HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
|
CỘNG HÒA XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số:
/2019/NQ-HĐTP
|
Hà Nội,
ngày tháng năm 2019
|
DỰ THẢO 1
|
|
NGHỊ QUYẾT
HƯỚNG DẪN THI HÀNH MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ
VỀ THỦ TỤC CÔNG NHẬN VÀ CHO THI HÀNH TẠI VIỆT NAM PHÁN QUYẾT CỦA TRỌNG TÀI NƯỚC
NGOÀI TẠI TÒA ÁN CẤP SƠ THẨM
HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
Căn cứ Luật Tổ chức Tòa án nhân dân;
Để thi hành đúng và thống nhất các quy định của
Bộ luật tố tụng dân sự về thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán
quyết của Trọng tài nước ngoài;
Sau khi có ý kiến thống nhất của Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ trưởng Bộ Tư pháp,
QUYẾT NGHỊ:
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
Nghị quyết này hướng dẫn thi hành một số quy định
tại Phần thứ VII của Bộ luật tố tụng dân sự về thủ tục công nhận và cho thi
hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài nước ngoài tại Tòa án cấp sơ thẩm.
Điều 2. Phán quyết của Trọng
tài nước ngoài được xem xét công nhận và cho thi hành tại Việt Nam
1. Phán quyết của Trọng tài nước ngoài được xem
xét công nhận và cho thi hành tại Việt Nam theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều
424 của Bộ luật tố tụng dân sự nếu đáp ứng được các điều kiện sau đây:
a) Là phán quyết cuối cùng của Hội đồng trọng
tài giải quyết toàn bộ nội dung vụ tranh chấp, chấm dứt tố tụng trọng tài và có
hiệu lực thi hành;
b) Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoặc
liên quan đến các quan hệ pháp luật thương mại;
c) Địa điểm Hội đồng trọng tài tiến hành giải
quyết tranh chấp ở ngoài lãnh thổ của Việt Nam và trên lãnh thổ của một trong
các nước thành viên Công ước Niu-oóc của Liên hợp quốc năm 1958 về công nhận và
cho thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài;
d) Pháp luật điều chỉnh tố tụng trọng tài là
pháp luật của nước nơi Hội đồng trọng tài tiến hành giải quyết tranh chấp.
2. Phán quyết của Trọng tài nước ngoài được xem
xét công nhận và cho thi hành tại Việt Nam theo nguyên tắc có đi có lại quy định
tại điểm b khoản 1 Điều 424 của Bộ luật tố tụng dân sự nếu đáp ứng được các điều
kiện sau đây:
a) Các điều kiện quy định tại điểm a, b và d khoản
1 Điều này;
b) Địa điểm Hội đồng trọng tài tiến hành giải
quyết tranh chấp khác với địa điểm quy định tại điểm c khoản 1 Điều này.
3. Quyết định của Hội đồng trọng tài quy định tại
khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này về việc công nhận sự thỏa thuận giữa các bên
đương sự cũng được xem xét công nhận và cho thi hành tại Việt Nam theo quy định
tại Điều 424 của Bộ luật tố tụng dân sự.
4. Danh sách các nước thành viên Công ước
Niu-oóc của Liên hợp quốc năm 1958 về công nhận và cho thi hành phán quyết của
Trọng tài nước ngoài được ban hành kèm theo Nghị quyết này. Tòa án nhân dân tối
cao có trách nhiệm cập nhật, thông báo cho các Tòa án danh sách các nước thành
viên mới của Công ước.
Điều 3. Quyết định của Trọng
tài nước ngoài không được xem xét công nhận và cho thi hành tại Việt Nam
Các quyết định của Trọng tài nước ngoài sau đây
không được xem xét công nhận và cho thi hành tại Việt Nam:
1. Quyết định về thủ tục tố tụng trọng tài, bao
gồm: quyết định về hiệu lực của thỏa thuận Trọng tài, thẩm quyền giải quyết
tranh chấp của Trọng tài, chỉ định, thay đổi Trọng tài viên, ngôn ngữ sử dụng
trong tố tụng trọng tài, luật áp dụng để giải quyết tranh chấp, áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời.
2. Quyết định
khác về quá trình tố tụng của Trọng tài nước ngoài theo quy chế tố tụng trọng
tài, quy định pháp luật của nước nơi Hội đồng trọng tài tiến hành giải quyết
tranh chấp.
Điều 4. Thời hiệu công nhận
và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài nước ngoài
1. Thời hiệu 03 năm quy định tại Điều 451 của Bộ
luật tố tụng dân sự để nộp đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam
phán quyết của Trọng tài nước ngoài được tính từ ngày phán quyết trọng tài có
hiệu lực theo quy định pháp luật của nước nơi phán quyết đó được tuyên.
2. Nước nơi phán quyết trọng tài được tuyên quy
định tại khoản 1 Điều này là nước nơi Hội đồng trọng tài tiến hành giải quyết
tranh chấp, không phụ thuộc vào việc Hội đồng trọng tài mở hoặc không mở phiên
họp tại nước đó hoặc nước khác để tuyên phán quyết.
Điều 5. Đơn yêu cầu công nhận
và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài nước ngoài
1. Người yêu cầu công nhận phán quyết của Trọng
tài nước ngoài (sau đây gọi tắt là người yêu cầu) tự mình hoặc ủy quyền cho người
khác lập, ký đơn yêu cầu quy định tại Điều 452 của Bộ luật tố tụng dân sự như
sau:
a) Nếu người yêu cầu là cá nhân hoặc cơ quan, tổ
chức lập đơn yêu cầu, thì cá nhân hoặc người đại diện theo pháp luật của cơ
quan, tổ chức đó ký tên vào đơn;
b) Việc đóng dấu vào đơn yêu cầu được thực hiện
theo quy định của pháp luật Việt Nam nếu người yêu cầu là cơ quan, tổ chức của
Việt Nam hoặc theo pháp luật của nước nơi người yêu cầu là cơ quan, tổ chức được
thành lập, có trụ sở hoặc có hoạt động chính;
c) Người yêu cầu có thể ủy quyền cho người người
đại diện hoặc người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp tại Việt Nam nhân danh người
yêu cầu lập, ký đơn yêu cầu.
2. Đơn yêu cầu bằng tiếng nước ngoài phải được dịch
ra tiếng Việt, có công chứng bản dịch hoặc chứng thực chữ ký của người dịch
theo quy định của pháp luật Việt Nam.
3. Đơn yêu cầu được lập theo Mẫu số 01 ban
hành kèm theo Nghị quyết này.
Điều 6. Giấy tờ, tài liệu nộp
kèm theo đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng
tài nước ngoài
1. Người yêu cầu phải nộp
kèm theo đơn yêu cầu giấy tờ, tài liệu quy định tại khoản 1 Điều 453 của Bộ luật
tố tụng dân sự.
2. Tòa án chấp nhận giấy tờ, tài liệu bằng tiếng
nước ngoài nộp kèm theo đơn yêu cầu nếu đảm bảo các điều kiện sau đây:
a) Bản chính, bản sao từ bản chính của giấy tờ
tài liệu đó đã được công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật của nước
nơi Hội đồng trọng tài tiến hành giải quyết tranh chấp hoặc bản sao từ bản
chính của giấy tờ tài liệu đó đã được chứng thực theo quy định của pháp luật Việt
Nam;
c) Bản dịch sang tiếng Việt của giấy tờ, tài liệu
đó đã được công chứng hoặc chứng thực chữ ký người dịch theo quy định của pháp
luật Việt Nam.
Điều 7. Hồ sơ yêu cầu công
nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài nước ngoài
1. Hồ sơ yêu cầu công nhận và cho thi hành tại
Việt Nam phán quyết của Trọng tài nước ngoài bao gồm đơn yêu cầu và giấy tờ,
tài liệu quy định tại Điều 5 và Điều 6 Nghị quyết này.
2. Người yêu cầu nộp 02 bộ hồ sơ cho Tòa án có
thẩm quyền của Việt Nam, không phân biệt hồ sơ đó được gửi thông qua Bộ Tư pháp
theo quy định tại điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là thành viên, gửi theo đường bưu chính hoặc nộp trực tiếp tại Tòa án theo quy
định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Điều 8. Tòa án có thẩm quyền
xem xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng
tài nước ngoài
1. Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương quy định tại điểm b khoản 1 Điều 37, điểm e khoản 2 Điều 39 của Bộ
luật tố tụng dân sự có thẩm quyền giải quyết đơn yêu cầu công nhận và cho thi
hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài nước ngoài.
2. Người yêu cầu có quyền lựa chọn
Tòa án quy định tại khoản 1 Điều này để nộp đơn yêu cầu công nhận và cho
thi hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài nước ngoài trong các trường hợp
sau đây:
a) Nếu không biết nơi cư trú, làm
việc, trụ sở, chi nhánh của người phải thi hành hoặc người phải thi hành không
cư trú, làm việc, có trụ sở, chi nhánh tại Việt Nam, thì người yêu cầu đề nghị
Tòa án nơi người phải thi hành có tài sản giải quyết;
b) Nếu những người phải thi hành
cư trú, làm việc, có trụ sở ở nhiều nơi khác nhau, thì người yêu cầu đề nghị
Tòa án nơi một trong những người phải thi hành cư trú, làm việc, có trụ sở giải
quyết;
c) Nếu người phải thi hành có bất
động sản và động sản ở nhiều địa phương khác nhau, thì người yêu cầu đề nghị
Tòa án nơi có một trong các bất động sản đó giải quyết;
d) Nếu người phải thi hành có động
sản ở nhiều địa phương khác nhau, thì người yêu cầu đề nghị Tòa án nơi có một
trong các động sản đó giải quyết.
Điều 9. Thông báo nộp lệ phí
yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài nước
ngoài
1. Trường hợp xét thấy đơn yêu cầu và tài liệu,
chứng cứ kèm theo đã đủ điều kiện thụ lý, thì Tòa án thông báo cho người yêu cầu
nộp lệ phí yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng
tài nước ngoài trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo
nộp lệ phí.
2. Tòa án lập thông báo yêu cầu nộp lệ phí yêu cầu
công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài nước ngoài như
sau:
a) Theo Mẫu số 02 ban hành kèm theo Nghị
quyết này nếu người yêu cầu có địa chỉ tại Việt Nam hoặc người yêu cầu có địa
chỉ ở nước ngoài nhưng đã ủy quyền cho người khác có địa chỉ tại Việt Nam nhận
thay văn bản tố tụng của Tòa án;
b) Theo Mẫu số 03 ban hành kèm
theo Nghị quyết này nếu người yêu cầu có địa chỉ ở nước ngoài nhưng không ủy
quyền cho người khác có địa chỉ tại Việt Nam nhận thay văn bản tố tụng của Tòa
án.
Điều 10. Thông báo thụ lý
đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài nước
ngoài
1. Tòa án thụ lý đơn yêu cầu khi người yêu cầu nộp
cho Tòa án biên lai thu tiền lệ phí yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt
Nam phán quyết của Trọng tài nước ngoài.
2. Tòa án lập thông báo thụ lý đơn yêu cầu theo
Mẫu số 04 ban hành kèm theo Nghị quyết này.
Điều 11. Yêu cầu giải thích
những điểm chưa rõ trong đơn trong thời gian chuẩn bị xét đơn yêu cầu
1. Trong thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu, Tòa
án yêu cầu người nộp đơn giải thích những điểm chưa rõ trong đơn theo quy định
tại khoản 1 Điều 457 Bộ luật tố tụng dân sự nếu xác định thấy nội dung đơn thể
hiện có sự thỏa thuận giữa các bên liên quan đến việc thi hành phán quyết của
Trọng tài nước ngoài nhưng không nêu cụ thể chi tiết về thỏa thuận đó.
Ví dụ 1: Đơn yêu cầu có điểm chưa rõ là trường hợp
nội dung đơn thể hiện có sự thỏa thuận giữa người yêu cầu và người phải thi
hành về việc thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài nhưng không nêu cụ thể
về thỏa thuận đó.
Ví dụ 2: Đơn yêu cầu có điểm chưa rõ là trường hợp
nội dung đơn thể hiện người phải thi hành vi phạm thỏa thuận với người yêu cầu
về việc thi hành phán quyết của Trọng tài nhưng không nêu rõ chi tiết về thỏa
thuận và vi phạm của người phải thi hành.
Ví dụ 3: Đơn yêu cầu có điểm chưa rõ là trường hợp
nội dung đơn thể hiện người phải thi hành vi phạm thỏa thuận với người yêu cầu
về việc hai bên sẽ ký, thực hiện các hợp đồng mới để bù trừ nghĩa vụ đã được
xác định trong phán quyết của Trọng tài nước ngoài nhưng không nêu rõ chi tiết
về thỏa thuận và vi phạm của người phải thi hành.
2. Nếu không nhận được văn bản giải thích của
người yêu cầu trong thời hạn đã được gia hạn theo quy định tại khoản 1 Điều 457
của Bộ luật tố tụng dân sự, thì Tòa án phải ra quyết định mở phiên họp xét đơn
yêu cầu, trừ trường hợp có căn cứ để ra quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ
xét đơn yêu cầu quy định tại điểm a hoặc b khoản 1 Điều 457 của Bộ luật này.
Điều 12. Nguyên tắc giải
quyết của Hội đồng xét đơn yêu cầu
1. Theo quy định tại khoản 4 Điều 458 của Bộ luật
tố tụng dân sự, khi xem xét đơn yêu cầu, Hội đồng xét đơn yêu cầu không được
xét xử lại tranh chấp đã được Trọng tài nước ngoài ra phán quyết. Do đó, cần
lưu ý:
a) Hội đồng xét đơn yêu cầu không được xem xét lại
thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trọng tài nước ngoài;
b) Hội đồng xét đơn yêu cầu không được xem xét lại
các tình tiết của tranh chấp, nhận định, áp dụng pháp luật để giải quyết tranh
chấp, quyết định giải quyết tranh chấp được nêu trong phán quyết Trọng tài.
2. Khi xem xét đơn yêu cầu, Hội đồng xét đơn yêu
cầu chỉ kiểm tra, đối chiếu phán quyết của Trọng tài nước ngoài, giấy tờ, tài
liệu kèm theo đơn yêu cầu với các quy định tại Chương XXXV và Chương XXXVII của
Bộ luật tố tụng dân sự, các quy định khác có liên quan của pháp luật Việt Nam
và Công ước Niu-oóc của Liên hợp quốc năm 1958 về công nhận và cho thi hành
phán quyết của Trọng tài nước ngoài, các chứng cứ do người phải thi hành cung cấp
để làm cơ sở cho việc áp dụng hoặc không áp dụng một trong các quy định tại Điều
459 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Điều 13. Thẩm quyền của Hội
đồng xét đơn yêu cầu
1. Sau khi xem xét đơn yêu cầu, giấy tờ, tài liệu
kèm theo, chứng cứ của người phải thi hành cung cấp (nếu có), nghe ý kiến của
người được triệu tập, Kiểm sát viên, Hội đồng xét đơn yêu cầu ra quyết định
công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài nước ngoài nếu
không có căn cứ để từ chối công nhận phán quyết đó theo quy định tại khoản 2 Điều
này.
2. Hội đồng xét đơn yêu cầu chỉ ra quyết định
không công nhận phán quyết của Trọng tài nước ngoài khi xét thấy chứng cứ do
bên phải thi hành cung cấp cho Tòa án là có căn cứ, hợp pháp và thuộc một trong
các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 459 Bộ luật tố tụng dân sự hoặc tự xét
thấy có căn cứ để xác định phán quyết đó thuộc một trong các trường hợp quy định
tại khoản 2 Điều 459 của Bộ luật này.
Điều 14. Nghĩa vụ cung cấp
chứng cứ chứng minh phán quyết của Trọng tài nước ngoài thuộc trường hợp không
được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam
1. Khi phản đối việc công nhận phán quyết
của Trọng tài nước ngoài, người phải thi hành có nghĩa vụ cung cấp cho Tòa án
chứng cứ chứng minh việc phản đối đó là có căn cứ, hợp pháp và thuộc một trong
các trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 459 của Bộ luật tố tụng dân sự.
2. Trường hợp người phải thi hành căn cứ quy định
của pháp luật nước ngoài để phản đối việc công nhận phán quyết của Trọng tài nước
ngoài theo quy định tại khoản 1 Điều 459 của Bộ luật tố tụng dân sự, người phải
thi hành có nghĩa vụ cung cấp cho Tòa án quy định của pháp luật nước ngoài đó.
Người phải thi hành có nghĩa vụ cung cấp cho Tòa
án quy định của pháp luật nước ngoài đã được dịch ra tiếng Việt, có công chứng
bản dịch hoặc chứng thực chữ ký người dịch chậm nhất là vào ngày mở phiên họp
xét đơn yêu cầu. Người phải thi hành chịu trách nhiệm về tính chính xác và hợp
pháp của quy định của pháp luật nước ngoài đã cung cấp cho Tòa án.
3. Tòa án không được ra quyết định tạm đình chỉ
giải quyết đơn yêu cầu hoặc hoãn phiên họp xét đơn yêu cầu với lý do chờ người
phải thi hành cung cấp quy định của pháp luật nước ngoài theo quy định tại khoản
2 Điều này.
Điều 15. Về căn cứ quy định
tại điểm a khoản 1 Điều 459 của Bộ luật tố tụng dân sự
1. Khi xem xét phán quyết của Trọng tài nước
ngoài có thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 Điều 459 của Bộ luật tố tụng
dân sự hay không, Tòa án cần lưu ý:
a) Pháp luật được áp dụng cho mỗi bên để xác định
năng lực ký kết thỏa thuận trọng tài là pháp luật điều chỉnh về năng lực pháp
luật dân sự, năng lực hành vi dân sự đối với mỗi bên ký kết;
b) Pháp luật điều chỉnh về năng lực ký kết thỏa
thuận trọng tài áp dụng cho mỗi bên ký kết là khác nhau. Tòa án không được căn
cứ vào quy định của pháp luật áp dụng cho một bên ký kết này để xác định năng lực
ký kết thỏa thuận trọng tài của bên ký kết kia.
Ví dụ: Trường hợp một doanh nghiệp có trụ sở tại
Việt Nam ký kết thỏa thuận Trọng tài với một doanh nghiệp có trụ sở tại Thụy Sỹ,
thì Tòa án không được căn cứ pháp luật của Việt Nam để xác định năng lực ký kết
thỏa thuận trọng tài của doanh nghiệp Thụy Sỹ.
c) Nếu phản đối việc công nhận phán quyết của Trọng
tài nước ngoài, người phải thi hành chỉ có nghĩa vụ chứng minh theo pháp luật của
một trong các bên ký kết, thì bên ký kết này hoặc bên ký kết kia không có năng
lực để ký thỏa thuận trọng tài. Tòa án không được yêu cầu người phải thi hành
cung cấp chứng cứ chứng minh cả hai bên ký kết đều không có năng lực ký kết thỏa
thuận trọng tài;
Ví dụ: Trường hợp người phải thi hành là doanh
nghiệp có trụ sở tại Việt Nam và người yêu cầu là doanh nghiệp có trụ sở tại Đức,
thì người phải thi hành không phải chứng minh theo quy định của pháp luật Việt
Nam và Đức, cả hai doanh nghiệp đều không có năng lực ký thỏa thuận trọng tài.
d) Tòa án căn cứ quy định của pháp luật về năng
lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự đang có hiệu lực tại thời điểm
các bên ký kết thỏa thuận trọng tài mà bên phải thi hành dẫn chiếu đến để xem
xét năng lực ký kết thỏa thuận thỏa thuận trọng tài của một trong các bên.
2. Trường hợp bên phải thi hành phát hiện thỏa
thuận trọng tài vô hiệu do người ký thỏa thuận trọng tài không có năng lực hoặc
thẩm quyền ký thỏa thuận đó nhưng không phản đối trong quá trình thực hiện tố tụng
trọng tài, thì người phải thi hành không được căn cứ vào lý do này để phản đối
việc công nhận phán quyết của Trọng tài nước ngoài.
Điều 16. Về căn cứ quy định
tại điểm b khoản 1 Điều 459 của Bộ luật tố tụng dân sự
1. Khi xem xét phán quyết của Trọng tài nước
ngoài có thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều 459 của Bộ luật tố tụng
dân sự hay không, Tòa án cần lưu ý:
a) Pháp luật của nước mà các bên đã chọn để áp dụng
cho thỏa thuận trọng tài là pháp luật điều chỉnh hiệu lực của thỏa thuận trọng
tài;
b) Trường hợp hai bên ký kết không lựa chọn pháp
luật điều chỉnh hiệu lực thỏa thuận trọng tài, Tòa án căn cứ vào pháp luật của
nước nơi phán quyết Trọng tài đã được tuyên để xác định giá trị pháp lý của thỏa
thuận trọng tài. Pháp luật của nước nơi phán quyết trọng tài đã được tuyên là
pháp luật về thỏa thuận trọng tài của nước nơi Hội đồng trọng tài tiến hành giải
quyết tranh chấp;
Ví dụ: Doanh nghiệp A có trụ sở tại Việt Nam ký
thỏa thuận Trọng tài với doanh nghiệp B có trụ sở tại Xinh-ga-po như sau: “Mọi
tranh chấp phát sinh từ hoặc liên quan đến hợp đồng này sẽ được các bên yêu cầu
Trung tâm trọng tài quốc tế Xinh-ga-po giải quyết với 03 Trọng tài viên theo
quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài này; địa điểm trọng tài là tại
Xinh-ga-po; luật áp dụng cho hợp đồng là luật Anh; ngôn ngữ Trọng tài là tiếng
Anh”.
Như vậy, trong trường hợp này, các bên không thỏa
thuận luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài. Do đó, luật của nước nơi Hội đồng
trọng tài tiến hành giải quyết tranh chấp (luật của Xinh-ga-po) được sử dụng để
xem xét giá trị pháp lý của thỏa thuận trọng tài giữa doanh nghiệp A và doanh
nghiệp B.
c) Thoả thuận trọng tài hoàn toàn độc lập với hợp
đồng. Việc thay đổi, gia hạn, hủy bỏ hợp đồng, hợp đồng vô hiệu hoặc không thể
thực hiện được không làm mất hiệu lực hoặc giá trị pháp lý của thoả thuận trọng
tài;
d) Thỏa thuận trọng tài giữa các bên phải được
xác lập bằng văn bản giấy hoặc dưới hình thức dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử,
thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và các hình thức tương tự khác.
2. Trường hợp bên phải thi hành phát hiện thỏa
thuận trọng tài không có giá trị pháp lý nhưng không phản đối trong quá trình
thực hiện tố tụng trọng tài, thì người phải thi hành không được căn cứ vào lý
do này để phản đối việc công nhận phán quyết của Trọng tài nước ngoài.
Điều 17. Về căn cứ quy định
tại điểm c khoản 1 Điều 459 của Bộ luật tố tụng dân sự
1. Khi xem xét phán quyết của Trọng tài nước
ngoài có thuộc trường hợp quy định tại điểm c khoản 1 Điều 459 của Bộ luật tố tụng
dân sự hay không, Tòa án cần lưu ý:
a) Người phải thi hành không được thông báo kịp
thời và hợp thức về việc chỉ định Trọng tài viên, về thủ tục giải quyết vụ
tranh chấp tại Trọng tài nước ngoài là những trường hợp mà Trung tâm trọng tài
hoặc Hội đồng trọng tài không gửi văn bản thông báo cho người phải thi hành hoặc
người phải thi hành không nhận được văn bản thông báo theo đúng quy định của
quy tắc tố tụng trọng tài hoặc luật về tố tụng trọng tài của nước nơi Hội đồng
trọng tài tiến hành giải quyết tranh chấp;
b) Bộ luật tố tụng dân sự, các điều ước quốc tế
tương trợ tư pháp về dân sự, Công ước La Hay năm 1965 về tống đạt ra nước ngoài
giấy tờ tư pháp hoặc ngoài tư pháp trong lĩnh vực dân sự hoặc thương mại mà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên không điều chỉnh thủ tục tống
đạt, thông báo văn bản của trọng tài. Do đó, Tòa án không được căn cứ vào các
quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là thành viên để xem xét việc thực hiện tống đạt, thông báo
văn bản của Trung tâm Trọng tài hoặc Hội đồng trọng tài;
c) Nguyên nhân chính đáng khác làm người phải
thi hành không thể thực hiện được quyền tố tụng của mình là trường hợp do sự kiện
bất khả kháng, trở ngại khách quan mà người phải thi hành không thể thực hiện
quyền tố tụng của họ hoặc Hội đồng trọng tài đã vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc
xét xử công bằng, khách quan trong khi giải quyết tranh chấp;
d) Tòa án không được buộc người yêu cầu phải chứng
minh Trung tâm trọng tài hoặc Hội đồng Trọng tài đã thông báo kịp thời và hợp
thức về việc chỉ định Trọng tài viên, thủ tục giải quyết vụ tranh chấp bằng trọng
tài cho người phải thi hành.
2. Một số ví dụ về những trường hợp người phải
thi hành không được thông báo kịp thời và hợp thức về việc chỉ định Trọng tài
viên, về thủ tục giải quyết vụ tranh chấp tại Trọng tài nước ngoài
Ví dụ 1: Văn bản thông báo về việc chỉ định trọng
tài viên, về thủ tục giải quyết vụ tranh chấp tại Trọng tài nước ngoài được gửi
cho người phải thi hành theo kênh tống đạt chính thức quy định tại điều ước quốc
tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Tuy nhiên, sau khi việc
tống đạt thông báo theo kênh này bị từ chối thực hiện, thì Trung tâm trọng tài
hoặc Hội đồng trọng tài không tiếp tục gửi cho người phải thi hành các văn bản
nêu trên.
Ví dụ 2: Văn bản thông báo về thủ tục giải quyết
vụ tranh chấp tại trọng tài mà người phải thi hành nhận được không có thông tin
cụ thể về thời gian, địa điểm mở các phiên họp nên người phải thi hành không thể
tham gia tố tụng.
Ví dụ 3: Theo quy định của thủ tục tố tụng trọng
tài, thì Hội đồng trọng tài phải thực hiện những nỗ lực cần thiết để tìm kiếm địa
chỉ của bị đơn (người phải thi hành) sau khi tống đạt lần thứ nhất không thực
hiện được do địa chỉ của bị đơn không đúng, không đủ chi tiết hoặc bị đơn đã
chuyển đến địa chỉ mới nhưng không rõ địa chỉ mới. Tuy nhiên, sau khi tống đạt
lần thứ nhất không thực hiện được vì một trong các lý do nêu trên, Trung tâm trọng
tài hoặc Hội đồng trọng tài đã không tìm kiếm địa chỉ của bị đơn (người phải
thi hành) hoặc tiếp tục gửi văn bản thông báo tới địa chỉ của đương sự như lần
tống đạt thứ nhất.
Ví dụ 4: Theo quy định của thủ tục tố tụng trọng
tài, văn bản thông báo về danh sách trọng tài viên, trọng tài viên được chỉ định
để giải quyết tranh chấp phải được gửi cho bị đơn (người phải thi hành). Tuy
nhiên, người phải thi hành không nhận được thông báo về họ tên trọng tài viên
được chỉ định tham gia giải quyết tranh chấp.
3. Một số ví dụ về những trường hợp không đủ căn
cứ để chứng minh bên phải thi hành không được thông báo kịp thời và hợp thức về
việc chỉ định trọng tài viên, về thủ tục giải quyết vụ tranh chấp tại Trọng tài
nước ngoài
Ví dụ 1: Người phải thi hành cho rằng người khác
đã ký nhận văn bản thông báo của Trung tâm trọng tài hoặc Hội đồng trọng tài do
tại thời điểm giao nhận văn bản này người phải thi hành đang ở nước ngoài.
Ví dụ 2: Người phải thi hành cho rằng văn bản
thông báo của Trung tâm trọng tài hoặc Hội đồng trọng tài phải được giao trực
tiếp cho người đại diện theo pháp luật của người phải thi hành. Tuy nhiên, trên
thực tế văn bản thông báo đó đã được giao cho bộ phận lễ tân, bảo vệ của tòa
nhà nơi có trụ sở của người phải thi hành.
Ví dụ 3: Người phải thi hành cho rằng họ nhận được
văn bản của Hội đồng trọng tài vào thời gian muộn hơn so với quy định của thủ tục
tố tụng trọng tài. Tuy nhiên, người phải thi hành vẫn tham gia các phiên họp giải
quyết tranh chấp của Hội đồng trọng tài.
4. Một số ví dụ về những trường hợp người phải
thi hành vì nguyên nhân chính đáng khác mà không thể thực hiện được quyền tố tụng
của mình
Ví dụ 1: Hội đồng trọng tài không cho phép người
phải thi hành cung cấp tài liệu, chứng cứ nhưng lại cho phép bên tranh chấp còn
lại thực hiện việc này.
Ví dụ 2: Hội đồng trọng tài cho rằng việc người
phải thi hành cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ để chứng minh yêu cầu của mình
là không cần thiết. Tuy nhiên, trong tiến trình tố tụng sau đó, Hội đồng trọng
tài lại cho rằng yêu cầu của người phải thi hành là không có cơ sở chấp nhận do
không có chứng cứ để chứng minh.
Ví dụ 3: Hội đồng trọng tài không cho phép người
phải thi hành được bình luận hoặc cung cấp chứng cứ để phản đối lập luận hoặc
chứng cứ do bên tranh chấp kia đưa ra tại phiên họp.
Ví dụ 4: Đề nghị hoãn phiên họp của người phải
thi hành với lý do như: ốm nặng, bị tai nạn phải chữa trị tại bệnh viện…hoặc vì
sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan khác như: lũ lụt, sóng thần, động đất…không
được Hội đồng trọng tài chấp nhận.
Ví dụ 5: Phán quyết trọng tài dựa trên những lập
luận không phải do các bên và Hội đồng trọng tài đưa ra trong quá trình tố tụng
dẫn đến các bên không có cơ hội được bình luận về những lập luận đó.
5. Một số ví dụ về những trường hợp không đủ căn
cứ để chứng minh bên phải thi hành có lý do chính đáng nên không thể thực hiện
được quyền tố tụng của mình
Ví dụ 1: Người phải thi hành cho rằng đại diện hợp
pháp của họ không làm đúng, đầy đủ nhiệm vụ của mình trong quá trình tố tụng trọng
tài.
Ví dụ 2: Người phải thi hành cho rằng các chuyên
gia mà Hội đồng trọng tài sử dụng không có năng lực, kinh nghiệm phù hợp với việc
giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, trong suốt quá trình tố tụng, người phải thi
hành không phản đối ý kiến của các chuyên gia hoặc không yêu cầu Hội đồng trọng
tài cung cấp các bản sao báo cáo của các chuyên gia đó.
Ví dụ 3: Người phải thi hành không có mặt tại
phiên họp giải quyết tranh chấp nhưng đã gửi đến Hội đồng trọng tài bản tự bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Ví dụ 4: Người phải thi hành có văn bản gửi
Trung tâm trọng tài hoặc Hội đồng trọng tài để phản đối thẩm quyền của trọng
tài và từ chối không tham gia tố tụng.
Ví dụ 5: Người phải thi hành đề nghị tổ chức
phiên họp vào ngày khác để người làm chứng của người phải thi hành có điều kiện
tham gia phiên họp đó nhưng không được Hội đồng trọng tài đồng ý.
Ví dụ 6: Người phải thi hành cho rằng Hội đồng
trọng tài rút ngắn thời gian kiểm tra chéo người làm chứng hoặc Hội đồng trọng
tài yêu cầu người phải thi hành cung cấp chứng cứ trong một thời hạn quá ngắn,
không đủ để thu thập chứng cứ cần thiết.
Ví dụ 7: Hội đồng trọng tài quyết định sử dụng
loại ngôn ngữ mà người phải thi hành hoặc người phiên dịch của người phải thi
hành không hiểu được trong trường hợp thỏa thuận trọng tài không quy định về loại
ngôn ngữ cụ thể để sử dụng trong tố tụng trọng tài.
Ví dụ 8: Người phải thi hành phát hiện thấy có sự
vi phạm tố tụng trọng tài nhưng vẫn tiếp tục tham gia tố tụng trọng tài và
không có ý kiến phản đối trong thời hạn cho phép theo quy định của quy chế tố tụng
trọng tài hoặc luật về tố tụng trọng tài của nước nơi Hội đồng trọng tài tiến
hành giải quyết tranh chấp.
Điều 18. Về căn cứ quy định
tại điểm d khoản 1 Điều 459 của Bộ luật tố tụng dân sự
1. Khi xem xét phán quyết của Trọng tài nước
ngoài có thuộc trường hợp quy định tại điểm d khoản 1 Điều 459 của Bộ luật tố tụng
dân sự hay không, Tòa án cần lưu ý:
a) Tranh chấp mà các bên yêu cầu Trọng tài giải
quyết là tranh chấp nêu trong thỏa thuận trọng tài, kể cả trường hợp thỏa thuận
đó được các bên sửa đổi, bổ sung bằng việc ký văn bản thỏa thuận chi tiết theo
mẫu của một tổ chức trọng tài cụ thể với mục đích đưa tranh chấp ra giải quyết
tại tổ chức trọng tài đó;
b) Tranh chấp nêu trong thỏa thuận trọng tài phải
thuộc thẩm quyền giải quyết của Hội đồng trọng tài đã ra phán quyết;
c) Yêu cầu giải quyết cụ thể của các bên đương sự
trong quá trình tố tụng trọng tài có thể vượt quá phạm vi yêu cầu mà các bên đã
thống nhất trong thỏa thuận trọng tài. Do đó, Tòa án chỉ xem xét phán quyết của
Trọng tài nước ngoài có thuộc trường hợp vượt quá phạm vi điều chỉnh của thỏa
thuận trọng tài; không xem xét phán quyết đó có vượt quá yêu cầu của các bên
đương sự trong tiến trình tố tụng trọng tài hay không;
d) Phần quyết định trong phán quyết của Trọng
tài nước ngoài được tách để xem xét, công nhận là phần Hội đồng trọng tài đã giải
quyết đúng với yêu cầu của các bên tranh chấp thể hiện trong thỏa thuận trọng
tài.
2. Một số ví dụ về tranh chấp không được các bên
yêu cầu giải quyết hoặc vượt quá yêu cầu của các bên; phần quyết định trong
phán quyết của Trọng tài nước ngoài cần được xem xét, công nhận
Ví dụ 1: Phán quyết của Hội đồng trọng tài đã dựa
trên hợp đồng mà hợp đồng đó không nằm trong phạm vi điều chỉnh của thỏa thuận
trọng tài đã được các bên ký kết.
Ví dụ 2: Thỏa thuận trọng tài phân biệt rõ đối với
một số tranh chấp cụ thể sẽ giải quyết tại Trọng tài trong nước, các tranh chấp
khác sẽ giải quyết tranh chấp tại Trọng tài nước ngoài. Tuy nhiên, trong phán
quyết của Trọng tài nước ngoài có cả phần quyết định giải quyết đối với tranh
chấp mà hai bên đã thỏa thuận giải quyết tại Trọng tài trong nước.
Ví dụ 3: Phán quyết của Trọng tài nước ngoài có
một phần quyết định về quyền, nghĩa vụ đối với người thứ ba không liên quan hoặc
không phải là một bên trong thỏa thuận trọng tài.
Ví dụ 4: Phán quyết của Trọng tài nước ngoài về
giải quyết tranh chấp đối với một số hợp đồng nhưng trong đó có một hợp đồng
không thuộc phạm vi điều chỉnh của thỏa thuận Trọng tài giữa các bên. Trong trường
hợp này, phần phán quyết đối với các hợp đồng thuộc phạm vi điều chỉnh của thỏa
thuận trọng tài sẽ được xem xét, công nhận.
Ví dụ 5: Phán quyết của Trọng tài nước ngoài có
một phần quyết định về quyền, nghĩa vụ đối với người thứ ba không liên quan hoặc
không phải là một bên trong thỏa thuận trọng tài. Trong trường hợp này, phần
phán quyết đối với tranh chấp theo thỏa thuận trọng tài sẽ được xem xét, công
nhận.
Điều 19. Về căn cứ quy định
tại điểm đ khoản 1 Điều 459 của Bộ luật tố tụng dân sự
1. Khi xem xét phán quyết của Trọng tài nước
ngoài có thuộc trường quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 459 của Bộ luật tố tụng
dân sự hay không, Tòa án cần lưu ý:
a) Các bên có quyền thống nhất với nhau trong thỏa
thuận trọng tài về số lượng trọng tài viên, luật tố tụng trọng tài hoặc quy tắc
trọng tài của tổ chức trọng tài cần áp dụng để giải quyết tranh chấp;
b) Pháp luật của nước nơi phán quyết của Trọng
tài nước ngoài đã được tuyên là pháp luật của nước nơi Hội đồng trọng tài tiến
hành giải quyết tranh chấp;
c) Tòa án chỉ căn cứ vào luật tố tụng trọng tài
của nước nơi Hội đồng trọng tài tiến hành giải quyết tranh chấp để xem xét về
thành phần của Hội đồng trọng tài, thủ tục tố tụng trọng tài khi các bên không
thỏa thuận với nhau về vấn đề này trong thỏa thuận trọng tài;
d) Trường hợp có sự khác nhau giữa thỏa thuận trọng
tài và luật tố tụng trọng tài của nước nơi Hội đồng Trọng tài tiến hành giải
quyết tranh chấp về thành phần của Hội đồng trọng tài, thủ tục tố tụng trọng
tài, thì thỏa thuận trọng tài giữa các bên được ưu tiên áp dụng;
đ) Tòa án chỉ từ chối công nhận phán quyết của
Trọng tài nước ngoài nếu những vi phạm về tố tụng trọng tài là nghiêm trọng hoặc
xét thấy có mối quan hệ nhân quả giữa vi phạm tố tụng trọng tài với phán quyết
trọng tài;
e) Trường hợp người phải thi hành phát hiện thấy
có sự vi phạm thỏa thuận trọng tài về số lượng, thành phần trọng tài viên, luật
tố tụng trọng tài hoặc quy tắc trọng tài của tổ chức trọng tài cụ thể cần được
áp dụng để giải quyết tranh chấp nhưng không đưa ra ý kiến phản đối trong quá
trình tố tụng trọng tài, thì người phải thi hành không được dựa vào lý do này để
phản đối việc công nhận phán quyết trọng tài.
2. Một số ví dụ về những trường hợp thành phần
trọng tài viên, thủ tục tố tụng trọng tài không đúng với thỏa thuận trọng tài
giữa các bên
Ví dụ 1: Theo thỏa thuận trọng tài, các trọng
tài viên được hai bên chỉ định sẽ thống nhất lựa chọn trọng tài viên thứ ba.
Trường hợp các trọng tài viên không thống nhất được việc lựa chọn trọng tài
viên thứ ba, thì Tòa án nước nơi có địa điểm giải quyết tranh chấp sẽ chỉ định
theo yêu cầu của một trong các bên. Tuy nhiên, sau khi chỉ định trọng tài viên
cho mình, một bên của thỏa thuận trọng tài đã yêu cầu Tòa án chỉ định trọng tài
viên thứ ba.
Ví dụ 2: Theo thỏa thuận trọng tài, thì 03 trọng
tài viên sẽ được lựa chọn, chỉ định theo quy tắc tố tụng trọng tài của một tổ
chức trọng tài cụ thể để giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, trên thực tế chỉ có
2 Trọng tài viên được chọn thay vì 03 trọng tài viên như các bên đã thống nhất
trong thỏa thuận trọng tài. Do đó, trong trường hợp này, phán quyết trọng tài
chỉ do 2 trọng tài viên tuyên là sự vi phạm thỏa thuận trọng tài giữa các bên.
Ví dụ 3: Theo thỏa thuận trọng tài, các bên thống
nhất với nhau tất cả tranh chấp giữa các bên sẽ được giải quyết trong cùng một
vụ kiện và cùng một thủ tục trọng tài. Tuy nhiên, Hội đồng trọng tài đã tách
các tranh chấp thành hai vụ kiện và tuyên thành hai phán quyết khác nhau. Do
đó, trong trường hợp này, việc tách tranh chấp thành các vụ kiện để giải quyết
là sự vi phạm nghiêm trọng về tố tụng trọng tài của Hội đồng trọng tài.
Điều 20. Về căn cứ quy định
tại điểm e khoản 1 Điều 459 của Bộ luật tố tụng dân sự
1. Khi xem xét phán quyết của Trọng tài nước
ngoài có thuộc trường hợp quy định tại điểm e khoản 1 Điều 459 của Bộ luật tố tụng
dân sự hay không, Tòa án cần lưu ý:
a) Vấn đề phán quyết của Trọng tài nước ngoài có
hiệu lực hay chưa có hiệu lực được xác định theo quy định pháp luật của nước
nơi Hội đồng Trọng tài tiến hành giải quyết tranh chấp.
Ví dụ: Pháp luật của nước A nơi Hội đồng trọng
tài tiến hành giải quyết tranh chấp quy định phán quyết của Trọng tài nước
ngoài có hiệu lực với các bên tranh chấp nếu trong một thời hạn cụ thể mà phán
quyết đó không bị một bên tranh chấp yêu cầu Tòa án nước này hủy hoặc yêu cầu hủy
phán quyết đó đã bị Tòa án nước này bác bỏ. Như vậy, phán quyết của Trọng tài
nước ngoài được tuyên trên lãnh thổ nước A được coi là có hiệu lực khi đáp ứng
được một trong các điều kiện nêu trên.
b) Hiệu lực của phán quyết của Trọng tài nước
ngoài đối với các bên tranh chấp không phụ thuộc vào việc phán quyết đó có thể
thi hành hay không thể thi hành tại nước nơi Hội đồng trọng tài tiến hành giải
quyết tranh chấp vì lý do người phải thi hành có hoặc không có tài sản tại nước
này.
2. Người phải thi hành có nghĩa vụ chứng minh
phán quyết của Trọng tài nước ngoài chưa có hiệu lực nếu người đó dựa vào lý do
này để phản đối việc công nhận phán quyết của Trọng tài nước ngoài.
Điều 21. Về căn cứ quy định
tại điểm g khoản 1 Điều 459 của Bộ luật tố tụng dân sự
1. Khi xem xét phán quyết của Trọng tài nước
ngoài có thuộc trường hợp quy định tại điểm g khoản 1 Điều 459 của Bộ luật tố tụng
dân sự hay không, Tòa án cần lưu ý:
a) Nước nơi phán quyết đã được tuyên hoặc nước
có pháp luật đã được áp dụng là nước nơi Hội đồng trọng tài tiến hành giải quyết
tranh chấp.
b) Pháp luật của nước đã được áp dụng là pháp luật
về tố tụng trọng tài.
c) Cơ quan có thẩm quyền là Tòa án hoặc cơ quan
tư pháp khác của nước nơi Hội đồng trọng tài tiến hành giải quyết tranh chấp có
thẩm quyền hủy bỏ hoặc đình chỉ thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài.
2. Quyết định hủy bỏ hoặc đình chỉ thi hành phán
quyết của Trọng tài nước ngoài của Tòa án phải có hiệu lực trước thời điểm người
phải thi hành dựa vào lý do này phản đối việc công nhận phán quyết.
Điều 22. Về các căn cứ quy
định tại khoản 2 Điều 459 của Bộ luật tố tụng dân sự
1. Khi xem xét phán quyết của Trọng tài nước
ngoài có thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 Điều 459 của Bộ luật tố tụng
dân sự hay không, Tòa án cần lưu ý:
a) Tòa án áp dụng pháp luật của Việt Nam, điều ước
quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên để xem xét,
xác định tranh chấp mà các bên đã thỏa thuận giải quyết bằng trọng tài nước
ngoài có được phép giải quyết bằng phương thức Trọng tài hay không
b) Người phải thi hành không có nghĩa vụ cung cấp
cho Tòa án chứng cứ chứng minh tranh chấp mà Trọng tài nước ngoài đã ra phán
quyết không được giải quyết bằng phương thức trọng tài, trừ trường hợp người phải
thi hành dựa vào lý do này để phản đối việc công nhận phán quyết trọng tài.
2. Ví dụ về những loại tranh chấp, vụ việc sau
đây không được giải quyết bằng phương thức trọng tài theo quy định của pháp luật
Việt Nam:
Ví dụ 1: Tranh chấp về dân sự, kinh doanh,
thương mại, hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền riêng biệt của Tòa án Việt
Nam quy định tại Điều 470 của Bộ luật tố tụng dân sự, trừ các trường hợp sau
đây:
a) Điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là thành viên, hợp đồng, thỏa thuận giữa Chính phủ Việt Nam hoặc
cơ quan nhà nước Việt Nam và Nhà đầu tư nước ngoài có quy định về việc giải quyết
tranh chấp giữa Nhà đầu tư nước ngoài và Chính phủ Việt Nam bằng phương thức trọng
tài;
b) Văn bản quy phạm pháp luật khác có quy định về
việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại thuộc phạm vi điều chỉnh của
Điều 470 Bộ luật tố tụng dân sự bằng phương thức trọng tài.
Ví dụ 2: Các tranh chấp không thuộc phạm vi điều
chỉnh của Điều 2 Luật Trọng tài thương mại.
Ví dụ 3: Tranh chấp về đăng ký thành lập doanh
nghiệp, đăng ký thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp và các nghĩa vụ đăng ký,
thông báo khác theo quy định của Luật doanh nghiệp;
Ví dụ 4: Tranh chấp về việc đăng ký hoặc hiệu lực
của bằng sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết
kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý và
các quyền sở hữu trí tuệ khác mà phải đăng ký để được bảo hộ theo quy định của
Luật sở hữu trí tuệ, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định về việc giải quyết tranh chấp
bằng phương thức trọng tài.
Ví dụ 5: Các vụ việc phá sản, cạnh tranh theo
quy định của Luật phá sản và Luật cạnh tranh.
2. Tòa án không công nhận phán quyết của Trọng
tài nước ngoài theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 459 Bộ luật tố tụng dân sự
trong các trường hợp sau đây:
a) Việc công nhận phán quyết đó xâm phạm chủ quyền,
an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng;
b) Phán quyết của Trọng tài nước ngoài được
tuyên trên cơ sở cưỡng ép, lừa dối, đe dọa hoặc hối lộ;
c) Phán quyết của Trọng tài nước ngoài không ghi
nhận sự tự nguyện thỏa thuận của các bên đương sự về cách thức giải quyết tranh
chấp.
Điều 23. Hậu quả của việc
đình chỉ xét đơn yêu cầu hoặc không công nhận phán quyết của Trọng tài nước
ngoài
1. Trường hợp Tòa án ra quyết định đình chỉ xét
đơn yêu cầu hoặc quyết định không công nhận phán quyết của Trọng tài nước ngoài
theo quy định tại Điều 457 hoặc Điều 459 Bộ luật tố tụng dân sự, thì người yêu
cầu không có quyền tiếp tục nộp đơn yêu cầu Tòa án công nhận và cho thi hành tại
Việt Nam phán quyết đó, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
2. Người yêu cầu có quyền nộp đơn lại để yêu cầu
Tòa án công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài nước
ngoài trong các trường hợp sau đây:
a) Tòa án đã ra quyết định đình chỉ việc xét đơn
yêu cầu với lý do người yêu cầu rút đơn yêu cầu theo quy định tại điểm a khoản
3 Điều 457 của Bộ luật tố tụng dân sự;
b) Người yêu cầu cung cấp được cho Tòa án thông
tin về địa điểm nơi có tài sản của người phải thi hành;
c) Phán quyết của Trọng tài nước ngoài đã có hiệu
lực pháp luật.
Điều 24. Hiệu lực thi hành
1. Nghị quyết này đã được Hội đồng
Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thông qua ngày….và có hiệu lực thi hành kể từ
ngày…...
2. Đối với những yêu cầu công nhận
và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài nước ngoài mà Toà án đã
thụ lý nhưng chưa xem xét giải quyết theo thủ tục sơ thẩm, thì áp dụng hướng dẫn
tại Nghị quyết này để giải quyết.
Đối với các quyết định của Toà án
về việc công nhận và cho thi hành tại Việt Nam hoặc quyết định không
công nhận phán quyết của Trọng tài nước ngoài đã có hiệu lực pháp
luật trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực thi hành, thì không áp dụng hướng dẫn
tại Nghị quyết này để kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái
thẩm./.
Nơi nhận:
- Uỷ ban Thường vụ Quốc
hội;
- Uỷ ban Pháp luật của Quốc hội;
- Uỷ ban Tư pháp của Quốc hội;
- Văn phòng Trung ương Đảng;
- Văn phòng Chủ tịch nước;
- Văn phòng Chính phủ 02 bản (để đăng Công báo);
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
- Bộ Tư pháp;
- Thanh tra Chính phủ;
- Bộ, các cơ quan ngang bộ,
cơ quan thuộc Chính phủ;
- Toà án nhân dân các cấp;
- Các Thẩm phán và các đơn vị TANDTC;
- Trang thông tin điện tử TANDTC (để đăng);
- Lưu: VT, VHTQT (TANDTC).
|
TM. HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN
CHÁNH ÁN
Nguyễn Hòa Bình
|