này
có hiệu lực kể từ ngày ban hành.
Việc thi hành án phạt tù trong
Quân đội do các tổ chức trong Quân đội đảm nhiệm và theo các hướng dẫn cụ thể của
Bộ Quốc phòng.