ỦY
BAN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
*****
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
*******
|
Số:
5066/QĐ-UBND
|
TP.
Hồ Chí Minh, ngày 09 tháng 11 năm 2007
|
QUYẾT ĐỊNH
VỀ
VIỆC ĐIỀU CHỈNH QUYẾT ĐỊNH GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI SỐ 6178/QĐ-UB NGÀY 26 THÁNG 9
NĂM 2001 CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ.
CHỦ TỊCH ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Căn cứ Luật Tổ chức Hội đồng
nhân dân và Ủy ban nhân dân ngày 26 tháng 11 năm 2003;
Căn cứ Luật Khiếu nại, tố cáo ngày 02 tháng 12 năm 1998; Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo ngày 15 tháng 0 năm 2004 và điều 3 Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo năm 2005 có hiệu lực từ
ngày 01 tháng 06 năm 2006;
Căn cứ Luật Đất đai năm 2003;
Xét phần đất đang có tranh chấp,
khiếu nại có diện tích 320m2 (8m x 40m) thuộc một phần thửa 293, tờ
1, ấp 2, xã Tân Quy Đông, huyện Nhà Bè (tài liệu đăng ký 299/TTg). Thửa 293 có
diện tích chung là 7.745m2, loại thổ tập trung, có nhiều cá nhân
đăng ký, trong đó có ông Nguyễn Thanh Vân đăng ký sử dụng 160m2.
Ngày 10 tháng 12 năm 1991, vợ chồng
ông Nguyễn Thanh Vân và bà Nguyễn Thị Tốt lập giấy sang nhượng 119m2
(7m x 17m) nằm trong diện tích đăng ký cho vợ chồng ông Nguyễn Minh Hùng và bà
Tạ Thị Kim Lan (thường trú tại số 88/11/2/4 Nguyễn Khoái, phường 2, quận 4), có
xác nhận việc chuyển nhượng của Ủy ban nhân dân xã Tân Quy Đông. Sau đó, bà Lan
lập thủ tục xin sử dụng đất để xây dựng nhà ở và được Ủy ban nhân dân huyện Nhà
Bè cấp Quyết định giao đất số 86/QĐGĐ ngày 12 tháng 5 năm 1993 với diện tích
119m2. Bà Lan đã thực hiện nghĩa vụ tài chính vào năm 1994. Ngoài
ra, vợ chồng bà Tốt còn làm giấy tay ngày 18 tháng 11 năm 1991 sang nhượng một
phần đất khác diện tích 160m2 (8m x 20m) (phía sau lô đất 119m2)
cho bà Trần Muối (ngụ tại 109/34B/11 Bến Vân Đồn, phường 9, quận 4); đến ngày
25 tháng 11 năm 1991, bà Trần Muối làm giấy tay bán lại cho bà Lan. Bà Lan đứng
tên đăng ký Chỉ thị 02/CT với tổng diện tích 349m2 (189m2
+ 160m2).
Năm 1993, vợ chồng bà Lan làm giấy
tay bán toàn bộ đất có diện tích 320m2 cho ông Nguyễn Văn Bảnh (thường
trú tại số 60/3 Trần Xuân Soạn, huyện Nhà Bè) với giá 30 lượng vàng. Việc mua
bán có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã vào ngày 10 tháng 6 năm 1993 về nguồn gốc
đất là của bà Lan, có nhượng lại cho ông Bảnh và hồ sơ đang chờ huyện có Quyết
định sử dụng chính thức. Trên thực tế, việc mua bán đã hoàn thành, ông Bảnh đã
giao đủ 30 lượng vàng cho bà Lan.
Như vậy, bà Tạ Thị Kim Lan đứng
tên đăng ký Chỉ thị 02/CT (349m2), trong đó có 119m2/349m2
có Quyết định giao đất của Ủy ban nhân dân huyện Nhà Bè. Căn cứ Điều 4 Nghị định
số 03/HĐBT ngày 23 tháng 3 năm 1989 của Hội đồng Bộ trưởng quy định: “Người
đang sử dụng đất hợp pháp là người được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
người có tên trong sổ địa chính”. Do đó, bà Lan là người sử dụng đất hợp pháp.
Bà Lan chuyển nhượng đất cho ông Bảnh có thông qua Ủy ban nhân dân xã, việc
chuyển nhượng đã hoàn thành, không có tranh chấp nên được xem là hợp lệ.
- Do ông Nguyễn Văn Bảnh có nợ của
ông Phạm Văn Sinh (ngụ tại số 650B lô V, Đoàn Văn Bơ, phường 10, quận 4) và bà
Trương Thị Hiền (ngụ tại số 226/7 ấp 4, xã Tân Quy Tây, huyện Nhà Bè) một số
vàng là 14 lượng, không có khả năng chi trả, nên ngày 06 tháng 3 năm 1994 ông
Nguyễn Văn Bảnh làm “Giấy thế chấp đất” để thế chấp phần đất 320m2
cho ông Sinh với thời hạn 5 tháng kể từ tháng 3 năm 1994; trong thời hạn này
ông Bảnh được quyền bán đất để trả nợ cho ông Sinh và bà Hiền, nếu quá thời hạn
trên mà không bán được đất để trả nợ thì phần đất 320m2 thuộc quyền
sử dụng của ông Sinh, bà Hiền. Giấy thế chấp có xác nhận ngày 03 tháng 8 năm
1994 của Ủy ban nhân dân xã Tân Qui Đông về vị trí đất có tọa lạc tại xã.
Ngoài việc nợ ông Sinh, ông Bảnh
còn nợ tiền của ông Đỗ Minh Hải (ngụ tại 60D cư xá Cửu Long, phường 22, quận
Bình Thạnh) và ông Lê Phi Long (ngụ tại 117/4 ấp 4, xã Tân Quy Tây, huyện Nhà
Bè); 2 khoản nợ này ông Bảnh cũng không có khả năng thanh toán. Do đó, ngày 09
tháng 4 năm 1994, ông Bảnh làm “Giấy cam kết sang nhượng” chuyển nhượng và phân
chia phần đất 320m2 cho ba người để trừ nợ, gồm :
+ Ông Đỗ Minh Hải: 80m2/320m2
(4m x 20m), mặt tiền đường 79.
+ Ông Phạm Văn Sinh: 80m2/320m2
(4m x 20m), mặt tiền đường 79.
+ Ông Lê Phi Long: 160m2/320m2
(8m x 20m), nằm phía sau hai lô đất của ông Hải và ông Sinh, mặt tiền đường 77.
Ông Đỗ Minh Hải và ông Lê Phi
Long có kiện ông Bảnh ra Tòa án nhân dân quận 7. Tòa án nhân dân quận 7 có Quyết
định công nhận sự thỏa thuận số 54 ngày 05 tháng 8 năm 2000 và số 53 ngày 09
tháng 8 năm 2000. Theo đó, ông Bảnh đồng ý trả số nợ 10 lượng vàng 24K cho ông
Hải và trả số nợ 29 lượng vàng 24K cho ông Long. Tuy nhiên, cho đến nay ông Bảnh
chưa trả được. Sau đó, ngày 22 tháng 12 năm 2003, ông Bảnh lập hợp đồng hứa
chuyển nhượng đất (160m2) cho ông Long để cấn trừ nợ. Ông Long lập
thủ tục xin sử dụng đất, Ủy ban nhân dân quận 7 đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất và sau đó ra Quyết định số 351/QĐ-UBND ngày 16 tháng 11 năm 2006 thu hồi
hủy bỏ giấy chủ quyền với lý do: Kê khai việc mua đất không đúng đối tượng.
Ngoài việc thế chấp, chuyển nhượng
đất cho 03 người nêu trên, ông Bảnh còn lập hợp đồng chuyển nhượng phần đất này
(ngày 23 tháng 6 năm 2004) cho ông Hồ Văn Kiên (sau khi Ủy ban nhân dân thành
phố có Quyết định giải quyết khiếu nại công nhận 320m2 đất cho ông Bảnh).
Do phần đất này còn đang tranh chấp, chưa xử lý dứt điểm nên ông Kiên đã kiện
ông Bảnh ra Tòa án nhân dân quận 7. Theo Quyết định công nhận sự thỏa thuận (số
03/2006/QĐ-CNTT ngày 23 tháng 02 năm 2006), ông Bảnh đồng ý trả lại tiền đặt cọc
200.000.000 đồng và bồi thường tiền cọc 325.000.000 đồng cho ông Kiên. Đến nay,
ông Bảnh chưa trả được.
Như vậy, việc thế chấp đất có
qua Ủy ban nhân dân xã, nhưng Ủy ban nhân dân xã không xác nhận nội dung thế chấp.
Ông Bảnh chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nên việc thế chấp đất không
đúng quy định tại khoản 1 Điều 30 Luật Đất đai ngày 14 tháng 07 năm 1993:
“Không được chuyển quyền sử dụng đất: - Đất sử dụng không có giấy tờ hợp pháp”.
Việc ông Bảnh làm “cam kết
sang nhượng” cho 03 Ông nêu trên có thông qua Ủy ban nhân dân xã, nhưng Ủy ban
nhân dân xã chỉ xác nhận chữ ký của ông Bảnh, không xác nhận việc khác. Trường
hợp này cũng không đúng quy định tại khoản 1 Điều 30 Luật Đất đai năm 1993 đã
nêu ở trên.
- Ngày 24 tháng 9 năm 1994, ông
Phạm Văn Sinh căn cứ vào “Giấy thế chấp đất” để lập “Giấy thỏa thuận chuyển quyền
sử dụng đất” bán phần đất diện tích 320m2 cho bà Huỳnh Thị Trí Nghĩa
(ngụ tại H24 cư xá Vĩnh Hội, phường 6, quận 4) và bà Hà Thị Mai Trâm (ngụ tại
272 Bà Hạt, phường 9, quận 10) với giá 22 lượng vàng, có xác nhận chữ ký của Ủy
ban nhân dân xã Tân Qui Đông ngày 08 tháng 11 năm 1994. Qua làm việc với ông Trần
Quốc Phương (ngụ tại 36 Đồng Khởi, phường Bến Nghé, quận 1) và tường trình của
ông Huỳnh Hữu Tâm, được biết: Trên thực tế phần đất diện tích 320m2
là do ông Trần Quốc Phương và ông Huỳnh Hữu Tâm mua của ông Sinh với giá 22 lượng
vàng, nhưng nhờ bà Nghĩa và bà Trâm đứng tên giùm (quan hệ bà con). Đến năm
1998, thì ông Tâm bán lại phần đất 160m2/320m2 cho ông
Phương (giấy tay bị thất lạc).
Như vậy, việc chuyển nhượng có
thông qua Ủy ban nhân dân xã xác nhận chữ ký, nhưng việc chuyển nhượng này là bất
hợp pháp thể hiện ở chỗ:Thực chất ông Sinh chuyển nhượng đất cho ông Trần Quốc
Phương và ông Huỳnh Hữu Tâm, nhưng để bà Nghĩa, bà Trâm đứng tên trên giấy tờ
mua bán. Sau đó, ông Phương mua lại ½ diện tích 320m2 của ông Tâm. Mặt
khác ông Sinh căn cứ vào giấy thế chấp đất của ông Bảnh để chuyển nhượng là
không đủ yếu tố pháp lý và việc chuyển nhượng này đã phát sinh tranh chấp từ
phiá ông Bảnh và ông Long, ông Hải.
Hành vi chuyển nhượng đất của
ông Sinh, ông Phương và các cá nhân nêu trên là vi phạm khoản 1 Điều 30 Luật Đất
đai ngày 14 tháng 7 năm 1993 đã nêu ở trên.
- Đầu năm 1999, ông Trần Quốc
Phương (cán bộ Phòng Quản lý đô thị quận 7) lập hồ sơ hợp thức hóa căn nhà
không số (vách cót tre, mái lá), diện tích 24m2 do ông Phương xây dựng
trên phần đất diện tích 187m2/320m2 (ông Sinh có làm giấy
tái xác nhận chỉ mua bán diện tích 160m2/320m2). Theo ông
Phương trình bày, ông không xin hợp thức hóa toàn bộ diện tích 320m2
là vì không đủ tiền để đóng tiền sử dụng đất. Hồ sơ xin hợp thức hóa của ông
Phương đã được Ủy ban nhân dân phường Tân Quy, Phòng Quản lý đô thị quận 7, Ủy
ban nhân dân quận 7 xác nhận không có tranh chấp, khiếu nại; Kiến trúc sư trưởng
thành phố xác nhận nhà ở phù hợp quy hoạch; Sở Địa chính-Nhà đất thành phố xác
nhận nhà ở, đất ở đủ điều kiện để hợp thức hóa. Trên cơ sở đó, Ủy ban nhân dân
thành phố đã cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số
11844/99 ngày 11 thámg 10 năm 1999 công nhận chủ quyền căn nhà mang số 347A/8
khu phố 1, đường 79, phường Tân Qui, quận 7 cho ông Phương với diện tích 24m2,
diện tích đất 166m2, ông Phương đã nộp tiền sử dụng đất là 33.200.000
đồng.
Như vậy, việc ông Phương lập thủ
tục hợp thức hóa và được Ủy ban nhân dân thành phố cấp Giấy chứng nhận quyền sở
hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở (số 11844 ngày 11 tháng 10 năm 1999) là không
đúng Quyết định số 6280/QĐ-UB-QLĐT ngày 26 tháng 8 năm 1995 của Ủy ban nhân dân
thành phố quy định về thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử
dụng đất ở vì đất đang có tranh chấp, khiếu nại và đang được Ủy ban nhân dân quận
7 xem xét giải quyết, chưa dứt điểm. Thể hiện qua các tài liệu sau:
+ Ngày 18 tháng 5 năm 1995, ông
Lê Phi Long và ông Đỗ Minh Hải cùng đứng đơn khiếu nại ông Phạm Văn Sinh tự ý
bán phần đất 320m2 mà không thông qua hai ông. Sự việc đã được Ủy
ban nhân dân xã tiếp nhận, lập biên bản tiếp xúc các bên ngày 06 tháng 12 năm 1996
và chuyển hồ sơ lên cấp trên giải quyết.
+ Ngày 20 tháng 07 năm 1998, ông
Nguyễn Văn Bảnh làm đơn khiếu nại việc ông Sinh tự ý bán đất và yêu cầu Ủy ban
nhân dân quận 7 buộc ông Sinh trả lại đất cho Ông. Đến ngày 26 tháng 10 năm
1999, Ủy ban nhân dân quận 7 ban hành Quyết định giải quyết tranh chấp đất số
126/QĐ-UB không công nhận việc thế chấp đất, mua bán đất giữa các cá nhân có
liên quan.
Trách nhiệm chính trong việc xác
nhận sai hồ sơ không có tranh chấp thuộc Ủy ban nhân dân phường Tân Quy, Phòng Quản
lý đô thị quận 7 và Ủy ban nhân dân quận 7. Qua phát hiện nêu trên, Ủy ban nhân
dân thành phố đã có Quyết định số 78/QĐ-UB ngày 08 tháng 01 năm 2004 thu hồi và
hủy bỏ giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở đã cấp cho ông
Trần Quốc Phương là đúng pháp luật.
- Căn cứ vào giấy chứng nhận quyền
sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở (diện tích 166m2/320m2),
ông Trần Quốc Phương đã bán cho 02 người. Cụ thể như sau:
+ Ngày 07 tháng 6 năm 2000, ông
Phương lập hợp đồng bán một phần căn nhà 347A/8 khu phố 1, đường 79, phường Tân
Quy có diện tích nhà 12m2/24m2, diện tích đất 79m2/166m2,
cho bà Nguyễn Thị Hoa Sen với giá 120.000.000đ, hợp đồng có chứng nhận của
Phòng Công chứng Nhà nước số 1. Sau đó, bà Sen lập thủ tục xin cấp, đổi giấy chứng
nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở và được Ủy ban nhân dân thành phố
cấp Giấy chủ quyền số 1438/2001 ngày 05 tháng 02 năm 2001 mang số nhà mới là
138A khu phố 1, đường số 79, phường Tân Quy, quận 7.
+ Ngày 20 tháng 6 năm 2001, ông
Phương lập hợp đồng bán tiếp phần căn nhà còn lại có diện tích nhà 12m2/24m2,
diện tích đất 87m2/166m2, cho bà Phạm Thị Bình với giá
120.000.000 đồng, hợp đồng có chứng nhận của Phòng Công chứng Nhà nước số 1.
Ngày 09 tháng 7 năm 2001, bà Bình đã hoàn tất thủ tục đăng bộ tại Sở Địa
chính-Nhà đất. Ngày 08 tháng 8 năm 2001, Ủy ban nhân dân quận 7 cấp giấy phép
xây dựng số 208/GPXD cho bà Bình được xây dựng căn nhà 4 tầng, nhưng thực tế đến
nay bà chưa xây dựng (giấy phép xây dựng có hiệu lực 01 năm). Hiện trạng là đất
trống, cỏ dại, người mua chưa xây dựng nhà ở.
Như vậy, việc ông Phương lập hợp
đồng bán một phần căn nhà 347A/8 cho bà Nguyễn Thị Hoa Sen (sau đó được Ủy ban
nhân dân thành phố cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở
số 1438/2001 ngày 05 tháng 02 năm 2001) và lập hợp đồng bán tiếp phần còn lại của
căn nhà cho bà Phạm Thị Bình (đã đăng bộ tại Sở Địa chính và Nhà đất ngày 09
tháng 7 năm 2001) là sai, vì đất đang tranh chấp, khiếu nại và việc giải quyết
tranh chấp, khiếu nại đang được các cơ quan Nhà nước tiến hành, chưa có kết quả
cuối cùng (Quyết định giải quyết tranh chấp số 126/QĐ-UB ngày 26 tháng 10 năm
1999 và Quyết định giải quyết khiếu nại số 54/QĐ-UB ngày 04 tháng 7 năm 2000 của
Ủy ban nhân dân quận 7; Tờ trình số 3300/TT-ĐCNĐ-TT ngày 06 tháng 4 năm 2001 của
Sở Địa chính-Nhà đất về việc giải quyết khiếu nại). Việc mua bán này đã gây thiệt
hại cho bà Sen, bà Bình là người mua hợp pháp, ngay tình.
Về trường hợp sai sót trên, Ủy
ban nhân dân thành phố đã có Văn bản số 5474/UB-PC ngày 03 tháng 11 năm 2003 chỉ
đạo xử lý cụ thể. Phòng Công chứng Nhà nước số 1 đã có Văn bản (số 258/CV-CC
ngày 24 tháng 12 năm 2003) thông báo cho các bên về việc rút lại phần lời chứng
của Công chứng viên trong 02 hợp đồng mua bán. Đến nay, còn thiếu thủ tục hủy bỏ
việc đăng bộ tại Sở Địa chính- Nhà đất cũ đối với bà Bình và thủ tục ra Quyết định
thu hồi giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở của Ủy ban
nhân dân thành phố cấp cho bà Sen (bà Sen cho biết Ủy ban nhân dân quận 7 đang
tạm giữ giấy chủ quyền).
Đối với Giấy phép xây dựng
số 208/GPXD ngày 08 tháng 8 năm 2001 của Ủy ban nhân dân quận 7 cấp cho bà
Bình, đến nay cũng đã hết hiệu lực, do đó Ủy ban nhân dân quận 7 cần ra Quyết định
thu hồi, hủy bỏ giấy phép này.
- Theo ông Trần Quốc Phương trình
bày, ngoài phần nhà đất tại địa chỉ 347A/8 có diện tích 166m2/320m2
mà Ông đã bán cho bà Bình, bà Sen, thì phần diện tích còn lại khoảng 160m2
(phía sau căn nhà 347A/8) ông Phương xây dựng 01 căn nhà cấp 4 diện tích khoảng
21m2 và có bán cho ông Trần Ngọc Khanh. Đến năm 2001, do đất đang có
tranh chấp kéo dài, nên ông Phương lấy lại nhà đất và trả lại tiền cho ông
Khanh. Tuy nhiên, khi làm việc với ông Khanh, ông Khanh khẳng định Ông không có
mua đất của ông Phương, mà chỉ đứng tên giùm cho ông Phương và cũng không biết
vị trí lô đất ở đâu, ông Khanh xác định Ông không có liên quan gì đối với phần
đất đang tranh chấp ở phường Tân Quy, quận 7.
Như vậy, chưa có cơ sở kết luận
ông Phương có chuyển nhượng đất cho ông Trần Ngọc Khanh, nhưng có cơ sở kết luận
ông Phương là người có hành vi xây dựng không phép căn nhà cấp 4 trên phần đất
diện tích 160m2. Việc vi phạm xây dựng của ông Phương cần phải được
xử lý theo đúng pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
- Tóm lại: Cùng 01 lô đất diện
tích 320m2 toạ lạc tại phường Tân Quy, quận 7 đã xuất hiện 03 mối
quan hệ mua bán phức tạp. Mối quan hệ mua bán; thế chấp để cấn trừ nợ thứ 1: Giữa
ông Lê Văn Bảnh với 04 ông Lê Phi Long, Đỗ Minh Hải, Phạm Văn Sinh, Hồ Văn
Kiên; mối quan hệ mua bán thứ 2: Giữa ông Phạm Văn Sinh với ông Trần Quốc
Phương và mối quan hệ mua bán thứ 3: Giữa ông Trần Quốc Phương với 02 bà Nguyễn
Thị Hoa Sen, Phạm Thị Bình. Các mối quan hệ này đều mua bán bất hợp pháp (hai mối
quan hệ mua bán đầu tiên) hoặc có thông qua cơ quan có thẩm quyền nhưng sai về
thủ tục (mối quan hệ mua bán thứ 3), gây hậu quả phức tạp khi xử lý. Do đó, cơ
quan Nhà nước không công nhận các quan hệ mua bán, thế chấp nêu trên và nhất
thiết phải hủy bỏ các giấy tờ liên quan đến việc này, kể cả giấy tờ hợp pháp, để
chuyển vụ việc sang Tòa án giải quyết. Cơ quan Nhà nước cũng không thể thu hồi
lại đất để điều phối cho các cá nhân có nhu cầu sử dụng đất, vì sẽ phát sinh
các khiếu nại, so bì đối với các cá nhân khác, mà trước mắt tạm thời quản lý đất
để chờ phán quyết của Tòa án. Do đó, cần phải điều chỉnh lại Quyết định giải
quyết khiếu nại của Ủy ban nhân dân theo hướng trên.
- Trách nhiệm chính làm phát
sinh tình hình phức tạp trên thuộc về ông Nguyễn Văn Bảnh, ông Phạm Văn Sinh,
ông Trần Quốc Phương và các cán bộ thuộc Ủy ban nhân dân phường Tân Quy quận 7,
Phòng Quản lý đô thị quận 7, Ủy ban nhân dân quận 7. Trong đó, ông Trần Quốc
Phương - cán bộ Phòng Quản lý đô thị quận 7, đã vi phạm quy định của Luật Đất
đai và lợi dụng chức năng của mình để hợp thức hóa nhà, đất, làm cho tình hình
vụ việc thêm phức tạp cần phải kiểm điểm nghiêm túc.
Xét Quyết định giải quyết khiếu nại số 6178/QĐ-UB ngày 26 tháng 9
năm 2001 của Ủy ban nhân dân thành phố và Báo cáo số 216/BC-TTTP-XKT ngày 13
tháng 4 năm 2007 của Thanh tra thành phố,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1.
Điều chỉnh Quyết định giải quyết khiếu nại số 6178/QĐ-UB ngày 26 tháng 9 năm
2001 của Ủy ban nhân dân thành phố như sau:
1.1- Không công nhận việc thế chấp
đất giữa ông Nguyễn Văn Bảnh với ông Phạm Văn Sinh; việc phân chia đất giữa ông
Nguyễn Văn Bảnh với ông Phạm Văn Sinh, ông Đỗ Minh Hải, ông Lê Phi Long, cũng
như việc chuyển nhượng đất với ông Hồ Văn Kiên; việc chuyển nhượng đất giữa ông
Phạm Văn Sinh với bà Huỳnh Thị Trí Nghĩa, bà Hà Thị Mai Trâm, ông Trần Quốc
Phương, ông Huỳnh Hữu Tâm; việc hợp thức hóa nhà đất của ông Trần Quốc Phương;
việc mua bán giữa ông Phương với bà Nguyễn Thị Hoa Sen, bà Phạm Thị Bình.
1.2- Các tranh chấp về tiền,
vàng phát sinh giữa các cá nhân từ các quan hệ không được công nhận nêu trên,
do Tòa án nhân dân quận 7 xem xét giải quyết theo thẩm quyền.
1.3- Giữ nguyên hiện trạng phần
đất tranh chấp diện tích 320m2 và tạm giao cho Ủy ban nhân dân quận
7 quản lý, chờ phán quyết của Tòa án nhân dân về việc khởi kiện của các cá nhân
có liên quan đến phần đất 320m2 nêu trên.
Điều 2.
Quyết định này có hiệu
lực thi hành kể từ ngày ký. Các
Văn bản trái với Quyết định này đều bị bãi bỏ.
Giao Chủ tịch Ủy
ban nhân dân quận 7 tổ chức thực hiện Quyết định và báo cáo kết quả cho Ủy ban
nhân dân thành
phố.
Điều 3. Chánh Văn phòng Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân thành phố, Chánh Thanh tra thành phố, Giám
đốc Sở Tài nguyên và Môi trường, Giám đốc Sở Xây dựng, Chủ tịch Ủy
ban nhân dân quận 7 và các ông bà
Nguyễn Văn Bảnh, Phạm Văn Sinh, Lê Phi Long, Đỗ Minh Hải, Hồ Văn Kiên, Trần Quốc
Phương, Nguyễn Thị Hoa Sen, Phạm Thị Bình, Huỳnh Thị Trí Nghĩa, Hà Thị Mai
Trâm, Huỳnh Hữu Tâm có trách nhiệm thi hành Quyết định
này./.
Nơi nhận
- Như Điều 3;
- Văn phòng Chính phủ;
- Thanh tra Chính phủ;
- TTUB: CT, PCT/TT, CNN, ĐT;
- Văn phòng Tiếp công dân TP;
- VPHĐ-UB: PVP/PC, ĐT;
- Phòng PC-NC, ĐTMT;
- Lưu: VT, (PC-L) LH
|
KT.
CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH
Nguyễn Hữu Tín
|