THỦ
TƯỚNG CHÍNH PHỦ
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc Lập - Tự Do - Hạnh Phúc
|
Số:
36/2004/QĐ-TTg
|
Hà
Nội, ngày 17 tháng 03 năm 2004
|
QUYẾT ĐỊNH
VỀ
VIỆC PHÊ DUYỆT CHIẾN LƯỢC QUỐC GIA PHÒNG, CHỐNG HIV/AIDS Ở VIỆT NAM ĐẾN NĂM
2010 VÀ TẦM NHÌN 2020
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ
ngày 25 tháng 12 năm 2001;
Căn cứ Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân ngày 30 tháng 6 năm 1989;
Căn cứ Pháp lệnh Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc
phải ở người (HIV/AIDS) ngày 31 tháng 5 năm 1995;
Căn cứ Nghị định số 86/2002/NĐ-CP ngày 05 tháng 11 năm 2002 của Chính phủ quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ;
Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Y tế
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Phê duyệt Chiến lược
quốc gia phòng, chống HIV/AIDS ở Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn 2020 (bản
kèm theo) với những nội dung chủ yếu sau:
1. Quan điểm:
a) HIV/AIDS
là đại dịch nguy hiểm, là mối hiểm họa đối với sức khỏe, tính mạng của con người
và tương lai nòi giống của dân tộc. HIV/AIDS tác động trực tiếp đến phát triển
kinh tế, văn hóa, trật tự và an toàn xã hội của quốc gia. Do đó, phòng, chống
HIV/AIDS phải được coi là một nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách và lâu dài, cần phải
tăng cường phối hợp liên ngành và đẩy mạnh việc huy động toàn xã hội tham gia;
b) Đầu tư cho
công tác phòng, chống HIV/AIDS là đầu tư góp phần tạo ra sự phát triển bền vững
của đất nước mang lại hiệu quả kinh tế, xã hội trực tiếp và gián tiếp. Nhà nước
bảo đảm việc huy động các nguồn lực đầu tư cho phòng, chống HIV/AIDS từ nay đến
năm 2010 và sau 2010 phù hợp với khả năng và điều kiện phát triển kinh tế
- xã hội của đất nước trong từng giai đoạn;
c) Chống kỳ
thị, phân biệt đối xử với người bị nhiễm HIV/AIDS, tăng cường trách nhiệm của
gia đình, xã hội với người nhiễm HIV/AIDS và của người nhiễm HIV/AIDS với gia
đình, xã hội;
d) Việt Nam
cam kết thực hiện các Điều ước quốc tế về phòng, chống HIV/AIDS đã ký kết hoặc
gia nhập. Bảo đảm hệ thống pháp luật quốc gia về phòng, chống HIV/AIDS phù hợp
với các nguyên tắc của pháp luật quốc tế;
đ) Tăng cường
hợp tác song phương, đa phương, mở rộng quan hệ, hợp tác quốc tế với các nước
láng giềng, các nước trong khu vực và trên thế giới trong phòng, chống HIV/AIDS;
e) Các hoạt động
ưu tiên đối với công tác phòng, chống HIV/AIDS trong thời gian tới là:
Tăng cường
thông tin, giáo dục và truyền thông thay đổi hành vi; phối hợp với các chương
trình khác để ngăn ngừa, giảm thiểu lây nhiễm HIV/AIDS;
Đẩy mạnh các
biện pháp can thiệp giảm thiểu tác hại;
Tăng cường tư
vấn, chăm sóc và điều trị người nhiễm HIV/AIDS;
Tăng cường
năng lực quản lý, theo dõi, giám sát và đánh giá chương trình.
2. Mục tiêu Chiến lược quốc gia
phòng, chống HIV/AIDS ở Việt Nam đến năm 2010:
a) Mục tiêu chung:
Khống chế tỷ
lệ nhiễm HIV/AIDS trong cộng đồng dân cư dưới 0,3% vào năm 2010 và không tăng
sau 2010; giảm tác hại của HIV/AIDS đối với sự phát triển kinh tế - xã hội.
b) Mục tiêu cụ thể:
100% các đơn
vị, địa phương trên cả nước, đưa hoạt động phòng, chống HIV/AIDS trở thành một
trong các mục tiêu ưu tiên của chương trình phát triển kinh tế - xã hội tại các
đơn vị và địa phương;
Nâng cao hiểu
biết của người dân về dự phòng lây nhiễm HIV/AIDS: 100% nhân dân khu vực thành
thị và 80% ở khu vực nông thôn, miền núi hiểu đúng và biết cách dự phòng lây
nhiễm HIV/AIDS;
Khống chế lây
nhiễm HIV/AIDS từ nhóm nguy cơ cao ra cộng đồng thông qua việc triển khai đồng
bộ các biện pháp can thiệp giảm thiểu tác hại: thực hiện các biện pháp can thiệp
đối với tất cả các đối tượng có hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV/AIDS; 100% tiêm
chích an toàn và sử dụng bao cao su trong quan hệ tình dục có nguy cơ;
Bảo đảm người
nhiễm HIV/AIDS được chăm sóc và điều trị thích hợp: 90% người lớn nhiễm HIV/AIDS,
100% các bà mẹ mang thai nhiễm HIV/AIDS, 100% trẻ em bị nhiễm hoặc bị ảnh hưởng
bởi HIV/AIDS được quản lý, điều trị, chăm sóc và tư vấn thích hợp, 70% bệnh
nhân AIDS được điều trị bằng các thuốc điều trị đặc hiệu;
Hoàn thiện hệ
thống quản lý, theo dõi, giám sát, đánh giá chương trình phòng, chống HIV/AIDS:
100% tỉnh, thành phố có khả năng tự đánh giá và tự dự báo về diễn biến của nhiễm
HIV/AIDS ở địa phương, 100% xét nghiệm HIV tuân thủ quy định tư vấn xét nghiệm
tự nguyện;
Ngăn chặn lây
nhiễm HIV/AIDS qua các dịch vụ y tế: bảo đảm 100% các đơn vị máu và chế phẩm
máu được sàng lọc HIV trước khi truyền ở tất cả các tuyến; 100% cơ sở y tế thực
hiện đúng quy định về vô khuẩn, sát khuẩn phòng lây nhiễm HIV/AIDS.
3. Tầm nhìn 2020:
a) Đẩy mạnh
công tác phòng, chống HIV/AIDS giai đoạn 2004 - 2010 để sau năm 2010 giảm dần số
lượng tuyệt đối người nhiễm HIV/AIDS, làm giảm các ảnh hưởng kinh tế, xã hội do
HIV/AIDS gây ra cho giai đoạn sau năm 2010;
b) Giai đoạn
2010 - 2020 nhà nước ta tiếp tục tăng cường chỉ đạo, đầu tư và đẩy mạnh phối hợp
liên ngành trong công tác phòng, chống HIV/AIDS nhằm giảm thiểu tác động của dịch
HIV/AIDS đến sự phát triển kinh tế - xã hội;
c) Giai đoạn 2010 - 2020 chương trình phòng, chống
HIV/AIDS sẽ phải tập trung giải quyết hậu quả của HIV/AIDS; biện pháp dự phòng
đặc hiệu bằng vắc xin, thuốc điều trị HIV/AIDS có thể sẽ được sử dụng rộng rãi.
Ưu tiên của
công tác phòng, chống HIV/AIDS trong giai đoạn 2010 - 2020 là:
Dự phòng bằng
các biện pháp kỹ thuật đặc hiệu;
Chăm sóc và điều
trị người nhiễm HIV/AIDS;
Chăm sóc các
đối tượng bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS.
4. Các giải pháp chủ yếu:
a) Nhóm giải pháp về xã hội:
Tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng, Nhà nước đối với công tác phòng, chống HIV/AIDS; đưa công
tác phòng, chống HIV/AIDS trở thành mục tiêu trong chiến lược phát triển kinh tế
- xã hội của ngành và địa phương;
Các cấp chính
quyền địa phương đưa hoạt động phòng, chống HIV/AIDS vào kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội của địa phương. Huy động toàn dân tham gia phòng, chống HIV/AIDS
nhằm từng bước ngăn chặn, đẩy lùi HIV/AIDS;
Xây dựng chương
trình phòng, chống HIV/AIDS thành chương trình phối hợp liên ngành, toàn diện,
đặc biệt chú trọng việc lồng ghép có hiệu quả với các chương trình phòng, chống
tệ nạn ma tuý, mại dâm để ngăn ngừa lây nhiễm HIV/AIDS; huy động mọi tổ chức,
cá nhân tham gia hoạt động phòng, chống HIV/AIDS. Khuyến khích các tổ chức xã hội,
tổ chức tôn giáo, tổ chức từ thiện, tổ chức phi chính phủ, các doanh nghiệp,
nhóm cộng đồng, người nhiễm HIV/AIDS cùng gia đình tham gia công tác phòng, chống
HIV/AIDS;
Tiếp tục hoàn
thiện hệ thống pháp luật, chế độ, chính sách trong công tác phòng, chống HIV/AIDS
nhằm đáp ứng yêu cầu thực tế và phù hợp với xu hướng hội nhập của hệ thống pháp
luật quốc gia trong phòng, chống HIV/AIDS với pháp luật quốc tế. Tăng cường việc
phổ biến, giáo dục pháp luật, tổ chức kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực
hiện các quy định của pháp luật về phòng, chống HIV/AIDS;
Đẩy mạnh công
tác thông tin, giáo dục và truyền thông thay đổi các hành vi có nguy cơ; nâng
cao số lượng, chất lượng, tính phù hợp và hiệu quả của các hoạt động thông tin,
giáo dục và truyền thông. Xây dựng đội ngũ tuyên truyền viên gắn liền với đội
ngũ cộng tác viên y tế thôn, bản và cán bộ các ban, ngành, đoàn thể ở cơ sở xã,
phường. Phân công trách nhiệm cụ thể về thực hiện công tác thông tin, giáo dục
và truyền thông thay đổi hành vi cho từng Bộ, ngành, địa phương; đưa các nội
dung về dự phòng lây nhiễm HIV/AIDS, giáo dục sức khỏe sinh sản vào trong chương
trình đào tạo của các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, giáo dục
dạy nghề và phổ thông;
Tăng cường
tuyên truyền về chương trình can thiệp giảm thiểu tác hại nhằm tạo môi trường
thuận lợi cho việc thực hiện các biện pháp can thiệp. Triển khai chương trình
can thiệp giảm thiểu tác hại một cách đồng bộ bao gồm chương trình bơm kim tiêm
sạch, chương trình bao cao su. Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế để xây dựng và áp
dụng các mô hình triển khai chương trình bơm kim tiêm sạch, chương trình bao
cao su và các chương trình can thiệp khác ở Việt Nam;
Xây dựng hệ
thống chăm sóc, hỗ trợ toàn diện cho người nhiễm HIV/AIDS; khuyến khích việc
hình thành các trung tâm chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm dựa vào cộng đồng; nâng
cao nhận thức, trách nhiệm của người nhiễm HIV/AIDS đối với bản thân, gia đình
và cộng đồng để ngăn ngừa lây nhiễm HIV/AIDS.
b) Nhóm giải pháp về chuyên môn kỹ thuật:
Tăng cường hệ
thống giám sát quốc gia về HIV/AIDS, xây dựng các phòng xét nghiệm đạt tiêu chuẩn
quốc gia và quốc tế, từng bước triển khai hệ thống giám sát đến các quận, huyện.
Triển khai chương trình giám sát toàn diện (thế hệ 2) và tăng cường sử dụng các
dữ liệu giám sát phục vụ việc hoạch định chính sách. Tăng cường và nâng cao chất
lượng hoạt động tư vấn, xét nghiệm tự nguyện HIV/AIDS;
Thực hiện
nghiêm chỉnh các quy định pháp luật bảo đảm an toàn trong truyền máu và chế phẩm
máu, sàng lọc HIV 100% đơn vị máu và chế phẩm máu trước khi truyền, từng bước
nâng cao chất lượng xét nghiệm HIV trong sàng lọc máu, tăng cường tuyên truyền,
vận động và phát triển bền vững phong trào hiến máu nhân đạo;
Đẩy mạnh công
tác tuyên truyền cho người dân về cách dự phòng lây nhiễm HIV/AIDS qua các dịch
vụ y tế và dịch vụ xã hội, cung cấp trang thiết bị vô trùng, tiệt trùng cho các
cơ sở y tế đặc biệt là y tế quận, huyện, xã, phường, hướng dẫn và quản lý công
tác dự phòng lây nhiễm HIV/AIDS qua các dịch vụ y tế tại tất cả các cơ sở y tế
tư nhân;
Tăng cường khả
năng tiếp cận với các thuốc điều trị đặc hiệu HIV/AIDS, xây dựng chính sách về
tiếp cận thuốc, đảm bảo cơ chế thuận lợi cho lưu thông và phân phối thuốc điều
trị đặc hiệu HIV/AIDS. Bảo đảm tính sẵn có, dễ tiếp cận đối với thuốc điều trị
đặc hiệu HIV/AIDS, khuyến khích việc nghiên cứu, áp dụng các thuốc đông y trong
điều trị hỗ trợ cho bệnh nhân HIV/AIDS;
Nâng cao nhận
thức của người dân trong độ tuổi sinh đẻ về nguy cơ lây nhiễm HIV/AIDS và khả
năng lây truyền HIV/AIDS từ mẹ sang con, tổ chức điều trị dự phòng lây truyền
HIV/AIDS từ mẹ sang con và tổ chức tốt việc chăm sóc, điều trị trẻ bị nhiễm HIV/AIDS
và bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS;
Xây dựng mạng
lưới giám sát các nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục, cung cấp trang thiết
bị xét nghiệm, tăng cường chẩn đoán, điều trị các nhiễm khuẩn lây truyền qua đường
tình dục, tăng cường đào tạo cán bộ, lồng ghép triển khai hoạt động phòng, chống
HIV/AIDS với phòng, chống các nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục;
Tăng cường sự
phối hợp giữa các cơ quan khoa học và các tổ chức nghiên cứu có liên quan trong
cả nước dưới sự điều phối thống nhất của tổ chức phòng, chống HIV/AIDS. Hỗ trợ
các tổ chức, cơ quan nghiên cứu khoa học triển khai các hoạt động nghiên cứu, đầu
tư ngân sách cho các hoạt động nghiên cứu, tăng cường các hoạt động trao đổi,
chuyển giao kỹ thuật và đào tạo chuyên gia giữa các cơ sở nghiên cứu trong và
ngoài nước. Tiến hành đánh giá chương trình phòng, chống HIV/AIDS sau 02 năm,
05 năm thực hiện.
c) Nhóm giải pháp về nguồn lực và hợp tác quốc tế :
Tăng cường
năng lực cho đội ngũ cán bộ chuyên trách phòng, chống HIV/AIDS, đẩy mạnh việc
phân cấp và quản lý chương trình, xây dựng cơ chế phù hợp cho việc thúc đẩy các
tổ chức, cộng đồng kể cả người nhiễm tham gia quá trình xây dựng kế hoạch
phòng, chống HIV/AIDS. Ngoài ngân sách của trung ương cấp, ủy ban nhân dân các
cấp có trách nhiệm chủ động bố trí ngân sách của cấp mình đầu tư cho công tác
phòng, chống HIV/AIDS;
Khuyến khích
và có các chính sách hỗ trợ cho việc nghiên cứu, sản xuất các loại trang thiết
bị, sinh phẩm, thuốc điều trị trong phòng, chống HIV/AIDS, tăng cường việc chuyển
giao kỹ thuật, chuyển giao công nghệ và khuyến khích đầu tư;
Tăng dần mức đầu tư, bảo đảm kinh phí cho các hoạt
động phòng, chống HIV/AIDS, tăng cường huy động nguồn lực hỗ trợ từ các nước,
các tổ chức quốc tế và các nguồn kinh phí khác từ trong và ngoài nước cho chương
trình phòng, chống HIV/AIDS. Phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực;
Mở rộng hợp
tác quốc tế về phòng, chống HIV/AIDS, củng cố các mối quan hệ hợp tác đã có, đồng
thời tìm kiếm các khả năng hợp tác mới theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa
các mối quan hệ. Phát huy tính chủ động quốc gia trong việc điều phối, quản lý,
sử dụng các dự án viện trợ. Ưu tiên cho các dự án hợp tác về hỗ trợ vốn, hỗ trợ
kỹ thuật và chuyển giao các công nghệ hiện đại. Tiếp tục cam kết và thực hiện mạnh
mẽ các quy định các tuyên bố mà nhà nước ta đã tham gia ký kết hoặc gia nhập.
Điều 2. Các chương trình hành động của Chiến lược:
1. Chương
trình thông tin giáo dục và truyền thông thay đổi hành vi phòng lây nhiễm HIV/AIDS;
phối hợp với các chương trình phòng, chống tệ nạn ma tuý, mại dâm để ngăn ngừa
lây nhiễm HIV/AIDS.
2. Chương trình
can thiệp giảm thiểu tác hại dự phòng lây nhiễm HIV/AIDS.
3. Chương
trình chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS.
4. Chương
trình giám sát HIV/AIDS, theo dõi, đánh giá chương trình.
5. Chương
trình tiếp cận điều trị HIV/AIDS.
6. Chương
trình dự phòng lây nhiễm HIV/AIDS từ mẹ sang con.
7. Chương
trình quản lý và điều trị các nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục.
8. Chương
trình an toàn truyền máu.
9. Chương
trình tăng cường năng lực và hợp tác quốc tế trong phòng, chống HIV/AIDS.
Điều 3. Tổ chức thực hiện
1. Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu
trách nhiệm trực tiếp chỉ đạo, triển khai thực hiện nội dung và các chương
trình hành động của Chiến lược quốc gia phòng, chống HIV/AIDS từ nay đến năm
2010 và tầm nhìn 2020 trên địa bàn tỉnh, thành phố. Xây dựng và xác lập các mục
tiêu phòng, chống HIV/AIDS trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh,
thành phố. Ngoài nguồn ngân sách trung ương cấp, các địa phương chủ động đầu tư
ngân sách, nhân lực, cơ sở vật chất cho chương trình phòng, chống HIV/AIDS. Tập
trung chỉ đạo triển khai các biện pháp can thiệp giảm thiểu tác hại bao gồm chương
trình bơm kim tiêm sạch, chương trình bao cao su dự phòng lây nhiễm HIV/AIDS. Tổ
chức tốt việc chăm sóc, điều trị hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS.
2. Bộ Y tế có trách nhiệm hướng dẫn việc triển khai thực hiện
Chiến lược quốc gia phòng, chống HIV/AIDS từ nay đến 2010 và tầm nhìn 2020; phối
hợp với các Bộ, ngành là thành viên của ủy ban Quốc gia phòng, chống HIV/AIDS
và phòng, chống tệ nạn ma túy, mại dâm và các cơ quan Trung ương có liên quan tổ
chức chỉ đạo, triển khai các nội dung của Chiến lược trong phạm vi nhiệm vụ,
quyền hạn được giao.
Bộ Y tế chỉ đạo theo ngành dọc các cơ quan phòng,
chống HIV/AIDS các cấp. Các cơ quan phòng, chống HIV/AIDS cấp tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương có trách nhiệm tham mưu giúp Chủ tịch ủy ban nhân dân
cùng cấp tổ chức triển khai thực hiện các nhiệm vụ cụ thể trong Chiến lược;
theo dõi, giám sát việc thực hiện, tổ chức sơ kết định kỳ, tổng kết và báo cáo
kết quả thực hiện về Bộ Y tế để tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
3. Bộ Văn hóa - Thông tin chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành,
cơ quan Trung ương, ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương,
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chỉ đạo cơ quan thông tin các cấp đẩy mạnh công tác
thông tin, giáo dục, truyền thông nhằm thay đổi hành vi phòng lây nhiễm HIV/AIDS
trên địa bàn toàn quốc. Tập trung đưa thông tin đến người dân vùng sâu, vùng
xa, vùng đặc biệt khó khăn, đưa thông tin tiếp cận với các nhóm đối tượng có
hành vi nguy cơ cao.
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, cơ
quan Trung ương, ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ
chức triển khai chương trình giáo dục kiến thức và huấn luyện kỹ năng phòng, chống
HIV/AIDS vào trong chương trình đào tạo của các trường đại học, cao đẳng, trung
học chuyên nghiệp, giáo dục dạy nghề và phổ thông phù hợp với yêu cầu của từng
đối tượng.
5. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với Bộ Y
tế, Bộ Tài chính và các Bộ, ngành liên quan, nghiên cứu xây dựng các chế độ,
chính sách phù hợp phục vụ công tác phòng, chống HIV/AIDS.
6. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính chịu trách nhiệm bố trí và
cấp kịp thời kinh phí cho các hoạt động của chương trình phòng, chống HIV/AIDS
theo kế hoạch ngân sách được Quốc hội phân bổ hàng năm. Tích cực huy động các
nguồn tài trợ trong và ngoài nước đầu tư cho công tác phòng, chống HIV/AIDS.
7. Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Thông tấn xã
Việt Nam chủ trì, phối hợp với các cơ quan truyền thông, chỉ đạo các đài truyền
hình, đài phát thanh các cấp đưa các thông tin về dự phòng, chăm sóc người nhiễm
HIV/AIDS thành nội dung thường xuyên của chương trình phát sóng. Xây dựng các
chuyên mục, chuyên đề về phòng, chống HIV/AIDS, chủ động đầu tư kinh phí cho việc
xây dựng và phát sóng các chương trình về phòng, chống HIV/AIDS.
8. Các Bộ, ngành là thành viên
ủy ban Quốc gia phòng, chống AIDS và phòng, chống tệ nạn ma tuý, mại dâm, các
cơ quan thuộc Chính phủ, có trách nhiệm chủ động xây dựng và triển khai thực hiện
kế hoạch phòng, chống HIV/AIDS theo chức năng, nhiệm vụ được giao và theo đặc
thù của Bộ, ngành mình; chủ động đầu tư ngân sách cho công tác này.
9. Đề nghị Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng các đoàn thể chính
trị xã hội tích cực tham gia triển khai thực hiện Chiến lược này trong phạm vi
hoạt động của mình.
Điều 4. Quyết định này có hiệu lực thi hành sau 15 ngày,
kể từ ngày đăng Công báo.
Điều 5. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ
trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này ./.
CHIẾN LƯỢC
QUỐC GIA PHÒNG, CHỐNG HIV/AIDS Ở VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2010 VÀ TẦM
NHÌN 2020
(Ban hành kèm theo Quyết định số 36/2004/QĐ-TTg ngày 17 tháng 3 năm 2004
của Thủ tướng Chính phủ)
Phần 1:
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trải qua hơn
20 năm đấu tranh phòng, chống HIV/AIDS, các quốc gia trên thế giới đã và đang
phải đương đầu với một đại dịch có tính chất hết sức nguy hiểm. HIV/AIDS không
chỉ ảnh hưởng tới sức khoẻ con người mà còn ảnh hưởng tới an ninh, sự phát triển
và nòi giống của loài người. Hơn 20 năm đấu tranh với đại dịch, tuy đã có những
thành công nhất định nhưng ở bình diện chung và cấp độ toàn cầu có thể thấy
nhân loại chưa có khả năng ngăn chặn được tốc độ lây nhiễm HIV/AIDS. Dịch HIV/AIDS
vẫn tiếp tục gia tăng và tàn phá nặng nề các khu vực ở châu Phi và tiếp theo là
châu á. Một số nước châu Phi, vùng cận Sahara có tới hơn 50% bệnh nhân nhập viện
là do HIV/AIDS, tuổi thọ bình quân ở khu vực đó chỉ còn 40 tuổi; ở nhiều nước,
sự phát triển kinh tế, xã hội bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Báo cáo của UNAIDS
trong năm 2002 cho thấy các nước châu Phi đã có hàng triệu học sinh không được
tới trường do HIV/AIDS, số được đi học năm 2001 thấp hơn 20% so với năm 1998.
Nước láng giềng của Việt Nam là Campuchia cũng có tới hơn 12% bệnh nhân nằm viện
là do HIV/AIDS.
Kể từ trường
hợp nhiễm HIV đầu tiên được phát hiện vào năm 1990, Việt Nam đã xây dựng
và thực hiện các kế hoạch phòng, chống HIV/AIDS trung hạn 1993 - 1996; 1996 -
2000 và đang thực hiện kế hoạch phòng, chống HIV/AIDS năm 2001 - 2005. Tuy
nhiên, qua 13 năm đương đầu với dịch HIV/AIDS chúng ta chưa có chiến lược quốc
gia tổng thể với sự tham gia đa ngành về công tác phòng, chống HIV/AIDS, kế hoạch
phòng, chống HIV/AIDS giai đoạn 2001 - 2005 đang được thực hiện mới chỉ đề cập
những chủ trương chung mà chưa đề cập tới những bước đi, các giải pháp và các chương
trình hành động cụ thể. Để hoạt động phòng, chống HIV/AIDS đạt kết quả, khống
chế sự lây lan của đại dịch, giảm tác động của HIV/AIDS tới sự phát triển kinh
tế - xã hội, Chính phủ đã giao cho Bộ Y tế xây dựng Chiến lược quốc gia phòng,
chống HIV/AIDS ở Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn 2020.
Chiến lược quốc
gia phòng, chống HIV/AIDS ở Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn 2020 được xây dựng
trên cơ sở phối hợp liên ngành với sự trợ giúp tích cực của các tổ chức Liên Hợp
quốc, các tổ chức quốc tế, các cá nhân đang hỗ trợ cho chương trình phòng, chống
HIV/AIDS tại Việt Nam. Nội dung Chiến lược được phát triển dựa trên các tuyên bố
chung của Liên Hợp quốc, tuyên bố thượng đỉnh của khóa họp đặc biệt của Liên Hợp
quốc về HIV/AIDS năm 2001 (UNGASS), các cam kết của Chính phủ Việt Nam và đường
lối của Nhà nước Việt Nam trong sự nghiệp chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ nhân dân,
phát triển kinh tế - xã hội; đưa ra các định hướng, các ưu tiên và giải pháp
phòng, chống HIV/AIDS giai đoạn 2004 - 2010 và tầm nhìn 2020.
Phần 2:
CĂN CỨ XÂY DỰNG CHIẾN
LƯỢC
I. DỊCH TỄ
HỌC HIV/AIDS TRÊN THẾ GIỚI
1. Tình hình HIV/AIDS trên thế giới
Tính đến cuối
năm 2003, UNAIDS và WHO đã công bố có khoảng 46 triệu người nhiễm HIV/AIDS đang
còn sống, 5,8 triệu người mới nhiễm trong năm và 3,5 triệu người tử vong do
AIDS trong năm. Tại nhiều nước đang phát triển, phần lớn những trường hợp nhiễm
mới làthanh niên. Khoảng 1/3trong tổng số những người hiện đang bị nhiễm HIV/AIDS
ở độ tuổi 15 đến 24, phần lớn trong số họkhông biết mình đang mang vi-rút HIV.
Hàng triệu người hầu như không biết hoặc biết rất ít về HIV/AIDS để tự bảo vệ
mình chống lại căn bệnh này. Theo báo cáo của UNAIDS và WHO, khu vực cận Sahara
có tỷ lệ nhiễm HIV/AIDS cao nhất, tiếp đến là khu vực châu á Thái Bình Dương.
Bảng 1: Phân
bố các trường hợp nhiễm HIV/AIDS
Tổng số các
trường hợp nhiễm mới năm 2003
|
Năm 2003
|
Tổng số
|
5,8 triệu
|
Người lớn
|
4,8 triệu
|
Trẻ em
<15 tuổi
|
700.000
|
Luỹ tích
các trường hợp nhiễm HIV/AIDS
|
Tổng số
|
46 triệu
|
Người lớn
|
43 triệu
|
Trẻ em <15
tuổi
|
2,9 triệu
|
Theo báo cáo
của UNAIDS và WHO, mỗi ngày trôi qua có 14.000 trường hợp (2.000 trẻ em và
12.000 người lớn) nhiễm HIV mới và 95% các trường hợp này ở các nước đang phát
triển. Cho đến nay, đã có hơn 14 triệu trẻ em bị mồ côi do AIDS. Một số nước
như Nigeria, số lượng trẻ em mồ côi do AIDS đã tăng lên 995.000 trường hợp,
Ethiopia là 989.000 trường hợp, Kenia là 892.000 trường hợp. Hầu hết các trẻ
này không được đi học, theo thống kê tại Nam Phi số trẻ em đi học năm
2001 thấp hơn 20% so với năm 1998.
Theo báo cáo
của UNAIDS và WHO, dịch HIV/AIDS ở hầu hết các khu vực trên thế giới bắt
đầu từ những năm cuối của thập kỷ 70 và những năm đầu thập kỷ 80. Hai khu vực
Nam và Đông Nam á, Đông á Thái Bình Dương dịch HIV/AIDS xuất hiện muộn vào những
năm cuối của thập kỷ 80, vùng Đông Âu và Trung á phát hiện dịch vào những năm đầu
thập kỷ 90.
Tỷ lệ nhiễm
HIV/AIDS trên thế giới ở người lớn cao nhất là vùng cận Sahara với 8,4% người lớn
bị nhiễm HIV/AIDS, tiếp theo là khu vực Caribe, Đông Nam châu á, khu vực Bắc Mỹ.
Hình thái lây truyền chủ yếu ở các khu vực là qua quan hệ tình dục khác giới,
tiêm chích ma túy và có một vài khu vực hình thức lây truyền chính là đồng tính
nam giới. Theo báo cáo của UNAIDS, ở hầu hết các khu vực: nam giới mắc nhiều
hơn nữ giới, riêng ở khu vực cận Sahara nữ chiếm tỷ lệ nhiều hơn và hình thái
lây nhiễm chủ yếu qua quan hệ tình dục khác giới.
2. Tình hình dịch HIV/AIDS ở châu á - Thái Bình Dương
Dịch HIV/AIDS
lan sang châu á khá muộn, trường hợp nhiễm HIV đầu tiên tại khu vực này được
phát hiện tại Thái Lan vào năm 1985, đến cuối những năm 90, Campuchia, Myanmar
và Thái Lan công bố bệnh dịch đáng lo ngại trên toàn đất nước. Năm 2001 có tới
1,07 triệu người lớn và trẻ em mới bị nhiễm HIV tại châu á Thái Bình Dương đưa
tổng số người bị nhiễm HIV tại khu vực này lên tới 7,1 triệu người. Dịch tễ học
lây nhiễm HIV ở khu vực này có nhiều hình thái khác biệt, tại Thái Lan và
Campuchia hình thái lây nhiễm HIV chủ yếu qua quan hệ tình dục khác giới, nhưng
một số nước khác như Việt Nam, Trung Quốc, Malaysia hình thái lây nhiễm vẫn chủ
yếu qua tiêm chích ma tuý và tình trạng lây truyền qua đường tình dục khác giới
cũng ngày càng tăng.
Tại Trung Quốc,
UNAIDS và WHO ước tính có khoảng 1,5 triệu người bị nhiễm HIV/AIDS trong đó có
850.000 người lớn, 220.000 là phụ nữ. Tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm thanh niên từ
15 - 24 tuổi theo ước tính vào khoảng 0,20%. Trong 6 tháng đầu năm 2001 số lượng
người bị nhiễm HIV tăng 67,4% so với năm 2000. Đường lây truyền của dịch HIV tại
Trung Quốc chủ yếu là do tiêm chích ma túy. Vào năm 2000, 7 tỉnh của Trung Quốc
đã phải đối mặt với nguy cơ lan tràn dịch HIV, hơn 70% số người tiêm chích ma
tuý bị HIV dương tính ở một số khu vực như quận Yili ở Xinjiang và quận Ruili
ở Vân Nam. Cũng có dấu hiệu của lây nhiễm HIV qua đường tình dục ở 3 tỉnh Vân
Nam, Quảng Tây và Quảng Đông.Năm 2000, tốc độ lây nhiễm HIV qua quan hệ với gái
mại dâm tại Vân Nam là 4,6% (năm 1999 là 1,6%), tại Quảng Tây là 10,7% (tăng
hơn 6% so với năm 1999).
ấn Độ hiện được
ước tính có số nhiễm HIV cao nhất trong khu vực, UNAIDS và WHO ước tính có khoảng
3,97 triệu người ấn Độ bị nhiễm HIV vào cuối năm 2001.
Tại
Indonesia, HIV đang gia tăng nhanh chóng trong nhóm tiêm chích ma tuý và gái mại
dâm và ở nhóm người hiến máu. Kết quả giám sát tại Indonesia cho thấy vào năm
2000, 40% số người tiêm chích đang được điều trị ở Jakarta đã bị nhiễm HIV. Tại
Bogor, tỉnh Đông Java, 25% số người tiêm chích ma tuý nhiễm HIV.
Tại Thái Lan
theo ước tính có khoảng 670.000 trường hợp nhiễm HIV/AIDS. Thái Lan là nước triển
khai chương trình bao cao su rất sớm và các báo cáo gần đây cho thấy tỷ lệ nhiễm
HIV ở Thái Lan không gia tăng như các năm trước đây và có xu hướng giảm xuống ở
một số nhóm đối tượng.
Nguyên
nhân: có nhiều nguyên nhân dẫn tới sự gia tăng HIV/AIDS tại khu vực này: nạn
đói nghèo, trình độ dân trí thấp, tình trạng di dân tự do, sự gia tăng
các tệ nạn xã hội đã làm HIV/AIDS gia tăng. Vấn đề sử dụng bao cao su dự phòng
lây truyền HIV qua đường tình dục tuy đã được khuyến khích nhưng rất ít nước áp
dụng. Trong khu vực, việc dùng chung dụng cụ tiêm chính ma túy là một trong những
hành vi có nguy cơ gây lây nhiễm HIV nổi trội. Để dự phòng lây nhiễm HIV qua
tiêm chích ma tuý, một số chương trình can thiệp đã được triển khai, trong đó
thành công nhất là chương trình giảm thiểu tác hại của úc với hàng loạt các dự
án trao đổi bơm kim tiêm, chương trình Methadone. Báo cáo của úc gần đây cho thấy:
tỷ lệ nhiễm HIV có chiều hướng giảm, người ta cho rằng: ngoài các chương trình
can thiệp nêu trên, rất có thể việc sử dụng thuốc kháng vi rút đã làm HIV/AIDS
giảm ở nước này. Việc tiếp cận với thuốc điều trị đặc hiệu được thực hiện khá tốt
ở úc và New Zealand còn ở các nước khác rất khó khăn, chủ yếu là do thiếu nguồn
lực.
II. DỊCH TỄ
HỌC HIV/AIDS TẠI VIỆT NAM
Trường hợp
nhiễm HIV đầu tiên ở Việt Nam được phát hiện vào tháng 12 năm 1990 và cho đến
ngày 31 tháng 12 năm 2003 toàn quốc đã phát hiện được 76.180 trường hợp nhiễm
HIV trong đó có 11.659 trường hợp tiến triển thành AIDS và 6.550 trường hợp tử
vong do AIDS. Theo ước tính, thông thường lấy số thực phát hiện nhân hệ số 3
thì tỷ lệ nhiễm HIV/AIDS trong năm 2003 của Việt Nam ước tính là 0,23% dân số;
có một số tỉnh tỷ lệ nhiễm HIV/AIDS tính trên 100.000 dân đặc biệt cao như Quảng
Ninh: 580,47/100.000 dân; Hải Phòng: 338,67/100.000 dân; thành phố Hồ Chí Minh:
249,72/100.000 dân; Bà Rịa - Vũng Tàu: 235,99/100.000 dân; An Giang: 184,36/100.000
dân, Hà Nội: 181,38/100.000 dân…
Tình hình dịch
HIV/AIDS ở Việt Nam có một số đặc điểm như sau:
1. Dịch HIV/AIDS tiếp tục có chiều hướng gia tăng
Có thể chia
diễn biến dịch HIV/AIDS ở Việt Nam thành 3 thời kỳ:
Từ 1990 -
1993: dịch tập trung ở một số tỉnh với số nhiễm HIV phát hiện dưới 1.500 trường
hợp mỗi năm.
Từ 1994 -
1998: dịch lan ra toàn quốc với số nhiễm HIV phát hiện hàng năm dưới 5.000 trường
hợp.
Từ 1999 -
2002: số nhiễm HIV phát hiện trên 10.000 trường hợp mỗi năm và dịch có xu hướng
lan rộng đến các xã, phường.
Giám sát trọng
điểm HIV cho thấy: tỷ lệ nhiễm HIV có chiều hướng tiếp tục gia tăng trong nhóm
đối tượng có nguy cơ cao, đồng thời có biểu hiện gia tăng trong các nhóm đối tượng
được coi là không có nguy cơ cao. Dịch HIV/AIDS tại Việt Nam có liên quan mật
thiết với tình trạng tiêm chích ma tuý và mại dâm.
2. Hình thái lây nhiễm HIV chủ yếu qua tiêm chích ma tuý
Đa số người
nhiễm HIV là người nghiện chích ma tuý (khoảng 60%).
Tỷ lệ nhiễm
HIV trong nhóm nghiện chích ma tuý tăng từ 9,4% năm 1996 lên tới 29,34% vào năm
2002, ở một số địa phương tỷ lệ này tăng cao hơn 50% (trong 100 người nghiện
chích ma tuý có từ 30 đến 50 người nhiễm HIV).
Các tỉnh miền
Bắc và miền Trung: lây truyền HIV qua tiêm chích ma tuý cao hơn khu vực miền
Nam.
Nguy cơ lây
nhiễm HIV qua tiêm chích ma tuý ở mức rất cao do: tình trạng nghiện chích ma
tuý gia tăng, đặc biệt là tầng lớp trẻ tuổi; tình trạng dùng chung bơm kim tiêm
vẫn còn phổ biến (hơn 40% ở thành phố Hồ Chí Minh); người đã nhiễm HIV tiếp tục
tiêm chích ma túy và dùng chung bơm kim tiêm với bạn chích (trên 50%); tỷ lệ
gái mại dâm có tiêm chích ma tuý khá cao (điều tra hành vi cho thấy hơn 40% gái
mại dâm tại Hà Nội có tiêm chích ma tuý). Vì vậy, ngăn chặn lây nhiễm HIV trong
nhóm nghiện chích ma tuý có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc khống chế sự
lan tràn HIV ở Việt Nam.
3. Đối tượng nhiễm HIV có xu hướng “trẻ hoá” ngày càng rõ rệt
Tỷ lệ người
nhiễm HIV ở lứa tuổi 20 - 29 là 15% vào năm 1993 đã tăng lên đến 62% vào cuối
năm 2002.
Người nhiễm
HIV ở lứa tuổi 15 - 49 chiếm 95% các trường hợp nhiễm.
Nhiễm HIV ở lứa
tuổi vị thành niên (từ 10 - 19 tuổi) chiếm 8,3% các trường hợp nhiễm.
4. Lây nhiễm HIV qua quan hệ tình dục có xu hướng gia tăng
và dao động
Tỷ lệ nhiễm
HIV trong nhóm gái mại dâm tiếp tục gia tăng hàng năm từ 0,6% năm 1994 lên tới
6% vào năm 2002.
Tỷ lệ nhiễm
HIV trong nhóm bệnh nhân mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục cũng tăng
qua các năm và lên tới 2,9% vào năm 2001.
Nguy cơ lây
nhiễm HIV qua quan hệ tình dục tiếp tục gia tăng và khả năng lây nhiễm HIV ra cộng
đồng là rất lớn do gia tăng tỷ lệ nghiện chích ma tuý trong nhóm gái mại dâm;
người nghiện chích ma tuý, người nhiễm HIV tiếp tục có quan hệ với gái mại dâm
và tỷ lệ sử dụng bao cao su khi quan hệ tình dục với gái mại dâm thấp. Mặt
khác, qua các điều tra trong thời gian gần đây cho thấy tỷ lệ sử dụng bao cao
su trong lớp trẻ chiếm tỷ lệ rất thấp và điều này cảnh báo nguy cơ lây nhiễm
HIV trong lứa tuổi trẻ.
5. Dịch HIV/AIDS đã có dấu hiệu lây lan ra cộng đồng
Mức độ lây
lan của dịch từ nhóm nguy cơ cao ra cộng đồng biểu hiện qua tỷ lệ nhiễm HIV/AIDS
trong nhóm phụ nữ mang thai và nhóm thanh niên khám tuyển nghĩa vụ quân sự.
Tỷ lệ nhiễm
HIV trong nhóm thanh niên khám tuyển nghĩa vụ quân sự tăng tới 0,93% vào năm
2001.
Tỷ lệ nhiễm
HIV trong nhóm phụ nữ mang thai năm 2002 là 0,34%.
Đã phát hiện
373 trường hợp trẻ em dưới 5 tuổi nhiễm HIV do lây truyền từ mẹ sang con.
6. Đối tượng nhiễm HIV/AIDS ở Việt Nam đa dạng, có ở mọi địa
phương, diễn biến phức tạp
Đối tượng nhiễm
HIV ở Việt Nam không còn tập trung trong một số nhóm nguy cơ cao mà đã xuất hiện
trong nông dân, học sinh, sinh viên, tân binh, thậm chí trong giới công chức
cũng đã có người nhiễm HIV. Cả 64 tỉnh, thành phố trên toàn quốc đều có người
nhiễm HIV/AIDS, 93% số quận, huyện và 49% số xã, phường đã phát hiện các trường
hợp nhiễm HIV. Nhiều tỉnh, thành phố có 100% số xã, phường đã có người nhiễm
HIV/AIDS.
Mặc dù chưa
có điều tra đầy đủ, ước tính có khoảng 20 - 50% trại viên tại các trại 05, 06
nhiễm HIV, trong số đó có nhiều trường hợp đã tiến triển thành AIDS và tử
vong do AIDS.
III. ƯỚC
TÍNH VÀ DỰ BÁO NHIỄM HIV/AIDS Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2004 - 2010
Theo kết quả
ước tính dự báo tiến hành năm 2001 (phối hợp giữa Bộ Y tế và Tổ chức Y tế thế
giới, Chương trình phối hợp của Liên Hợp quốc về phòng, chống HIV/AIDS), sử dụng
mô hình EPIMODEL dự báo: vào năm 2005 sẽ có khoảng 197.500 trường hợp nhiễm
HIV, trung bình mỗi năm sẽ có thêm khoảng 12.000 - 18.000 người nhiễm mới. Dự
báo vào năm 2010 sẽ có 350.970 trường hợp nhiễm HIV, trung bình mỗi năm sẽ có
thêm khoảng 20.000 - 30.000 người nhiễm mới.
Bảng 2: Luỹ
tích các trường hợp nhiễm HIV/AIDS và tử vong do AIDS giai đoạn 2003 -
2010.
Năm
|
2003
|
2004
|
2005
|
2006
|
2007
|
2008
|
2009
|
2010
|
HIV
|
165.444
|
185.757
|
197.500
|
207.375
|
256.185
|
284.277
|
315.568
|
350.970
|
AIDS
|
30.755
|
39.340
|
48.864
|
59.400
|
70.941
|
83.516
|
97.175
|
112.227
|
Tử vong
|
27.135
|
35.047
|
44.102
|
54.132
|
65.171
|
77.228
|
90.346
|
104.701
|
IV. NHỮNG KẾT
QUẢ ĐÃ ĐẠT ĐƯỢC CỦA CÔNG TÁC PHÒNG, CHỐNG HIV/AIDS GIAI ĐOẠN 1990 - 2002
1. Về quản lý, chỉ đạo công tác phòng, chống HIV/AIDS
a) Về tổ chức:
Năm 1987
thành lập Tiểu ban phòng, chống SIDA thuộc ủy ban Phòng, chống bệnh truyền nhiễm
do Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương trực tiếp thực hiện.
Năm 1990 ủy
ban Quốc gia phòng, chống SIDA Việt Nam được thành lập, cơ quan thường trực là
Vụ Vệ sinh phòng dịch – Bộ Y tế.
Năm 1994 ủy
ban Quốc gia phòng, chống AIDS được tách khỏi Bộ Y tế do Phó Thủ tướng Chính phủ
làm Chủ tịch. Bộ Y tế là thường trực.
Năm 2000,
Chính phủ thành lập ủy ban Quốc gia phòng, chống AIDS và phòng, chống tệ nạn ma
tuý, mại dâm do Phó Thủ tướng Chính phủ làm Chủ tịch. ủy ban Quốc gia gồm 18
thành viên của Chính phủ và một số Ban, ngành, đoàn thể chính trị - xã hội,
cơ quan Trung ương. Văn phòng thường trực phòng, chống AIDS đặt tại Bộ Y tế,
trên cơ sở Văn phòng ủy ban Quốc gia phòng, chống AIDS trước đây.
Năm 2003, Văn
phòng thường trực phòng, chống AIDS sáp nhập với Vụ Y tế dự phòng thành Cục Y tế
dự phòng và Phòng, chống HIV/AIDS - Bộ Y tế.
Hầu hết các địa phương đã thành lập Ban Chỉ đạo
phòng, chống AIDS và phòng, chống tệ nạn ma túy, mại dâm theo mô hình của cơ
quan Trung ương.
b) Về chỉ đạo:
Ngày 11 tháng
3 năm 1995, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị về lãnh đạo công
tác phòng, chống HIV/AIDS.
Tháng 5 năm
1995 Pháp lệnh Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc
phải ở người (HIV/AIDS) được ủy ban Thường vụ Quốc hội khoá IX thông qua đã tạo
dựng được cơ sở pháp lý cho công tác phòng, chống HIV/AIDS.
Hơn 29 văn bản
quy phạm pháp luật về quản lý, chỉ đạo đã được Chính phủ và các cơ quan trung
ương ban hành.
Ngày 24 tháng
02 năm 2003, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 02/2003/CT-TTg về tăng
cường công tác phòng, chống HIV/AIDS.
Quốc hội đã
dành sự quan tâm đặc biệt đối với công tác phòng, chống HIV/AIDS: ủy ban Thường
vụ Quốc hội đã nghe các báo cáo về HIV/AIDS; ủy ban Các vấn đề xã hội của Quốc
hội đã tổ chức nhiều cuộc họp ở Trung ương cũng như khu vực để bàn về các chính
sách trong phòng, chống HIV/AIDS; tăng cường chức năng giám sát của Quốc hội đối
với công tác phòng, chống HIV/AIDS trong thời gian qua.
Sự tham gia của
toàn thể cộng đồng, các đoàn thể chính trị - xã hội, các tổ chức tôn giáo ngày
một đông đảo, chủ động và tích cực hơn. Có thể nhận định: hệ thống pháp luật về
công tác phòng, chống HIV/AIDS của Việt Nam là tương đối đầy đủ và đáp ứng kịp
thời để đối phó với tình hình diễn biến của dịch.
2. Công tác thông tin, giáo dục truyền thông
Hoạt động
truyền thông trong thời gian qua đã được triển khai thực hiện khá tốt với sự
tham gia của hầu hết các ban, ngành, đoàn thể, các tổ chức chính trị xã hội và
của quần chúng nhân dân. Công tác truyền thông được thực hiện dưới nhiều hình
thức đa dạng, phong phú về nội dung và hiệu quả vì vậy đã nâng cao hiểu biết của
người dân về kiến thức và kỹ năng phòng, chống HIV/AIDS.
Kết quả điều
tra cho thấy: tỷ lệ hiểu biết về HIV/AIDS đối với người dân ở khu vực đô thị là
trên 65%. Năm 2002, đã có 28,7 triệu lượt người được tiếp cận với thông tin,
truyền thông về phòng, chống HIV/AIDS.
3. Phối hợp của các Bộ, ngành, đoàn thể trong công tác
phòng, chống HIV/AIDS
Trong thời
gian qua, Bộ Công an, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế (là ba cơ
quan thường trực về phòng, chống ma túy, mại dâm và phòng, chống HIV/AIDS) cùng
nhiều Bộ, ngành, địa phương đã có những nỗ lực rất lớn để hoàn thành nhiệm vụ
được Chính phủ giao. Tuy nhiên, hiệu quả của sự phối hợp này có mặt chưa cao,
ví dụ như chưa có giải pháp triển khai các hoạt động giảm thiểu tác hại trong
nhóm ma tuý, tăng cường sử dụng bao cao su trong nhóm mại dâm để dự phòng lây
nhiễm HIV/AIDS.
Các Bộ,
ngành, đoàn thể, tổ chức quần chúng đã tích cực tham gia vào hoạt động thông
tin, giáo dục, truyền thông trong phòng, chống HIV/AIDS. Các hoạt động đã đi
sâu vào các nhóm đối tượng đặc thù của từng ngành. Một số hoạt động tiêu biểu
như: Bộ Công an đã xây dựng và thực hiện mô hình “Cảnh sát khu vực cấp phường
tham gia phòng, chống HIV/AIDS"; Bộ Văn hoá - Thông tin thành lập Câu lạc
bộ “Phóng viên tuyên truyền về dân số, AIDS và các vấn đề xã hội"; Tổng
Liên đoàn Lao động Việt Nam tập trung phòng, chống HIV/AIDS trong các doanh
nghiệp; Hội Nông dân Việt Nam đã lồng ghép hoạt động phòng, chống HIV/AIDS
trong các phong trào như “Phong trào nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi,
đoàn kết giúp đỡ nhau xoá đói, giảm nghèo và làm giàu", “Phong trào nông
dân thực hiện các chương trình văn hóa - xã hội và an ninh, quốc phòng";
Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã tập trung chỉ đạo phòng, chống HIV/AIDS
cho các đối tượng là phụ nữ nông thôn, phụ nữ dân tộc vùng cao…
Công tác huy
động cộng đồng có nhiều bước chuyển biến tích cực, đã huy động được sự tham gia
của các tổ chức xã hội, tôn giáo và cộng đồng trong phòng, chống HIV/AIDS, đặc
biệt trong việc chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS.
4. Các hoạt động chuyên môn kỹ thuật
a) Công tác
giám sát HIV/AIDS:
Năm 1987, xét
nghiệm HIV bắt đầu được triển khai ở các Viện Vệ sinh dịch tễ trung ương và khu
vực, đến năm 1994 hệ thống giám sát trọng điểm được thiết lập và đi vào hoạt động.
Cho đến nay hệ thống xét nghiệm giám sát dịch tễ HIV/AIDS đã được triển khai ở
64 tỉnh, thành phố; giám sát trọng điểm được triển khai ở 40 tỉnh, thành phố áp
dụng trên 6 nhóm đối tượng; giám sát hành vi cũng đã bắt đầu được thực hiện.
Các kết quả giám sát đã cung cấp kịp thời các thông tin cho việc hoạch định
chính sách và lập kế hoạch phòng, chống HIV/AIDS có hiệu quả.
Số liệu thống
kê về HIV/AIDS được cập nhật hàng tuần, hàng tháng, Bộ Y tế đều đặn có
các báo cáo về tình hình dịch gửi cho tất cả các thành viên ủy ban Quốc gia
phòng, chống AIDS và phòng, chống tệ nạn ma tuý, mại dâm, các cơ quan liên
quan. Theo đánh giá của các tổ chức quốc tế, hệ thống giám sát HIV/AIDS của Việt Nam được đánh giá vào loại
tốt nhất trong khu vực.
b) Công tác
an toàn truyền máu:
Tỷ lệ các đơn
vị máu được sàng lọc HIV trước khi truyền tăng lên qua từng năm, từ năm
2000 đến nay, 100% các đơn vị máu và chế phẩm máu đã được sàng lọc.
Vận động hiến
máu nhân đạo được quan tâm chỉ đạo và đẩy mạnh, nhiều đợt hiến máu nhân đạo diễn
ra trên khắp các địa phương. Năm 2002, hệ thống huyết học truyền máu đã tổ chức
được 539 cuộc vận động hiến máu nhân đạo, nâng tỷ lệ máu thu được do hiến máu
nhân đạo lên 30,4% so với tổng số máu thu được. Việc đảm bảo an toàn truyền máu
là một nỗ lực rất lớn của hệ thống y tế, tạo được niềm tin của người dân và góp
phần tạo sự ổn định về xã hội.
c) Công tác điều
trị bệnh nhân AIDS:
Cơ sở điều trị
bệnh nhân AIDS đã sớm được hình thành với 3 Trung tâm tại 3 miền Bắc,
Trung, Nam chịu trách nhiệm hướng dẫn, chỉ đạo điều trị cho các tỉnh trong khu
vực và đến nay hầu hết các tỉnh đều đã có các khoa, phòng sẵn sàng tiếp nhận, điều
trị bệnh nhân AIDS.
Số lượng người nhiễm HIV/AIDS đến các cơ sở y tế để
được khám và điều trị ngày một tăng. Trong giai đoạn 1996 - 2000 có 13.847 lượt
người nhiễm HIV/AIDS đến khám tại các cơ sở y tế nhà nước, năm 2002 có 16.354
người nhiễm HIV/AIDS đến khám và điều trị (tăng 18,1% so với 5 năm trước đây).
Tính đến cuối
năm 2003, đã có 389 trường hợp cán bộ bị phơi nhiễm với HIV/AIDS do tai nạn rủi
ro nghề nghiệp, 75% số cán bộ đó đã được điều trị dự phòng, 25% được xử trí tại
chỗ và tư vấn.
d) Công tác dự
phòng lây nhiễm HIV từ mẹ sang con:
Hàng năm, cả
nước có trên 2 triệu phụ nữ mang thai, theo thống kê giám sát: tỷ lệ nhiễm HIV
trong nhóm này là 0,39%, như vậy mỗi năm ước tính có hàng nghìn phụ nữ mang
thai bị nhiễm HIV. Theo các nghiên cứu, tỷ lệ lây nhiễm HIV từ mẹ sang con vào khoảng
30 - 40%, như vậy số lượng trẻ đẻ ra bị nhiễm HIV cũng ngày một tăng cao.
Hệ thống về
tư vấn, xét nghiệm, điều trị dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con đã được
hình thành và triển khai các hoạt động. Số lượng phụ nữ mang thai được tư vấn,
xét nghiệm và điều trị dự phòng cũng tăng lên hàng năm, đạt 100% ở các bệnh viện
phụ sản lớn như Bệnh viện Phụ sản Trung ương, Bệnh viện Hùng Vương, Từ Dũ.
Năm 2002, có
44,2% các thai phụ nhiễm HIV được điều trị dự phòng và tỷ lệ này đã tăng lên
trong năm 2003.
đ) Công tác phòng, chống các nhiễm khuẩn lây truyền
qua đường tình dục:
Công tác phòng, chống các nhiễm khuẩn lây
truyền qua đường tình dục là một trong các mục tiêu trọng tâm của chương trình
phòng, chống HIV/AIDS. Theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới, khi bị mắc
các nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục có khả năng làm tăng khả năng lây
nhiễm HIV lên tới 10 lần và có thể còn cao hơn trong một số loại bệnh. Mỗi năm,
hệ thống y tế nhà nước cũng đã tổ chức khám và điều trị cho hơn 150.000 trường
hợp mắc các nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục; năm 2002 là 171.975 trường
hợp. Hệ thống giám sát các nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục cũng bắt đầu
được khởi động vào năm 2003.
e) Công tác
quản lý, chăm sóc và tư vấn người nhiễm HIV/AIDS tại cộng đồng:
Đã tổ chức quản
lý, chăm sóc và tư vấn cho 73% số người nhiễm HIV/AIDS có địa chỉ. Hình thức
chăm sóc tư vấn đa dạng, tư vấn thường xuyên (46%), lập hồ sơ theo dõi sức khoẻ
(53%), hỗ trợ vật chất, tinh thần, giới thiệu học nghề và việc làm cho các đối
tượng nhiễm HIV.
5. Hợp tác quốc tế
Hợp tác quốc
tế có vai trò đặc biệt quan trọng trong chương trình phòng, chống HIV/AIDS. Thời
gian qua, chúng ta đã tranh thủ được sự ủng hộ về nhiều mặt của bè bạn quốc tế.
Các tổ chức quốc tế ở Việt Nam cũng như Chính phủ các nước rất quan tâm hỗ trợ
cho chương trình phòng, chống HIV/AIDS ở Việt Nam, nguồn viện trợ của các nước
cho Việt Nam ngày một tăng lên. Ngoài việc tài trợ về nguồn lực, sự chia sẻ các
bài học kinh nghiệm, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác phòng, chống
HIV/AIDS cũng đặc biệt quý báu. Các mô hình phòng, chống HIV/AIDS được các tổ
chức quốc tế hỗ trợ đã thu được các kết quả khả quan.
Việt Nam đã
tham gia ký kết các văn bản, điều ước quốc tế quan trọng về HIV/AIDS như bản
tuyên bố thiên niên kỷ được 189 nguyên thủ quốc gia ký kết vào tháng 9 năm
2000, trong đó vấn đề phòng, chống HIV/AIDS được coi là một trong các mục tiêu
phát triển thiên niên kỷ. Việt Nam đã cam kết trong tuyên bố cam kết về HIV/AIDS
tại khoá họp đặc biệt của Đại Hội đồng Liên Hợp quốc về HIV/AIDS tháng 6 năm
2001 (UNGASS), chúng ta đã gửi Báo cáo quốc gia về thực hiện tuyên bố cam kết về
HIV/AIDS tới Tổng thư ký Liên Hợp quốc. Việt Nam đã hợp tác chặt chẽ với các nước
láng giềng và trong khu vực về phòng, chống HIV/AIDS.
6. Ngân sách phòng, chống HIV/AIDS
Nhà nước đã
quan tâm đầu tư cho chương trình phòng, chống HIV/AIDS bằng nguồn kinh phí thuộc
chương trình mục tiêu quốc gia phòng, chống một số bệnh xã hội, bệnh dịch nguy
hiểm và HIV/AIDS.
- Năm 1990 -
1993: 11,1 tỷ đồng cho 4 năm,
- Năm 1994:
40 tỷ đồng,
- Năm 1995 -
1999: mỗi năm 45 - 55 tỷ đồng,
- Năm 2000 -
2003: mỗi năm 60 tỷ đồng.
Nguồn kinh phí này được phân chia cho hơn 15 nội
dung hoạt động, cấp cho nhiều Bộ, ngành và tất cả các địa phương. Bên cạnh nguồn
ngân sách nhà nước cấp, một số địa phương cũng đã bổ sung thêm nguồn kinh phí của
địa phương cho chương trình này như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng...
Tuy nhiên, cũng còn nhiều địa phương hầu như chưa chủ động đầu tư, đóng góp cho
chương trình phòng, chống HIV/AIDS ngay tại địa phương mình.
Các tổ chức
quốc tế, Chính phủ các nước đã có nhiều hỗ trợ đáng kể cho công tác phòng, chống
HIV/AIDS. Chính phủ Nhật Bản với khoản viện trợ 3,6 triệu đô la Mỹ đã cơ bản giải
quyết vấn đề trang thiết bị cho 10 tỉnh, thành phố phía Nam. Chính phủ Anh viện
trợ không hoàn lại 25 triệu USD giai đoạn 2003 - 2007. Chính phủ các nước: Đức,
úc, Mỹ, Luxambourg,... đã có nhiều khoản viện trợ cho công tác phòng, chống HIV/AIDS
trước đây và trong thời gian tới. Các tổ chức Liên Hợp quốc, các tổ chức phi
Chính phủ đã có nhiều hỗ trợ về nguồn vốn và kỹ thuật cho chương trình phòng,
chống HIV/AIDS. Các nguồn viện trợ này đã được sử dụng tương đối hiệu quả và
góp phần quan trọng trong công cuộc phòng, chống HIV/AIDS ở Việt Nam.
Ngân sách đầu
tư cho công tác phòng, chống HIV/AIDS trong những năm vừa qua tuy còn hạn hẹp,
chưa đáp ứng được nhu cầu tối thiểu, nhưng bằng những nỗ lực của Chính phủ và sự
tham gia của toàn xã hội, chúng ta đã ngăn chặn được tốc độ gia tăng nhiễm HIV/AIDS
ở Việt Nam, nếu không bức tranh toàn cảnh về dịch HIV/AIDS ở Việt Nam chắc chắn
còn ảm đạm hơn nhiều so với các dự báo trước đây.
V. NHỮNG KHÓ
KHĂN VÀ THÁCH THỨC TRONG CÔNG TÁC PHÒNG, CHỐNG HIV/AIDS
1. Đánh giá tổng quát
Với sự quan
tâm của Đảng, Quốc hội và Chính phủ, sự nỗ lực của các ngành, các cấp, các đoàn
thể, địa phương, công tác phòng, chống HIV/AIDS đã được triển khai trên tất cả
các mặt: thông tin, tuyên truyền, phòng, chống lây nhiễm HIV qua tiêm chích ma
tuý, mại dâm; qua các hoạt động chuyên môn kỹ thuật như giám sát dịch, an toàn
truyền máu, điều trị, dự phòng lây nhiễm từ mẹ sang con... chúng ta đã:
a) Nâng cao
nhận thức của người dân về dự phòng lây nhiễm HIV/AIDS, bảo đảm được các chỉ
tiêu Pháp lệnh về phòng, chống HIV/AIDS như an toàn truyền máu, giám sát HIV/AIDS,
góp phần ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
b) Đảm bảo được
các cam kết quốc gia và quốc tế trong lĩnh vực phòng, chống HIV/AIDS.
Tuy nhiên, dịch
HIV/AIDS vẫn còn rất nguy hiểm, nguy cơ tiếp tục gia tăng, cần phải thực hiện
các giải pháp đồng bộ, quyết liệt hơn nữa cùng với công tác phòng, chống
ma tuý, mại dâm.
2. Về mặt khách quan
a) Bản chất
sinh học của nhiễm HIV là dịch bệnh do vi rút gây ra nhưng có các đặc điểm sinh
bệnh học rất đặc biệt. Đa dạng về đường lây truyền (HIV lây qua đường máu, qua
quan hệ tình dục, mẹ truyền cho con), thời gian ủ bệnh kéo dài có thể tới 15
năm, tính né tránh miễn dịch và khả năng biến dị của vi rút rất lớn; chưa có vắc
xin phòng bệnh, không có thuốc điều trị đặc hiệu đã làm cho công tác phòng, chống
HIV/AIDS thêm khó khăn.
b) Theo những
nghiên cứu dịch tễ học, hình thái lây nhiễm HIV ở Việt Nam chủ yếu qua tiêm
chích ma tuý (30,4% năm 2001 và 29,34% AIDS năm 2002), tỷ lệ
gái mại dâm có tiêm chích ma tuý khá cao (40% gái mại dâm có tiêm chích ma tuý
theo một kết quả điều tra tại Hà Nội), tỷ lệ sử dụng bao cao su trong quan hệ
tình dục của các nhóm đối tượng có nguy cơ cao khá thấp… đây đang là những
nguyên nhân chính và trực tiếp làm lan truyền HIV/AIDS ở Việt Nam hiện nay.
c) Việt Nam nằm
trong khu vực Đông Nam á, là khu vực đang chịu tác động mạnh mẽ của xu hướng dịch
chuyển của đại dịch HIV/AIDS. Tính chất di biến động dân số, vấn đề di dân ngày
càng phức tạp tạo ra nguy cơ lan truyền HIV/AIDS trong các địa phương, từ thành
thị về nông thôn, giữa địa phương này với địa phương khác trong một nước và lan
truyền qua biên giới các nước. Một bộ phận người dân sống ở vùng nông thôn đi
làm ăn ở các nơi xa, thậm chí đi ra nước ngoài làm ăn bị nhiễm HIV/AIDS và đã
làm lây nhiễm HIV/AIDS khi trở về nhà.
d) Hậu quả
tiêu cực của nền kinh tế thị trường là sự phân hoá giàu nghèo, thất nghiệp, dân
trí còn thấp dẫn đến nhận thức về HIV/AIDS rất hạn chế (các điều tra trong thời
gian gần đây cho thấy tỷ lệ gái mại dâm bị mù chữ khá cao), giá trị đạo đức, lối
sống bị ảnh hưởng nhất là trong tình yêu, tình dục, hôn nhân ... là những yếu tố
góp phần làm lây lan dịch HIV/AIDS, đồng thời cũng gây ra nhiều khó khăn cho
công cuộc phòng, chống HIV/AIDS.
3. Về mặt chủ quan
a) Quản lý,
chỉ đạo công tác phòng, chống AIDS:
Sự chỉ đạo
công tác phòng, chống HIV/AIDS của các cấp chính quyền ở một số địa phương chưa
thật sự được coi trọng; một bộ phận không nhỏ đội ngũ lãnh đạo ở các cấp cơ sở
và một bộ phận dân cư nhận thức chưa đầy đủ về công tác phòng, chống HIV/AIDS.
Hệ thống pháp
luật về phòng, chống HIV/AIDS tuy được đánh giá là khá đầy đủ nhưng có một số
quy định chậm được sửa đổi, bổ sung dẫn tới giảm hiệu lực khi triển khai, thực
hiện.
Dịch HIV/AIDS
gắn liền với các loại tệ nạn xã hội đặc biệt là ma tuý, mại dâm đã làm tăng sự
phân biệt, đối xử với người nhiễm HIV/AIDS, điều này làm cho công tác dự phòng
và chăm sóc người nhiễm HIV/AIDS gặp rất nhiều trở ngại.
Chưa triển
khai được các biện pháp can thiệp giảm thiểu tác hại trên diện rộng như trao đổi
bơm kim tiêm sạch trong nhóm nghiện chích ma tuý, sử dụng bao cao su trong nhóm
phụ nữ mại dâm.
Bộ máy tổ chức
phòng, chống HIV/AIDS còn mỏng về lực lượng, chưa đáp ứng yêu cầu về chuyên môn
nghiệp vụ. Hầu hết các cán bộ công tác phòng, chống HIV/AIDS hiện nay là kiêm
nhiệm, chưa có bộ máy điều hành chuyên trách.
b) Thông tin,
giáo dục, truyền thông:
Thông tin
chưa phủ khắp, chưa đi đến vùng sâu, vùng xa, chưa tiếp cận được đến các nhóm đối
tượng có nguy cơ cao.
Hoạt động
truyền thông mang tính hình thức, đi theo lối mòn nên tác dụng làm thay đổi
hành vi, chống phân biệt đối xử còn ở mức độ rất hạn chế.
Công tác tuyên
truyền, giáo dục pháp luật trong phòng, chống HIV/AIDS chưa được triển khai thường
xuyên, nhiều cấp lãnh đạo kể cả các cán bộ làm công tác phòng, chống HIV/AIDS
cũng không được cập nhật các thông tin, các quy định về phòng, chống HIV/AIDS phần
nào làm hạn chế hiệu quả chương trình.
c) Hoạt động
chuyên môn kỹ thuật:
Giám sát HIV/AIDS:
Trình độ xét
nghiệm còn ở mức thấp, chưa có khả năng chẩn đoán xác định các trường hợp trẻ
sơ sinh có nhiễm HIV hay không.
Tư vấn xét
nghiệm tự nguyện chưa có hệ thống, chưa có quy định hướng dẫn cụ thể nên hiệu
quả chưa cao.
Giám sát còn
bị động, chưa đẩy mạnh các nghiên cứu có tính chuyên môn sâu trong giám sát,
chưa đánh giá chính xác được hiệu quả chương trình phòng, chống HIV/AIDS.
Máy móc và
sinh phẩm y tế chưa được đầu tư sản xuất; việc xét nghiệm HIV ở hệ thống y tế
tư nhân cũng cần phải được xem xét, điều chỉnh trong pháp lệnh.
Công tác an
toàn truyền máu:
Kỹ thuật sàng
lọc các bệnh nhiễm trùng còn ở trình độ thấp, hiện nay 80% cơ sở truyền máu
trong toàn quốc mới chỉ sàng lọc bằng kỹ thuật đơn giản. Chưa có điều kiện để ứng
dụng kỹ thuật truyền máu hiện đại như tách các thành phần máu để truyền máu từng
phần nhằm hạn chế được nguy cơ lây nhiễm HIV.
Phong trào hiến
máu nhân đạo mới được đẩy mạnh ở một số tỉnh, thành phố lớn còn ở các địa
phương khác, việc vận động hiến máu nhân đạo còn rất yếu. Chưa có ngân hàng
máu, chưa đủ máu dùng cho điều trị, chưa có máu dự trữ đề phòng khi có thảm họa
lớn xẩy ra.
Công tác điều
trị:
Vấn đề điều
trị HIV/AIDS hiện nay hết sức cấp thiết, do khó khăn về thuốc điều trị, phương
pháp điều trị, nhu cầu điều trị rất lớn nhưng đáp ứng còn rất hạn chế. Với nguồn
kinh phí hạn hẹp, hàng năm chương trình phòng, chống AIDS đầu tư khoảng 4 tỷ đồng
chỉ mới đủ mua thuốc điều trị đặc hiệu HIV cho khoảng 50 bệnh nhân AIDS, cho
các cán bộ bị tai nạn rủi ro nghề nghiệp và điều trị các bệnh nhiễm trùng cơ hội
cho một số bệnh nhân. Tuy đã có một vài công ty sản xuất thuốc điều trị đặc hiệu
HIV/AIDS trong nước nhưng giá thành điều trị vẫn còn cao.
Chế độ, chính
sách cho các cán bộ trực tiếp chăm sóc, điều trị bệnh nhân HIV/AIDS cũng còn một
số bất cập.
Đa số bệnh
nhân AIDS là người nghèo, một số không có nơi nương tựa nên khi bị bệnh thì bệnh
viện lại trở thành nơi điều trị và nuôi dưỡng bệnh nhân, khi qua đời bệnh viện
phải lo việc mai táng, bệnh nhân AIDS thực sựlà gánh nặng đối với các bệnh viện.
Dự phòng lây
truyền mẹ con:
Giáo dục
phòng, chống HIV/AIDS ở lứa tuổi vị thành niên còn nhiều hạn chế, chưa lồng
ghép được chương trình phòng, chống HIV/AIDS với các chương trình chăm sóc sức
khoẻ sinh sản.
Tình trạng
các cháu bị bỏ rơi vì HIV/AIDS đã trở nên báo động. Một số cháu được các bệnh
viện nuôi dưỡng, phần lớn các cháu được đưa vào các trung tâm cô nhi. Cần xây dựng
các chính sách phù hợp cho việc nuôi dưỡng, chăm sóc, tạo các điều kiện thuận lợi
về học hành, vui chơi, phát triển cho các cháu không may bị ảnh hưởng do HIV/AIDS.
Công
tác phòng, chống các nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục:
Hệ thống giám
sát các nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục vừa được triển khai trong năm
2003, vì vậy số liệu dịch tễ học còn thiếu.
Các chương
trình lồng ghép dự phòng HIV/AIDS, các nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục
cũng đã được triển khai, nhưng mới chỉ ở phạm vi và quy mô tại một số tỉnh lớn.
Công tác quản
lý, chăm sóc và tư vấn người nhiễm HIV/AIDS tại cộng đồng:
Tâm lý đối với
người nhiễm HIV/AIDS của xã hội, cộng đồng, cơ quan, đơn vị, gia đình vẫn còn
nhiều nặng nề, mặt khác đa số người nhiễm HIV/AIDS là do tiêm chích ma tuý, mại
dâm do đó việc tái hoà nhập cộng đồng là rất khó khăn. Tỷ lệ người nhiễm HIV/AIDS
được cộng đồng chấp nhận vào khoảng 30% và chỉ có 2% được tham gia vào các câu
lạc bộ người nhiễm hoặc nhóm bạn giúp bạn.
Vấn đề quản
lý, chăm sóc cho các đối tượng nhiễm HIV trong các trung tâm 05, 06, các trại
giam, trại tạm giam, trường giáo dưỡng phát sinh nhiều, vấn đề có tính đặc thù
cần quan tâm nghiên cứu trong bối cảnh số lượng người nhiễm tại các nơi này chiếm
tỷ lệ khá lớn.
Do đặc điểm của
người nhiễm HIV ở Việt Nam phần lớn là người nghèo, cộng thêm các mặc cảm, kỳ
thị phân biệt đối xử nên họ ngại tiếp xúc, lẩn tránh và dễ có những phản ứng
tiêu cực.
Các hỗ trợ xã
hội cho người nhiễm HIV/AIDS tại cộng đồng như chống kỳ thị phân biệt đối xử, tạo
công ăn việc làm…chưa được sự quan tâm đúng mức của các cấp uỷ Đảng, các cấp
chính quyền và các ban, ngành, đoàn thể.
d) Hợp tác quốc
tế:
Mặc dù đã có
sự phối hợp chặt chẽ với quốc tế trong công tác phòng, chống HIV/AIDS, nhưng do
không chủ động được nguồn lực nên các hoạt động hợp tác quốc tế vẫn còn tản mạn
thiếu hiệu quả, chưa đáp ứng được yêu cầu của chúng ta cũng như mong muốn của bạn
bè quốc tế.
đ) Tài chính:
Do phải bao
phủ nhiều nội dung, phải đảm bảo các chỉ tiêu pháp lệnh như truyền máu, giám
sát, phòng, chống HIV/AIDS tuyến xã, phường, kinh phí bị dàn trải, phân nhỏ nên
các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS cũng còn nhiều bất cập và hạn chế.
Kinh phí đầu
tư còn thiếu so với nhu cầu: theo ước tính như năm 2002 có 92 tỷ kể cả ngân
sách nhà nước, kinh phí địa phương và các nguồn viện trợ, với kinh phí nêu trên
chưa thể đáp ứng được nhu cầu cần thiết cho các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS
của Việt Nam.
Phần 3:
QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO
TRONG PHÒNG, CHỐNG HIV/AIDS
1. HIV/AIDS là đại dịch nguy hiểm, là mối hiểm họa đối với sức
khỏe, tính mạng của con người và tương lai nòi giống của dân tộc. HIV/AIDS tác
động trực tiếp đến phát triển kinh tế, văn hóa, trật tự và an toàn xã hội của
quốc gia. Do đó, phòng, chống HIV/AIDS phải được coi là một nhiệm vụ trọng tâm,
cấp bách và lâu dài, cần phải tăng cường phối hợp liên ngành và đẩy mạnh việc
huy động toàn xã hội tham gia.
2. Đầu tư cho công tác
phòng, chống HIV/AIDS là đầu tư góp phần tạo ra sự phát triển bền vững của đất
nước mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội trực tiếp và gián tiếp. Nhà nước bảo đảm
việc huy động các nguồn lực đầu tư cho phòng, chống HIV/AIDS từ nay đến năm
2010 và sau 2010 phù hợp với khả năng và điều kiện phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước trong từng giai đoạn.
3. Chống kỳ thị, phân biệt đối xử với người bị nhiễm HIV/AIDS,
tăng cường trách nhiệm của gia đình, xã hội với người nhiễm HIV/AIDS và của người
nhiễm HIV/AIDS với gia đình, xã hội.
4. Việt Nam cam kết thực hiện các điều ước quốc tế về phòng, chống
HIV/AIDS đã ký kết hoặc gia nhập. Bảo đảm hệ thống pháp luật quốc gia về phòng,
chống HIV/AIDS phù hợp với các nguyên tắc của pháp luật quốc tế.
5. Tăng cường hợp tác song phương, đa phương, mở rộng quan hệ,
hợp tác quốc tế với các nước láng giềng, các nước trong khu vực và trên thế giới
trong phòng, chống HIV/AIDS.
6. Các hoạt động ưu tiên đối với công tác phòng, chống HIV/AIDS
trong thời gian tới:
- Tăng cường thông tin, giáo dục và truyền thông
thay đổi hành vi; phối hợp với các chương trình khác để ngăn ngừa, giảm thiểu
lây nhiễm HIV/AIDS;
- Đẩy mạnh
các biện pháp can thiệp giảm thiểu tác hại;
- Tăng cường
tư vấn, chăm sóc và điều trị người nhiễm HIV/AIDS;
- Tăng cường năng lực quản lý, theo dõi, giám sát
và đánh giá chương trình.
Phần 4:
TẦM NHÌN 2020
1. Giai đoạn
2010 - 2020, HIV/AIDS vẫn tồn tại, tuy phát triển chậm hơn nhưng tiếp tục tác động
đến sự phát triển kinh tế - xã hội và sức khoẻ cộng đồng. Do đó, cần tiếp tục đẩy
mạnh các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS để duy trì và giữ vững các thành quả
đã đạt được. Trong giai đoạn này, nhà nước tiếp tục tăng cường việc quản lý chỉ
đạo và tăng cường đầu tư cho công tác phòng, chống HIV/AIDS. Đẩy mạnh việc chống
phân biệt đối xử, tiếp tục thực hiện các cam kết quốc gia và quốc tế trong công
tác phòng, chống HIV/AIDS. Phối hợp liên ngành trong công tác phòng, chống HIV/AIDS
cần tiếp tục được đẩy mạnh và duy trì.
2. Tác động của
HIV/AIDS tới phát triển kinh tế - xã hội và sức khoẻ cộng đồng giai đoạn 2010 -
2020 phụ thuộc chủ yếu vào hiệu quả của việc tổ chức thực hiện công tác phòng,
chống HIV/AIDS giai đoạn 2004 - 2010. Trong giai đoạn hiện tại, HIV/AIDS vẫn còn ở giai đoạn dịch tập trung
(chủ yếu ở các đối tượng có nguy cơ cao như tiêm chích ma túy và gái mại dâm).
Vì vậy, ngăn chặn lây nhiễm HIV/AIDS từ nhóm có nguy cơ cao ra cộng đồng có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng và cơ bản sẽ khống chế được tốc độ lây nhiễm HIV/AIDS
trong cộng đồng ở giai đoạn sau này. Tốc độ lây nhiễm HIV/AIDS giảm, việc chăm
sóc hỗ trợ người nhiễm được thực hiện tốt hơn sẽ làm giảm các tác động đến kinh
tế - xã hội do HIV/AIDS gây ra.
3. Giai đoạn
2010 - 2020, chương trình phòng, chống HIV/AIDS sẽ phải tập trung giải quyết hậu
quả của HIV/AIDS. Dự phòng đặc hiệu bằng vắc xin, thuốc điều trị HIV/AIDS có thể
sẽ được sử dụng rộng rãi. Do vậy, trong giai đoạn này dự phòng mang tính kỹ thuật
và phối hợp liên ngành trong việc chăm sóc, điều trị và giải quyết các hậu quả
của HIV/AIDS. Các ưu tiên của công tác phòng, chống HIV/AIDS trong giai đoạn
2010 - 2020:
Dự phòng bằng
các biện pháp kỹ thuật đặc hiệu;
Chăm sóc và điều
trị người nhiễm HIV/AIDS;
Chăm sóc các
đối tượng bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS.
Các chương
trình hành động trong giai đoạn 2010 - 2020 chủ yếu tập trung cho hai chương
trình chủ đạo:
Chương trình
chăm sóc và điều trị người nhiễm HIV/AIDS;
Chương trình
dự phòng và giảm nhẹ các tác động đến kinh tế - xã hội do HIV/AIDS gây ra.
Phần 5:
CHIẾN LƯỢC QUỐC GIA
PHÒNG, CHỐNG HIV/AIDS Ở VIỆT NAM
ĐẾN NĂM 2010
I. MỤC TIÊU
1. Mục tiêu chung
Khống chế tỷ
lệ nhiễm HIV/AIDS trong cộng đồng dân cư dưới 0,3% vào năm 2010 và không tăng
sau 2010; giảm tác hại của HIV/AIDS đối với sự phát triển kinh tế - xã hội.
2. Mục tiêu cụ thể
a) 100% các
đơn vị, địa phương trên cả nước, đưa hoạt động phòng, chống HIV/AIDS trở thành
một trong các mục tiêu ưu tiên của chương trình phát triển kinh tế - xã hội tại
các đơn vị và địa phương.
b) Nâng
cao hiểu biết của người dân về dự phòng lây nhiễm HIV/AIDS: 100% nhân dân khu vực
thành thị và 80% ở khu vực nông thôn, miền núi hiểu đúng và biết cách dự phòng
lây nhiễm HIV/AIDS.
c) Khống chế
lây nhiễm HIV/AIDS từ nhóm nguy cơ cao ra cộng đồng thông qua việc triển khai đồng
bộ các biện pháp can thiệp giảm thiểu tác hại: thực hiện các biện pháp can thiệp
đối với tất cả các đối tượng có hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV/AIDS; 100% tiêm
chích an toàn và sử dụng bao cao su trong quan hệ tình dục có nguy cơ.
d) Bảo đảm
người nhiễm HIV/AIDS được chăm sóc và điều trị thích hợp: 90% người lớn nhiễm
HIV/AIDS, 100% các bà mẹ mang thai nhiễm HIV/AIDS, 100% trẻ em bị nhiễm hoặc bị
ảnh hưởng do HIV/AIDS được quản lý, điều trị, chăm sóc và tư vấn thích hợp, 70%
bệnh nhân AIDS được điều trị bằng các thuốc điều trị đặc hiệu.
đ) Hoàn thiện
hệ thống quản lý, theo dõi, giám sát, đánh giá chương trình phòng, chống HIV/AIDS:
100% tỉnh, thành phố có khả năng tự đánh giá và tự dự báo về diễn biến của nhiễm
HIV/AIDS ở địa phương, 100% xét nghiệm HIV tuân thủ quy định tư vấn xét nghiệm
tự nguyện.
e) Ngăn chặn
lây nhiễm HIV/AIDS qua các dịch vụ y tế: bảo đảm 100% các đơn vị máu và chế phẩm
máu được sàng lọc HIV trước khi truyền ở tất cả các tuyến; 100% cơ sở y tế thực
hiện đúng quy định về vô khuẩn, sát khuẩn phòng lây nhiễm HIV/AIDS.
II. GIẢI
PHÁP THỰC HIỆN
A. Nhóm giải pháp về xã hội
1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và chính quyền các cấp đối
với công tác phòng, chống HIV/AIDS
a) Tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phòng, chống HIV/AIDS:
Khẳng định
vai trò quan trọng của các cấp ủy Đảng trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng,
chống HIV/AIDS. Các cấp ủy Đảng thường xuyên theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, chỉ đạo
đưa công tác phòng, chống HIV/AIDS trở thành mục tiêu ưu tiên trong chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội.
Ban hành các
văn bản, chỉ thị của các cấp ủy Đảng chỉ đạo công tác phòng, chống HIV/AIDS.
Đưa công tác phòng, chống HIV/AIDS vào nội dung thảo luận ở các kỳ Đại hội và
các văn kiện, nghị quyết và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng.
Tiếp tục đẩy
mạnh các hoạt động tuyên truyền, vận động đội ngũ lãnh đạo và các Đảng viên
tham gia công tác phòng, chống HIV/AIDS.
Phát huy tính
chủ động của mỗi cán bộ, đảng viên trong công tác phòng, chống HIV/AIDS. Đưa
giáo dục phòng, chống HIV/AIDS thành một trong những nội dung thường kỳ của các
cuộc họp chi bộ.
b) Tăng cường
chức năng kiểm tra, giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp đối với
công cuộc phòng, chống HIV/AIDS:
Đề nghị Quốc
hội tăng cường chỉ đạo công tác xây dựng pháp luật, đầu tư ngân sách cho nhiệm
vụ phòng, chống HIV/AIDS. Tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát của Quốc hội,
các ủy ban, Hội đồng Dân tộc của Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội và từng đại
biểu Quốc hội cũng như Hội đồng nhân dân các cấp đối với công tác phòng, chống
HIV/AIDS.
Hội đồng nhân
dân các cấp có các Nghị quyết về công tác phòng, chống HIV/AIDS. Định kỳ hàng
năm, công tác phòng, chống HIV/AIDS được báo cáo tại các kỳ họp của Hội đồng
nhân dân các cấp. Hoạt động phòng, chống HIV/AIDS phải được cụ thể hoá trong
các chương trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
c) Tăng cường
sự chỉ đạo, điều hành của chính quyền các cấp trong tổ chức thực hiện công tác
phòng, chống HIV/AIDS:
Chính phủ tăng cường chỉ đạo và coi công tác
phòng, chống HIV/AIDS là một trong các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội
hàng năm; chỉ đạo các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, ủy ban
nhân dân các cấp tích cực triển khai các biện pháp phòng, chống HIV/AIDS; tổ chức
các cuộc họp định kỳ nghe báo cáo về HIV/AIDS để có sự chỉ đạo kịp thời.
Uỷ ban nhân
dân các cấp thường xuyên chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác phòng, chống HIV/AIDS,
coi công tác phòng, chống HIV/AIDS là một trong các nhiệm vụ phát triển kinh tế
- xã hội của địa phương. Lồng ghép các chương trình công tác phòng, chống HIV/AIDS
vào các chương trình xoá đói, giảm nghèo; ưu tiên cho vùng sâu, vùng xa, vùng đặc
biệt khó khăn.
Chính phủ, ủy
ban nhân dân các cấp bảo đảm đầu tư thích hợp về kinh phí, nhân lực, vật lực và
tăng cường về tổ chức bộ máy cho công tác phòng, chống HIV/AIDS.
2. Các giải pháp về phối hợp liên ngành và huy động cộng đồng
a) Phối hợp
liên ngành:
Tiếp tục xây
dựng và tăng cường tổ chức thực hiện chương trình phòng, chống HIV/AIDS mang
tính liên ngành, toàn diện, đặc biệt chú trọng việc lồng ghép có hiệu quả với
các chương trình phòng, chống tệ nạn ma tuý, mại dâm để ngăn ngừa lây nhiễm HIV/AIDS;
huy động mọi tổ chức, cá nhân tham gia các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS.
Tăng cường sự chỉ đạo điều hành của Chính phủ đối với các hoạt động liên ngành
trong công tác phòng, chống HIV/AIDS.
Xác định rõ
chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các Bộ, ngành, trong công tác phòng, chống
HIV/AIDS. Các Bộ, ngành chủ động đưa công tác phòng, chống HIV/AIDS vào kế hoạch
hoạt động hàng năm và chịu trách nhiệm trước Chính phủ về việc tổ chức thực hiện.
Trung ương Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận tăng cường vận động
toàn dân tham gia công tác phòng, chống HIV/AIDS, lồng ghép các hoạt động
phòng, chống HIV/AIDS vào trong các phong trào vận động quần chúng. Phát huy
vai trò, tính chủ động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể trong việc
vận động người dân tích cực tham gia phòng, chống HIV/AIDS nhất là trong công
tác tuyên truyền, vận động nhân dân. Thực hiện lồng ghép công tác phòng, chống
HIV/AIDS vào trong các phong trào, các cuộc vận động thi đua yêu nước. Phát huy
vai trò của những người tiêu biểu, các già làng, trưởng bản, trưởng thôn, tổ
trưởng dân phố, trưởng các dòng họ, trưởng tộc, các chức sắc tôn giáo, người
cao tuổi làm nòng cốt cho việc vận động người dân tham gia phòng, chống HIV/AIDS.
Xã hội hoá
cao công tác phòng, chống HIV/AIDS, có các quy định cụ thể về công tác xã hội
hoá nhằm mục đích huy động nhiều hơn nữa sự tham gia của tất cả các tổ chức
đoàn thể, cộng đồng và cá nhân trong công cuộc phòng, chống HIV/AIDS.
b) Huy
động cộng đồng:
Khuyến khích
các tổ chức tôn giáo, các tổ chức xã hội, từ thiện, tổ chức phi Chính phủ, các
nhóm cộng đồng, kể cả bản thân người nhiễm HIV/AIDS và gia đình họ tham gia
công tác phòng, chống HIV/AIDS.
Tăng cường
các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS trong cộng đồng, giáo dục sự thương yêu,
đùm bọc, phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình, họ tộc, quê hương, bản sắc
văn hoá dân tộc của người Việt Nam trong chăm sóc, hỗ trợ những người có nguy
cơ bị nhiễm HIV và người nhiễm HIV/AIDS. Thông tin rộng rãi cho nhân dân về
trách nhiệm của gia đình và cộng đồng trong công tác phòng, chống HIV/AIDS.
Lồng ghép hoạt động phòng, chống HIV/AIDS vào các
phong trào quần chúng, các hoạt động thể thao, văn hoá, văn nghệ tại cộng đồng,
các lớp tập huấn, các buổi nói chuyện. Tổ chức các diễn đàn kêu gọi sự cam kết
tham gia công cuộc phòng, chống HIV/AIDS của cộng đồng. ở những nơi có điều kiện
có thể hình thành "Quỹ cộng đồng hỗ trợ hoạt động phòng, chống HIV/AIDS".
Tăng cường
tính chủ động của cộng đồng. Phát huy tính tích cực, chủ động tham gia của cộng
đồng trong việc lập kế hoạch, triển khai các hoạt động và xác định HIV/AIDS là
vấn đề của chính cộng đồng và cộng đồng tham gia tích cực trong các hoạt động
phòng, chống HIV/AIDS.
Phát động
phong trào thi đua noi gương người tốt, việc tốt, có chính sách động viên, khen
thưởng kịp thời các tổ chức quần chúng, cá nhân lập thành tích xuất sắc trong
công cuộc phòng, chống HIV/AIDS.
c) Huy động
doanh nghiệp tham gia phòng, chống HIV/AIDS:
Khuyến khích
các doanh nghiệp, các hiệp hội nghề nghiệp, các tổ chức tư nhân tham gia tích cực
vào các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS. Xây dựng, ban hành các chính sách, quy
định cụ thể về triển khai các hoạt động phòng, chống AIDS tại nơi làm việc. Vận
động, đề xuất các hình thức thích hợp về đóng góp các nguồn lực của tổ chức
doanh nghiệp đồng thời nghiên cứu xây dựng, tiến tới luật hoá các chế tài xử lý
hành chính đối với doanh nghiệp hay tổ chức không thực hiện nhiệm vụ phòng, chống
HIV/AIDS bảo vệ sức khoẻ cho người lao động.
Khuyến khích
các doanh nghiệp, các đơn vị kinh tế tổ chức đào tạo và nhận các đối tượng
nguy cơ lây nhiễm HIV và các đối tượng bị ảnh hưởng do HIV/AIDS được làm việc.
Nghiêm cấm
các doanh nghiệp sa thải người nhiễm HIV/AIDS. Không được xem xét song hành vấn
đề nhiễm HIV của người lao động với việc tuyển dụng, tăng lương hay bổ nhiệm họ
vào các vị trí quản lý, lãnh đạo.
Các doanh
nghiệp cần có các quy định, chính sách trong việc cung cấp thông tin phòng, chống
HIV/AIDS cho cán bộ, công nhân của đơn vị. Lồng ghép việc tuyên truyền phòng,
chống HIV/AIDS vào chương trình vui chơi, giải trí lành mạnh tại doanh nghiệp.
Thành lập các
cơ sở tư vấn về HIV/AIDS tại doanh nghiệp thông qua việc lồng ghép với các hoạt
động y tế tại doanh nghiệp. Tổ chức khám sức khoẻ định kỳ, khám, chữa các nhiễm
khuẩn lây truyền qua đường tình dục cho người lao động, đặc biệt là lao động nữ.
Có chính sách
khuyến khích các doanh nghiệp, khu vực kinh tế tư nhân gắn hoạt động quảng cáo
sản phẩm với các thông điệp về dự phòng và chăm sóc người nhiễm HIV/AIDS ví dụ
quảng cáo nước uống, mỹ phẩm, hội chợ, triển lãm…
d) Phát huy
tiềm năng của từng cá nhân và gia đình trong phòng, chống HIV/AIDS:
Nâng cao
trách nhiệm của các thành viên trong gia đình về hoạt động phòng, chống HIV/AIDS
thông qua việc tuyên truyền giáo dục, tư vấn. Giáo dục, phát huy việc xây dựng
các chuẩn mực đạo đức gia đình, phong tục, tập quán tốt đẹp, duy trì nếp sống
văn hoá lành mạnh, nâng cao trách nhiệm của từng cá nhân và gia đình để phòng
lây nhiễm HIV/AIDS.
Giáo dục, bảo
đảm quyền bình đẳng của người nhiễm HIV/AIDS cũng như quyền của từng cá nhân sống
trong cộng đồng về trách nhiệm dự phòng lây nhiễm HIV/AIDS.
Khuyến khích,
có chính sách động viên những người danh tiếng, các nhà lãnh đạo tham gia và trở
thành những tấm gương để cộng đồng đặc biệt là lứa tuổi thanh, thiếu niên noi
theo.
Khuyến khích
các thành viên trong gia đình áp dụng biện pháp dự phòng lây nhiễm HIV và trở
thành cộng tác viên tuyên truyền về phòng, chống HIV/AIDS.
Tăng cường sự
hiểu biết và đảm bảo vai trò, quyền bình đẳng của phụ nữ để họ tham gia tích cực
vào hoạt động phòng, chống HIV/AIDS. Đảm bảo cho phụ nữ tham gia học tập, trao
đổi kinh nghiệm, kỹ năng sống.
3. Giải pháp về pháp luật và chính sách trong phòng, chống
HIV/AIDS
a) Từng bước
hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng, chống HIV/AIDS:
Sớm sửa đổi,
bổ sung hoàn thiện Pháp lệnh Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm
miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) và các văn bản quy phạm pháp luật về hình
sự, dân sự, lao động… trực tiếp liên quan đến vấn đề HIV/AIDS. Thường xuyên tiến
hành rà soát, hệ thống hoá để kịp thời sửa đổi hoặc bãi bỏ những quy định, văn
bản pháp luật không còn phù hợp; bổ sung hoặc ban hành văn bản mới để quy định
những vấn đề về HIV/AIDS còn thiếu hoặc không còn phù hợp chưa được pháp luật điều
chỉnh. Tiếp tục khẩn trương xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng,
chống HIV/AIDS ở Việt Nam; xúc tiến việc nghiên cứu, chuẩn bị xây dựng Luật về
phòng, chống HIV/AIDS.
Các quy định
pháp luật phải nhằm mục đích tạo điều kiện cho các đối tượng có nguy cơ bị nhiễm
HIV/AIDS được tiếp cận với các dịch vụ nhằm duy trì hay thay đổi hành vi dự
phòng lây nhiễm HIV/AIDS.
Bảo đảm các
quy định pháp luật hiện hành có liên quan đến lây nhiễm HIV/AIDS cần được xem
xét trên quan điểm chống kỳ thị phân biệt đối xử, tạo lập sự bình đẳng cho những
người có nguy cơ bị lây nhiễm HIV và những người nhiễm HIV/AIDS.
Tăng cường việc
giáo dục, phổ biến pháp luật về phòng, chống HIV/AIDS.
Tăng cường việc
thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện và xử lý nghiêm minh các hành vi
vi phạm pháp luật về phòng, chống HIV/AIDS.
b) Từng bước
hoàn thiện các chế độ, chính sách trong công tác phòng, chống HIV/AIDS:
Ban hành các
chế độ, chính sách phù hợp cho đội ngũ cán bộ công tác trong lĩnh vực phòng, chống
HIV/AIDS, người nhiễm HIV/AIDS và các đối tượng bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS.
Bảo đảm các
chính sách bình đẳng về giới, các chính sách đặc thù cho từng nhóm đối tượng, đặc
biệt là trẻ em bị ảnh hưởng hoặc bị nhiễm HIV/AIDS.
Tăng cường
năng lực của các ngành trong việc phát triển các chính sách và kế hoạch dựa
trên các vai trò và thế mạnh của từng ngành.
4. Thông tin, giáo dục và truyền thông thay đổi hành vi
a) Tiếp tục
triển khai mạnh mẽ và đồng bộ các hoạt động thông tin, giáo dục và truyền thông
thay đổi hành vi:
Tận dụng và
phối hợp các kênh truyền thông, các loại hình truyền thông hiện có để chuyển tải
các kiến thức về phòng, chống HIV/AIDS cho người dân, đặc biệt những nhóm đối
tượng có nguy cơ cao.
Phân công cụ
thể trách nhiệm thực hiện công tác thông tin, giáo dục và truyền thông thay đổi
hành vi (TTGD-TTTĐHV) cho từng Bộ, ngành. Các Bộ, ngành, đoàn thể có trách nhiệm
lập kế hoạch và triển khai các hoạt động thông tin, giáo dục và truyền thông
cho các nhóm đối tượng đặc thù của ngành mình.
Uỷ ban nhân
dân các cấp tăng cường chỉ đạo, triển khai các hoạt động thông tin, giáo dục và
truyền thông thay đổi hành vi, chú ý tập trung cho các khu vực nông thôn, vùng
sâu, vùng xa, các vùng bị ảnh hưởng nặng nề của dịch.
Tổ chức các
chiến dịch truyền thông với quy mô lớn trên toàn quốc ít nhất mỗi năm hai lần,
đưa giáo dục truyền thông dự phòng lây nhiễm HIV/AIDS vào các ngày lễ, các sự
kiện lớn về chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội hàng năm của đất nước.
b) Xây dựng
và phát triển các kỹ năng cá nhân trong dự phòng và chăm sóc HIV/AIDS:
Sử dụng cách
tiếp cận phù hợp với từng đối tượng cụ thể để tuyên truyền, vận động, chú trọng
hình thức truyền thông trực tiếp, truyền thông theo nhóm nhỏ, giáo dục đồng đẳng.
Xây dựng đội
ngũ tuyên truyền viên gắn liền với đội ngũ cộng tác viên y tế thôn bản và cán bộ
các ban, ngành, đoàn thể ở cấp cơ sở xã, phường.
Triển khai và
nâng cao chất lượng, hiệu quả chương trình đào tạo về dự phòng lây nhiễm HIV,
giáo dục giới tính, giáo dục sức khoẻ sinh sản và kỹ năng sống tại các trường đại
học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, giáo dục dạy nghề và phổ thông. Nâng
cao thời lượng giảng dạy về công tác phòng, chống HIV/AIDS cho hệ thống trường
y, tổ chức tập huấn, đào tạo cho cán bộ giảng dạy về HIV/AIDS.
c) Tăng cường
hoạt động thông tin, giáo dục và truyền thông thay đổi hành vi (TTGD-TTTĐHV) của
các nhóm cộng đồng:
Các nhóm cộng
đồng cần được hỗ trợ và nâng cao năng lực trong việc xác định ưu tiên và đưa ra
các quyết định về chiến lược, kế hoạch và thực hiện các kế hoạch dự phòng và
chăm sóc HIV/AIDS dựa trên chính nguồn lực của mỗi nhóm cộng đồng. Các nhóm cộng
động cần được hiểu trên nghĩa rộng, bao gồm các nhóm cộng đồng có nguy cơ nhiễm
HIV/AIDS (ma tuý, mại dâm, người nhiễm HIV/AIDS, thanh niên, phụ nữ...), nhóm cộng
đồng tổ chức thực hiện các biện pháp phòng, chống HIV/AIDS (Chính quyền, y tế,
giáo dục...), các nhà hoạch định chính sách và các cơ quan thi hành pháp luật...
Hỗ trợ lãnh đạo
các nhóm cộng đồng trong việc đánh giá nguy cơ nhiễm HIV/AIDS, tác động của đại
dịch tới kinh tế - xã hội, hoạch định chính sách, lập kế hoạch và tổ chức thực
hiện các hoạt động dự phòng và chăm sóc HIV/AIDS, đáp ứng với đại dịch của cộng
đồng mình.
Huy động các
nguồn lực của chính các nhóm cộng động và sự hỗ trợ của Chính quyền, của các tổ
chức quốc tế, các tổ chức nhân đạo, từ thiện, các doanh nghiệp cho việc thực hiện
các biện pháp TTGD-TTTĐHV.
d) Nâng cao số
lượng, chất lượng các tài liệu và thông điệp truyền thông:
Hỗ trợ chuyên
môn, kỹ thuật cho các ban, ngành liên quan trong việc biên tập mới, sửa đổi, bổ
sung, cập nhật thông tin, kiến thức mới về phòng, chống HIV/AIDS.
Các tài liệu
và thông điệp truyền thông cần tập trung vào những nội dung mang tính hướng dẫn,
định hướng thay đổi hành vi và các biện pháp thực hiện hành vi an toàn phòng,
chống HIV/AIDS, phù hợp với từng đối tượng.
Đa dạng hoá
các loại hình truyền thông: bản tin, phim tài liệu - khoa học, phim khoa giáo,
xây dựng hệ thống panô, áp phích… xuất bản các ấn phẩm bằng các thứ tiếng, ngôn
ngữ để tuyên truyền giáo dục cho đồng bào dân tộc ít người, dân tộc thiểu số và
người khuyết tật.
Các Bộ, ngành
chỉ đạo các cấp theo ngành dọc chủ động lập kế hoạch đầu tư kinh phí cho việc sản
xuất các tài liệu truyền thông phục vụ hoạt động thông tin, giáo dục và truyền
thông thay đổi hành vi của ngành mình phụ trách.
đ) Các giải
pháp thông tin, giáo dục và truyền thông thay đổi hành vi (TTGD-TTTĐHV) cho
thanh niên và các vấn đề liên quan đến giới:
Phát triển chương
trình đào tạo kỹ năng sống dự phòng lây nhiễm HIV/AIDS cho các trường học của hệ
thống giáo dục và dạy nghề.
Thiết lập các
dịch vụ thu hút giới trẻ để quản lý có hiệu quả các nhiễm khuẩn lây truyền qua
đường tình dục, các hoạt động tư vấn và chăm sóc sức khoẻ sinh sản. Liên kết
các hoạt động TTGD-TTTĐHV với các dịch vụ thu hút giới trẻ.
Phát triển
các biện pháp can thiệp có định hướng để đưa vào hoạt động giáo dục kỹ năng sống,
tiếp cận các dịch vụ, hỗ trợ và chăm sóc về mặt xã hội cho nhóm thanh niên đặc
biệt dễ bị tổn thương như trẻ em đường phố, thanh niên lao động, thanh niên bỏ
học, thanh niên tàn tật, thanh niên dân tộc thiểu số và các nhóm khác.
Mở rộng các
cơ hội cho thanh niên tham gia và đóng góp ý kiến vào việc phát triển và thiết
kế tất cả các hoạt động của thanh niên liên quan đến HIV/AIDS.
Nâng cao nhận
thức về giới và cải thiện các kỹ năng phân tích giới cho các nhà hoạch định
chính sách, các nhà quản lý và triển khai chương trình, thúc đẩy bình đẳng giới
trong các chương trình chăm sóc và phòng, chống HIV/AIDS.
Tăng cường
năng lực vận động ủng hộ cho các nhà hoạch định chính sách, các nhà nghiên cứu
và các tổ chức cộng đồng để bảo đảm vấn đề giới được đề cập đến trong quá trình
thiết kế và triển khai các chính sách và chương trình phòng, chống HIV/AIDS.
Tiến hành các
nghiên cứu xã hội để hiểu biết rõ hơn về tác động của giới đối với phòng, chống
và chăm sóc HIV/AIDS, đặc biệt là tác động của vai trò và giá trị giới đối với
các hành vi, quan hệ tình dục, tính dễ tổn thương đối với HIV (các hành vi tình
dục và tiêm chích ma tuý) và những người sống chung với HIV/AIDS.
5. Can thiệp giảm tác hại dự phòng lây nhiễm HIV/AIDS
a) Tạo dựng
hành lang pháp lý cho việc triển khai đồng bộ các hoạt động can thiệp, giảm tác
hại dự phòng lây nhiễm HIV/AIDS:
Đảm bảo sự đồng
thuận của các cấp, các ngành trong việc triển khai các hoạt động can thiệp giảm
tác hại dự phòng lây nhiễm HIV/AIDS.
Sửa đổi và bổ
sung các văn bản quy phạm pháp luật liên quan tới hoạt động can thiệp giảm tác
hại dự phòng lây nhiễm HIV/AIDS nhằm đảm bảo sự thống nhất trong chỉ đạo và triển
khai.
Xây dựng và
phổ biến các hướng dẫn triển khai hoạt động can thiệp, giảm tác hại dự phòng
lây nhiễm HIV/AIDS.
b) Tăng cường
tuyên truyền về chương trình can thiệp, giảm thiểu tác hại nhằm tạo môi trường
thuận lợi cho các biện pháp can thiệp:
Phối hợp với
các ban, ngành, đẩy mạnh công tác thông tin, giáo dục, truyền thông dự phòng
lây nhiễm HIV/AIDS với các hoạt động truyền thông khác.
Tổ chức các
chiến dịch truyền thông quảng bá về chương trình can thiệp giảm thiểu tác hại để
từng bước thay đổi nhận thức của người dân về chương trình giảm thiểu tác hại
và ủng hộ cho các hoạt động của chương trình này.
Tăng cường
trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm về các chương trình can thiệp, giảm tác hại trong
nước và ngoài nước.
c) Mở rộng
các hoạt động can thiệp giảm tác hại:
Triển khai chương
trình can thiệp giảm thiểu tác hại một cách đồng bộ bao gồm chương trình trao đổi
bơm kim tiêm sạch và chương trình 100% bao cao su đối với các địa bàn có nhiều
người nghiện chích ma túy, mại dâm và tỷ lệ nhiễm HIV/AIDS cao. Các biện pháp
triển khai phải phù hợp với tình hình thực tế và có các biện pháp hạn chế tối
đa mặt trái nảy sinh.
Tập trung các
can thiệp vào nhóm dễ bị nhiễm HIV, nhóm có hành vi nguy cơ cao trong đó chú trọng
nhóm tiêm chích ma túy, gái mại dâm, nhóm dân di biến động và thanh, thiếu
niên.
Tuyên truyền,
hướng dẫn, vận động việc sử dụng bơm kim tiêm sạch trong tiêm chích đối với người
lạm dụng ma tuý, sử dụng bao cao su đúng cách trong quan hệ tình dục đối với
người mại dâm và người có hành vi nguy cơ nhiễm HIV.
Đầu tư kinh
phí mua bơm kim tiêm phục vụ chương trình giảm thiểu tác hại. Đảm bảo việc cung
ứng và bán rộng rãi bao cao su và bơm kim tiêm sạch. Nghiên cứu, tiếp cận kinh
nghiệm quốc tế để xây dựng và áp dụng các mô hình phù hợp để triển khai chương
trình bơm kim tiêm sạch ở Việt Nam.
Xây dựng và
phát triển hướng dẫn quốc gia về chương trình giảm thiểu tác hại. Nhân rộng mô
hình giáo dục đồng đẳng, hỗ trợ việc thành lập các nhóm đồng đẳng trong dự
phòng lây nhiễm HIV/AIDS.
Đẩy mạnh các
hoạt động tiếp thị xã hội bao cao su, đảm bảo tính sẵn có, tính dễ tiếp cận,
tính phù hợp của bao cao su. Xây dựng các chế độ, chính sách tạo điều kiện thuận
lợi cho việc tiếp thị xã hội bao cao su.
6. Giải pháp về chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS và giảm
tác động đến kinh tế - xã hội do HIV/AIDS gây ra
a) Phát triển
hệ thống chăm sóc, hỗ trợ toàn diện:
Thiết lập hệ
thống chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV trên nền tảng của hệ thống y tế với sự
phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, ban, ngành, địa phương. Xác định gia đình, cộng
đồng là yếu tố cơ bản trong chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS.
Ngành y tế
làm nòng cốt, phối hợp với các ban, ngành và huy động hỗ trợ của chính quyền
các cấp để thực hiện tốt công tác chăm sóc, điều trị, tư vấn cho người nhiễm
HIV/AIDS tại cộng đồng. Đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS và
gia đình họ để người nhiễm HIV/AIDS ổn định cuộc sống, hoà nhập và được chăm
sóc tại gia đình và cộng đồng.
Xác định tuyến
huyện là trung tâm của công tác chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS. Tại mỗi
quận/huyện thành lập một phòng hay còn gọi là đơn vị chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm
HIV/AIDS do Trung tâm y tế quận/huyện là cơ quan thường trực cùng với việc huy
động sự tham gia của các ban, ngành, đoàn thể của địa phương.
Khuyến khích
việc hình thành các trung tâm chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm dựa vào cộng đồng.
Khuyến khích các tổ chức tôn giáo, từ thiện, các tổ chức nhân đạo hình thành
các khu chăm sóc bệnh nhân AIDS cuối đời, bệnh nhân AIDS không nơi nương tựa.
Có các chính
sách động viên khuyến khích lĩnh vực tư nhân trong chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm
HIV/AIDS. Khuyến khích việc áp dụng những hình thức chữa bệnh bằng y học dân tộc.
b) Tăng cường
khả năng tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc, hỗ trợ cho người nhiễm HIV/AIDS:
Tăng cường phối
hợp liên ngành để đảm bảo tính sẵn có của các dịch vụ tư vấn, xét nghiệm và các
dịch vụ chăm sóc, hỗ trợ để người nhiễm HIV được tiếp cận dễ dàng. Tạo điều kiện
để những người nhiễm HIV hoặc ma túy, mại dâm trong các trung tâm giáo dục xã hội,
trại giam được tiếp cận với các dịch vụ y tế.
Tổ chức tập
huấn về chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS cho cán bộ y tế, cán bộ tham gia
công tác phòng, chống HIV/AIDS. Tập huấn chống phân biệt đối xử, đảm bảo tính
bí mật, riêng tư và cung cấp các dịch vụ có chất lượng.
Có chính sách
khuyến khích người nhiễm HIV được tham gia bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội tự
nguyện.
Tăng cường khả
năng tiếp cận với các thuốc đặc hiệu kháng vi rút HIV cho người nhiễm HIV/AIDS.
c) Phát huy
tính chủ động tham gia của người nhiễm HIV/AIDS và chống phân biệt đối xử:
Giáo dục,
truyền thông, tư vấn tập trung cho nhóm người nhiễm HIV nhằm nâng cao nhận thức,
trách nhiệm của người nhiễm HIV đối với bản thân, gia đình và cộng đồng để ngăn
ngừa lây nhiễm HIV/AIDS.
Khuyến khích
việc thành lập các câu lạc bộ người nhiễm HIV/AIDS, các nhóm tự chăm sóc, hỗ trợ
lẫn nhau của người nhiễm. Chương trình AIDS có các chính sách để hỗ trợ, động
viên người nhiễm tham gia các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS.
Có các chính
sách hỗ trợ cho gia đình bao gồm cả chính sách y tế và xã hội khi tiến hành
chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS.
Đảm bảo các
quy định về mặt luật pháp không có các điều khoản phân biệt đối xử đối với người
nhiễm HIV/AIDS. Đảm bảo quyền bình đẳng của người nhiễm HIV/AIDS.
B. Nhóm giải pháp chuyên môn kỹ thuật.
Tạo ra bước
chuyển biến căn bản, toàn diện và đồng bộ trên tất cả các mặt hoạt động phòng,
chống HIV/AIDS về kỹ thuật. Bảo đảm thực hiện tốt giám sát trọng điểm, giám sát
hành vi và xét nghiệm phát hiện; an toàn truyền máu và chế phẩm máu; an toàn
trong các dịch vụ y tế và các dịch vụ xã hội có liên quan đến máu; điều trị và
chăm sóc HIV/AIDS...
1. Giám sát HIV/AIDS và tư vấn xét nghiệm tự nguyện
a) Tăng cường
hệ thống giám sát quốc gia về HIV/AIDS:
Xây dựng,
hoàn thiện các chính sách, quy định, hướng dẫn về hệ thống giám sát quốc gia.
Xây dựng các
phòng xét nghiệm đạt tiêu chuẩn khu vực và quốc tế tại các viện, bệnh viện
Trung ương thông qua việc cung cấp các trang thiết bị, nâng cấp cơ sở vật chất,
đào tạo con người, tiến hành kiểm tra, giám sát và chuẩn hoá thường xuyên.
Xây dựng các
phòng xét nghiệm chuẩn quốc gia tại 64 tỉnh, thành phố, từng bước triển khai hệ
thống giám sát ra các quận, huyện.
Mở rộng và
nâng cao chất lượng giám sát thế hệ 2 (bao gồm giám sát huyết thanh học HIV,
giám sát hành vi, giám sát các nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục). Triển
khai chương trình giám sát thế hệ 2: ở 07 tỉnh vào năm 2007 và 10 tỉnh năm
2010.
Bảo đảm 100%
cán bộ y tế tham gia chương trình giám sát trọng điểm và xét nghiệm phát hiện
được huấn luyện về kỹ thuật và phương pháp xét nghiệm một cách hệ thống.
b) Giám
sát huyết thanh học HIV/AIDS:
Mở rộng và
nâng cao chất lượng xét nghiệm phát hiện, chỉ được xét nghiệm khi đối tượng đã
được tư vấn đầy đủ; bảo đảm thực hiện kỹ thuật theo phương cách III cho xét
nghiệm phát hiện; từng bước xã hội hoá công tác xét nghiệm phát hiện bằng cách
thu một phần tiền chi phí khi xét nghiệm HIV.
Việc xét nghiệm
bắt buộc HIV cho các đối tượng phải theo quy định của pháp luật. Cấm sử dụng kết
quả xét nghiệm như một điều kiện để tuyển dụng lao động hay cho bất kỳ tình huống
nào khác.
Việc đưa tên
tuổi công khai người nhiễm HIV thực hiện theo đúng các quy định của pháp luật.
Tiếp tục duy
trì và nâng cao chất lượng các hoạt động giám sát trọng điểm, mở rộng giám sát
ra vùng nông thôn. Thống nhất và đảm bảo thực hiện công tác giám sát theo các
quy định chuyên môn: đối với giám sát trọng điểm đảm bảo đúng quy trình lấy mẫu,
cách chọn mẫu, phương pháp, phương cách xét nghiệm, phân tích số liệu và báo
cáo kết quả.
c) Giám
sát hành vi:
Mở rộng và
tăng cường chất lượng giám sát hành vi, xác định giám sát hành vi là yếu tố cảnh
báo sớm về xu hướng phát triển của dịch.
Thống nhất về
địa bàn, phương pháp và việc tổ chức thực hiện giám sát hành vi.
Lồng ghép chặt
chẽ giữa giám sát hành vi, giám sát huyết thanh học và giám sát các nhiễm khuẩn
lây truyền qua đường tình dục.
d) Tăng
cường việc sử dụng các dữ liệu giám sát cho hoạch định chính sách và chương
trình:
Phát triển và
thực hiện kế hoạch sử dụng dữ liệu giám sát cho các mục đích như hoạch định
chính sách, vận động sự ủng hộ, lập kế hoạch, giám sát và đánh giá chương
trình.
ứng dụng tiến
bộ của khoa học công nghệ bằng nối mạng nội địa và quốc tế, tăng cường trao đổi
thông tin giữa các tỉnh, các khu vực, trong toàn quốc và trên thế giới. Tăng cường
tham khảo kinh nghiệm các nước trong khu vực và trên thế giới về hệ thống quản
lý, báo cáo số liệu.
Cung cấp các
thông tin, số liệu về kết quả giám sát HIV/AIDS/STI lên các trang web về HIV/AIDS
của Việt Nam.
đ) Tư vấn,
xét nghiệm tự nguyện HIV:
Tổ chức triển
khai chương trình tư vấn, xét nghiệm tự nguyện tại 40 tỉnh vào năm 2005 và tất
cả các tỉnh vào năm 2010.
Lồng ghép dịch
vụ tư vấn vào các chương trình y tế, các chương trình kế hoạch hoá gia đình,
chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ bà mẹ, trẻ em và chăm sóc sức khoẻ ban đầu.
Đảm bảo việc
xét nghiệm được thực hiện theo phương pháp dấu tên, vô danh, giữ bí mật cho người
xét nghiệm.
Triển khai chương
trình tư vấn, xét nghiệm tự nguyện xuống tuyến huyện, đảm bảo 50% số huyện được
triển khai chương trình này vào năm 2010.
Xây dựng mạng
lưới xét nghiệm tự nguyện và hệ thống chuyển tuyến, gắn kết với các mạng lưới về
chăm sóc sức khoẻ, hỗ trợ xã hội. Huy động hệ thống tư nhân tham gia vào công
tác tư vấn, hỗ trợ.
Đào tạo cán bộ
về tư vấn xét nghiệm, tự nguyện, huy động sự tham gia đa ngành vào công tác
này.
2. Bảo đảm an toàn truyền máu
a) Thực hiện
việc chỉ đạo, kiểm tra, thanh tra về công tác an toàn truyền máu phòng lây nhiễm
HIV. Thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật trong an toàn truyền máu;
xây dựng, bổ sung các văn bản pháp quy về an toàn truyền máu.
b) Phối hợp với
Hội Chữ thập đỏ, Đoàn Thanh niên và các ban, ngành khác, đặc biệt với các tổ chức
Đảng, Chính quyền các cấp, tập trung nỗ lực, tổ chức tuyên truyền vận động những
người khoẻ mạnh không có yếu tố nguy cơ lây nhiễm HIV tình nguyện cho máu và
duy trì nguồn người cho máu an toàn. Đây vừa là việc làm nhân đạo vừa là nghĩa
vụ của mỗi người đối với cộng đồng.
c) Nâng cao
chất lượng sàng lọc HIV các đơn vị máu và chế phẩm máu trước khi truyền, cung cấp
đủ và kịp thời sinh phẩm có chất lượng tốt cho công tác sàng lọc máu, bảo đảm
sàng lọc HIV 100% các đơn vị máu và chế phẩm máu trước khi truyền. Từng bước xã
hội hoá công tác an toàn trong truyền máu thông qua việc tính đủ giá thành đơn
vị máu và chế phẩm máu.
d) Khuyến
khích phát triển việc ứng dụng các kỹ thuật hiện đại và chỉ định truyền máu phù
hợp như: truyền máu từng phần, truyền máu tự thân, lọc bạch cầu...nhằm làm giảm
nguy cơ lây nhiễm HIV do truyền máu.
đ) Thực hiện
đúng quy định của Điều lệnh an toàn truyền máu, chỉ định truyền máu đúng, hạn
chế truyền máu toàn phần và truyền máu điều trị dự phòng thiếu máu.
e) Xây dựng
các ngân hàng máu theo hướng tập trung (ngân hàng máu khu vực) bằng các nguồn
viện trợ và kinh phí trong nước, từng bước hiện đại hoá hệ thống an toàn trong
truyền máu.
g) Triệt để
thực hiện các thường quy, quy định về công tác vô trùng, tiệt trùng trong các dịch
vụ y tế nhà nước và tư nhân. Huy động các nguồn lực, xây dựng các khu tiệt
trùng, xử lý dụng cụ đạt tiêu chuẩn.
h) Trang bị
kiến thức, nâng cao kỹ năng cho cán bộ ngành huyết học nói riêng và ngành y tế
nói chung về HIV và an toàn truyền máu.
i) Xây dựng
phòng xét nghiệm chuẩn thức quốc gia để kiểm tra chất lượng an toàn truyền máu
bao gồm kiểm tra sinh phẩm, kiểm tra quy trình xét nghiệm, trang thiết bị...
3. Phòng lây nhiễm HIV/AIDS qua các dịch vụ y tế và các dịch
vụ xã hội
a) Xây dựng,
sửa đổi, bổ sung các quy định, các hướng dẫn về dự phòng lây nhiễm HIV/AIDS qua
các dịch vụ y tế và các dịch vụ xã hội.
b) Đẩy mạnh
công tác tuyên truyền cho nhân dân về cách dự phòng lây nhiễm HIV qua dịch vụ y
tế và dịch vụ xã hội. Bảo đảm người dân có quyền yêu cầu được cung cấp các dịch
vụ vô trùng, yêu cầu các nhân viên y tế về tiệt trùng dụng cụ y tế.
c) Cung cấp
các trang thiết bị vô trùng, tiệt trùng cho các cơ sở y tế đặc biệt là y tế quận,
huyện, xã, phường, thị trấn. Bảo đảm các cơ sở y tế có đầy đủ các trang, thiết
bị tối thiểu phục vụ công tác vô trùng trong các dịch vụ y tế.
d) Hướng dẫn
và quản lý công tác dự phòng lây nhiễm HIV qua các dịch vụ y tế tại tất cả các
cơ sở y tế tư nhân. Đảm bảo các cơ sở y tế tư nhân phải có đầy đủ trang thiết bị
vô trùng và các vật tư tiêu hao phục vụ công tác vô trùng trong các bệnh viện.
Cán bộ y tế công tác tại các cơ sở y tế tư nhân phải có đủ hiểu biết, kiến thức
về phòng lây nhiễm HIV qua các dịch vụ y tế.
4. Đẩy mạnh công tác điều trị bệnh nhân HIV/AIDS
Tạo điều kiện
cho người nhiễm HIV/AIDS ở Việt Nam được tiếp cận với thuốc điều trị đặc hiệu
kháng vi rút HIV (Anti Retro virut - ARV) góp phần làm giảm ảnh hưởng kinh tế -
xã hội do HIV/AIDS gây ra:
Tăng số lượng
bệnh nhân AIDS được tiếp cận với thuốc điều trị HIV/AIDS mỗi năm và đến năm
2010 có khoảng 70% bệnh nhân AIDS được tiếp cận với thuốc điều trị ARV; cam kết
tham gia sáng kiến 3 x 5 (3 triệu người được điều trị năm 2005) của Tổ chức Y tế
thế giới và các sáng kiến khác trong vấn đề điều trị.
Tăng cường
năng lực chẩn đoán và điều trị bệnh nhân AIDS ở Việt Nam, đến năm 2010 có ít nhất
50% các cơ sở điều trị AIDS được cung cấp đủ các phương tiện chẩn đoán, điều trị
hiện đại;
Tăng cường
năng lực cán bộ y tế làm công tác điều trị AIDS;
Tăng cường
năng lực sản xuất thuốc ARV, đến năm 2005 có khả năng sản xuất và cung ứng theo
nhu cầu đủ 3 nhóm thuốc ARV.
a) Tăng cường
sự sẵn có và khả năng tiếp cận với các thuốc ARV:
Đàm phán giảm
giá thuốc:
Thiết lập các
diễn đàn đàm phán giảm giá thuốc trong nước: tập hợp các tổ chức trong nước và
quốc tế, các công ty dược phẩm đang sản xuất thuốc ARV, các cá nhân bị ảnh hưởng
bởi HIV/AIDS để cùng trao đổi, chia sẻ các thông tin và tìm ra các giải pháp
cho việc giảm giá thuốc ARV ở Việt Nam;
Tham gia các
diễn đàn đàm phán giảm giá thuốc của quốc tế và khu vực;
Xây dựng cơ
chế, chính sách phù hợp cho việc đàm phán, giảm giá thuốc, hình thành các cơ chế,
chính sách phù hợp cho việc tiếp cận thuốc.
Cho phép sản
xuất thuốc trong nước để tăng cường tiếp cận thuốc ARV:
Chính phủ xem
xét việc cho phép các công ty dược phẩm Việt Nam sản xuất thuốc trong nước.
Khuyến khích các công ty dược phẩm giữ bản quyền nhượng lại bản quyền sản xuất
cho các công ty dược phẩm trong nước hay các hình thức công ty liên doanh hay
các công ty chi nhánh ở Việt Nam sản xuất thuốc ARV;
Đầu tư nâng
cao năng lực và chất lượng sản phẩm của các công ty dược phẩm. Các công ty dược
phẩm trong nước tự đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm. Hiệp hội các nhà sản xuất
và kinh doanh dược làm nhiệm vụ cầu nối để các công ty dược phẩm tham gia quá
trình đánh giá của WHO và các tiêu chuẩn khác để bảo đảm các thuốc cung cấp đạt
chất lượng;
Chính phủ đầu
tư một khoản ngân sách dành riêng cho chương trình tiếp cận thuốc để tạo sự ổn
định trong việc mua thuốc dành cho điều trị bệnh nhân AIDS;
Tăng cường việc
quản lý và phân phối thuốc ARV theo các hướng dẫn để tránh tình trạng sử dụng
không đúng liều, không đúng phác đồ dẫn đến tình trạng kháng thuốc.
b) Tăng cường
hệ thống điều trị bệnh nhân HIV/AIDS:
Củng cố 03
Trung tâm quốc gia về điều trị AIDS, tăng cường đầu tư về cơ sở vật chất, tăng
số giường bệnh, cung cấp các trang thiết bị phục vụ chẩn đoán và điều trị bệnh
nhân AIDS kể cả các trang thiết bị kỹ thuật cao.
Thiết lập hệ
thống giám sát và theo dõi kháng thuốc, tăng cường đầu tư cho tiến hành các
nghiên cứu thử nghiệm, đánh giá tương đương sinh học để tìm kiếm phác đồ điều
trị thích hợp cũng như các thuốc có chất lượng cho bệnh nhân AIDS ở Việt Nam. Sửa
đổi, ban hành các phác đồ điều trị ARV thích hợp; các tiêu chuẩn lựa chọn điều
trị và các ưu tiên trong điều trị.
Thiết lập các
khu điều trị vệ tinh tại các bệnh viện khu vực. Phấn đấu đến năm 2005 mỗi bệnh
viện vệ tinh cũng có từ 20 - 30 giường dành cho điều trị bệnh nhân AIDS và đến
năm 2007 đạt chỉ tiêu ngang bằng với các trung tâm điều trị quốc gia.
Tăng cường đầu
tư cho khoa Truyền nhiễm các bệnh viện đa khoa tuyến tỉnh, đảm bảo các phương
tiện và số giường bệnh tối thiểu để tiếp nhận và điều trị bệnh nhân AIDS. Đến
năm 2007, mỗi khoa Truyền nhiễm bệnh viện đa khoa dành ít nhất 10 giường để tiếp
nhận và điều trị bệnh nhân AIDS. Bảo đảm tất cả các bệnh viện đa khoa tỉnh đều
sẵn có thuốc ARV trong danh mục thuốc thiết yếu của bệnh viện.
Nâng cao năng
lực chẩn đoán, phấn đấu đến năm 2005 có ít nhất 10 đơn vị điều trị có máy đếm tế
bào CD4-CD8, 03 đơn vị có máy đo số lượng vi rút trong máu và đến năm 2010 có
ít nhất 20 đơn vị có máy đếm tế bào CD4-CD8 và 10 đơn vị có khả năng đo số lượng
vi rút trong máu.
Tăng cường đầu
tư cho tuyến huyện, đảm bảo các Trung tâm y tế huyện có khả năng chẩn đoán và điều
trị các bệnh nhiễm trùng cơ hội thông thường và tiến tới mở rộng việc tiếp cận
thuốc ARV tại bệnh viện tuyến huyện.
Lập kế hoạch,
tập trung đào tạo nhân lực, trước mắt tập trung cho tuyến trung ương và các bệnh
viện vệ tinh. Tổ chức các khoá đào tạo giảng viên tuyến tỉnh trên cơ sở đó tiến
hành đào tạo cho đội ngũ cán bộ làm công tác điều trị AIDS tại tuyến huyện.
Tổ chức các
buổi sinh hoạt khoa học, hội nghị, hội thảo quốc gia và quốc tế về lĩnh vực điều
trị AIDS ở Việt Nam.
Liên kết với
các trường đại học, các bệnh viện điều trị AIDS của các nước trong khu vực và
trên thế giới nhằm mục đích chia sẻ, trao đổi kinh nghiệm trong lĩnh vực điều
trị.
Tăng cường
các hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tiếp cận thuốc ARV. Tham quan, học
tập, trao đổi kinh nghiệm, cập nhật những thông tin mới về lĩnh vực dự phòng,
chăm sóc và hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS của các nước trên thế giới.
c) Tiếp
cận thuốc nhiễm trùng cơ hội:
Đưa danh mục
các thuốc điều trị nhiễm trùng cơ hội vào danh mục thuốc thiết yếu của các bệnh
viện, các cơ sở y tế kể cả trạm y tế xã, phường để người nhiễm HIV/AIDS có thể
tiếp cận dễ dàng với các thuốc điều trị nhiễm trùng cơ hội. Bộ Y tế chịu trách
nhiệm quy định chi tiết danh mục các loại thuốc điều trị nhiễm trùng cơ hội cho
bệnh nhân AIDS ở Việt Nam.
Xây dựng, ban
hành các hướng dẫn về chẩn đoán, điều trị các nhiễm trùng cơ hội cho bệnh nhân
HIV/AIDS tại các cơ sở y tế và tại cộng đồng. Triển khai tốt các chương trình
chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV dựa vào gia đình, cộng đồng.
Chương trình
phòng, chống HIV/AIDS quốc gia dành một phần ngân sách mua thuốc điều trị nhiễm
trùng cơ hội để cung cấp cho các cơ sở y tế. Nhà nước có chế độ hỗ trợ thuốc điều
trị nhiễm trùng cơ hội cho bệnh nhân HIV/AIDS.
Tăng cường khả
năng lồng ghép, phối hợp chương trình giữa chương trình phòng, chống lao và HIV/AIDS.
Từng bước đầu tư cho hệ thống phòng, chống lao có đủ năng lực, trang thiết bị,
trình độ để điều trị kết hợp với điều trị HIV/AIDS.
d) Hoàn thiện
các chính sách trong lĩnh vực điều trị:
Xây dựng, sửa
đổi, bổ sung các chế độ, chính sách phù hợp theo các giai đoạn cho các cán bộ
phục vụ công tác điều trị HIV/AIDS.
Khuyến khích
sử dụng các thuốc đông y, các loại hình điều trị bằng y học cổ truyền trong điều
trị để tăng cường sức đề kháng và nâng cao thể trạng cho bệnh nhân HIV/AIDS.
Tăng cường quản
lý chất lượng thuốc, bảo đảm các thuốc điều trị cho bệnh nhân HIV/AIDS đạt chất
lượng theo tiêu chuẩn Việt Nam.
Tăng cường quản
lý hệ thống phân phối thuốc hợp lý, bảo đảm tính sẵn có của thuốc điều trị, có
các chính sách về trợ giá hoặc cấp không thuốc điều trị cho bệnh nhân HIV/AIDS.
Lựa chọn các ưu tiên cho điều trị, bảo đảm điều trị
100% các trường hợp bị nhiễm HIV do tai nạn rủi ro nghề nghiệp, các bà mẹ mang
thai bị nhiễm HIV, hàng năm tăng dần số lượng bệnh nhân HIV/AIDS được điều trị.
5. Dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con
a) Nâng cao
nhận thức của phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ về nguy cơ lây nhiễm HIV và khả năng
lây truyền HIV từ mẹ sang con:
Tăng cường
công tác thông tin, giáo dục truyền thông về dự phòng lây nhiễm HIV từ mẹ sang
con. Lồng ghép chặt chẽ chương trình truyền thông dự phòng lây truyền HIV từ mẹ
sang con với chương trình giáo dục sức khoẻ sinh sản và làm mẹ an toàn.
Tập trung
truyền thông cho nhóm phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ, chú trọng nhóm phụ nữ bị
thiệt thòi như gái mại dâm, phụ nữ nghèo ở nông thôn.
Đẩy mạnh hoạt
động truyền thông trong các trường trung học, cao đẳng, đại học, trung tâm
giáo dục - dạy nghề; tăng cường truyền thông tại cộng đồng thông qua hệ thống
tổ chức đoàn thể như Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên…; tăng cường truyền
thông tại các cơ quan, xí nghiệp, cơ sở sản xuất về chương trình dự phòng lây
truyền HIV từ mẹ sang con.
b) Tăng
cường năng lực cho hệ thống làm công tác dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang
con:
Thiết lập mạng
lưới tư vấn xét nghiệm HIV tại tất cả các tuyến. Huy động sự tham gia của các
ban, ngành đoàn thể như thanh niên, Hội Phụ nữ trong công tác tư vấn và hỗ trợ
xã hội cho các phụ nữ mang thai bị nhiễm HIV hoặc phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn.
Mở các khoá
đào tạo và đào tạo lại cho cán bộ thuộc mạng lưới ở tất cả các tuyến về lĩnh vực
dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con như tư vấn và xét nghiệm HIV tự nguyện;
chẩn đoán và điều trị các nhiễm khuẩn đường sinh dục bao gồm cả các bệnh lây
truyền qua đường tình dục; chăm sóc và điều trị cho trẻ em nhiễm HIV và phụ nữ
mang thai nhiễm HIV trước, trong và sau chuyển dạ.
Cung cấp
trang thiết bị cho các bệnh viện sản phụ khoa tuyến trung ương, tuyến tỉnh, huyện
để có khả năng chẩn đoán HIV.
Cung cấp đủ
thuốc từ tuyến trung ương tới tuyến huyện để điều trị dự phòng lây truyền HIV
khi thai phụ chuyển dạ.
Tư vấn và hỗ trợ
sữa thay thế cho trẻ sơ sinh có mẹ nhiễm HIV.
c) Tăng
cường các hoạt động dự phòng sớm để phòng tránh lây nhiễm HIV từ mẹ sang con:
Khuyến khích
hành vi tình dục an toàn, đặc biệt đối với phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ, vận động
dùng và tạo điều kiện dễ tiếp cận với bao cao su.
Khuyến khích
xét nghiệm HIV trước khi kết hôn, trước khi đẻ để được tư vấn. Cung cấp đầy
đủ các thông tin về lây truyền HIV/AIDS từ mẹ sang con và cách phòng tránh cho
các thai phụ.
Thực hiện quản
lý sớm thai nghén để phát hiện nguy cơ và điều trị sớm các thai phụ nhiễm HIV.
Phát hiện và điều
trị sớm các nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục cho phụ nữ ở lứa tuổi
sinh sản.
Điều trị dự
phòng lây nhiễm HIV từ mẹ sang con lúc chuyển dạ; áp dụng các biện pháp dự
phòng lây nhiễm trong cuộc đẻ.
d) Chăm sóc
trẻ bị nhiễm HIV và bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS:
Bảo đảm đủ
thuốc điều trị đặc hiệu và điều trị nhiễm trùng cơ hội cho các cháu bị nhiễm
HIV/AIDS.
Hình thành
trung tâm chăm sóc trẻ mồ côi bị nhiễm HIV không nơi nương tựa tại các tỉnh,
thành phố lớn. Bảo đảm đủ các điều kiện để chăm sóc và nuôi dưỡng các cháu bị bỏ
rơi do HIV/AIDS.
Đẩy mạnh công
tác giáo dục truyền thông, cung cấp kiến thức, kỹ năng sống cho trẻ em lang
thang, trẻ em đường phố (đặc biệt là trẻ em gái) làm giảm nguy cơ lây nhiễm HIV
cho nhóm này.
Huy động sự
tham gia mạnh mẽ của các ban, ngành, đoàn thể vào công tác chăm sóc, hỗ trợ trẻ
em nhiễm HIV và bị ảnh hưởng do HIV/AIDS.
6. Tăng cường công tác phòng, chống các nhiễm khuẩn lây
truyền qua đường tình dục (LTQĐTD - STI)
a) Xây dựng
và tăng cường năng lực mạng lưới quản lý, giám sát, chẩn đoán và điều trị các
nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục:
Xây dựng mạng
lưới giám sát các nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục ở các tỉnh, năm
2004 xây dựng ở 10 tỉnh/thành phố, năm 2005 mở rộng ra 20 tỉnh/thành phố và đến
năm 2010 thực hiện ở tất cả các tỉnh/thành phố trong cả nước. Lồng ghép chặt
chẽ giữa giám sát HIV/AIDS và giám sát các nhiễm khuẩn lây truyền qua đường
tình dục (LTQĐTD).
Xây dựng hệ
thống báo cáo ca bệnh và báo cáo qua mạng giúp cho việc ước tính dự báo HIV/AIDS/STI
và lập kế hoạch tại các tuyến.
Cung cấp
trang thiết bị xét nghiệm các nhiễm khuẩn LTQĐTD tuyến trung ương, khu vực, tỉnh
và huyện. Bảo đảm khả năng phát hiện và điều trị sớm các nhiễm khuẩn lây truyền
qua đường tình dục.
Mở các lớp
đào tạo và đào tạo lại về quản lý, giám sát, chẩn đoán và điều trị các nhiễm
khuẩn LTQĐTD cho cả hệ thống y tế nhà nước và y tế tư nhân.
Ban hành các
văn bản quy định cũng như có sự hỗ trợ, liên kết chặt chẽ giữa hệ thống y tế
nhà nước và y tế tư nhân trong hoạt động quản lý, giám sát, điều trị và báo
cáo các nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục.
b) Tăng cường
chẩn đoán và điều trị sớm các nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục:
Tăng cường
việc áp dụng phác đồ điều trị quốc gia về các nhiễm khuẩn LTQĐTD ở tuyến
CSSKBĐ, BVBMTE và cả khu vực y tế tư nhân.
Phối hợp chặt
chẽ giữa các hệ thống chuyên khoa y tế; giữa y tế tư nhân và y tế công nhằm phát hiện, tư vấn, điều trị sớm cho đối tượng
phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ và phụ nữ mang thai trong quá trình quản lý thai
nghén.
Tư vấn, khám và điều trị cho bạn tình của người mắc các nhiễm khuẩn lây truyền
qua đường tình dục.
Thành lập các
nhóm khám và điều trị các nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục lưu động tại
các địa bàn “điểm nóng” nhằm tăng cường khả năng tiếp cận đối với những đối tượng
có nguy cơ cao.
c) Tăng
cường các hoạt động dự phòng lây nhiễm các nhiễm khuẩn lây truyền qua đường
tình dục:
Triển khai
các biện pháp giáo dục sức khoẻ phòng các nhiễm khuẩn LTQĐTD, kết hợp chặt chẽ
với giáo dục sức khoẻ sinh sản, phấn đấu đến năm 2005 có 50% phụ nữ ở lứa tuổi
sinh sản được giáo dục phòng, chống các nhiễm khuẩn LTQĐTD.
Triển khai việc phân phát và tuyên truyền, hướng dẫn
sử dụng bao cao su ở tất cả các cơ sở khám, chữa bệnh da liễu thuộc y tế công;
tiến hành tiếp thị xã hội bao cao su ở các cơ sở y tế tư nhân. Từng bước tiến
hành quản lý việc điều trị bệnh nhân mắc các nhiễm khuẩn LTQĐTD tại các cơ sở y
tế tư nhân.
Triển khai
các can thiệp dự phòng các nhiễm khuẩn LTQĐTD tại cộng đồng góp phần hạn chế
lây nhiễm HIV trong cộng đồng.
7. Nghiên cứu khoa học và theo dõi đánh giá chương trình quốc
gia
a) Hình thành
hệ thống quản lý, tổng hợp, triển khai các nghiên cứu khoa học:
Xây dựng mạng
lưới và đội ngũ nghiên cứu khoa học về HIV/AIDS trên cơ sở tăng cường sự phối hợp
giữa các cơ quan khoa học và các tổ chức nghiên cứu có liên quan trong cả nước
dưới sự điều phối thống nhất của tổ chức phòng, chống HIV/AIDS.
Tổng hợp định
kỳ các nghiên cứu trong và ngoài nước nhằm mục đích cung cấp thông tin khoa học
cập nhật cho các nhà lãnh đạo và ứng dụng các thông tin này một cách thích hợp
cho chương trình phòng, chống HIV/AIDS trong nước.
Hỗ trợ các tổ
chức, cơ quan nghiên cứu khoa học triển khai các hoạt động nghiên cứu. Chương
trình phòng, chống HIV/AIDS đầu tư thích đáng một phần ngân sách cho các hoạt động
nghiên cứu.
Khuyến khích
các tổ chức, cá nhân, các thành phần kinh tế tham gia, đầu tư cho các nghiên cứu
phục vụ công tác phòng, chống HIV/AIDS theo các quy định hiện hành. Bảo đảm các
nghiên cứu về HIV/AIDS cần được xem xét và cân nhắc các khía cạnh liên quan đến
y đức trước khi phê duyệt, triển khai.
Tăng cường
các hoạt động chuyển giao, trao đổi kỹ thuật và đào tạo chuyên gia giữa các cơ
sở nghiên cứu trong và ngoài nước.
Định kỳ tổ chức
các hội nghị khoa học để trao đổi kinh nghiệm, công bố các kết quả nghiên cứu,
đưa các kết quả nghiên cứu vào thực tiễn công tác...
b) Các lĩnh vực
nghiên cứu:
Xác định các
vấn đề ưu tiên cần nghiên cứu theo hướng phát triển cả nghiên cứu cơ bản,
nghiên cứu chuyên sâu, nghiên cứu tác nghiệp, nghiên cứu đánh giá…
Tích cực đầu
tư chuẩn bị cơ sở vật chất và tăng cường năng lực cho các nghiên cứu cơ bản,
nghiên cứu chuyên sâu về HIV/AIDS như dịch tễ học phân tử HIV; diễn biến tự
nhiên của HIV/AIDS và hiệu quả của các thuốc điều trị, thử nghiệm vắc xin dự
phòng HIV...
Xây dựng các cơ sở nghiên cứu, các phòng thí nghiệm
quốc gia chuyên nghiên cứu về HIV/AIDS và tăng cường đầu tư cho nghiên cứu cơ bản.
Khuyến khích
việc đầu tư nghiên cứu, ứng dụng các bài thuốc đông y trong điều trị, nâng cao
thể trạng, kéo dài thời gian sống của người nhiễm HIV/AIDS.
Tổ chức việc
nghiên cứu các mối quan hệ tác động qua lại giữa HIV/AIDS và sự phát triển kinh
tế - xã hội ở nước ta.
c) Theo
dõi, đánh giá chương trình:
Phát triển hệ
thống theo dõi, đánh giá chương trình. Thành lập tại trung ương một bộ phận
chuyên về theo dõi, đánh giá chương trình, lưu trữ và tổng hợp các số liệu đánh
giá, hình thành các cơ sở dữ liệu cơ bản phục vụ cho các mục đích đánh giá dài
hạn. Mỗi địa phương có cán bộ chuyên trách về theo dõi, đánh giá chương trình.
Nâng cao năng
lực cán bộ làm công tác theo dõi, đánh giá chương trình ở tất cả các cấp.
Tiến hành các
đánh giá định kỳ sau 02 năm, sau 05 năm thực hiện chương trình.
Phối hợp với
các tổ chức đánh giá chuyên nghiệp của quốc tế cùng tham gia hoặc thực hiện các
đánh giá độc lập để có số liệu khách quan khi đánh giá chương trình.
Quan tâm, đầu
tư kinh phí, trang thiết bị cho hệ thống theo dõi đánh giá, ứng dụng các tiến bộ
của khoa học công nghệ, thông tin trong việc quản lý, triển khai theo dõi và
đánh giá chương trình.
Thúc đẩy quá
trình trao đổi, chia sẻ các thông tin về nghiên cứu, đánh giá một cách rộng
rãi. Có các quy định về việc triển khai các dự án đều phải dựa vào các chỉ số
cơ bản để triển khai thực hiện và đánh giá hiệu quả của dự án.
Các nhóm chỉ
số chính đánh giá chương trình:
Nhóm chỉ số về
tỷ lệ nhiễm HIV qua giám sát huyết thanh học trên các nhóm quần thể dân chúng;
Nhóm chỉ số về
chính sách bao gồm chỉ số nỗ lực chương trình HIV/AIDS và chỉ số chi tiêu cho chương
trình HIV/AIDS;
Nhóm chỉ số
đánh giá can thiệp bao gồm các chỉ số về dùng chung bơm kim tiêm và bao cao su;
Nhóm chỉ số về
chăm sóc và tư vấn hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS;
Nhóm chỉ số về
kiến thức, hành vi dự phòng lây nhiễm HIV/AIDS;
Nhóm chỉ số
tư vấn, xét nghiệm, tự nguyện;
Nhóm chỉ số dự
phòng lây truyền mẹ - con;
Nhóm chỉ số
chăm sóc, dự phòng các nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục;
Nhóm chỉ số về
ảnh hưởng kinh tế - xã hội của HIV/AIDS.
C. Nhóm giải pháp về nguồn lực và hợp tác quốc tế.
1. Giải pháp về tổ chức, nhân lực, đào tạo
a) Tăng cường
năng lực của hệ thống quản lý nhà nước trong phòng, chống HIV/AIDS:
Thống nhất hệ
thống tổ chức phòng, chống HIV/AIDS dưới sự chỉ đạo của Chính phủ. Phân công cụ
thể chức năng, nhiệm vụ của các bộ, ban, ngành là thành viên của ủy ban Quốc
gia phòng, chống AIDS và phòng, chống tệ nạn ma túy, mại dâm. Gắn kết công tác
phòng, chống HIV/AIDS với chức năng chỉ đạo, quản lý, điều hành của từng Bộ,
ngành thành viên.
Tăng cường đầu
tư nguồn lực cán bộ làm công tác phòng, chống HIV/AIDS. Tập trung tăng cường
năng lực cho đội ngũ cán bộ chuyên trách chịu trách nhiệm quản lý và triển khai
thực hiện chương trình, chú trọng đội ngũ cán bộ cơ sở.
Tiếp tục chấn
chỉnh việc triển khai thực hiện các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS tuân thủ
theo các quy định pháp luật. Tăng cường khả năng điều phối và thực hiện chương
trình cho các cán bộ quản lý chương trình HIV/AIDS.
Nâng cao năng
lực các cơ quan Chính phủ và các tổ chức phi Chính phủ, các tổ chức chính trị,
xã hội, lĩnh vực tư nhân trong phòng, chống HIV/AIDS. Xây dựng cơ chế thích hợp
tạo sự bình đẳng giữa nhà nước và tư nhân trong việc đầu tư, triển khai thực hiện
các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS.
Thúc đẩy sự hợp
tác giữa các cơ quan nhà nước với khu vực tư nhân đối với các hoạt động phòng,
chống HIV/AIDS.
Tiếp tục đẩy
mạnh công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động phòng, chống HIV/AIDS các cấp; chú
trọng công tác thanh tra, kiểm tra các hoạt động xét nghiệm, vô trùng trong
lĩnh vực y tế tư nhân.
b) Đào tạo
cán bộ:
Có các chính
sách nhằm huy động nhân lực tham gia các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS. Xây dựng
đội ngũ cán bộ đủ về số lượng, có đầy đủ hiểu biết, kinh nghiệm, có trình độ
chuyên môn để quản lý, giám sát, triển khai có hiệu quả công tác phòng, chống
HIV/AIDS.
Đào tạo đội
ngũ cán bộ làm công tác phòng, chống HIV/AIDS đủ kiến thức và năng lực đáp ứng
yêu cầu trước mắt và lâu dài. Trong giai đoạn đầu tập trung đào tạo cho tuyến
trung ương và cấp tỉnh, nhất là đối với số cán bộ mới, làm cơ sở cho việc phân
cấp đào tạo trong hệ thống.
Tuyển chọn,
đào tạo đội ngũ chuyên gia và đội ngũ giáo viên giáo dục phòng, chống HIV/AIDS
trong các nhà trường.
Tuyển chọn,
đào tạo mạng lưới cộng tác viên, tình nguyện viên, bao gồm cả những người nhiễm
HIV/AIDS và bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS.
Huy động việc
sử dụng các cơ sở đào tạo hiện có của các ngành, nhất là hệ thống trường Y, huy
động đội ngũ giảng viên của các trường đại học, cán bộ thuộc các ngành, đoàn thể
có kinh nghiệm thực tiễn tham gia giảng dạy, đào tạo về HIV/AIDS.
Đa dạng hoá
các loại hình đào tạo cho phù hợp với từng đối tượng cán bộ. Kết hợp hình thức
đào tạo tập trung với đào tạo tại chức; ngắn hạn và dài hạn; đào tạo thông qua
tập huấn, hội nghị, hội thảo, qua hướng dẫn trực tiếp...
Xây dựng và
hoàn chỉnh hệ thống tài liệu, giáo trình đảm bảo tính khoa học và thực tiễn, cập
nhật kiến thức, phù hợp với từng loại đối tượng cán bộ.
Tổ chức đào tạo
về ứng dụng các chương trình quản lý thông tin trên máy vi tính và trên mạng
cho các cán bộ cấp trung ương và tỉnh, thành.
Định kỳ theo
dõi và đánh giá hiệu quả đào tạo để kịp thời điều chỉnh nội dung, phương pháp,
hình thức tổ chức đào tạo cho phù hợp với sự phát triển của tình hình và yêu cầu
ngày càng cao của công cuộc phòng, chống HIV/AIDS.
c) Đẩy mạnh
việc phân cấp và quản lý chương trình:
Xây dựng các
cơ chế phù hợp cho việc thúc đẩy các tổ chức, cộng đồng kể cả người nhiễm HIV
tham gia quá trình xây dựng kế hoạch phòng, chống HIV/AIDS. Kế hoạch công tác
phòng, chống HIV/AIDS hàng năm phải được xem xét, thông qua bởi Hội đồng nhân
dân, ủy ban nhân dân các cấp của địa phương để bảo đảm kế hoạch được thực hiện
có hiệu quả.
Ngoài ngân
sách của trung ương cấp, ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm chủ động bố trí
ngân sách của địa phương đầu tư cho chương trình phòng, chống HIV/AIDS. Công
khai hoá việc đầu tư cho chương trình phòng, chống HIV/AIDS tại mỗi địa phương.
2. Sản xuất trang thiết bị, thuốc điều trị, sinh phẩm cho
phòng, chống HIV/AIDS
a) Khuyến
khích việc nghiên cứu, sản xuất các loại trang thiết bị, sinh phẩm, thuốc điều
trị phục vụ công tác phòng, chống HIV/AIDS.
b) Có các
chính sách hỗ trợ cho việc sản xuất trang thiết bị, sinh phẩm y tế phòng, chống
HIV/AIDS, từng bước cung ứng đủ nhu cầu trong nước tiến tới xuất khẩu.
c) Xây dựng các chính sách hỗ trợ việc đầu tư,
khuyến khích các sản phẩm phòng, chống HIV/AIDS do khu vực tư nhân sản xuất,
như các chính sách về thuế, ưu đãi đầu tư, thương mại, trao đổi thông tin, khoa
học công nghệ.
d) Tăng cường
việc chuyển giao kỹ thuật, chuyển giao công nghệ, khuyến khích đầu tư.
đ) Có các
chính sách ưu tiên sử dụng các sản phẩm nội địa, chính sách về trợ giá, ưu tiên
trong việc xét chọn thầu các sản phẩm phòng, chống HIV/AIDS nội địa.
3. Giải pháp về đầu tư kinh phí
Tăng cường đầu
tư kinh phí và cơ sở vật chất, kỹ thuật, phương tiện, dụng cụ, tài liệu cho các
hoạt động cần thiết của công tác phòng, chống HIV/AIDS; quản lý, phân bổ và sử
dụng có hiệu quả, tiết kiệm tất cả các nguồn kinh phí huy động được phục vụ cho
chương trình hành động phòng, chống HIV/AIDS.
a) Tăng dần mức
đầu tư và huy động ngày một nhiều hơn nguồn kinh phí cho phòng, chống HIV/AIDS,
phấn đấu đạt mức tương ứng với mức đầu tư của các nước trong khu vực có tình
hình kinh tế cũng như diễn biến dịch ở mức như Việt Nam. Theo tính toán, căn cứ
vào nhu cầu đầu tư của năm 2000, nếu tính mức tăng nhu cầu đầu tư mỗi năm vào khoảng
10 - 15% so với năm trước thì nhu cầu đầu tư ở mức cao cho chương trình phòng,
chống HIV/AIDS ở Việt Nam cho đến năm 2010 sẽ vào khoảng 4.750 tỷ đồng và mức đầu
tư trung bình sẽ vào khoảng 3.349 tỷ đồng.
b) Các khoản
ngân sách trên sẽ được huy động từ các nguồn: kinh phí nhà nước bao gồm cả kinh
phí của các địa phương đóng góp, kinh phí viện trợ và kinh phí huy động từ các
nguồn khác. Nguồn kinh phí viện trợ dự kiến huy động đạt 50% trong tổng mức nhu
cầu đầu tư.
c) Sử dụng hiệu
quả nguồn kinh phí. Phân cấp về quản lý ngân sách đảm bảo tính chủ động của địa
phương trong việc triển khai thực hiện công tác phòng, chống HIV/AIDS của địa
phương.
Bảng 3:
Nhu cầu ngân sách phòng, chống HIV/AIDS đến năm 2010
Đơn vị: 1.000.000 đồng
Năm
|
Đầu tư mức
cao
|
Mức trung
bình
|
2004
|
456.700
|
311.700
|
2005
|
516.200
|
356.200
|
2006
|
588.400
|
409.600
|
2007
|
670.800
|
471.000
|
2008
|
751.300
|
532.200
|
2009
|
841.400
|
601.400
|
2010
|
925.500
|
667.600
|
Tổng cộng
|
4.750.300
|
3.349.700
|
Ngân sách
phòng, chống HIV/AIDS được tính theo dự báo số nhiễm HIV và khả năng tăng ngân
sách của nhà nước đầu tư cho chương trình phòng, chống HIV/AIDS.
4. Hợp tác quốc tế
a) Mở rộng hợp
tác quốc tế trong phòng, chống HIV/AIDS:
Củng cố các mối
quan hệ hợp tác đã có, đồng thời tìm kiếm các khả năng hợp tác mới theo hướng
đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ với các tổ chức Liên Hợp quốc, song
phương, đa phương trong công tác phòng, chống HIV/AIDS.
Thúc đẩy mạnh
mẽ quan hệ hợp tác trong khu vực châu á Thái Bình Dương và trong các nước
ASEAN.
Hợp tác chặt
chẽ với các nước láng giềng để cùng giải quyết các vấn đề cấp bách chung, nhất
là các vấn đề liên quan đến sự lan truyền HIV/AIDS qua biên giới. Các vấn đề về
di dân tự do giữa các nước trong khu vực.
Tăng cường việc
phổ biến kiến thức cho các công nhân Việt Nam lao động ở nước ngoài, các cộng đồng
người Việt Nam ở nước ngoài thông qua các hình thức hợp tác song phương với các
tổ chức phòng, chống HIV/AIDS các nước. Hạn chế và tiến tới nghiêm cấm việc người
đi lao động nước ngoài phải làm xét nghiệm HIV.
Đẩy mạnh các
hợp tác ở cấp độ tuyến tỉnh, thành phố, giữa các tỉnh, thành phố Việt Nam và
các tỉnh, thành phố nước ngoài.
Cung cấp các
thông tin đầy đủ, cập nhật, kịp thời cho các đại diện ngoại giao, các đại sứ
quán của Việt Nam ở nước ngoài để tìm kiếm, mở rộng khả năng hợp tác.
b)
Tranh thủ huy động nguồn lực trong phòng, chống HIV/AIDS:
Tích cực vận
động sự hỗ trợ của các nước, các tổ chức Liên Hợp quốc và các tổ chức quốc tế hỗ
trợ cho công tác phòng, chống HIV/AIDS. Chính phủ lồng ghép các hoạt động kêu gọi
vận động tài trợ trong các hội nghị, hội thảo quốc tế ở các lĩnh vực khác.
Xây dựng các
chính sách ưu tiên trong việc xem xét, phê duyệt các đề án, dự án hợp tác quốc
tế trong lĩnh vực phòng, chống HIV/AIDS để bảo đảm việc thực hiện dự án được
triển khai đúng tiến độ.
Xây dựng cơ
chế chung cho việc điều phối, thực hiện các dự án viện trợ cho lĩnh vực phòng,
chống HIV/AIDS. Thống nhất đầu mối quản lý các dự án viện trợ (Cục Y tế dự
phòng và phòng, chống HIV/AIDS – Bộ Y tế). Tăng cường việc quản lý các dự án hợp
tác song phương đặc biệt ở các địa phương và các tổ chức khác.
Phát huy tính
chủ động quốc gia trong việc điều phối, quản lý, sử dụng các dự án viện trợ, đảm
bảo các dự án phải theo đúng chương trình mục tiêu quốc gia, bám sát các chỉ
tiêu và chương trình hành động quốc gia để hỗ trợ.
Ưu tiên cho
các dự án hợp tác về hỗ trợ vốn, hỗ trợ kỹ thuật và chuyển giao các công nghệ
hiện đại.
c) Tăng cường
trách nhiệm của Việt Nam với chương trình phòng, chống HIV/AIDS toàn cầu:
Tiếp tục cam
kết và thực hiện mạnh mẽ các quy định, các tuyên bố mà Nhà nước ta đã tham gia
ký kết hoặc gia nhập như tuyên bố thượng đỉnh Liên Hợp quốc về HIV/AIDS
(UNGASS), các tuyên bố tại các hội nghị thượng đỉnh ASEAN...
Thiết lập
trung tâm theo dõi các tư liệu quốc tế để cung cấp kịp thời và cập nhật cho các
hội nghị, hội thảo về phòng, chống HIV/AIDS trên thế giới.
Khuyến khích,
ưu tiên cho việc tổ chức các khoá học, lớp tập huấn, các hội nghị, hội thảo quốc
tế về HIV/AIDS ở Việt Nam. Đăng cai tổ chức các hội nghị lớn để tăng cường
vị thế Việt Nam trên trường quốc tế.
Nâng cao năng lực quản lý, thiết kế, lập dự án và điều
phối hợp tác quốc tế của Tổ chức phòng, chống HIV/AIDS quốc gia và năng lực thực
hiện của tổ chức làm công tác phòng, chống HIV/AIDS ở các ngành, các cấp để triển
khai có hiệu quả các dự án hợp tác đã có, phát triển các dự án hợp tác mới. Sử
dụng đạt hiệu quả tối ưu các nguồn viện trợ và sự giúp đỡ của quốc tế.
III. CÁC CHƯƠNG
TRÌNH HÀNH ĐỘNG
1. Chương
trình thông tin, giáo dục và truyền thông thay đổi hành vi phòng lây nhiễm HIV/AIDS;
phối hợp với các chương trình phòng, chống tệ nạn ma tuý, mại dâm để ngăn
ngừa lây nhiễm HIV/AIDS.
2. Chương trình can thiệp giảm thiểu tác hại dự
phòng lây nhiễm HIV/AIDS.
3. Chương
trình chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS.
4. Chương
trình giám sát HIV/AIDS, theo dõi, đánh giá chương trình.
5. Chương
trình tiếp cận điều trị HIV/AIDS.
6. Chương
trình dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con.
7. Chương
trình quản lý và điều trị các nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục.
8. Chương
trình an toàn truyền máu.
9. Chương
trình tăng cường năng lực và hợp tác quốc tế trong phòng, chống HIV/AIDS.
IV. TỔ CHỨC
THỰC HIỆN
Trong giai đoạn 2004 - 2010, tập trung sức chỉ đạo,
triển khai thực hiện các nội dung của Chiến lược tại các tỉnh, thành phố. Lấy
xã, phường, thôn, bản là trọng điểm cho việc triển khai thực hiện các nội dung
của Chiến lược.
1. Uỷ ban
nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm trực tiếp
chỉ đạo, triển khai thực hiện nội dung và các chương trình hành động của Chiến
lược quốc gia phòng, chống HIV/AIDS từ nay đến năm 2010 và tầm nhìn 2020 trên địa
bàn tỉnh, thành phố. Xây dựng và xác lập các mục tiêu phòng, chống HIV/AIDS
trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, thành phố. Ngoài nguồn
ngân sách trung ương cấp, các địa phương chủ động đầu tư ngân sách, nhân lực,
cơ sở vật chất cho chương trình phòng, chống HIV/AIDS. Tập trung chỉ đạo triển
khai các biện pháp can thiệp giảm thiểu tác hại bao gồm chương trình bơm kim
tiêm sạch, chương trình bao cao su dự phòng lây nhiễm HIV/AIDS. Tổ chức tốt việc
chăm sóc, điều trị hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS.
2. Bộ Y tế có
trách nhiệm hướng dẫn việc triển khai thực hiện Chiến lược quốc gia phòng, chống
HIV/AIDS từ nay đến năm 2010 và tầm nhìn 2020; phối hợp với các Bộ, ngành là
thành viên của ủy ban Quốc gia phòng, chống HIV/AIDS và phòng, chống tệ nạn ma
túy, mại dâm và các cơ quan trung ương có liên quan tổ chức chỉ đạo, triển khai
các nội dung của Chiến lược trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
Bộ Y tế chỉ đạo
theo ngành dọc các cơ quan phòng, chống HIV/AIDS các cấp. Các cơ quan phòng, chống
HIV/AIDS cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm tham mưu giúp
Chủ tịch ủy ban nhân dân cùng cấp tổ chức triển khai thực hiện các nhiệm vụ cụ
thể trong Chiến lược; theo dõi, giám sát việc thực hiện, tổ chức sơ kết định kỳ,
tổng kết và báo cáo kết quả thực hiện về Bộ Y tế để tổng hợp báo cáo Thủ tướng
Chính phủ.
3. Bộ Văn hóa - Thông tin chủ trì, phối hợp với
các Bộ, ngành, cơ quan Trung ương, ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chỉ đạo cơ quan thông tin các cấp đẩy mạnh
công tác thông tin, giáo dục, truyền thông nhằm thay đổi hành vi phòng lây nhiễm
HIV/AIDS trên địa bàn toàn quốc. Tập trung đưa thông tin đến người dân vùng
sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, đưa thông tin tiếp cận với các nhóm đối
tượng có hành vi nguy cơ cao.
4. Bộ Giáo dục
và Đào tạo chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, cơ quan Trung ương, ủy ban nhân
dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức triển khai chương trình
giáo dục kiến thức và huấn luyện kỹ năng phòng, chống HIV/AIDS vào trong chương
trình đào tạo của các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, giáo dục
dạy nghề và phổ thông phù hợp với yêu cầu của từng đối tượng.
5. Bộ Lao động
- Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với Bộ Y tế, Bộ Tài chính và các Bộ,
ngành liên quan, nghiên cứu xây dựng các chế độ, chính sách phù hợp phục vụ
công tác phòng, chống HIV/AIDS.
6. Bộ Kế hoạch
và Đầu tư, Bộ Tài chính chịu trách nhiệm bố trí và cấp kịp thời kinh phí cho
các hoạt động của chương trình phòng, chống HIV/AIDS theo kế hoạch ngân sách được
Quốc hội phân bổ hàng năm. Tích cực huy động các nguồn tài trợ trong và ngoài
nước đầu tư cho công tác phòng, chống HIV/AIDS.
7. Đài Truyền
hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam chủ trì, phối hợp
với các cơ quan truyền thông, chỉ đạo các Đài Truyền hình, Đài Phát thanh các cấp
đưa các thông tin về dự phòng, chăm sóc người nhiễm HIV/AIDS thành nội dung thường
xuyên của chương trình phát sóng. Xây dựng các chuyên mục, chuyên đề về phòng,
chống HIV/AIDS, chủ động đầu tư kinh phí cho việc xây dựng và phát sóng các chương
trình về phòng, chống HIV/AIDS.
8. Các Bộ,
ngành là thành viên ủy ban Quốc gia phòng, chống AIDS và phòng, chống tệ nạn ma
túy, mại dâm, các cơ quan thuộc Chính phủ, có trách nhiệm chủ động xây dựng và
triển khai thực hiện kế hoạch phòng, chống HIV/AIDS theo chức năng, nhiệm vụ được
giao và theo đặc thù của đơn vị mình; chủ động đầu tư ngân sách cho công tác
này.
9. Đề nghị Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam cùng các đoàn thể chính trị xã hội tích cực tham gia triển
khai thực hiện Chiến lược này trong phạm vi hoạt động của mình./.