VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TỐI CAO
-------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 421/QĐ-VKSTC
|
Hà Nội, ngày 17 tháng 10 năm 2014
|
QUYẾT ĐỊNH
BAN HÀNH QUY CHẾ CÔNG TÁC KIỂM SÁT VIỆC KHÁM NGHIỆM HIỆN TRƯỜNG, KHÁM
NGHIỆM TỬ THI, THỰC NGHIỆM ĐIỀU TRA VIỆC TIẾN HÀNH GIÁM ĐỊNH
VIỆN TRƯỞNG VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
- Căn cứ Luật tổ chức Viện kiểm
sát nhân dân năm 2002;
- Căn cứ Bộ luật Tố tụng Hình sự năm
2003, Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009 và các văn bản
pháp luật hiện hành,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Ban hành kèm theo Quyết
định này Quy chế công tác kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, kiểm sát khám
nghiệm tử thi, thực nghiệm điều tra, việc tiến hành giám định.
Điều 2. Quy chế công tác kiểm
sát việc khám nghiệm hiện trường, kiểm sát việc khám nghiệm tử thi thực nghiệm
điều tra, việc tiến hành giám định được thực hiện thống nhất trong toàn ngành
Kiểm sát nhân dân, có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký quyết định ban hành.
Điều 3. Thủ trưởng các đơn vị
trực thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
và Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện
Quyết định này./.
Nơi nhận:
- Lãnh đạo VKSNDTC;
- Các đơn vị trực thuộc VKSNDTC;
- VKSND tỉnh, TP trực thuộc Trung ương;
- VKSQS Trung ương;
- Lưu VT, VP.
|
KT.
VIỆN TRƯỞNG
PHÓ VIỆN TRƯỞNG
Bùi Mạnh Cường
|
QUY CHẾ
CÔNG TÁC KIỂM SÁT VIỆC KHÁM NGHIỆM HIỆN TRƯỜNG, KHÁM NGHIỆM TỬ THI, THỰC
NGHIỆM ĐIỀU TRA VIỆC TIẾN HÀNH GIÁM ĐỊNH
(Ban hành kèm theo Quyết định số 421/QĐ-VKSTC ngày 17/11/2014 của Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao)
Chương I
NHỮNG QUY ĐỊNH
CHUNG
Điều 1. Giải
thích từ ngữ
1. Viện kiểm sát nhân dân quận, huyện,
thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh, Viện kiểm sát quân sự khu vực hoặc tương
đương, gọi chung là Viện kiểm sát cấp huyện.
2. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương, Viện kiểm sát quân sự quân khu hoặc tương đương, gọi
chung là Viện kiểm sát cấp tỉnh.
3. Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện
kiểm sát các cấp, Kiểm sát viên được phân công thực hành quyền công tố và kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự, gọi chung
là Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên.
4. Vụ trưởng, Phó Vụ trưởng Vụ thực
hành quyền công tố và kiểm sát điều tra ở Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Trưởng
phòng, Phó Trưởng phòng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra ở Viện kiểm
sát nhân dân cấp tỉnh, gọi chung là Lãnh đạo đơn vị.
Điều 2. Phạm vi
công tác kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm
điều tra
Phạm vi công tác kiểm sát việc khám
nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi bắt đầu từ khi nhận được thông tin về vụ
việc cần khám nghiệm, khám nghiệm bổ sung, khám nghiệm lại đến khi kết thúc việc
khám nghiệm; thực nghiệm điều tra, thực nghiệm điều tra lại đến khi kết thúc thực
nghiệm điều tra, thực nghiệm điều tra lại.
Điều 3. Mục
đích công tác kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi
Công tác kiểm sát việc khám nghiệm hiện
trường, khám nghiệm tử thi của Viện kiểm sát nhằm bảo đảm:
1. Xác định có hay không có tội phạm
xảy ra để xử lý theo quy định của pháp luật. Mọi trường hợp có người bị giết,
nghi bị giết, chết dưới nước, chết treo cổ, chết người do độc tố, do hơi độc,
do điện giật, chết do tai nạn giao thông, chết do tai nạn lao động, và các trường
hợp chết khác chưa rõ nguyên nhân đều phải tổ chức khám nghiệm, trưng cầu giám
định pháp y và điều tra ban đầu tại hiện trường;
2. Việc khám nghiệm hiện trường, khám
nghiệm tử thi và điều tra tại hiện trường phải khách quan, toàn diện, đầy đủ,
chính xác, đúng pháp luật; những vi phạm pháp luật trong quá trình khám nghiệm
phải được phát hiện khắc phục kịp thời và xử lý nghiêm minh;
3. Thông qua kết quả khám nghiệm hiện
trường, khám nghiệm tử thi, xem xét các dấu vết tội phạm, kết quả giám định để
xác định vụ việc có dấu hiệu tội phạm hay không có dấu hiệu tội phạm. Các trường
hợp sau khi khám nghiệm phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì phải khởi tố vụ án
hình sự để điều tra theo quy định của pháp luật.
Điều 4. Nhiệm vụ,
quyền hạn của Kiểm sát viên trong kiểm sát khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm
tử thi
1. Yêu cầu Điều tra viên hoặc những
người biết thông tin về vụ việc cung cấp những thông tin ban đầu liên quan đến
hiện trường, nạn nhân và các tình tiết có liên quan;
2. Kiểm tra thành phần của Hội đồng
khám nghiệm, đảm bảo đúng thành phần theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự
và các văn bản pháp luật có liên quan;
3. Yêu cầu Điều tra viên: Thu giữ,
niêm phong, bảo quản, quản lý tài sản, đồ vật, tài liệu, vật chứng liên quan đến
vụ việc khám nghiệm; lập biên bản khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi tại
nơi khám nghiệm theo đúng quy định của pháp luật; trong trường hợp cần thiết,
kiểm sát việc lấy lời khai của Điều tra viên đối với những người biết sự việc
ngay tại hiện trường;
4. Bám sát việc khám nghiệm, đề ra
các yêu cầu cho Điều tra viên, Bác sỹ pháp y làm rõ các dấu vết thương tích, giải
phẫu tử thi để xác định nguyên nhân chết, sơ bộ kết luận về nguyên nhân chết của
nạn nhân (nếu có thể) để phục vụ công tác truy nguyên hình sự và truy tìm người
phạm tội đối với những vụ án không quả tang;
5. Yêu cầu Điều tra viên, cán bộ kỹ
thuật hình sự xác định chính xác phạm vi hiện trường bao gồm cả hiện trường
chính, hiện trường phụ, hiện trường giả của vụ án, hiện trường nguyên vẹn hay bị
xáo trộn, mở rộng hiện trường để truy tìm dấu vết và hung khí gây án. Phát hiện,
mô tả, thu thập đầy đủ, trung thực, khách quan mọi dấu vết liên quan đến tội phạm
và người phạm tội tại hiện trường; Trong trường hợp cần thiết, Kiểm sát viên có
thể ghi âm, ghi hình;
6. Kiểm tra, đối chiếu giữa sơ đồ hiện
trường, biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản khám nghiệm tử thi với thực
tế hiện trường và diễn biến quá trình khám nghiệm.
Điều 5. Tiếp nhận,
xử lý và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm có liên quan đến khám nghiệm
hiện trường, khám nghiệm tử thi
Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc
Lãnh đạo đơn vị phân công Kiểm sát viên trực nghiệp vụ 24/24 giờ để tiếp nhận,
quản lý đầy đủ tố giác, tin báo về tội phạm có liên quan đến khám nghiệm hiện
trường, khám nghiệm tử thi do cá nhân, cơ quan, tổ chức chuyển đến. Kiểm sát
viên phải ghi vào sổ thụ lý; ghi rõ ngày, tháng, năm tiếp nhận; nội dung tố
giác, tin báo về tội phạm có liên quan đến khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm
tử thi; tên, tuổi và địa chỉ của người hoặc cơ quan, tổ chức cung cấp; kịp thời
báo cáo Lãnh đạo Viện hoặc Lãnh đạo đơn vị kiểm sát điều tra chuyển ngay các tố
giác, tin báo kèm theo các tài liệu có liên quan cho Cơ quan điều tra có thẩm
quyền giải quyết. Nếu là thông tin do Cơ quan điều tra cung cấp, Kiểm sát viên
phải báo cáo ngay Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Lãnh đạo đơn vị để kịp thời
phân công Kiểm sát viên tham gia kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám
nghiệm tử thi.
Điều 6. Thẩm quyền
kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi
1. Thẩm quyền kiểm sát việc khám nghiệm
hiện trường, khám nghiệm tử thi theo thẩm quyền giải quyết các vụ án hình sự và
theo lãnh thổ. Các vụ án giết người, nghi giết người; các vụ tai nạn lao động,
tai nạn giao thông đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp hoặc các vụ việc chết người
xảy ra có liên quan đến yếu tố nước ngoài và các vụ việc đặc biệt nghiêm trọng,
phức tạp do Cơ quan điều tra cấp tỉnh thụ lý thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát
cấp tỉnh;
2. Trong trường hợp vụ việc thuộc thẩm
quyền Viện kiểm sát cấp tỉnh thì Viện kiểm sát cấp huyện có trách nhiệm phân
công Kiểm sát viên phối hợp, tham gia Đoàn khám nghiệm;
3. Giải quyết tranh chấp về thẩm quyền
kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi giữa các Viện kiểm
sát cấp tỉnh do Viện kiểm sát nhân dân tối cao giải quyết; Viện kiểm sát cấp tỉnh
giải quyết tranh chấp thẩm quyền giữa các Viện kiểm sát cấp huyện trong địa
bàn.
Chương II
KIỂM SÁT VIỆC
KHÁM NGHIỆM HIỆN TRƯỜNG, KHÁM NGHIỆM TỬ THI, THỰC NGHIỆM ĐIỀU TRA, VIỆC TIẾN
HÀNH GIÁM ĐỊNH
I. KIỂM SÁT VIỆC
KHÁM NGHIỆM HIỆN TRƯỜNG
Điều 7. Trách nhiệm
của Viện kiểm sát trong kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường
Viện kiểm sát hai cấp (tỉnh và huyện)
phải phân công Kiểm sát viên kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường đối với tất
cả các vụ việc mà Cơ quan điều tra tiến hành khám nghiệm theo quy định của pháp
luật. Đối với các vụ việc phức tạp, các vụ án giết người không quả tang, các vụ
án tai nạn giao thông gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, các vụ án mà người phạm
tội là nhân sỹ trí thức hoặc các chức sắc tôn giáo, các vụ án được dư luận xã hội
đặc biệt quan tâm thì Lãnh đạo Viện kiểm sát hoặc Lãnh đạo đơn vị kiểm sát điều
tra phải trực tiếp cùng Kiểm sát viên tham gia kiểm sát việc khám nghiệm hiện
trường, khám nghiệm tử thi.
Điều 8. Nhiệm vụ
của Kiểm sát viên trước khi khám nghiệm hiện trường
Trước khi khám nghiệm hiện trường, Kiểm
sát viên phải chủ động nắm tình hình, yêu cầu Điều tra viên thông báo sự việc xảy
ra để tham gia ý kiến vào việc chuẩn bị khám nghiệm, chủ động yêu cầu Điều tra
viên tiến hành khám nghiệm hiện trường và lập biên bản khám nghiệm hiện trường
theo đúng quy định tại Điều 150 và Điều 154 BLTTHS;
Điều 9. Nhiệm vụ
của Kiểm sát viên trong quá trình kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường
1. Kiểm sát viên phải nắm chắc nhiệm
vụ của công tác kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường đối với từng trường hợp cụ
thể. Chủ động phối hợp với Điều tra viên để thống nhất nội dung, trình tự khám
nghiệm hiện trường nhằm đảm bảo tính khách quan của việc khám nghiệm đúng quy định
của pháp luật.
Kiểm tra việc lấy lời khai những người
biết sự việc ngay tại hiện trường, nếu thấy người làm chứng, người bị hại hoặc
đối tượng có thể chết hoặc mất khả năng khai báo, Kiểm sát viên phải yêu cầu Điều
tra viên lấy ngay lời khai và ghi âm lời khai của họ;
2. Kiểm sát viên phải nắm tình hình về
hiện trường qua thông báo của Điều tra viên, dư luận nhân dân xung quanh hiện
trường; tự mình quan sát và phân tích các yếu tố để đánh giá tình trạng hiện
trường xem còn nguyên vẹn hay đã bị thay đổi, nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi ấy
(các yếu tố con người, yếu tố thời tiết mưa nắng, bão lụt và động vật qua lại...);
xác định phạm vi cần khám nghiệm và những loại dấu vết, đồ vật cần được xem
xét, thu giữ để tham gia cùng với Điều tra viên;
3. Trong quá trình khám nghiệm hiện
trường, Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ các hoạt động khám nghiệm. Kiểm
sát viên có thể chụp hình, ghi hình, vẽ sơ đồ, mô tả hiện trường, xem xét tại
chỗ dấu vết, đồ vật, tài liệu có liên quan đến tội phạm, lấy lời khai và ghi âm
lời khai của người bị hại, người làm chứng... Các tài liệu này được lưu trong hồ
sơ kiểm sát;
4. Đề xuất yêu cầu khám nghiệm trên
cơ sở tư duy nghiên cứu cơ chế, quy luật hình thành dấu vết để có thể phát hiện
được loại dấu vết nào, ở đâu; dấu vết hình thành đúng hay trái với quy luật
thông thường, sự phù hợp hay mâu thuẫn giữa các dấu vết, vật chứng để yêu cầu
thu thập đầy đủ, tránh trường hợp làm mất, hư hỏng dấu vết hoặc làm thay đổi
tình trạng hiện trường. Chú ý xác định có hay không việc tạo hiện trường giả
sau khi gây án;
5. Phối hợp cùng với Điều tra viên
đánh giá dấu vết, vật chứng đã thu lượm được để đặt ra các giả thuyết điều tra,
định hướng cho việc khám nghiệm, thu giữ dấu vết được đầy đủ, chính xác và công
tác truy tìm vật chứng, truy bắt thủ phạm;
6. Chú ý xác định các dấu vết, đồ vật,
các tài liệu quan trọng cần xem xét để yêu cầu Điều tra viên thu giữ. Những dấu
vết, đồ vật, mẫu vật, tài liệu thu giữ phải được bảo quản nguyên trạng để phục
vụ cho việc giám định và sử dụng làm chứng cứ;
7. Yêu cầu Điều tra viên, kỹ thuật
viên thực hiện đúng trình tự, thủ tục tố tụng quy định về khám nghiệm, mô tả
đúng thực trạng hiện trường, thu lượm và xem xét tại chỗ dấu vết của tội phạm,
đồ vật, tài liệu có liên quan đến vụ án đảm bảo khách quan, toàn diện và triệt
để;
8. Kiểm sát viên phải ghi chép cẩn thận
các tình tiết, đặc điểm các dấu vết quan trọng tại hiện trường; vẽ sơ đồ, mô tả
đặc điểm những phần, vị trí quan trọng để có cơ sở, tư liệu đối chiếu kiểm tra
biên bản, sơ đồ khám nghiệm hiện trường. Yêu cầu biên bản khám nghiệm hiện trường
phải được lập, sơ đồ hiện trường phải được vẽ ngay tại nơi khám nghiệm;
9. Phối hợp cùng Điều tra viên phân
tích, đánh giá đúng kết quả khám nghiệm; xem xét quyết định kết thúc khám nghiệm
hoặc tiếp tục bảo vệ hiện trường để có thể khám nghiệm bổ sung, khám nghiệm lại;
xác định rõ những dấu vết, vật chứng cần được trưng cầu giám định, nội dung cần
trưng cầu để phục vụ cho công tác điều tra, giải quyết vụ án.
10. Yêu cầu Điều tra viên quán triệt
những người tham gia khám nghiệm giữ bí mật về kết quả khám nghiệm hiện trường,
không được tiết lộ, gây khó khăn cho công tác điều tra.
Điều 10. Những
công việc cần làm sau khi kết thúc việc khám nghiệm hiện trường
Sau khi kết thúc việc khám nghiệm hiện
trường, Kiểm sát viên phải báo cáo bằng văn bản và đưa ra quan điểm của mình
trước Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Lãnh đạo đơn vị về kết quả khám nghiệm
hiện trường và những yêu cầu của Kiểm sát viên không được Điều tra viên thực hiện
(nếu có) để có ý kiến chỉ đạo; trong khi kiểm sát việc khám nghiệm hoặc sau khi
kết thúc khám nghiệm, nếu thấy việc khám nghiệm chưa đầy đủ, vi phạm các quy định
tại Điều 150 và Điều 154 BLTTHS thì yêu cầu Điều tra viên khắc phục.
Điều 11. Kiểm
sát việc thực nghiệm điều tra
1. Kiểm sát viên báo cáo với Lãnh đạo
đơn vị để ra văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành thực nghiệm điều tra đối
với những vụ án cần kiểm tra và xác minh những tài liệu, những tình tiết có ý
nghĩa đối với vụ án. Kiểm sát viên cần nghiên cứu nội dung, kế hoạch thực nghiệm
điều tra, kiểm sát việc thực nghiệm điều tra, bảo đảm việc thực nghiệm điều tra
và lập biên bản thực nghiệm điều tra tuân thủ đúng các quy định tại Điều 153 và
Điều 154 BLTTHS;
2. Kiểm sát viên có thể tham gia việc
thực nghiệm điều tra. Khi tham gia thực nghiệm điều tra, Kiểm sát viên thông
báo trước cho Điều tra viên biết;
3. Trong quá trình điều tra, nếu thấy
cần thực nghiệm điều tra để kiểm tra mâu thuẫn giữa lời khai của bị can, của những
người tham gia tố tụng khác với thực tế khách quan thì Viện kiểm sát yêu cầu để
Cơ quan điều tra tiến hành thực nghiệm điều tra.
Sau khi Viện kiểm sát đã nhận hồ sơ vụ
án và bản kết luận điều tra của Cơ quan điều tra, qua nghiên cứu xét thấy cần
phải dựng lại hiện trường hoặc thực nghiệm điều tra tại hiện trường để kiểm
tra, đánh giá chứng cứ, tình tiết vụ án thì Kiểm sát viên báo cáo Viện trưởng,
Phó Viện trưởng hoặc Lãnh đạo đơn vị trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để thực
nghiệm điều tra hoặc thực nghiệm điều tra lại.
Trường hợp thấy việc thực nghiệm điều
tra hoặc thực nghiệm điều tra lại đối với hành vi, tình huống đơn giản mà không
cần phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc
Lãnh đạo đơn vị chủ trì, phối hợp với Cơ quan điều tra tổ chức việc thực nghiệm
điều tra. Việc thực nghiệm điều tra và lập biên bản thực nghiệm điều tra của Viện
kiểm sát phải tuân thủ các quy định tại Điều 153 và Điều 154 BLTTHS. Biên bản
thực nghiệm điều tra phải được đưa vào hồ sơ vụ án và sao lưu hồ sơ kiểm sát một
bản.
II. KIỂM SÁT VIỆC
KHÁM NGHIỆM TỬ THI
Điều 12. Nhiệm vụ
quyền hạn của Kiểm sát viên trước khi khám nghiệm tử thi
Trong mọi trường hợp, Kiểm sát viên
phải có mặt để kiểm sát việc khám nghiệm tử thi theo quy định của pháp luật.
Khi thấy cần thiết, Lãnh đạo đơn vị có thể trực tiếp cùng Kiểm sát viên kiểm
sát việc khám nghiệm tử thi.
Kiểm sát viên phải chủ động phối hợp
với Điều tra viên để thống nhất nội dung khám nghiệm, yêu cầu Điều tra viên báo
cáo cáo tóm tắt nội dung vụ việc trước khi tiến hành khám nghiệm và thực hiện
đúng về thành phần Hội đồng khám nghiệm, thời gian, địa điểm tiến hành khám
nghiệm theo các quy định tại Điều 151 và Điều 154 BLTTHS về khám nghiệm tử thi,
lập biên bản khám nghiệm tử thi theo quy định.
Điều 13. Nhiệm vụ
quyền hạn của Kiểm sát viên trong quá trình khám nghiệm tử thi
1. Trong quá trình khám nghiệm, Kiểm
sát viên yêu cầu Hội đồng khám nghiệm xem xét đầy đủ, toàn diện các dấu vết, thu
thập đủ vật phẩm, tài liệu, chứng cứ để làm rõ nguyên nhân chết, tung tích của
nạn nhân;
2. Nếu phát hiện việc khám nghiệm tử
thi vi phạm các quy định tại Điều 151 và Điều 154 BLTTHS, Kiểm sát viên trao đổi
với Điều tra viên khắc phục vi phạm hoặc báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng
hoặc Lãnh đạo đơn ra văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra kịp thời khắc phục;
3. Trường hợp phải khai quật tử thi để
khám nghiệm, Kiểm sát viên phải kiểm tra về trình tự, thủ tục tiến hành khai quật
theo đúng quy định tại Điều 151 Bộ luật tố tụng hình sự và các văn bản liên
quan.
Điều 14. Những
công việc cần làm sau khi kết thúc việc khám nghiệm tử thi
Sau khi kết thúc khám nghiệm, Kiểm
sát viên vào sổ thụ lý khám nghiệm, đồng thời báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng
hoặc Lãnh đạo đơn vị về kết quả khám nghiệm tử thi để có ý kiến chỉ đạo.
Điều 15. Kiểm
sát việc trưng cầu giám định và việc tiến hành giám định
1. Kiểm sát viên phải chủ động phát
hiện các vấn đề cần phải giám định để báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc
Lãnh đạo đơn vị ra văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra trưng cầu giám định.
Kiểm sát viên phải kiểm sát việc
trưng cầu giám định của Cơ quan điều tra nhằm bảo đảm nội dung trưng cầu giám định
phải cụ thể, sát sự việc và những vấn đề cần kết luận. Trong trường hợp cần thiết
đối với vụ việc phức tạp thì Kiểm sát viên tham dự giám định nhưng phải báo trước
cho người giám định theo đúng quy định tại các Điều 155, 156, 157 Bộ luật Tố tụng
hình sự;
2. Nếu thấy nội dung kết luận giám định
chưa rõ, chưa đầy đủ về những nội dung trưng cầu hoặc phát sinh những vấn đề mới
liên quan đến các tình tiết vụ án đã được kết luận trước đó, thì Kiểm sát viên
thụ lý giải quyết vụ án báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Lãnh đạo đơn
vị ra văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra trưng cầu giám định bổ sung hoặc trực tiếp
ra quyết định trưng cầu giám định bổ sung, hoặc yêu cầu cơ quan giám định giải
thích những vấn đề chưa rõ trong kết luận giám định.
4. Nếu thấy nghi ngờ về kết quả giám
định hoặc có mâu thuẫn trong các kết luận giám định về cùng một vấn đề thì Kiểm
sát viên báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Lãnh đạo đơn ra văn bản yêu
cầu Cơ quan điều tra ra quyết định trưng cầu giám định lại hoặc trực tiếp ra
quyết định trưng cầu giám định lại.
Chương III
XỬ LÝ VI PHẠM VÀ
CHẾ ĐỘ BÁO CÁO
Điều 16. Phát hiện
và xử lý vi phạm
1. Nghiêm cấm mọi trường hợp Kiểm sát
viên không trực tiếp tham gia kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm
tử thi, thực nghiệm điều tra, tiến hành giám định nhưng vẫn ký vào các loại
biên bản trên. Kiểm sát viên phải có mặt tại hiện trường để kiểm sát khám nghiệm,
kịp thời phát hiện vi phạm pháp luật trong quá trình khám nghiệm để yêu cầu khắc
phục, báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Lãnh đạo đơn vị yêu cầu Thủ trưởng
Cơ quan điều tra xử lý nghiêm minh Điều tra viên đã vi phạm pháp luật trong quá
trình khám nghiệm. Nếu vi phạm của Điều tra viên có dấu hiệu tội phạm, thì Viện
trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Lãnh đạo đơn vị có văn bản yêu cầu Cơ quan điều
tra có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự. Nếu hành vi của Điều tra viên có dấu
hiệu tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp thì chuyển tài liệu đến Cơ quan điều
tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao khởi tố, điều tra theo thẩm quyền.
Điều 17. Chế độ
báo cáo
1. Các Viện kiểm sát địa phương, Viện
kiểm sát quân sự các cấp phải thực hiện nghiêm chỉnh chế độ báo cáo nghiệp vụ
theo Quy chế về thông tin báo cáo, quản lý công tác trong ngành Kiểm sát nhân
dân; báo cáo và tổng hợp các vi phạm trong công tác khám nghiệm hiện trường,
khám nghiệm tử thi, kiến nghị các cấp có thẩm quyền xử lý, khắc phục vi phạm.
Viện kiểm sát nhân dân cấp trên kiểm tra hướng dẫn về nghiệp vụ công tác kiểm
sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi đối với Viện kiểm sát cấp
dưới
2. Vụ Thực hành quyền công tố và kiểm
sát điều tra án hình sự về trật tự xã hội (Vụ 1A) có trách nhiệm tham mưu, giúp
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện
Quy chế này trong ngành Kiểm sát; tổng hợp những khó khăn, vướng mắc, vi phạm
trong công tác khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi và kiểm sát việc
khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm điều tra và tiến hành
giám định báo cáo Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định.
Chương IV
ĐIỀU KHOẢN THI
HÀNH
Điều 18. Điều
khoản thi hành
Thủ trưởng các đơn vị trực thuộc Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện
và Viện kiểm sát quân sự các cấp nghiêm chỉnh thực hiện Quy chế này.
Trong quá trình thực hiện có phát
sinh khó khăn, vướng mắc thì báo cáo về Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Vụ 1A)
để có hướng dẫn hoặc sửa đổi, bổ sung kịp thời.