NGHỊ QUYẾT
CỦA HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ
02/2000/NĐ-HĐTP NGÀY 23 THÁNG 12 NĂM 2000 HƯỚNG DẪN ÁP DỤNG MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦALUẬT
HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2000
HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
Căn cứ vào Điều 20 và Điều 21
Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung ngày 28/12/1993 và
ngày 28/10/1995);
Để áp dụng thống nhất các quy định của Luật hôn nhân và gia đình được Quốc hội
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 09/6/2000 và có hiệu lực
từ ngày 01/01/2001;
QUYẾT NGHỊ
Hướng dẫn áp dụng một số quy định
của Luật hôn nhân và gia đình được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam
thông qua ngày 09/6/2000 như sau:
1. Điều kiện kết
hôn (Điều 9)
Nam
và nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện quy định tại Điều
9. Khi giải quyết yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật hoặc yêu cầu ly
hôn cần chú ý một số điểm sau đây:
a. Điều kiện kết hôn quy định tại
điểm 1 Điều 9 là: "Nam
từ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuổi trở lên". Theo quy định này
thì không bắt buộc nam phải từ đủ hai mươi tuổi trở lên, nữ phải từ đủ mười tám
tuổi trở lên mới được kết hôn; do đó, nam đã bước sang tuổi hai mươi, nữ đã bước
sang tuổi mười tám mà kết hôn là không vi phạm điều kiện về tuổi kết hôn.
b. Nếu nam và nữ kết hôn tuy có
đủ các điều kiện quy định tại các điểm 1 và 3 Điều 9, nhưng
họ không tự nguyện quyết định mà thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì vi
phạm điều kiện kết hôn quy định tại điểm 2 Điều 9:
b.1. Một bên ép buộc (ví dụ: đe
doạ dùng vũ lực hoặc uy hiếp tinh thần hoặc dùng vật chất...) nên buộc bên bị
ép buộc đồng ý kết hôn;
b.2. Một bên lừa dối (ví dụ: lừa
dối là nếu kết hôn sẽ xin việc làm phù hợp hoặc nếu kết hôn sẽ bảo lãnh ra nước
ngoài; không có khả năng sinh lý nhưng cố tình giấu; biết mình bị nhiễm HIV
nhưng cố tình giấu...) nên bên bị lừa dối đã đồng ý kết hôn;
b.3. Một bên hoặc cả hai bên nam
và nữ bị người khác cưỡng ép (ví dụ: bố mẹ của người nữ do nợ của người nam một
khoản tiền nên cưỡng ép người nữ phải kết hôn với người nam để trừ nợ; do bố mẹ
của hai bên có hứa hẹn với nhau nên cưỡng ép con của họ phải kết hôn với
nhau...) buộc người bị cưỡng ép kết hôn trái với nguyện vọng của họ.
c. Điều kiện kết hôn quy định tại
điểm 3 Điều 9 bị vi phạm, nếu việc kết hôn thuộc một trong
những trường hợp quy định tại Điều 10. Cần chú ý đối với từng
trường hợp cụ thể như sau:
c.1. Người đang có vợ hoặc có chồng
là:
- Người đã kết hôn với người
khác theo đúng quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình nhưng chưa ly
hôn;
- Người sống chung với người
khác như vợ chồng từ trước ngày 03/01/1987 và đang chung sống với nhau như vợ
chồng mà không đăng ký kết hôn;
- Người sống chung với người
khác như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến trước ngày 01/01/2001 và đang chung sống
với nhau như vợ chồng mà có đủ điều kiện kết hôn nhưng không đăng ký kết hôn
(trường hợp này chỉ áp dụng từ ngày Nghị quyết này có hiệu lực cho đến trước
ngày 01/01/2003).
c.2. Người mất năng lực hành vi
dân sự là người mất khả năng bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền,
nghĩa vụ dân sự.
c.3. Giữa những người cùng dòng
máu về trực hệ là giữa cha, mẹ với con; giữa ông, bà với cháu nội, cháu ngoại.
Giữa những người có họ trong phạm vi ba đời là giữa những người cùng một gốc
sinh ra: cha mẹ là đời thứ nhất; anh chị em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng
mẹ khác cha là đời thứ hai; anh chị em con chú, con bác, con cô, con cậu, con
dì là đời thứ ba.
c.4. Đối với trường hợp quy định
tại điểm 4 Điều 10 cần hiểu là ngoài việc cấm kết hôn giữa
cha, mẹ nuôi với con nuôi thì điều luật còn cấm kết hôn:
- Giữa người đã từng là cha, mẹ
nuôi với con nuôi;
- Giữa người đã từng là bố chồng
với con dâu;
- Giữa người đã từng là mẹ vợ với
con rể;
- Giữa người đã từng là bố dượng
với con riêng của vợ;
- Giữa người đã từng là mẹ kế với
con riêng của chồng.
2. Huỷ việc kết
hôn trái pháp luật (Điều 16)
Khi giải quyết huỷ việc kết hôn
trái pháp luật, Toà án cần chú ý các điểm sau đây:
a. Theo quy định tại điểm 3 Điều 8 thì kết hôn trái pháp luật là việc xác lập quan hệ
vợ chồng có đăng ký kết hôn, nhưng vi phạm điều kiện kết hôn do pháp luật quy định;
cụ thể là việc đăng ký kết hôn do cơ quan có thẩm quyền quy định tại Điều 12 thực hiện và việc tổ chức đăng ký kết hôn theo đúng
nghi thức quy định tại Điều 14, nhưng vi phạm một trong các
điều kiện kết hôn quy định tại Điều 9 như đã hướng dẫn tại
mục 1 Nghị quyết này.
b. Trong trường hợp việc đăng ký
kết hôn không phải do cơ quan có thẩm quyền quy định tại Điều
12 thực hiện (ví dụ: việc đăng ký kết hôn giữa nam và nữ do Uỷ ban nhân dân
xã, phường, thị trấn nơi không có bên nào kết hôn cư trú thực hiện), thì việc
đăng ký kết hôn đó không có giá trị pháp lý; nếu có yêu cầu huỷ việc kết hôn
trái pháp luật, thì mặc dù có vi phạm một trong những điều kiện kết hôn quy định
tại Điều 9, Toà án không tuyên bố huỷ kết hôn trái pháp luật
mà áp dụng khoản 1 Điều 11 tuyên bố không công nhận họ là vợ
chồng.
c. Trong trường hợp việc đăng ký
kết hôn không theo nghi thức quy định tại Điều 14 thì việc
kết hôn đó không có giá trị pháp lý, nếu có yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp
luật, thì mặc dù có vi phạm một trong các điều kiện kết hôn quy định tại Điều 9, Toà án không tuyên bố huỷ kết hôn trái pháp luật mà áp
dụng khoản 1 Điều 11 tuyên bố không công nhận họ là vợ chồng.
Tuy nhiên cần chú ý:
c.1. Điều 14
không quy định cụ thể địa điểm tổ chức đăng ký kết hôn; do đó, địa điểm tổ chức
đăng ký kết hôn có thể là một nơi khác không phải là trụ sở của cơ quan đăng ký
kết hôn.
c.2. Điều 14 quy
định: "Khi tổ chức đăng ký kết hôn phải có mặt hai bên nam, nữ kết
hôn". Thực hiện cho thấy rằng trong một số trường hợp vì những lý do khách
quan hay chủ quan mà khi tổ chức đăng ký kết hôn chỉ có một bên nam hoặc nữ; do
đó, nếu trước khi tổ chức đăng ký kết hôn đã thực hiện đúng quy định tại khoản 1 Điều 13 và sau khi tổ chức đăng ký kết hôn họ thực sự
về chung sống với nhau, thì không coi là việc đăng ký kết hôn đó là không theo
nghi thức quy định tại Điều 14.
d. Khi cá nhân, cơ quan, tổ chức
theo quy định tại Điều 15 có yêu cầu huỷ việc kết hôn trái
pháp luật do có vi phạm điều kiện kết hôn thì cần phân biệt:
d.1. Đối với những trường hợp kết
hôn khi một bên hoặc cả hai bên chưa đến tuổi kết hôn là vi phạm điều kiện kết
hôn quy định tại điểm 1 Điều 9. Tuy nhiên, tuỳ từng trường
hợp mà quyết định như sau:
- Nếu đến thời điểm có yêu cầu
huỷ việc kết hôn trái pháp luật mà một bên hoặc cả hai bên vẫn chưa đến tuổi kết
hôn thì quyết định huỷ việc kết hôn trái pháp luật.
- Nếu đến thời điểm có yêu cầu
huỷ việc kết hôn trái pháp luật cả hai bên tuy đã đến tuổi kết hôn, nhưng cuộc
sống của họ trong thời gian đã qua không có hạnh phúc, không có tình cảm vợ chồng,
thì quyết định huỷ việc kết hôn trái pháp luật.
- Nếu đến thời điểm có yêu cầu
huỷ việc kết hôn trái pháp luật cả hai bên đã đến tuổi kết hôn, trong thời gian
đã qua họ chung sống bình thường, đã có con, có tài sản chung thì không quyết định
huỷ việc kết hôn trái pháp luật. Nếu mới phát sinh mâu thuẫn và có yêu cầu Toà
án giải quyết việc ly hôn thì Toà án thụ lý vụ án để giải quyết ly hôn theo thủ
tục chung.
d.2. Đối với những trường hợp kết
hôn khi một bên bị ép buộc, bị lừa dối hoặc bị cưỡng ép là vi phạm điều kiện kết
hôn quy định tại điểm 2 Điều 9. Tuy nhiên, tuỳ từng trường
hợp mà quyết định như sau:
- Nếu sau khi bị ép buộc, bị lừa
dối hoặc bị cưỡng ép kết hôn mà cuộc sống không có hạnh phúc, không có tình cảm
vợ chồng, thì quyết định huỷ việc kết hôn trái pháp luật.
- Nếu sau khi bị ép buộc, bị lừa
dối hoặc bị cưỡng ép kết hôn mà bên bị ép buộc, bị lừa dối hoặc bị cưỡng ép đã
biết, nhưng đã thông cảm, tiếp tục chung sống hoà thuận thì không quyết định huỷ
việc kết hôn trái pháp luật. Nếu mới phát sinh mâu thuẫn và có yêu cầu Toà án
giải quyết việc ly hôn, thì Toà án thụ lý vụ án để giải quyết ly hôn theo thủ tục
chung.
d.3. Đối với
những trường hợp kết hôn thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 10 là vi phạm điều kiện kết hôn
quy định tại điểm 3 Điều 9 và
nói chung là phải quyết định huỷ việc kết hôn trái pháp luật. Tuy nhiên, nếu
thuộc trường hợp quy định tại điểm 1 Điều 10 cần chú ý:
- Nếu thuộc trường hợp cán bộ và
bộ đội miền Nam tập kết ra miền Bắc hồi năm 1954, đã có vợ, có chồng ở miền Nam
mà lấy vợ, lấy chồng ở miền Bắc thì vẫn xử lý theo Thông tư số 60/TATC ngày
22/02/1978 của Toà án nhân dân tối cao "Hướng dẫn giải quyết các trường hợp
cán bộ, bộ đội trong Nam tập kết ra Bắc mà lấy vợ, lấy chồng khác" (Xem cuốn
các văn bản về hình sự, dân sự và tố tụng, Toà án nhân dân tối cao xuất bản năm
1990; tr 255-260).
- Nếu khi một người đang có vợ
hoặc có chồng, nhưng tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài mà
đã kết hôn với người khác, thì lần kết hôn sau là thuộc trường hợp cấm kết hôn
quy định tại điểm 1 Điều 10. Tuy nhiên, khi có yêu cầu huỷ
việc kết hôn trái pháp luật họ đã ly hôn với vợ hoặc chồng của lần kết hôn trước,
thì không quyết định huỷ việc kết hôn trái pháp luật đối với lần kết hôn sau. Nếu
mới phát sinh mâu thuẫn và có yêu cầu Toà án giải quyết việc ly hôn thì Toà án
thụ lý vụ án để giải quyết ly hôn theo thủ tục chung.
đ. Khi giải quyết yêu cầu huỷ việc
kết hôn trái pháp luật mà xét thấy hành vi vi phạm có dấu hiệu cấu thành tội phạm
thì Toà án yêu cầu Viện Kiểm sát cùng cấp khởi tố vụ án hình sự. Nếu Viện Kiểm
sát cùng cấp không đồng ý thì Toà án có thể kiến nghị với Viện Kiểm sát cấp
trên xem xét; nếu Viện Kiểm sát cấp trên cũng không đồng ý thì Toà án tiếp tục
giải quyết yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật theo thủ tục chung. Trong
trường hợp Viện Kiểm sát đồng ý khởi tố vụ án hình sự thì Toà án áp dụng điểm d khoản 1 Điều 45 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân
sự ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án. Sau khi vụ án hình sự
được xét xử xong và bản án, quyết định hình sự đã có hiệu lực pháp luật thì Toà
án tiếp tục giải quyết theo thủ tục chung (vì lý do của việc tạm đình chỉ không
còn nữa).
3. Tài sản
chung của vợ chồng (Điều 27).
a. Khoản 1 Điều
27 đã quy định tài sản chung của vợ chồng và hình thức sở hữu đối với tài sản
chung của vợ chồng. "Những thu thập hợp pháp khác" của vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân có thể là tiền thưởng, tiền trợ cấp, tiền trúng thưởng xổ số,
mà vợ, chồng có được hoặc tài sản mà vợ chồng được xác lập quyền sở hữu theo
quy định tại các Điều 247, 248, 249, 250, 251 và 252 Bộ luật
dân sự... trong thời kỳ hôn nhân.
b. Khoản 2 Điều 27 quy định:
"Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy
định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi
tên của cả vợ và chồng".
Thực tiễn cho thấy chỉ có tài sản
rất lớn, rất quan trọng đối với đời sống gia đình thì trong giấy chứng nhận quyền
sở hữu mới ghi tên của cả vợ chồng (như: nhà ở, quyền sử dụng đất...), song
cũng không phải trong mọi trường hợp. Đối với các tài sản khác phải đăng ký quyền
sở hữu, nhưng trong giấy chứng nhận thường chỉ ghi tên của vợ hoặc chồng (như:
xe môtô, xe ôtô, tàu, thuyền vận tải...). Mặt khác, khoản 1 Điều
32 đã quy định cụ thể về tài sản riêng của vợ chồng. Để bảo vệ quyền lợi
chính đáng của các bên, trong trường hợp tài sản do vợ, chồng có được trong thời
kỳ hôn nhân mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, nhưng trong giấy
chứng nhận quyền sở hữu chỉ ghi tên của vợ hoặc chồng, nếu không có tranh chấp
thì đó là tài sản chung của vợ chồng; nếu có tranh chấp là tài sản riêng thì
người có tên trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải chứng minh được tài sản
này do được thừa kế riêng, được tặng riêng trong thời kỳ hôn nhân hoặc tài sản
này có được từ nguồn tài sản riêng quy định tại khoản 1 Điều 32
(ví dụ: được thừa kế riêng một khoản tiền và dùng khoản tiền này mua cho bản
thân một chiếc xe môtô mà không nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng).
Trong trường hợp không chứng minh được tài sản đang có tranh chấp này là tài sản
riêng thì theo quy định tại khoản 3 Điều 27 tài sản đó là
tài sản chung của vợ chồng.
4. Quyền thừa kế
tài sản giữa vợ chồng (Điều 31)
Ngoài việc quy định cụ thể về
quyền thừa kế tài sản của nhau, quản lý tài sản khi vợ hoặc chồng chết hoặc bị
Toà án tuyên bố là đã chết, khoản 3 Điều 31 còn quy định:
"Trong trường hợp yêu cầu
chia tài sản thừa kế mà việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của
bên vợ hoặc chồng còn sống và gia đình thì bên còn sống có quyền yêu cầu Toà án
xác định phần di sản mà những người thừa kế được hưởng nhưng chưa cho chia di sản
trong một thời hạn nhất định; nếu hết thời hạn do Toà án xác định hoặc bên còn
sống đã kết hôn với người khác thì những người thừa kế khác có quyền yêu cầu
Toà án cho chia di sản thừa kế".
Khi áp dụng quy định tại khoản 3 Điều 31 cần chú ý:
a. Việc chia di sản ảnh hưởng
nghiêm trọng đến đời sống của bên vợ hoặc chồng còn sống và gia đình là trong
trường hợp người chết có để lại di sản, nhưng nếu đem di sản này chia cho những
người thừa kế được hưởng thì vợ hoặc chồng còn sống và gia đình gặp rất nhiều
khó khăn trong cuộc sống như: không có chỗ ở, mất nguồn tư liệu sản xuất duy nhất...
Ví dụ 1: Trước khi kết hôn anh A
mua được một ngôi nhà cấp 4 có diện tích 25m2. Sau đó anh A kết hôn với chị B
và không nhập ngôi nhà này vào khối tài sản chung của vợ chồng. Sau khi sinh được
một người con thì anh A bị chết và không để lại di chúc. Bố mẹ của anh A yêu cầu
chia di sản thừa kế là ngôi nhà của anh A. Chị B và con không có chỗ ở nào khác
và cũng chưa có điều kiện để tạo lập chỗ ở khác. Ngôi nhà này lại không thể
chia được bằng hiện vật. Trong trường hợp này việc chia di sản thừa kế là ngôi
nhà sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của chị B và con.
Ví dụ 2: Anh C và chị D kết hôn
với nhau và mua được ngôi nhà có diện tích 20m2. Sau khi sinh được một người
con thì anh C bị chết và không để lại di chúc. Bố mẹ của anh C yêu cầu chia di
sản do anh C để lại là phần nhà của anh C trong ngôi nhà này. Chị D và con
không có chỗ ở nào khác, trong khi đó ngôi nhà này nếu chia bằng hiện vật thì
không bảo đảm cho việc sinh hoạt tối thiểu của chị D và con; nếu buộc chị D phải
thanh toán bằng tiền phần thừa kế mà bố mẹ anh C được hưởng thì chị D cũng
không có khả năng. Trong trường hợp này việc chia di sản thừa kế phần nhà của
anh C trong ngôi nhà có diện tích 20m2 sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của
chị D và con.
b. Khi thuộc trường hợp tại điểm
a mục này thì Toà án cần giải thích cho người có yêu cầu chia di sản thừa kế biết
là họ mới chỉ có quyền yêu cầu xác định phần di sản mà họ được hưởng và họ chỉ
có quyền yêu cầu chia di sản sau một thời hạn nhất định, cụ thể là ba năm, nếu
trong thời hạn này bên còn sống là vợ hoặc chồng của người đã chết chưa kết hôn
với người khác. Nếu họ có yêu cầu xác định phần di sản mà họ được hưởng thì Toà
án thụ lý để giải quyết. Trong trường hợp này, nếu họ không được miễn nộp tiền
tạm ứng án phí, miễn án phí thì họ phải nộp tiền tạm ứng án phí như đối với vụ
án không có giá ngạch.
c. Toà án thụ lý yêu cầu chia di
sản thừa kế đối với trường hợp được nêu tại điểm a mục 4 này khi thuộc một
trong các trường hợp sau đây:
c.1. Hết thời hạn do Toà án xác
định;
c.2. Bên còn sống đã kết hôn với
người khác.
Trong trường hợp này, nếu đương
sự không được miễn nộp tiền tạm ứng án phí, miễn án phí thì họ phải nộp tiền tạm
ứng án phí, nộp án phí như đối với vụ án có giá ngạch.
5. Xác định
cha, mẹ, con (Điều 63, Điều 64)
a. Theo quy định tại khoản 1 Điều 63, thì về nguyên tắc trong các trường hợp sau
đây phải coi là con chung của vợ chồng:
- Con sinh ra sau khi đã tổ chức
đăng ký kết hôn cho đến trước khi chấm dứt quan hệ hôn nhân do Toà án công nhận
hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc chồng hoặc của cả hai vợ chồng;
- Con sinh ra sau khi chấm dứt
quan hệ hôn nhân do Toà án công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc
chồng hoặc cả hai vợ chồng, nhưng người vợ đã có thai trong thời kỳ hôn nhân
(trong thời kỳ từ khi đã tổ chức đăng ký kết hôn cho đến trước khi chấm dứt
quan hệ hôn nhân).
- Con sinh ra trước ngày đăng ký
kết hôn (ngày tổ chức đăng ký kết hôn) nhưng được cả vợ và chồng thừa nhận.
b. Theo quy định tại khoản 2 Điều 63 và Điều 64, khi có người yêu cầu Toà án xác định
một người nào đó là con của họ hay không phải là con của họ thì phải có chứng cứ;
do đó về nguyên tắc người có yêu cầu phải cung cấp chứng cứ. Trong trường hợp cần
thiết thì phải giám định gien. Người có yêu cầu giám định gien phải nộp lệ phí
giám định gien.
6. Quyền yêu cầu
Toà án giải quyết việc ly hôn (Điều 85)
Theo quy định tại Điều
85 thì vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Toà án giải quyết việc
ly hôn. Tuy nhiên, người chồng không có quyền yêu cầu xin ly hôn khi vợ đang có
thai hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi. Luật chỉ quy định "vợ đang có
thai hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi"; do đó, khi người vợ đang thuộc
một trong các trường hợp này (không phân biệt người vợ có thai với ai hoặc bố của
đứa trẻ dưới 12 tháng tuổi là ai), mà người chồng có yêu cầu xin ly hôn, thì giải
quyết như sau:
a. Trong trường hợp chưa thụ lý
vụ án thì Toà án áp dụng điểm 1 Điều 36 Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án dân sự trả lại đơn kiện cho người nộp đơn.
b. Trong trường hợp đã thụ lý vụ
án thì Toà án cần giải thích cho người nộp đơn biết là họ chưa có quyền yêu cầu
xin ly hôn. Nếu người nộp đơn rút đơn yêu cầu xin ly hôn thì Toà án áp dụng điểm 2 Điều 46 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự ra
quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án. Nếu người nộp đơn không rút đơn yêu
cầu xin ly hôn thì Toà án tiến hành giải quyết vụ án theo thủ tục chung và quyết
định bác yêu cầu xin ly hôn của họ.
7. Hoà giải tại
Toà án (Điều 88)
Theo quy định tại Điều
88 thì sau khi đã thụ lý đơn yêu cầu ly hôn, Toà án tiến hành hoà giải theo
quy định của pháp luật về tố tụng dân sự; do đó, Toà án phải tiến hành hoà giải
theo đúng hướng dẫn tại mục II Nghị quyết số 3/HĐTP ngày
19/10/1990 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao "Hướng dẫn áp dụng
một số quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự" (xem Cuốn
các văn bản về hình sự, dân sự và tố tụng; tập 2; Toà án nhân dân tối cao xuất
bản năm 1992; tr 292, 293).
8. Căn cứ cho
ly hôn (Điều 89)
a. Theo quy định tại khoản 1 Điều 89 thì Toà án quyết định cho ly hôn nếu xét thấy
tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài được, mục đích của hôn
nhân không đạt được.
a.1. Được coi là tình trạng của
vợ chồng trầm trọng khi:
- Vợ, chồng không thương yêu,
quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau như người nào chỉ biết bổn phận người đó, bỏ
mặc người vợ hoặc người chồng muốn sống ra sao thì sống, đã được bà con thân
thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, nhắc nhở, hoà giải nhiều lần.
- Vợ hoặc chồng luôn có hành vi
ngược đãi, hành hạ nhau, như thường xuyên đánh đập, hoặc có hành vi khác xúc phạm
đến danh dự, nhân phẩm và uy tín của nhau, đã được bà con thân thích của họ hoặc
cơ quan, tổ chức, đoàn thể nhắc nhở, hoà giải nhiều lần.
- Vợ chồng không chung thuỷ với
nhau như có quan hệ ngoại tình, đã được người vợ hoặc người chồng hoặc bà con
thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, nhắc nhở, khuyên bảo nhưng vẫn tiếp tục
có quan hệ ngoại tình;
a.2. Để có cơ sở nhận định đời sống
chung của vợ chồng không thể kéo dài được, thì phải căn cứ vào tình trạng hiện
tại của vợ chồng đã đến mức trầm trọng như hướng dẫn tại điểm a.1 mục 8 này. Nếu
thực tế cho thấy đã được nhắc nhở, hoà giải nhiều lần, nhưng vẫn tiếp tục có
quan hệ ngoại tình hoặc vẫn tiếp tục sống ly thân, bỏ mặc nhau hoặc vẫn tiếp tục
có hành vi ngược đãi hành hạ, xúc phạm nhau, thì có căn cứ để nhận định rằng đời
sống chung của vợ chồng không thể kéo dài được.
a.3. Mục đích của hôn nhân không
đạt được là không có tình nghĩa vợ chồng; không bình đẳng về nghĩa vụ và quyền
giữa vợ, chồng; không tôn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của vợ, chồng; không
tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của vợ, chồng; không giúp đỡ, tạo điều
kiện cho nhau phát triển mọi mặt.
b. Theo quy định tại khoản 2 Điều
89 thì: "trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Toà án tuyên bố mất
tích xin ly hôn thì Toà án giải quyết cho ly hôn". Thực tiễn cho thấy có
thể xảy ra hai trường hợp như sau:
b.1. Người vợ hoặc người chồng đồng
thời yêu cầu Toà án tuyên bố người chồng hoặc người vợ của mình mất tích và yêu
cầu Toà án giải quyết cho ly hôn. Trong trường hợp này nếu Toà án tuyên bố người
đó mất tích thì giải quyết cho ly hôn; nếu Toà án thấy chưa đủ điều kiện tuyên
bố người đó mất tích thì bác các yêu cầu của người vợ hoặc người chồng.
b.2. Người vợ hoặc người chồng
đã bị Toà án tuyên bố mất tích theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên
quan. Sau khi bản án của Toà án tuyên bố người vợ hoặc người chồng mất tích đã
có hiệu lực pháp luật thì người chồng hoặc người vợ của người đó có yêu cầu xin
ly hôn với người đó. Trong trường hợp này Toà án giải quyết cho ly hôn.
b.3. Khi Toà án giải quyết cho
ly hôn với người tuyên bố mất tích thì cần chú ý giải quyết việc quản lý tài sản
của người bị tuyên bố mất tích theo đúng quy định tại Điều 89 Bộ
luật dân sự.
9. Thuận tình
ly hôn (Điều 90)
a. Trong trường hợp vợ chồng
cùng yêu cầu xin ly hôn thì Toà án vẫn phải tiến hành hoà giải. Trong trường hợp
Toà án hoà giải không thành thì Toà án lập biên bản về việc tự nguyện ly hôn và
hoà giải đoàn tụ không thành. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày lập biên bản nếu
vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng không có sự thay đổi ý kiến cũng như Viện Kiểm
sát không có phản đối sự thoả thuận đó, thì Toà án ra quyết định công nhận thuận
tình ly hôn mà không phải mở phiên toà khi có đầy đủ các điều kiện sau đây:
- Hai bên thật sự tự nguyện ly
hôn;
- Hai bên đã thoả thuận được với
nhau về việc chia hoặc không chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm
sóc, giáo dục con;
- Sự thoả thuận của hai bên về
tài sản và con trong từng trường hợp cụ thể này là bảo đảm quyền lợi chính đáng
của vợ và con.
Quyết định công nhận thuận tình
ly hôn có hiệu lực pháp luật ngay, các bên không có quyền kháng cáo, Viện Kiểm
sát không có quyền kháng nghị theo trình tự phúc thẩm.
b. Trong trường hợp hoà giải tại
Toà án mà thiếu một trong các điều kiện được nêu tại điểm a mục này thì Toà án
lập biên bản về việc hoà giải đoàn tụ không thành về những vấn đề hai bên không
thoả thuận được hoặc có thoả thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của
vợ và con, đồng thời tiến hành mở phiên toà xét xử vụ án ly hôn theo thủ tục
chung.
10. Ly hôn
theo yêu cầu của một bên (Điều 91)
a. Khi một bên vợ hoặc chồng yêu
cầu ly hôn thì Toà án phải tiến hành hoà giải. Nếu hoà giải đoàn tụ thành mà
người yêu cầu xin ly hôn rút đơn yêu cầu xin ly hôn thì Toà án áp dụng điểm 2 Điều 46 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự
ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án.
Nếu người xin ly hôn không rút
đơn yêu cầu xin ly hôn thì Toà án lập biên bản hoà giải đoàn tụ thành. Sau 15
ngày, kể từ ngày lập biên bản, nếu vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng không có
sự thay đổi ý kiến cũng như Viện Kiểm sát không phản đối thì Toà án ra quyết định
công nhận hoà giải đoàn tụ thành. Quyết định công nhận hoà giải đoàn tụ thành
có hiệu lực pháp luật ngay và các đương sự không có quyền kháng cáo, Viện Kiểm
sát không có quyền kháng nghị theo trình tự phúc thẩm.
b. Trong trường hợp hoà giải
đoàn tụ không thành thì Toà án lập biên bản hoà giải đoàn tụ không thành, đồng
thời tiến hành mở phiên toà xét xử vụ án ly hôn theo thủ tục chung.
c. Cần chú ý là tuy pháp luật tố
tụng chưa quy định, nhưng đối với người có đơn yêu cầu xin ly hôn mà bị Toà án
bác đơn xin ly hôn thì sau một năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Toà án bác
đơn xin ly hôn có hiệu lực pháp luật, người đó mới lại được yêu cầu Toà án giải
quyết việc xin ly hôn.
11. Việc trông
nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con sau khi ly hôn (Điều
92).
Khi áp dụng quy định tại Điều 92 cần chú ý một số điểm sau đây:
a. Theo quy định tại khoản 1 Điều 92 thì người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ
cấp dưỡng nuôi con. Đây là nghĩa vụ của cha, mẹ; do đó, không phân biệt người
trực tiếp nuôi con có khả năng kinh tế hay không, người không trực tiếp nuôi
con vẫn phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.
Trong trường hợp người trực tiếp
nuôi con không yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cấp dưỡng vì lý do nào đó
thì Toà án cần giải thích cho họ hiểu rằng việc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con là
quyền lợi của con để họ biết nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con. Nếu
xét thấy việc họ không yêu cầu cấp dưỡng là tự nguyện, họ có đầy đủ khả năng,
điều kiện nuôi dưỡng con thì Toà án không buộc bên kia phải cấp dưỡng nuôi con.
b. Tiền cấp dưỡng nuôi con bao gồm
những chi phí tối thiểu cho việc nuôi dưỡng và học hành của con và do các bên
thoả thuận. Trong trường hợp các bên không thoả thuận được thì tuỳ vào từng trường
hợp cụ thể, vào khả năng của mỗi bên mà quyết định mức cấp dưỡng nuôi con cho hợp
lý.
c. Về phương thức cấp dưỡng do
các bên thoả thuận định kỳ hàng tháng, hàng quý, nửa năm, hàng năm hoặc một lần.
Trong trường hợp các bên không thoả thuận được thì Toà án quyết định phương thức
cấp dưỡng định kỳ hàng tháng.
d. Trong trường hợp vợ, chồng
không thoả thuận được về người trực tiếp nuôi con thì Toà án quyết định giao
con cho một bên trực tiếp nuôi con căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con, đặc
biệt là các điều kiện cho sự phát triển về thể chất, bảo đảm việc học hành và
các điều kiện cho sự phát triển tốt về tinh thần. Nếu con từ đủ chín tuổi trở
lên, thì trước khi quyết định, Toà án phải hỏi ý kiến của người con đó về nguyện
vọng được sống trực tiếp với ai.
Về nguyên tắc, con dưới ba mươi
sáu tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi con, nếu các bên không có thoả
thuận khác.
12. Chia tài sản
của vợ chồng khi ly hôn (các Điều 95, 96, 97 và 98)
Việc chia tài sản của vợ chồng
khi ly hôn phải theo đúng các nguyên tắc được quy định tại Điều
95. Ngoài ra, tuỳ vào từng trường hợp cụ thể mà áp dụng các quy định tại Điều 96, Điều 97, Điều 98 tương ứng. Tuy nhiên, cần chú ý: việc
xác định giá trị khối tài sản chung của vợ chồng hoặc phần giá trị mà họ phải
thanh toán, họ được hưởng là căn cứ vào giá giao dịch thực tế tại địa phương
vào thời điểm xét xử.
13. Hiệu lực
thi hành của Nghị quyết
Nghị quyết này đã được Hội đồng
thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thông qua ngày 23 tháng 12 năm 2000 và có hiệu
lực thi hành từ ngày 10 tháng 1 năm 2001.
Nghị quyết này thay thế Nghị quyết
số 01/NQ-HĐTP ngày 20/1/1988 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng
dẫn áp dụng một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình (năm 1986).
Những hướng dẫn khác của Toà án
nhân dân tối cao trái với các hướng dẫn trong Nghị quyết này đều bãi bỏ.
|
HỘI
ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
CHÁNH ÁN
Trịnh Hồng Dương
|