HỘI
ĐỒNG THẨM PHÁN
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
-------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số:
04/2017/NQ-HĐTP
|
Hà
Nội, ngày 05 tháng 05 năm 2017
|
NGHỊ QUYẾT
HƯỚNG DẪN MỘT SỐ QUY ĐỊNH TẠI KHOẢN 1 VÀ KHOẢN 3 ĐIỀU 192 BỘ LUẬT TỐ TỤNG
DÂN SỰ SỐ 92/2015/QH13 VỀ TRẢ LẠI ĐƠN KHỞI KIỆN, QUYỀN NỘP ĐƠN KHỞI KIỆN LẠI VỤ
ÁN
HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
Căn cứ Luật tổ chức Tòa án nhân
dân ngày 24 tháng 11 năm 2014;
Để áp dụng đúng và thống nhất một
số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự ngày 25
tháng 11 năm 2015;
Sau khi có ý kiến thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ trưởng Bộ Tư pháp,
QUYẾT NGHỊ:
Điều 1. Phạm vi
điều chỉnh
Nghị quyết này hướng dẫn một số quy định
về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án tại khoản
1 và khoản 3 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự số 92/2015/QH13 ngày 25 tháng
11 năm 2015 (sau đây gọi tắt là Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015).
Điều 2. Về người
khởi kiện không có quyền khởi kiện quy định tại
điểm a khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015
Người khởi kiện không có quyền khởi
kiện là cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện khi thuộc một trong các trường hợp
sau đây:
1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân không
thuộc một trong các chủ thể quy định tại Điều 186, Điều 187 Bộ
luật tố tụng dân sự năm 2015.
a) Cơ quan, tổ chức, cá nhân không
thuộc một trong các chủ thể quy định tại Điều 186 Bộ luật tố tụng
dân sự năm 2015 là trường hợp người làm đơn khởi kiện không nhằm bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp cho chính mình hoặc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơ
quan, tổ chức, cá nhân mà mình là người đại diện hợp
pháp;
b) Cơ quan, tổ chức, cá nhân không
thuộc một trong các chủ thể quy định tại Điều 187 Bộ luật tố tụng
dân sự năm 2015 là trường hợp người làm đơn khởi kiện không thuộc trường hợp
theo quy định của pháp luật có quyền khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà
nước.
Ví dụ: Tổ chức A (không phải là tổ chức
xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng theo quy định tại khoản 1 Điều 27 Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010)
cho rằng Công ty B bán hàng hóa không đúng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng, số lượng, tính
năng, công dụng như đã công bố, niêm yết, quảng cáo hoặc cam kết dẫn đến việc
chị C (người tiêu dùng) mua sử dụng bị thiệt hại nên Tổ chức
A làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc Công ty B bồi thường thiệt hại cho chị C. Trường hợp này, Tổ chức A không có quyền khởi kiện vụ án bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng theo quy định tại khoản 3 Điều 187
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
2. Yêu cầu khởi kiện của cơ quan, tổ
chức, cá nhân không cần xác minh, thu thập chứng cứ cũng đủ căn cứ kết luận là
không có việc quyền và lợi ích hợp pháp của
họ bị xâm phạm hoặc cần bảo vệ.
Ví dụ: Cụ A chết năm 2010, để lại di
sản là căn nhà X nhưng không có di chúc và không có thỏa thuận khác. Cụ A có con
là ông B (còn sống, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và không thuộc trường hợp
không được quyền hưởng di sản theo Điều 621 Bộ luật dân sự năm
2015). Trường hợp này, theo quy định của pháp luật về thừa kế thì anh C là con của ông B không có quyền khởi kiện yêu cầu chia di sản của cụ A
theo pháp luật.
Điều 3. Về chưa
có đủ điều kiện khởi kiện theo quy định của pháp luật quy định tại điểm b khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015
1. Chưa có đủ điều kiện khởi kiện
theo quy định của pháp luật là trường hợp pháp luật tố tụng dân sự, pháp luật
khác có quy định về các điều kiện để cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện yêu cầu
Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình hoặc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng và
lợi ích của Nhà nước nhưng người khởi kiện đã khởi kiện đến Tòa án khi còn thiếu
một trong các điều kiện đó.
Ví dụ: Công ty A là người sử dụng lao
động ký hợp đồng với ông B, trong hợp đồng ghi rõ ông B sẽ được Công ty cho đi
học nghề 01 năm, đồng thời ông B có nghĩa vụ làm việc tại Công ty ít nhất là 05
năm kể từ thời điểm học xong. Tuy nhiên, sau khi học xong ông B chỉ làm việc ở
Công ty A 02 năm. Công ty A khởi kiện ông B ra Tòa án buộc ông B hoàn trả chi
phí đào tạo học nghề khi chưa tiến hành thủ tục hòa giải của hòa giải viên lao
động. Trường hợp này, theo quy định tại Điều 201 Bộ luật lao động
năm 2012, khoản 1 Điều 32 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015
thì Công ty A chưa đủ điều kiện khởi kiện vụ án.
2. Đối với tranh chấp ai là người có
quyền sử dụng đất mà chưa được hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn
nơi có đất tranh chấp theo quy định tại Điều 202 Luật đất đai
năm 2013 thì được xác định là chưa có đủ điều kiện khởi kiện quy định tại điểm b khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Đối với tranh chấp khác liên quan đến
quyền sử dụng đất như: tranh chấp về giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất,
tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất, chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất,... thì thủ tục hòa giải tại
Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp
không phải là điều kiện khởi kiện vụ án.
Điều 4. Về vụ án
không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015
Vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa án là trường hợp mà theo quy định của pháp luật thì các tranh chấp dân
sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động thuộc thẩm quyền giải
quyết của cơ quan, tổ chức khác hoặc đang do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
khác giải quyết.
Ví dụ: Theo quy định tại khoản 2 Điều 203 Luật đất đai năm 2013 thì tranh chấp đất đai
mà đối với thửa đất đó cơ quan, tổ chức, cá nhân không có Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 Luật đất đai năm 2013 có quyền lựa chọn Tòa án nhân
dân cấp có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự hoặc Ủy ban
nhân dân cấp có thẩm quyền theo quy định tại khoản 3 Điều 203
Luật đất đai năm 2013 để giải quyết tranh chấp. Trường
hợp cơ quan, tổ chức, cá nhân đã nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Ủy
ban nhân dân cấp có thẩm quyền và cơ quan đó đang giải quyết tranh chấp thì vụ
án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định của pháp luật tố
tụng dân sự.
Điều 5. Về địa chỉ
của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
1. “Địa chỉ nơi
cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan” quy định tại điểm e khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015 được xác định như sau:
a) Nếu người bị
kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là công dân Việt Nam, người Việt
Nam định cư ở nước ngoài vẫn còn quốc tịch Việt Nam trở về Việt Nam sinh sống
thì nơi cư trú của họ là địa chỉ chỗ ở hợp pháp mà người bị kiện, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan thường trú hoặc tạm trú hoặc đang sinh sống theo quy định
của Luật cư trú;
b) Nếu người bị kiện, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan là người nước ngoài đang cư trú tại Việt Nam thì nơi cư
trú của họ được xác định theo quy định của Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh,
cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam;
c) Nếu người bị kiện, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan là người nước ngoài, người Việt Nam đang cư trú ở nước
ngoài thì nơi cư trú của họ được xác định căn cứ vào tài liệu, chứng cứ do người
khởi kiện cung cấp hoặc theo tài liệu, chứng cứ do cơ quan có thẩm quyền cấp,
xác nhận;
d) Nếu người bị
kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cơ quan, tổ chức có quốc tịch
Việt Nam thì địa chỉ của cơ quan, tổ chức được xác định là nơi cơ quan, tổ chức
đó có trụ sở chính hoặc chi nhánh theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền hoặc theo quy định của pháp luật;
Trường hợp cơ quan, tổ chức có quốc tịch
nước ngoài thì địa chỉ của cơ quan, tổ chức được xác định căn cứ vào tài liệu,
chứng cứ do người khởi kiện cung cấp hoặc theo tài liệu, chứng cứ do cơ quan có
thẩm quyền cấp, xác nhận.
2. Người khởi kiện đã cung cấp địa chỉ
“nơi cư trú, làm việc, hoặc nơi có trụ sở” của người bị kiện, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan cho Tòa án theo đúng quy định của pháp luật và hướng dẫn tại
khoản 1 Điều này tại thời điểm nộp đơn khởi kiện mà được cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền cấp, xác nhận hoặc có căn cứ khác chứng minh rằng đó là địa chỉ của người
bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì được
coi là đã ghi đúng địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan theo quy định tại điểm e khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng
dân sự năm 2015.
3. Địa chỉ “nơi
cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở cuối cùng” của người bị kiện, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan quy định tại điểm
đ, e khoản 4 Điều 189 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 là địa chỉ người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đã từng cư trú, làm việc hoặc có trụ sở mà người khởi kiện biết được
gần nhất tính đến thời điểm khởi kiện và được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp,
xác nhận hoặc có căn cứ khác chứng minh.
Điều 6. Xử lý việc
ghi địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
1. Trường hợp trong đơn khởi kiện người
khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan theo hướng dẫn tại Điều 5 Nghị quyết này thì Tòa án phải nhận
đơn khởi kiện và xem xét thụ lý vụ án theo thủ tục chung.
2. Trường hợp sau khi thụ lý vụ án,
Tòa án không tổng đạt được thông báo về
việc thụ lý vụ án do bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không còn
cư trú, làm việc hoặc không có trụ sở tại địa chỉ mà nguyên đơn cung cấp thì
Tòa án giải quyết như sau:
a) Trường hợp trong đơn khởi kiện,
người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có
trụ sở của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo địa chỉ
được ghi trong giao dịch, hợp đồng bằng văn bản thì được coi là “đã ghi đầy đủ
và đúng địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở”. Trường hợp người bị
kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thay đổi nơi cư trú, làm việc hoặc
nơi có trụ sở gắn với việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong giao dịch, hợp đồng
mà không thông báo cho người khởi kiện biết về nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có
trụ sở mới theo quy định tại khoản 3 Điều 40, điểm b khoản 2 Điều
277 Bộ luật dân sự năm 2015 thì được coi là cố tình giấu địa chỉ và Tòa án
tiếp tục giải quyết theo thủ tục chung mà không đình chỉ việc giải quyết vụ án
vì lý do không tổng đạt được cho bị đơn,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;
b) Trường hợp trong đơn khởi kiện,
người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi có trụ sở của người bị kiện,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cơ quan, tổ chức theo hướng dẫn tại
điểm d khoản 1 Điều 5 Nghị quyết này thì được coi là “đã ghi đầy đủ và đúng địa
chỉ trụ sở”. Trường hợp cơ quan, tổ chức thay đổi trụ sở
mà không công bố công khai theo quy định tại khoản 1 Điều 79 Bộ
luật dân sự năm 2015 thì được coi là cố tình giấu địa chỉ và Tòa án tiếp tục
giải quyết vụ án theo thủ tục chung mà không đình chỉ việc giải quyết vụ án vì
lý do không tống đạt được cho bị đơn, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan;
c) Trường hợp không thuộc điểm a, b
khoản 2 Điều này mà Tòa án đã yêu cầu nguyên đơn cung cấp địa chỉ mới của bị
đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng nguyên đơn không cung cấp được
thì có quyền yêu cầu Tòa án thu thập, xác minh địa chỉ mới của bị đơn, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định của pháp luật. Trường hợp Tòa án
không xác định được địa chỉ mới của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan thì Tòa án đình chỉ việc giải quyết vụ án theo quy định tại điểm
h khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, trừ trường hợp hướng dẫn
tại khoản 3 Điều này.
Trường hợp sau khi thụ lý vụ án mà
phát sinh người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì Tòa án yêu cầu nguyên đơn,
bị đơn có yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc
lập cung cấp địa chỉ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đó. Nếu nguyên đơn, bị đơn có yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan có yêu cầu độc lập không cung cấp được địa chỉ thì có quyền yêu cầu
Tòa án thu thập, xác minh địa chỉ theo quy định của pháp luật. Trường hợp Tòa
án không xác định được địa chỉ thì đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu của
nguyên đơn, yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan có liên quan đến người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đó
theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự
năm 2015, trừ trường hợp hướng dẫn tại khoản 3 Điều này.
3. Tòa án vẫn tiếp tục giải quyết vụ
án trong các trường hợp sau đây:
a) Đối với vụ án tranh chấp về thừa kế
tài sản có người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thuộc diện thừa kế mà nguyên
đơn không cung cấp được địa chỉ và Tòa án đã tiến hành các biện pháp để thu thập,
xác minh địa chỉ theo đúng quy định của pháp luật nhưng vẫn không xác định được
địa chỉ của người đó thì Tòa án vẫn giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
Phần tài sản mà người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thuộc diện thừa kế chưa
tìm được địa chỉ được nhận thì Tòa án tạm giao cho người thân thích của người
đó hoặc người thừa kế khác quản lý. Quyền, nghĩa vụ của người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan thuộc diện thừa kế chưa tìm được địa chỉ sẽ được Tòa án giải
quyết bằng một vụ án khác khi có yêu cầu;
b) Các trường hợp quy định tại điểm b, c khoản 5 và điểm c khoản 6 Điều 477 Bộ luật tố tụng dân sự
năm 2015;
c) Các trường hợp khác theo quy định
của pháp luật.
4. Trường hợp vụ
án bị đình chỉ giải quyết theo hướng dẫn tại điểm c khoản 2 Điều này thì theo
quy định tại điểm d khoản 3 Điều 192 Bộ
luật tố tụng dân sự năm 2015, người khởi kiện có
quyền khởi kiện lại vụ án đó khi cung cấp được đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư
trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan.
Điều 7. Quyền nộp
đơn khởi kiện lại vụ án quy định tại khoản 3 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015
1. Người khởi kiện có quyền nộp đơn khởi
kiện lại vụ án khi thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản
3 Điều 192, điểm c khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và các
trường hợp khác mà pháp luật có quy định.
2. Khoản 1 Điều 192 Bộ
luật tố tụng dân sự năm 2015 không quy định căn cứ trả lại đơn khởi kiện vì
lý do thời hiệu khởi kiện đã hết, vì vậy, Tòa án không được lấy lý do thời hiệu
khởi kiện đã hết để trả lại đơn khởi kiện. Trường hợp kể từ ngày 01-01-2012,
Tòa án trả lại đơn khởi kiện vì lý do thời hiệu khởi kiện đã hết và thời hạn giải
quyết khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện đã hết mà đương sự có
yêu cầu khởi kiện lại vụ án đó thì Tòa án xem xét thụ lý vụ án theo thủ tục
chung.
3. "Các trường
hợp khác theo quy định của pháp luật" quy định tại điểm d
khoản 3 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 là các trường hợp trong Bộ
luật tố tụng dân sự năm 2015 chưa quy định nhưng đã được quy định trong Nghị
quyết này, các văn bản quy phạm pháp luật khác hoặc trong các điều ước quốc tế
mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
"Các trường hợp khác theo quy định
của pháp luật" quy định trong Nghị quyết này là:
a) Đối với những vụ án dân sự tranh
chấp về thừa kế tài sản mà trước ngày 01-01-2017, Tòa án đã trả lại đơn khởi kiện
hoặc ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án và trả lại đơn khởi kiện vì lý do
"thời hiệu khởi kiện đã hết" nhưng theo quy định
tại khoản 1 Điều 623, điểm d khoản 1 Điều 688 Bộ luật dân sự
năm 2015 thời hiệu khởi kiện vụ án đó vẫn còn, thì người khởi kiện có quyền
nộp đơn khởi kiện lại vụ án theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều
688 Bộ luật dân sự năm 2015 và điểm d khoản 3 Điều 192 Bộ
luật tố tụng dân sự năm 2015.
Đối với những vụ án dân sự tranh chấp
về thừa kế tài sản mà trước ngày 01-01-2017 đã được Tòa án giải quyết bằng bản án,
quyết định (trừ quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự vì thời hiệu khởi
kiện đã hết) đã có hiệu lực pháp luật thì theo quy định tại
điểm c khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015,
người khởi kiện không có quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án
đó;
b) Đối với những vụ án dân sự chia
tài sản chung là di sản thừa kế đã hết thời hạn 10 năm kể từ thời điểm mở thừa
kế mà trước ngày 01-01-2017 Tòa án đã ra quyết định đình
chỉ giải quyết vụ án và trả lại đơn khởi kiện vì chưa đủ điều kiện khởi kiện chia
tài sản chung, nhưng theo quy định tại khoản 1 Điều 623, điểm d
khoản 1 Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015 thời hiệu khởi kiện vụ án chia thừa
kế đối với di sản thừa kế đó vẫn còn, thì người khởi kiện có quyền nộp đơn khởi
kiện yêu cầu chia di sản thừa kế theo quy định tại điểm d khoản
1 Điều 688 và điểm d khoản 3 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự
năm 2015 và Tòa án xem xét thụ lý, giải quyết theo thủ tục chung.
Đối với những vụ án dân sự chia tài sản
chung là di sản thừa kế đã hết thời hạn 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế mà
trước ngày 01-01-2017 đã được Tòa án giải quyết bằng bản án, quyết định (trừ
quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự vì thời hiệu khởi kiện đã hết) đã
có hiệu lực pháp luật thì theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều
192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, người khởi kiện không có quyền nộp đơn
khởi kiện lại vụ án đó;
c) Trường hợp quy định tại khoản 4 Điều
6 Nghị quyết này.
Điều 8. Hiệu lực
thi hành
1. Nghị quyết này đã được Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 14 tháng 4 năm 2017 và có hiệu lực
thi hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2017.
2. Đối với những vụ án dân sự, hôn
nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động mà Tòa án đã thụ lý trước
khi Nghị quyết này có hiệu lực thi hành nhưng chưa xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm hoặc xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm thì áp dụng hướng dẫn tại Nghị quyết
này để giải quyết.
3. Đối với bản án, quyết định của Tòa
án đã có hiệu lực pháp luật trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực thi hành thì không
áp dụng hướng dẫn tại Nghị quyết này để kháng nghị theo thủ
tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
4. Trong quá trình triển khai thi
hành, nếu có vướng mắc hoặc đề xuất, kiến nghị thì phản ánh về Tòa án nhân dân
tối cao (thông qua Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học) để có hướng dẫn kịp thời.
Nơi nhận:
- Ủy ban Thường vụ Quốc
hội;
- Ủy ban Pháp luật của Quốc hội;
- Ủy ban Tư pháp của Quốc hội;
- Ban Chỉ đạo CCTPTƯ;
- Ban Nội chính Trung ương;
- Văn phòng Chủ tịch nước;
- Văn phòng Chính phủ (02 bản);
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
- Bộ Tư pháp;
- Các Thẩm phán TANDTC;
- Các đơn vị thuộc TANDTC;
- Các TAND và TAQS các cấp;
- Lưu: VT, Vụ PC&QLKH.
|
TM. HỘI ĐỒNG THẨM
PHÁN
CHÁNH ÁN
Nguyễn Hòa Bình
|