BỘ Y TẾ
--------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 3982/QĐ-BYT
|
Hà Nội, ngày 18
tháng 08 năm 2021
|
QUYẾT ĐỊNH
VỀ VIỆC BAN HÀNH HƯỚNG DẪN TẠM THỜI DỰ PHÒNG VÀ XỬ TRÍ
COVID-19 DO CHỦNG VI RÚT SARS-COV-2 Ở PHỤ NỮ MANG THAI VÀ TRẺ SƠ SINH
BỘ TRƯỞNG BỘ Y TẾ
Căn cứ Nghị định số
75/2017/NĐ-CP ngày 20 tháng 6 năm 2017 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức Bộ Y tế;
Theo đề nghị của Vụ trưởng Vụ
Sức khỏe Bà mẹ - Trẻ em, Bộ Y tế,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1.
Ban hành kèm theo Quyết định này Hướng dẫn tạm thời Dự
phòng và xử trí COVID-19 do chủng vi rút SARS-CoV-2 ở phụ nữ mang thai và trẻ
sơ sinh.
Điều 2.
Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày ký, ban hành.
Bãi bỏ Quyết định số 1271/QĐ-BYT ngày 21/3/2020 của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc
ban hành Hướng dẫn tạm thời Dự phòng và xử trí viêm đường hô hấp cấp tính do chủng
vi rút SARS-CoV-2 (COVID-19) ở phụ nữ mang thai và trẻ sơ sinh.
Điều 3.
Các ông, bà: Vụ trưởng Vụ Sức khỏe Bà mẹ - Trẻ em;
Chánh Văn phòng Bộ; Chánh Thanh tra Bộ; Vụ trưởng, Cục trưởng, Tổng Cục trưởng
các Vụ, Cục, Tổng cục thuộc Bộ Y tế; Giám đốc Bệnh viện trực thuộc Bộ Y tế;
Giám đốc Sở Y tế các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Thủ trưởng y tế các
Bộ, ngành và Thủ trưởng các đơn vị có liên quan chịu trách nhiệm thi hành Quyết
định này./.
Nơi nhận:
- Như Điều 3;
- Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam (để báo cáo);
- Bộ trưởng (để báo cáo);
- Các Thứ trưởng (để P/hợp chỉ đạo);
- Cổng TTĐT Bộ Y tế;
- Lưu: VT, BMTE.
|
KT. BỘ TRƯỞNG
THỨ TRƯỞNG
Nguyễn Trường Sơn
Trưởng Tiểu ban điều trị
Ban chỉ đạo QG PCD COVID-19
|
HƯỚNG DẪN
TẠM THỜI DỰ PHÒNG VÀ XỬ TRÍ COVID-19 DO CHỦNG VI RÚT
SARS-COV-2 Ở PHỤ NỮ MANG THAI VÀ TRẺ SƠ SINH
Ban hành kèm theo Quyết định số: 3982/QĐ-BYT, ngày 18 tháng 08 năm 2021 của
Bộ trưởng Bộ Y tế
I. Đại cương
1. Vi rút
Vi rút Corona (CoV) là một họ
vi rút lớn ở động vật và người. Vi rút Corona được chia làm 4 giống, bao gồm 2
giống anpha và 2 giống beta gây bệnh trên người, với các triệu chứng từ cúm
thông thường đến những trường hợp bệnh nghiêm trọng hơn như hội chứng viêm đường
hô hấp cấp tính nặng SARS-CoV và hội chứng bệnh hô hấp Trung Đông (MERS-CoV),
gây viêm phổi nặng có thể dẫn tới tử vong.
Vi rút Corona có hình cầu với
đường kính khoảng 125nm, có các protein bề mặt nổi lên hình gai. Vi rút chứa 4
protein cấu trúc chính là protein gai (S), protein màng (M), protein vỏ (E) và
nucleocapsid (N). Bên trong vỏ của virion là nucleocapsid sợi đơn dương, đối xứng
xoắn ốc. Vi rút có RNA sợi đơn dương tính, không phân đoạn, khoảng 30 kb.
2. Lây truyền
SARS-CoV-2 là một chủng vi rút
Corona mới gây COVID-19, lần đầu tiên được nhận diện ở thành phố Vũ Hán,
Trung Quốc. Chủng vi rút này có khả năng lây truyền từ động vật sang người và
trực tiếp từ người sang người qua giọt bắn, đường hô hấp, tiếp xúc gần.
Đối với phụ nữ mang thai, cho đến
thời điểm này, nhiều nghiên cứu cho thấy khả năng lây nhiễm vi rút SARS CoV-2
qua bánh rau trong quá trình mang thai là rất thấp. Các nghiên cứu từ Trung Quốc,
Mỹ cho thấy phần lớn các mẫu xét nghiệm nước ối, máu cuống rốn, rau thai, dịch
âm đạo và sữa mẹ của phụ nữ mang thai nhiễm COVID-19 cho kết quả âm tính với vi
rút SARS CoV-2; đồng thời hầu hết kết quả xét nghiệm dịch mũi/họng hầu được lấy
ngay sau sinh ở trẻ sinh ra từ mẹ nhiễm COVID-19 cũng cho kết quả âm tính với
vi rút này. Đường lây truyền qua giọt bắn được cho là đường lây truyền chính
khi trẻ tiếp xúc với người chăm sóc nhiễm SARS-CoV-2.
3. Ảnh hưởng của COVID-19
đối với phụ nữ mang thai và thai nhi
Các dữ liệu hiện nay cho thấy
nguy cơ mắc bệnh thể nặng ở phụ nữ mang thai nhiễm COVID-19 có triệu chứng cao
hơn so với nhóm phụ nữ không mang thai. Mặc dù nguy cơ mắc bệnh thể nặng thấp
nhưng các dữ liệu hiện nay chỉ ra rằng nguy cơ nằm ở khoa chăm sóc tích cực, thở
máy và hỗ trợ thông khí (ECMO) và tử vong ở phụ nữ mang thai nhiễm COVID-19 có
triệu chứng cao hơn so với nhóm phụ nữ không mang thai có triệu chứng.
Đối với thai nhi, các nghiên cứu
gần đây về COVID-19 cũng như những nghiên cứu trước đây về bệnh SARS-CoV và
MERS-CoV cho thấy không có bằng chứng nào chứng minh có mối liên quan giữa những
bệnh này và các dị tật bẩm sinh. Tuy nhiên, cũng có bằng chứng cho rằng viêm phổi
do vi rút ở phụ nữ mang thai có liên quan đến tăng nguy cơ sinh non, thai chậm
phát triển và tử vong chu sinh...
4. Ảnh hưởng của COVID-19
đến trẻ sơ sinh
Nghiên cứu tổng hợp từ báo cáo
khoa học ở nhiều quốc gia với gần 7500 trẻ em trong đó có 25 trẻ sơ sinh nhiễm
SARS-CoV-2 cho thấy đa phần trẻ có triệu chứng vừa và nhẹ, khoảng 2% trẻ cần
nhập vào đơn vị hồi sức tích cực và tỉ lệ tử vong là 0,08%. Nghiên cứu tổng hợp
từ 74 báo cáo trên 176 trẻ sơ sinh nhiễm SARS-CoV-2, có 5,1% trẻ cần hồi sức
sau sinh, 38% trẻ được nhập vào đơn vị Hồi sức tích cực tuy vậy phần lớn những
trẻ này bị cách ly theo quy trình mà không phải do bệnh nguy kịch cần chăm sóc
tích cực. Thời gian trung bình nằm tại đơn vị hồi sức là 8 ngày. Không có tử
vong nào được báo cáo là do COVID-19. Trẻ sơ sinh nhiễm SARS-CoV-2 được báo cáo
có thể có các triệu chứng sốt, li bì, ho, thở nhanh, thở gắng sức, ngưng thở,
nôn, tiêu chảy và bú kém. Một số triêu chứng rất khó phân biệt với các bệnh lý
thường gặp ở trẻ sơ sinh như chậm hấp thu dịch phế nang, bệnh màng trong và nhiễm
trùng sơ sinh. Nghiên cứu ở thành phố New York trên 116 bà mẹ nhiễm SARS-CoV-2
và 120 trẻ sơ sinh của các bà mẹ này cho thấy tất cả trẻ đều có xét nghiệm
SARS-CoV-2 trong vòng 24 giờ đầu sau sinh âm tính. Có 82 trẻ được theo dõi đến
5-7 ngày tuổi, 68 trẻ được nằm chung phòng với mẹ. Tất cả bà mẹ đều được cho
con bú, 79 trẻ xét nghiệm vào ngày thứ 5-7 sau sinh và đều cho kết quả âm tính,
72 trẻ được xét nghiệm vào ngày 14 và kết quả cũng âm tính, không có trẻ nào có
triệu chứng lâm sàng của COVID-19.
Chăm sóc thiết yếu sơ sinh sớm
gồm da kề da và bú sữa mẹ được chứng minh là giảm tỷ lệ hạ thân nhiệt, hạ đường
máu, suy hô hấp, nhiễm trùng sơ sinh, giảm sang chấn tâm lý, giảm tử vong và bệnh
tật cho mẹ và trẻ. Đồng thời chưa có bằng chứng khoa học cho thấy việc cách ly
mẹ con làm giảm nguy cơ nhiễm SARS-CoV-2 cho trẻ sơ sinh. Khuyến cáo của Tổ chức
Y tế thế giới là duy trì cái ôm đầu tiên ngay sau sinh, chăm sóc sơ sinh thiết
yếu sớm và bú mẹ hoàn toàn giúp giảm biến chứng bệnh tật và tử vong cho bà mẹ
và trẻ em.
II. Dự phòng
và kiểm soát lây nhiễm
1. Cơ sở khám bệnh, chữa
bệnh có cung cấp dịch vụ sản khoa và chăm sóc trẻ sơ sinh:
- Chuẩn bị nhân lực, cơ sở hạ
tầng, phương tiện, trang thiết bị, vật tư y tế để đảm bảo thực hiện nguyên tắc
phòng ngừa và các biện pháp kiểm soát lây truyền trong cơ sở khám bệnh, chữa bệnh
theo quy định hiện hành của Bộ Y tế.
- Đảm bảo đủ các phương tiện phục
vụ phòng ngừa, đặc biệt trang phục phòng hộ cá nhân, dung dịch vệ sinh tay và
khẩu trang y tế.
- Yêu cầu phân luồng:
+ Tổ chức sàng lọc, phát hiện sớm
và kiểm soát người bệnh nhiễm hoặc nghi nhiễm COVID-19 ngay tại nơi đón tiếp.
+ Bố trí khu vực riêng để tiếp
đón, sàng lọc và phân luồng các phụ nữ mang thai đến khám.
+ Căn cứ vào điều kiện thực tế
của địa phương có thể thực hiện việc sàng lọc thông qua làm test nhanh hoặc
sàng lọc nguy cơ qua khai báo y tế.
+ Bố trí khu vực đệm dành cho
các sản phụ chưa có kết quả xét nghiệm PCR SARS-CoV-2 cần phải can thiệp cấp cứu
và khu vực đệm dành cho các trẻ sơ sinh cần điều trị cấp cứu khi chưa có kết
quả PCR của mẹ.
+ Bố trí khu vực chăm sóc, theo
dõi, xử trí riêng cho phụ nữ mang thai nghi nhiễm và nhiễm COVID-19. Nếu cơ sở
y tế có điều kiện, bố trí phòng sinh và phòng mổ áp lực âm.
2. Phụ nữ mang thai, bà mẹ
sau sinh đến khám (người bệnh):
- Hướng dẫn người bệnh và người
nhà đến khám đeo khẩu trang, sát khuẩn bằng dung dịch rửa tay nhanh và tới khu
vực cách ly.
- Giữ khoảng cách tối thiểu là
2 mét giữa các người bệnh.
- Hạn chế người bệnh di chuyển
trong cơ sở y tế.
- Người nhà đi kèm với người
nhiễm hoặc nghi nhiễm COVID-19 cần phải được xem như là có phơi nhiễm với
COVID-19 và cũng phải được tầm soát cho đến hết thời gian theo dõi theo quy định
để giúp chẩn đoán sớm và phòng ngừa COVID-19.
- Cán bộ y tế nên tư vấn cho phụ
nữ mang thai về các nguy cơ của nhiễm COVID-19 và các biện pháp dự phòng nhiễm
SARS CoV-2, bao gồm:
+ Tiêm vaccine ngừa COVID-19
trong thai kỳ (thai ≥ 13 tuần) hoặc trong giai đoạn hậu sản, kể cả khi nuôi
con bằng sữa mẹ theo quy định hiện hành của Bộ Y tế.
+ Thực hiện các biện pháp dự
phòng nhiễm COVID-19 như rửa tay thường xuyên, đeo khẩu trang, giữ khoảng cách
và hạn chế tiếp xúc với người khác.
- Phụ nữ mang thai đang ở trong
vùng bị phong tỏa do dịch COVID-19:
+ Giảm số lần thăm khám trực
tiếp, giảm thời lượng của mỗi lần khám thai, nên tăng cường thăm khám qua hệ
thống khám chữa bệnh từ xa.
+ Hạn chế số người khám ngồi
trong phòng chờ, nên đặt lịch hẹn trước khi đến khám và giữ khoảng cách trên 2
mét giữa các thai phụ.
+ Phân nhóm các thai kỳ có cùng
tuổi thai để hẹn khám và thực hiện các xét nghiệm trong cùng một thời gian, nhằm
giảm sự tiếp xúc với nhiều nhân viên y tế.
+ Hạn chế các xét nghiệm, chỉ
thực hiện những chỉ định thực sự cần thiết.
+ Sử dụng một số phương pháp chẩn
đoán tạm thời thay thế cho các phương pháp chẩn đoán đã có trong phác đồ về
theo dõi thai kỳ do Bộ Y tế ban hành như chẩn đoán bệnh lý đái tháo đường thai
kỳ bằng phối hợp Glucose máu và HbA1c; tầm soát các thể lệch bội thường gặp bằng
NIPS.
- Phụ nữ mang thai hay trong
giai đoạn hậu sản vẫn tiếp tục tiêm phòng uốn ván theo lịch tiêm chủng.
3. Nhân viên y tế:
tuân thủ thực hành phòng ngừa chuẩn và phòng ngừa dựa theo đường lây truyền, áp
dụng các biện pháp dự phòng giọt bắn, dự phòng tiếp xúc, dự phòng lây truyền
qua đường không khí theo quy định hiện hành của Bộ Y tế.
III. Xử trí
phụ nữ mang thai nhiễm hoặc nghi nhiễm COVID-19
1. Chẩn đoán: thực
hiện theo Quyết định số 3416/QĐ-BYT ngày 14/07/2021 của Bộ trưởng Bộ Y tế ban
hành Hướng dẫn chẩn đoán, điều trị viêm đường hô hấp cấp tính do chủng vi rút
SARS-CoV-2 và các văn bản cập nhật (nếu có) của Bộ Y tế.
2. Xử trí
2.1. Nguyên tắc xử trí
- Ưu tiên các điều trị nội khoa
trước.
- Phân loại mức độ lâm sàng và
điều trị theo Quyết định số 3416/QĐ-BYT ngày 14/07/2021 của Bộ trưởng Bộ Y tế ban
hành Hướng dẫn chẩn đoán, điều trị viêm đường hô hấp cấp tính do chủng vi rút
SARS-CoV-2 và các văn bản cập nhật (nếu có) của Bộ Y tế.
- Hạn chế các can thiệp sản
khoa trong thời gian nghi nhiễm/nhiễm COVID-19, trừ khi có chỉ định cần can
thiệp cấp cứu (rau tiền đạo/cài răng lược có chảy máu nhiều, rau bong non, thai
suy,...) hoặc bán cấp (vỡ ối, chuyển dạ...) hoặc khi mẹ có dấu hiệu trở nặng.
- Cân nhắc lợi ích giữa điều trị
suy hô hấp mẹ và can thiệp sản khoa trong thời gian sản phụ nhiễm COVID-19: mức
độ nhiễm COVID-19, tuổi thai, tình trạng thai, các chỉ định can thiệp cấp cứu sản
khoa.
2.2. Xử trí phụ nữ mang
thai nghi nhiễm hoặc nhiễm COVID-19
2.2.1. Khám thai:
- Khi khám thai cần tư vấn các
nguy cơ cho mẹ và thai nhi, kết hợp tư vấn các biện pháp dự phòng lây nhiễm và
phòng hộ cá nhân cần thiết.
- Thực hiện khám thai theo Hướng
dẫn quốc gia về các dịch vụ Chăm sóc sức khỏe sinh sản được ban hành tại Quyết
định số 4128/QĐ-BYT ngày 29/7/2016 của Bộ trưởng Bộ Y tế. Lịch khám thai có thể
thay đổi tùy tình trạng thai, sức khỏe sản phụ và bệnh lý kèm theo của thai phụ;
có thể khám qua hệ thống khám bệnh từ xa.
- Hạn chế số lần thăm khám, hạn
chế số nhân viên y tế tiếp xúc người bệnh, rút ngắn thời gian thăm khám và xét
nghiệm, sử dụng phương tiện phòng hộ cá nhân phù hợp khi thăm khám người bệnh.
- Phân loại mức độ lâm sàng ở
thai phụ nhiễm COVID-19 theo QĐ 3416/QĐ- BYT và các văn bản quy định hiện hành
(nếu có) của Bộ Y tế và các vấn đề sản khoa như chảy máu âm đạo, vỡ ối, giảm/không
có cử động thai, ...
- Hướng dẫn sản phụ tuân thủ thực
hiện đeo khẩu trang, sát khuẩn, hạn chế tiếp xúc, giữ khoảng cách.
2.2.2. Xử trí phụ nữ mang
thai:
- Nghi nhiễm COVID-19: thực
hiện cách ly theo hướng dẫn hiện hành của Bộ Y tế và quy định cụ thể của địa
phương.
- Nhiễm COVID-19:
+ Thực hiện việc chăm sóc, theo
dõi, điều trị tại cơ sở y tế điều trị COVID-19, bệnh viện dã chiến hoặc tại nhà
theo hướng dẫn hiện hành của Bộ Y tế và quy định cụ thể của địa phương.
+ Ưu tiên điều trị COVID-19 trước,
chỉ can thiệp sản khoa khi có triệu chứng cấp cứu về sản khoa hoặc khi tình trạng
mẹ nặng cần hội chẩn các chuyên khoa liên quan.
+ Thực hiện các kỹ thuật chẩn
đoán hình ảnh như chụp X quang và CT Scan ngực, siêu âm, sàng lọc trước sinh
như đối với người không mang thai, chỉ sử dụng phương tiện chẩn đoán hình ảnh
này khi thật cần thiết với bức xạ liều thấp, chú ý sử dụng các phương tiện bảo
vệ thai nhi.
+ Thai phụ nhiễm COVID-19 (kể cả
đã khỏi) cần được quản lý thai 2 - 4 tuần/lần nhằm phát hiện sớm những trường
hợp tiền sản giật, thai chậm phát triển trong tử cung, dọa đẻ non/đẻ non.
+ Cân nhắc sử dụng thuốc kháng
vi rút, thuốc kháng động và các loại thuốc khác cho thai phụ nhiễm COVID-19
theo hướng dẫn hiện hành của Bộ Y tế. Lưu ý: nếu dùng thuốc kháng vi rút cần
theo dõi chức năng gan, thận; nếu có kế hoạch mổ lấy thai, ngừng sử dụng thuốc
kháng đông trước 12 - 24 giờ.
2.2.3. Can thiệp sản
khoa:
a) Điều trị dọa sảy thai, dọa đẻ
non cần căn cứ vào tình trạng của thai phụ, thai nhi và nên hội chẩn với các
chuyên khoa truyền nhiễm/hồi sức/sơ sinh.
- Sử dụng Corticosteroid:
+ Thai phụ nhiễm COVID-19 có thể
sử dụng Corticosteroid theo quy định hiện hành của Bộ Y tế.
+ Sử dụng Corticosteroid cho mục
đích trưởng thành phổi: Dexamethasone 6mg tiêm tĩnh mạch 12 giờ/lần trong vòng
48 giờ (04 liều).
b) Thời điểm và phương pháp
sinh: Thời điểm sinh nên được xem xét trên từng trường hợp cụ thể, dựa vào tình
trạng mẹ, thai nhi, tuổi thai, sau khi hội chẩn với các chuyên khoa liên quan,
thảo luận với sản phụ và gia đình:
- Đối với những trường hợp mắc
bệnh COVID-19 nhưng không có triệu chứng hoặc chỉ ở mức độ nhẹ:
+ Nếu tuổi thai từ 39 tuần trở
lên, xem xét chỉ định chấm dứt thai kỳ.
+ Nếu tuổi thai 37 tuần - 38
tuần 7 ngày mà không có chỉ định sản khoa khác: xem xét theo dõi thai thường
quy cho đến 14 ngày kể từ khi thai phụ có xét nghiệm COVID-19 dương tính hoặc
07 ngày kể từ khi khởi phát triệu chứng hoặc 03 ngày kể từ khi có sự cải thiện
các triệu chứng.
- Đối với những trường hợp mắc
COVID-19 nặng hoặc tiên lượng diễn tiến nặng/nguy kịch trong vòng 24 giờ:
+ Trường hợp không thở máy: nếu
tình trạng mẹ diễn tiến xấu dần, cân nhắc chấm dứt thai kỳkhi thai > 32
tuần bằng cách khởi phát chuyển dạ, theo dõi sinh đường dưới hoặc mổ lấy thai.
+ Trường hợp có thở máy:
* Nếu thai > 32 tuần: xem
xét chỉ định mổ lấy thai.
* Nếu thai ≤ 32 tuần và có khả
năng sống: chỉ định sinh nên được trì hoãn nếu tình trạng của mẹ ổn định hoặc
có cải thiện; trường hợp tình trạng mẹ diễn tiến xấu hơn: mổ lấy thai;
* Cần cân nhắc chỉ định mổ lấy
thai khi tuổi thai dưới 30 tuần.
+ Cân nhắc đến việc chấm dứt
thai kỳ trong trường hợp sản phụ nhiễm COVID-19 thể nặng ảnh hưởng nặng đến chức
năng hô hấp sau khi hội chẩn giữa chuyên khoa sản, chuyên khoa hồi sức, gây mê
hồi sức, sơ sinh.
2.3. Giảm đau trong và sau
mổ
- Không có chống chỉ định giảm
đau bằng gây tê tủy sống hay gây tê ngoài màng cứng đối với người nhiễm
COVID-19.
- Ưu tiên gây tê tuỷ sống nếu
không có chống chỉ định.
- Chỉ gây mê toàn thân khi thật
cần thiết (mẹ bị suy hô hấp nặng, tình trạng cấp cứu của sản phụ/thai nhi, hoặc
trong bệnh lý rau tiền đạo,…) vì kỹ thuật này làm tăng sự lây lan của vi rút.
Ưu tiên sử dụng hệ thống dẫn khí dùng 1 lần, đặt nội khí quản qua camera (nếu
có) và thực hiện kỹ thuật đặt nội khí quản bởi bác sĩ gây mê hồi sức có kinh
nghiệm.
2.4. Chăm sóc bà mẹ và trẻ
sơ sinh trong và ngay sau đẻ
- Cần tuân thủ quy trình Chăm
thiết yếu bà mẹ và trẻ sơ sinh trong và ngay sau đẻ/sau mổ lấy thai được ban
hành theo Quyết định số 4673/QĐ-BYT ngày 20/11/2014 và Quyết định số 6734/QĐ-BYT
ngày 15/11/2016 của Bộ trưởng Bộ Y tế ngay cả khi bà mẹ nhiễm hoặc nghi nghiễm
COVID-19. Bà mẹ và trẻ sơ sinh cần được thực hiện da kề da ngay sau đẻ, được ở
cùng phòng cả ngày lẫn đêm nếu tình trạng sức khỏe mẹ cho phép và hỗ trợ nuôi
con bằng sữa mẹ trong vòng 90 phút sau đẻ. Đối với trẻ sinh non và nhẹ cân thực
hiện chăm sóc trẻ bằng phương pháp Kangaroo, cùng với việc thực hiện các biện
pháp phòng chống lây truyền cần thiết.
- Bà mẹ và người nhà cần được
tư vấn về lợi ích của việc da kề da và bú sữa mẹ vượt trội hơn so với những
nguy cơ có thể của việc lây truyền COVID-19. Đồng thời, cần tư vấn trước sinh
cách dự phòng việc lây lan vi rút cho trẻ khi tiếp xúc gần bao gồm:
+ Đeo khẩu trang y tế bất cứ
khi nào tiếp xúc với trẻ, kể cả khi cho trẻ bú mẹ.
+ Thay khẩu trang y tế ngay khi
thấy khẩu trang bị ẩm và loại bỏ ngay vào thùng rác có nắp đậy. Không được tái
sử dụng khẩu trang y tế hoặc chạm vào mặt trước của khẩu trang.
+ Thường xuyên rửa tay bằng xà
phòng và nước sạch ít nhất 20 giây hoặc dung dịch sát khuẩn tay nhanh có ít nhất
60% cồn, đặc biệt trước khi chạm vào trẻ, chăm sóc trẻ hay cho trẻ bú mẹ.
+ Thường xuyên làm sạch và khử
trùng các bề mặt mà bà mẹ đã chạm vào bằng cách lau chùi bằng dung dịch sát khuẩn.
2.4.1. Đối với sản phụ
nhiễm COVID-19 thể không triệu chứng, mức độ nhẹ và trung bình:
- Thực hiện đúng quy trình Chăm
sóc sơ sinh thiết yếu bà mẹ, trẻ sơ sinh trong và ngay sau đẻ/sau mổ lấy thai.
Các chăm sóc thường quy khác như tiêm Vitamin K1, vắc xin viêm gan B vẫn được
tiến hành trong vòng 24 giờ sau sinh.
- Theo dõi các dấu hiệu sinh tồn
và theo dõi lượng dịch vào và ra 4 giờ/lần trong 24 giờ (sau khi sinh đường dưới)
và trong 48 giờ (sau khi mổ lấy thai). Theo dõi SpO2 trong 24 giờ đầu tiên hoặc
cho đến khi cải thiện các dấu hiệu và triệu chứng đối với sản phụ mắc thể trung
bình (tùy theo thời gian nào lâu hơn).
- Căn cứ vào điều kiện của cơ sở
y tế, tình hình dịch bệnh của địa phương, khả năng đáp ứng về nhân lực xem xét
việc tách riêng hoặc bố trí trẻ và mẹ được ở chung phòng (nếu có điều kiện, bố
trí giường mẹ và con cách nhau 2 mét). Nhân viên y tế hỗ trợ bà mẹ cho con bú
hoàn toàn trong quá trình nằm viện và sau khi xuất viện.
- Đối với trẻ sinh non và nhẹ
cân <2000 gam, hỗ trợ bà mẹ hay người thân thực hiện chăm sóc trẻ theo
phương pháp Kangaroo.
2.4.2. Đối với sản phụ
nhiễm COVID-19 thể viêm phổi nặng hoặc mức độ nguy kịch
- Trường hợp người mẹ sức khỏe
yếu không thể chăm sóc trẻ, trẻ nên được chăm sóc bởi người thân khỏe mạnh. Đảm
bảo nguyên tắc phòng ngừa lây nhiễm:
+ Bố trí phòng riêng cho trẻ và
người thân hoặc chung với những đối tượng cùng nguy cơ phơi nhiễm COVID-19.
+ Nhân viên y tế chịu trách nhiệm
hỗ trợ và theo dõi trẻ, hoặc chăm sóc chính cho trẻ nếu không có người thân.
- Mẹ cần được hỗ trợ để cung cấp
sữa cho trẻ theo cách an toàn, sẵn có và phù hợp nhất, bao gồm:
+ Nhân viên y tế hỗ trợ bà mẹ vắt
sữa cho trẻ ăn
+ Sử dụng sữa thanh trùng từ
ngân hàng sữa mẹ nếu không thể vắt sữa mẹ
+ Trường hợp không thể vắt sữa
mẹ và không có ngân hàng sữa mẹ, việc nuôi dưỡng trẻ được thực hiện theo chỉ định
của cán bộ y tế và hướng dẫn người nhà cho trẻ ăn đúng cách
- Ngay khi mẹ ổn định, trẻ cần
được cho ở chung phòng với mẹ và cho bú mẹ sớm. Bà mẹ và người thân cần đảm bảo
các nguyên tác phòng ngừa lây nhiễm khi chăm sóc trẻ.
- Cán bộ y tế cần được tập huấn
về chăm sóc sơ sinh thiết yếu sớm, phòng chống nhiễm khuẩn và tư vấn hỗ trợ
nuôi con bằng sữa mẹ.
- Cân nhắc sử dụng thuốc kháng
đông liều dự phòng cho sản phụ sau sinh bị nhiễm COVID-19 mức độ nặng/nguy kịch,
nếu không có chống chỉ định và ngừng thuốc khi sản phụ được xuất viện về nhà.
- Cần chẩn đoán phân biệt sốt
sau sinh ở người bệnh COVID-19 với các tình trạng nhiễm trùng như viêm nội mạc
tử cung sau sinh, nhiễm trùng vết mổ, viêm hoặc áp xe vú...
2.5. Chăm sóc trẻ sơ sinh
- Trẻ sơ sinh được sinh ra từ
người mẹ nhiễm hoặc nghi nhiễm COVID-19, cần được làm xét nghiệm chẩn đoán nhiễm
COVID-19. Thường tiến hành sau khi đã ổn định trẻ và hoàn tất các chăm sóc thường
quy:
+ Đối với trẻ sinh ra từ mẹ nhiễm
COVID-19: Xét nghiệm lần 1 từ 2 đến 24 giờ tuổi, lưu ý rửa sạch hoặc lau sạch
mặt trẻ trước khi lấy mẫu. Vị trí lấy mẫu: họng hoặc mũi. Xét nghiệm lần 2 lúc
48 giờ tuổi, lần 3 và lần 4 lúc 7 và 14 ngày tuổi.
+ Đối với trẻ tiếp xúc gần với
người mắc COVID-19 hoặc mẹ bị mắc COVID-19 sau khi sinh: quy trình xét nghiệm
chẩn đoán và theo dõi giống như người lớn.
+ Ở những nơi điều kiện hạn chế,
nên ưu tiên xét nghiệm cho trẻ sơ sinh có triệu chứng do COVID-19 cũng như trẻ
sơ sinh phơi nhiễm SARS-CoV-2 cần chăm sóc tại đơn vị hồi sức hoặc những trẻ dự
kiến phải nhập viện kéo dài.
+ Trẻ sơ sinh có xét nghiệm khẳng
định mắc COVID-19 có thể bố trí nằm cùng với mẹ nếu mẹ và con không cần phải
chăm sóc đặc biệt, trên cơ sở cung cấp đầy đủ thông tin về lợi ích và nguy cơ
cho người mẹ và gia đình.
- Căn cứ vào điều kiện thực tiễn
của cơ sở y tế/địa phương xem xét có thể cho người nhà vào hỗ trợ chăm sóc trẻ;
mẹ hoặc người chăm sóc phải sử dụng khẩu trang và vệ sinh tay khi trực tiếp
chăm sóc trẻ sơ sinh.
- Đối với trẻ sơ sinh mắc
COVID-19, cần lưu ý:
+ Mức độ chăm sóc và điều trị
trẻ tùy vào biểu hiện lâm sàng do bác sĩ nhi sơ sinh đánh giá và quyết định.
+ Nếu trẻ có dấu hiệu suy hô hấp,
cần được theo dõi các chức năng sống liên tục qua monitor. Nếu trẻ không có triệu
chứng hoặc triệu chứng nhẹ, ghi nhận các chức năng sống 4-6 giờ/lần.
+ Chỉ dùng kháng sinh khi chưa
loại trừ được nhiễm trùng kèm theo. Sử dụng kháng sinh phổ rộng nếu có nhiễm
trùng huyết và sốc nhiễm trùng.
+ Các trường hợp sốc nhiễm
trùng và /hoặc suy chức năng đa cơ quan: có thể lọc máu liên tục.
+ Cân nhắc sử dụng ECMO nếu
không đáp ứng điều trị.
+ Hiện chưa có thuốc kháng vi
rút đặc hiệu cho COVID-19. Các liệu pháp kháng vi rút, corticosteroid,
Imunoglobulin tĩnh mạch phải xem xét cân nhắc từng trường hợp.
- Đối với trẻ sơ sinh cần được
chăm sóc lâu dài tại bệnh viện, người chăm sóc nên tiếp tục sử dụng phương tiện
phòng hộ cá nhân thích hợp cho đến khi trẻ xuất viện hoặc khi trẻ có hai xét
nghiệm âm tính liên tiếp được thu thập cách nhau ≥ 24 giờ. Xét nghiệm RT - PCR
là tối ưu cho trẻ sơ sinh bị bệnh và sinh non vì thời gian phát tán vi rút lây
nhiễm chưa được biết rõ.
- Trẻ sơ sinh mắc COVID-19 đang
được hỗ trợ hô hấp cần được nằm trong lồng ấp hoặc trong phòng riêng. Lưu ý
khoảng cách 2 mét giữa các nôi trẻ bệnh để hạn chế lây nhiễm chéo.
2.6. Chăm sóc tiếp theo
cho bà mẹ nhiễm COVID-19 và trẻ sơ sinh
Tất cả bà mẹ và trẻ sơ sinh tiếp
tục được thăm khám và theo dõi sát bởi các bác sĩ và điều dưỡng nhi sơ sinh
theo Hướng dẫn quốc gia về các dịch vụ Chăm sóc sức khỏe sinh sản được ban hành
tại Quyết định số 4128/QĐ-BYT ngày 29/7/2016 của Bộ trưởng Bộ Y tế và các quy định
hiện hành về dự phòng và xử trí bệnh viêm đường hô hấp cấp tính do COVID-19.
2.7. Xuất viện và theo
dõi:
- Áp dụng tiêu chuẩn ra viện
theo Quyết định số 3416/QĐ-BYT và các quy định hiện hành của Bộ Y tế. Căn cứ
tình hình dịch bệnh và điều kiện thực tiễn của địa phương để xem xét cân nhắc
chuyển người bệnh đến các bệnh viện thuộc tầng dưới để tiếp tục theo dõi, điều
trị (bệnh viện dã chiến thu dung điều trị, khu cách ly điều trị của các bệnh viện
quận, huyện, ...) hoặc chuyển cách ly tại nhà (nếu đủ điều kiện).
- Theo dõi sau xuất viện: không
tái khám sau sinh, sau mổ thường quy; tiếp tục cách ly phù hợp tại nhà dưới sự giám
sát của y tế cơ sở và Trung tâm kiểm soát bệnh tật địa phương thêm 14 ngày và
theo dõi thân nhiệt tại nhà 2 lần/ngày, nếu thân nhiệt cao hơn 38o5C ở 2 lần
đo liên tiếp hoặc có bất kỳ dấu hiệu lâm sàng bất thường nào thì cần đến ngay
cơ sở y tế để thăm khám và xử trí kịp thời.
- Đối với trẻ đã nhiễm COVID-19
cần tái khám để kiểm tra các biến chứng lâu dài.
IV. Tổ chức
các cơ sở y tế đáp ứng nhu cầu chăm sóc phụ nữ mang thai, bà mẹ và trẻ sơ sinh
trong bối cảnh dịch COVID-19
1. Khu cách ly tập trung:
liên hệ cơ sở sản khoa tuyến tỉnh để được hỗ trợ chuyên môn kỹ thuật
khi có phụ nữ mang thai.
2. Cơ sở y tế:
- Các bệnh viện chỉ đạo
tuyến sản, nhi: Các bệnh viện được Bộ Y tế phân công chỉ đạo tuyến lĩnh
vực sản khoa và nhi khoa chuẩn bị cơ sở vật chất (chuẩn bị phòng cách ly áp lực
âm trong điều kiện cho phép), trang thiết bị (đặc biệt là trang thiết bị bảo hộ
cho nhân viên y tế) nhân lực sẵn sàng tiếp nhận, xử trí các trường hợp phụ nữ
mang thai, bà mẹ và trẻ sơ sinh nghi nhiễm hoặc nhiễm COVID-19; đồng thời chuẩn
bị sẵn sàng nhân lực, trang thiết bị hỗ trợ chuyên môn kỹ thuật cho tuyến dưới
trong các trường hợp cần thiết.
- Các bệnh viện phụ sản,
nhi, sản - nhi, bệnh viện đa khoa tỉnh (đối với các tỉnh chưa có bệnh viện
chuyên khoa sản, nhi): Cần chuẩn bị đủ cơ sở vật chất (chuẩn bị phòng
cách ly áp lực âm trong điều kiện cho phép), trang thiết bị, nhân lực sẵn sàng
tiếp nhận, xử trí các trường hợp phụ nữ mang thai, bà mẹ và trẻ sơ sinh nghi ngờ
hoặc đã xác định nhiễm COVID-19; hỗ trợ các cơ sở cách ly và cơ sở y tế tuyến
dưới trong việc chăm sóc phụ nữ mang thai, bà mẹ và trẻ sơ sinh.