BỘ TÀI
CHÍNH-BỘ TƯ PHÁP-VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO-TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
********
|
CỘNG HOÀ XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số: 01/TTLN
|
Hà Nội , ngày
10 tháng 1 năm 1992
|
THÔNG TƯ LIÊN NGÀNH
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO - VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
- BỘ TƯ PHÁP - BỘ TÀI CHÍNH SỐ 01/TTLN NGÀY 10 THÁNG 1 NĂM 1992 HƯỚNG DẪN VIỆC
XÉT XỬ VÀ THI HÀNH ÁN VỀ TÀI SẢN TRONG CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ DÂN SỰ
Để đảm bảo quyền lợi cho các bên
có liên quan về tài sản trong các vụ án do tình trạng biến động về giá cả hoặc
do bên có nghĩa vụ về tài sản chưa thực hiện nghĩa vụ, chưa thi hành gây nên,
Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp và Bộ Tài
chính hướng dẫn các Toà án các cấp thực hiện việc xét xử và thi hành án về tài
sản trong các vụ án hình sự, dân sự như sau:
I. HƯỚNG DẪN ĐỐI VỚI VIỆC XÉT
XỬ VÀ THI HÀNH ÁN:
1. Về các
tài sản là hiện vật:
Trong các trường hợp có thể buộc
bên có nghĩa vụ về tài sản trả được bằng hiện vật cùng loại (cụ thể là những vật
có hình thức, chất lượng và giá trị tương đương như: vàng, sắt, thép, xi măng,
máy vô tuyến truyền hình, xe máy cùng loại v.v...) khi xét xử, Toà án quyết định
bên có nghĩa vụ về tài sản phải trả bằng hiện vật. Tuy nhiên Toà án vẫn phải
xác định giá trị của hiện vật đó thành tiền theo giá thị trường tại thời điểm
xét xử sơ thẩm để tính án phí. Khi thi hành án, các bên đương sự có thể thoả
thuận trả bằng hiện vật hoặc thanh toán bằng tiền. Nếu các bên đương sự không
thoả thuận được về phương thức thi hành án và bên phải thi hành án không có hiện
vật để trả, thì Toà án quyết định bên phải thi hành án phải thanh toán bằng tiền
theo giá trị của hiện vật đó tại thời điểm thi hành án.
Thí dụ: A cho B vay hai
chỉ vàng 98%. Khi xét xử sơ thẩm Toà án buộc B phải trả cho A hai chỉ vàng 98%.
Nếu giá vàng 98% tại thời điểm xét xử sơ thẩm là 500.000đồng/chỉ thì B phải chịu
án phí dân sự sơ thẩm 50.000 đồng (5% x 500000 đồng/chỉ x 2 chỉ = 50000 đồng).
2. Về các
khoản tiền:
a) Đối với các khoản tiền bồi
thường, tiền bồi hoàn, tiền công, tiền lương, tiền chia tài sản, tiền đền bù
công sức, tiền cấp dưỡng, tiền vay không có lãi, tiền truy thu thuế, tiền truy
thu thu lợi bất chính,nếu trong thời gian từ khi gây thiệt hại hoặc giao dịch đến
khi xét xử sơ thẩm mà giá gạo ổn định hoặc giảm, thì khi xét xử, Toà án chỉ xác
định các khoản tiền đó để buộc bên có nghĩa vụ về tài sản phải thanh toán bằng
tiền mà không quy đổi các khoản tiền đó ra gạo. Nếu trong thời gian từ khi gây
thiệt hại hoặc giao dịch đến khi xét xử sơ thẩm mà giá gạo tăng thì Toà án quy
đổi các khoản tiền đó ra gạo theo giá gạo loại trung bình ở địa phương (từ đây
trở đi gọi tắt là "giá gạo") tại thời điểm gây thiệt hại hoặc giao dịch,
rồi tính số lượng gạo đó thành tiền theo giá gạo tại thời điểm xét xử sơ thẩm để
buộc bên có nghĩa vụ về tài sản phải thanh toán và chịu án phí theo số tiền đó.
Đối với các khoản tiền tịch thu,
tiền phạt, tiền án phí, khi xét xử Toà án chỉ quyết định mức tiền trong bản án
mà không quy đổi các khoản tiền này ra gạo.
Để bảo đảm quyền lợi cho bên được
thi hành án, hạn chế việc bên phải thi hành án cố tình dây dưa, không tự nguyện
thi hành án, từ nay về sau, cùng với việc quyết định khoản tiền mà bên có nghĩa
vụ về tài sản phải thanh toán cho bên được thi hành án, khoản tiền phải nộp cho
Toà án để đưa vào Ngân sách Nhà nước (tiền tịch thu, tiền truy thu thuế, tiền
truy thu thu lợi bất chính, tiền phạt, tiền án phí ), Toà án phải quyết định rõ
trong bản án hoặc quyết định (sau đây gọi chung là bản án) là kể từ tháng thứ
hai trở đi, tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi thi hành án
xong các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án phải chịu khoản tiền lãi của
số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất tiền gửi tiết kiệm loại không kỳ
hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với thời gian chưa thi hành án.
Khi tính lãi Toà án chỉ tính lãi của số tiền còn phải thi hành án, mà không
tính lãi của số tiền chưa thanh toán.
Thí dụ: Tháng 1 -1990 xảy
ra việc tham ô khoản tiền 1 triệu đồng. Nếu tháng 10-1991 xét xử sơ thẩm thì
Toà án phải quy đổi 1 triệu đồng ra gạo theo gía gạo vào tháng 1-1990, giả định
là 500 đồng/kg, nên số lưọng gạo quy đổi dựoc là 2000 kg(1 triệu đồng: 500 đồng/kg
= 2000 kg). Giả định giá gạo tại thời điểm xét xử sơ thẩm vào tháng 10-1991 là
2000 đồng/kg, thì trong phần quyết định của bản án, Toà án buộc người bị kết án
về tội tham ô phải bồi thường số tiền là 4 triệu đồng (2000 kg x 2000 đồng/kg =
4 triệu đồng); phải chịu án phí sơ thẩm là 200.000 đồng (5% x 4 triệu đồng =
200.000 đồng ) và kể từ tháng thứ hai trở đi, tính từ ngày bản án có hiệu lực
pháp luật cho đến khi thi hành án xong các khoản tiền đó, hàng tháng người bị kết
án phải trả cho bên bị thiệt hại khoản tiền lãi của số tiền chưa bồi thường và
phải chịu khoản tiền lãi của số tiền án phí chưa nộp theo mức lãi suất tiền gửi
tiết kiệm loại không kỳ hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với thời
gian người bị kết án chưa thi hành án.
b) Đối với các khoản tiền vay, gửi
ở tổ chức Ngân hàng, tín dụng, do giá trị của các khoản tiền đó đã được bảo đảm
thông qua các mức lãi suất do Ngân hàng Nhà nước quy định, cho nên khi xét xử,
trong mọi trường hợp Toà án đều không phải quy đổi các khoản tiền đó ra gạo, mà
quyết định bên có nghĩa vụ về tài sản phải thanh toán số tiền thực tế đã vay, gửi
cùng với khoản tiền lãi, kể từ khi giao dịch cho đến khi thi hành án xong, theo
mức lãi suất do Ngân hàng Nhà nước quy định.
Thí dụ: Tháng 1 -1991 A
vay Ngân hàng Nhà nước hàng 1 triệu đồng với thời hạn 6 tháng và theo mức lãi
suất là 3%; khi hết hạn hợp đồng A không trả tiền vay và tiền lãi cho Ngân
hàng. Khi xét xử sơ thẩm vào tháng 10 -1991 Toà án quyết định A phải trả cho
Ngân hàng 1 triệu đồng cùng với các khoản tiền lãi của số tiền đã vay, bao gồm:
tiền lãi theo hợp vay là 180.000 đồng (1 triệu đồng x 3%/tháng x 6 tháng =
180.000đ ) và tiền lãi do nợ quá hạn từ tháng 7-1991 đến khi trả xong số tiền
đã vay theo mức lãi nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định. Toà án buộc A phải
chịu án phí dân sự sơ thẩm theo tổng số các khoản tiền phải thanh toán tại thời
điểm xét xử sơ thẩm, bao gồm: 1 triệu đồng tiền vay, 180.000đ tiền lãi theo hợp
đồng và tiền lãi nợ quá hạn từ tháng 7-1991 đến tháng 10-1991 (giả định mức lãi
nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định là 5%/tháng ) thì số tiền lãi do nợ
quá hạn là 150.000 đồng (1 triệu đồng x 3 tháng = 150.000đ). Trong trường hợp cụ
thể này, án phí dân sự sơ thẩm là 66.500 đồng (5% x "1 triệu đồng +
180.000đ + 150.000đ" = 66.500 đồng). Từ tháng thứ hai trở đi, tính từ ngày
bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi thi hành án xong khoản tiền án phí
66.500đ, hàng tháng A phải chịu khoản tiền lãi của số tiền án phí chưa thi hành
án theo mức lãi suất tiền gửi tiết kiệm loại không kỳ hạn do Ngân hàng Nhà nước
quy định (theo cách tính ở điểm a).
c) Đối với các khoản tiền vay có
lãi và có thời hạn ở ngoài tổ chức Ngân hàng tín dụng thì Toà án quy đổi số tiền
mà bên vay chưa thanh toán vào thời điểm hết hạn hợp đồng (bao gồm tiền vay và
tiền lãi theo mức lãi suất do hai bên thoả thuận khi vay) ra gạo theo giá gạo
lúc hết hạn hợp đồng; sau đó, căn cứ vào giá gạo vào thời điểm xét xử sơ thẩm,
Toà án tính số lượng gạo đó thành tiền để buộc bên vay phải thanh toán, phải chịu
án phí và chịu tiền lãi của các khoản tiền này theo cách tính ở điểm a. Trong
trường hợp mức lãi suất do hai bên thoả thuận cao hơn mức lãi suất cho vay tối
đa của các tổ chức tín dụng ngoài quốc doanh do Ngân hàng Nhà nước quy định
trong thời hạn hợp đồng cho vay giữa các đương sự, thì Toà án chỉ chấp nhận bằng
mức lãi suất cho vay tối đa của các tổ chức tín dụng ngoài quốc doanh tại thời
điểm xét xử sơ thẩm (theo quy định của Ngân hàng Nhà nước thì kể từ ngày
11-7-1991 mức lãi suất cho vay tối đa của các tổ chức tín dụng ngoài quốc doanh
là 6%/tháng).
Thí dụ: Tháng 1-1991 A
vay B 1 triệu đồng với thời hạn 6 tháng và với mức lãi suất do hai bên thoả thuận
là 10%/tháng; khi hết hạn hợp đồng A không trả cho B cả tiền vay và tiền lãi.
Khi xét xử sơ thẩm vào tháng 10 -1991, Toà án quy đổi khoản tiền A vay B là 1
triệu đồng cộng với tiền lãi trong 6 tháng (nhưng không phải theo mức lãi suất
do hai bên đã thoả thuận là 10%/tháng mà theo mức lãi suất cho vay tối đa của
các tổ chức tín dụng ngoài quốc doanh do Ngân hàng Nhà nước quy định là
6%/tháng), thì số tiền lãi tính đến khi hết hạn hợp đồng là 360.000 đồng (1 triệu
đồng x 6%/tháng x 6 tháng = 360.000 đồng) là 1.360.000 đồng ra gạo theo giá gạo
lúc hết hạn hợp đồng là tháng 7-1991. Giả định giá gạo vào tháng 7-1991 là 2000
đồng/kg thì số lượng gạo quy đổi được là 680 kg (1.360.000 đồng : 2000 đồng/kg
= 680 kg). Sau đó, căn cứ vào giá gạo tại thời điểm xét xử sơ thẩm (10-1991) giả
định là 2500 đồng/kg, Toà án tính số lượng 680 kg gạo đó thành tiền để buộc A
phải trả cho B là 1.700.000 đồng (680 x 2500đ/kg = 1.700.000 đồng); buộc A phải
chịu án phí dân sự sơ thẩm là 85.000 đồng (5% x 1.700.000 đồng = 85.000 đồng).
Đồng thời Toà án quyết định rõ trong bản án là kể từ tháng thứ hai trở đi, tính
từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi A thi hành xong, hàng tháng A
phải trả cho khoản tiền lãi của số tiền chưa trả trong tổng số tiền 1.700.000 đồng
và A phải chịu tiền lãi của số tiền án phí dân sự sơ thẩm chưa thi hành án theo
mức lãi suất tiền gửi tiết kiệm loại không kỳ hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định
(theo cách tính ở điểm a).
đ) Đối với các khoản tiền vay
không thời hạn và có lãi ở ngoài tổ chức Ngân hàng, tín dụng thì Toà án quy đổi
số tiền mà bên vay chưa thanh toán vào thời điểm bên cho vay khởi kiện yêu cầu
Toà án buộc bên vay tiền phải thanh toán cho mình theo hợp đồng (bao gồm tiền
vay và khoản tiền lãi theo mức lãi suất do hai bên thoả thuận khi vay, nhưng
không được vượt quá mức lãi suất cho vay tối đa của các tổ chức tín dụng ngoài
quốc doanh do Ngân hàng Nhà nước quy định trong thời hạn từ khi cho vay đến khi
khởi kiện) giá gạo theo giá gạo thời điểm khởi kiện; sau đó căn cứ vào giá gạo
tại thời điểm xét xử sơ thẩm, Toà án tính số lượng gạo đó thành tiền để buộc
bên vay phải thanh toán và chịu án phí, chịu tiền lãi của các khoản tiền này
tương tự như cách tính ở điểm c.
II. HƯỚNG DẪN VỀ HIỆU LỰC THI
HÀNH CỦA THÔNG TƯ
1. Thông tư
này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ban hành và thay thế Thông tư liên ngành số
09/TTLN ngày 10-12-1989 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính.
Kể từ ngày 10-1-1992 trở đi, đối
với các vụ án đã được xét xử sơ thẩm, phúc thẩm theo hướng dẫn trước đây, nếu
có kháng cáo, kháng nghị để xét xử theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, thì
Toà án cấp phúc thẩm, Toà án cấp giám đốc thẩm thực hiện đúng những hướng dẫn tại
Thông tư này và giải thích cho các đương sự về nội dung những hướng dẫn đó.
Đối với các bản án đã có hiệu lực
pháp luật trước ngày 10-1-1992 và được giải quyết theo đúng các hướng dẫn trước
đây thì không áp dụng các hướng dẫn tại Thông tư này để kháng nghị theo thủ tục
giám đốc thẩm.
2. Việc thi
hành án đối với các bản án đã có hiệu lực pháp luật trước ngày ban hành Thông
tư này được giải quyết như sau:
a) Đối với các khoản tiền trong
các bản án được quyết định theo Chỉ thị số 01/NCPL ngày 20-1-1987 của Toà án
nhân dân tối cao (tức là đã quy ra gạo) mà chưa thi hành hoặc mới thi hành được
một phần, thì khi thi hành án, Toà án chỉ quy đổi số lượng gạo còn phải thi
hành án thành tiền để các đương sự thi hành và không được tính lãi theo Thông
tư này.
b) Đối với các bản án về các vụ
án đã được giải quyết trước khi có Chỉ thị số 01/NCPL ngày 20-1-1987, cũng như
về các vụ án đã được xét xử theo hướng dẫn tại Thông tư liên ngành số 09/TTLN
ngày 10-12-1989 (tức là không quy đổi các khoản tiền ra gạo) mà chưa được thi
hành hoặc thi hành được một phần, thì việc thi hành án sẽ được giải quyết như
sau:
- Đối với các khoản tiền phạt,
tiền tịch thu, tiền truy thu thuế, tiền truy thu thu lợi bất chính, tiền án
phí, thì Toà án không quy đổi ra gạo mà chỉ thu theo mức tiền đã được quyết định
trong bản án và không được tính bất cứ khoản tiền lãi nào nếu vụ án đã được giải
quyết trước khi có Chỉ thị số 01/NCPL ngày 20-1-1987. Trong trường hợp vụ án được
xét xử theo hướng dẫn tại Thông tư liên ngành số 09/TTLN 10-12-1989 thì vẫn phải
thi hành bản án theo hướng dẫn tại Thông tư này là: kể từ tháng thứ hai trở đi,
tính từ ngày có quyết định đưa bản án ra thi hành, bên phải thi hành án phải chịu
thêm khoản tiền lãi theo lãi suất tiền gửi tiết kiệm loại không kỳ hạn đối với
số tiền chưa thi hành. Đối với các khoản tiền thu cho Ngân hàng Nhà nước trong
các bản án đã có hiệu lực pháp luật trước ngày đổi tiền 14-9-1985 thì cũng
không quy đổi ra gạo, nhưng được thu theo đơn vị tiền mới ngang với đơn vị tiền
cũ. Thí dụ: nếu tiền phạt là 10.000 đồng tiền cũ thì nay thu 10.000 đồng tiền mới.
Các Toà án cần rà soát kỹ các bản
án mà mình có nhiệm vụ thi hành án trong đó có các khoản thu cho Ngân sách Nhà
nước mà bên phải thi hành án chưa thi hành hoặc mới thi hành được một phần. Nếu
xét thấy khoản tiền phải thu của mỗi đương sự (khoảng từ 3000 đồng trở xuống)
không phải bù đắp chi phí cho việc tiến hành các thủ tục thi hành án để thu các
khoản tiền đó, thì mỗi Toà án cần lập biên bản danh sách những người phải thi
hành án thuộc trường hợp này, trong đó ghi rõ mức tiền mà họ còn phải thi hành
án để nộp vào Ngân sách Nhà nước.
Bản danh sách này phải được
Chánh án Toà án đã lập danh sách kiểm tra, xác nhận làm căn cứ để Toà án không
chủ động tiến hành các thủ tục thi hành án đối với họ, nhằm tránh gây thiệt hại
cho Ngân sách; bản sao bản danh sách này phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp.
Trong trường hợp người có tên trong danh sách này tự nguyện nộp tiền thi hành
án thì Toà án vẫn phải tiến hành đầy đủ các thủ tục thi hành án để thu khoản tiền
đó và làm thủ tục nộp vào Ngân sách Nhà nước.
Đối với các khoản tiền không phải
là tiền phạt, tiền tịch thu, tiền truy thu thuế, tiền truy thu thu lợi bất
chính, tiền án phí, thì Toà án căn cứ vào sự biến động về giá cả tại thời điểm
bản án có hiệu lực pháp luật và thời điểm bản án được thi hành, hướng dẫn các
đương sự thương lượng với nhau về mức bồi thường, thanh toán một cách hợp lý mà
họ có thể chấp nhận được. Nếu họ thoả thuận được với nhau thì Toà án công nhận
sự thoả tuận của họ.
Trong trường hợp họ không
thoả thuận được với nhau thì Toà án quy đổi các khoản tiền đó ra gạo theo giá gạo
ở thị trường địa phương khi bản án có hiêụ lực pháp luật và căn cứ vào giá gạo
khi thi hành án tính thành tiền để các đương sự thi hành. Do các khoản tiền này
đã được bảo đảm giá trị bằng việc quy đổi ra gạo, nên khi thi hành án, Toà án
không buộc bên phải thi hành án phải chịu thêm khoản tiền lãi tính theo lãi suất
tiền gửi tiết kiệm loại không kỳ hạn đối với số tiền chưa thi hành án như trước
đây đã hướng dẫn tại Thông tư liên ngành số 09/TTLN ngày 10-12-1989.
Hồ
Tế
(Đã
ký)
|
Trịnh
Hồng Dương
(Đã
ký)
|
Nguyễn
Văn Thìn
(Đã
ký)
|
Trần
Đông
(Đã
ký)
|