PHỦ
THỦ TƯỚNG
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
965-TTg
|
Hà
Nội, ngày 11 tháng 07 năm 1956
|
NGHỊ ĐỊNH
VỀ VIỆC LÀM CÁC NGHỀ CHỮA BỆNH, HỘ SINH, CHỮA RĂNG, BÀO CHẾ
THUỐC VÀ BÁN THUỐC
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Để đảm bảo sức khoẻ và tính mạng
của nhân dân bảo vệ chính đáng cho những người làm nghề y, dược.
Theo đề nghị của ông Bộ trưởng Bộ
y tế.
NGHỊ ĐỊNH:
Điều 1.- Nay
ban hành các điều lệ tạm thời về việc làm các nghề chữa bệnh, hộ sinh , chữa
răng, bào chế thuốc và bán thuốc, kèm theo nghị định này.
Điều 2.- Các
điều khoản ban hành trước đây trái với bản điều lệ này đều bị bát bỏ.
Điều 3.- Bộ
y tế sẽ ban hành những chi tiết về thi hành bản điều lệ này.
Điều
4.- Ông Bộ trưởng Bộ Y tế chịu trách nhiệm thi hành nghị định này.
|
KT.
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
PHÓ THỦ TƯỚNG
Phan Kế Toại
|
ĐIỀU
LỆ
TẠM THỜI VỀ VIỆC CHO PHÉP LÀM CÁC NGHỀ CHỮA BỆNH, HỘ SINH,
CHỮA RĂNG, BÀO CHẾ THUỐC VÀ BÁN THUỐC
Chương 1:-
MỤC
ĐÍCH VÀ Ý NGHĨA.
Điều 1. - Bản
điều lệ tạm thời này về việc cho phép làm các nghề: chữa bệnh, hộ sinh, chữa
răng, bào chế thuốc và bán thuốc nhằm mục đích:
- Bảo đảm sức khoẻ và tính
mạng của nhân dân.
- Bảo vệ quyền lợi chính đáng
cho những người làm nghề nói trên.
Chương 2:
ĐIỀU KIỆN CHO PHÉP
A.- CHỮA BỆNH.
1.-
Làm nghề chữa bệnh theo Tây y.
Điều 2.- Những
người có một trong những bằng kê sau đay được phép chữa bệnh theo Tây y:
a) Bằng Bác sĩ y khoa của trường
Đại học Y dược Quốc gia Việt Nam hoặc bằng của một trường chuyên môn về Y khoa
do Chính phủ Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà cấp.
b) Bằng Bác sĩ Y khoa và bằng
Y sĩ Đông dương do Trường Đại học Đông dương cấp.
c) Bằng Y khoa do một trường Đại
học ngoại quốc cấp và được Chính phủ Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà công nhận.
NHững người có bằng chuyên môn
kê trên được phép mở: Phòng khám bệnh, bệnh viện, nhà hộ sinh, phòng chuyên
khoa như : điện quang, phòng xét nghiệm vi trùng .v.v....(nếu có thêm bằng
chuyên môn về các môn đó)
Ngoài điều kiện về văn bằng ,
đương sự phải có trụ sở đủ điều kiện do Bộ Y tế ấn định và do cơ quan Y tế địa
phương xác nhận
Điều 3. - Trong
khi chờ đợi những quy chế mới những y tá có thể chữa các bệnh với những điều kiện
sau đây:
a) Phải là y tá đã làm việc 5
năm với Nhà nước và không phạm kỹ luật.
b) Tại những địa phương có
y sĩ, bác sĩ chữa bệnh thì chỉ được phép tiêm thuốc theo đơn của Y sĩ,
bác sĩ .
c) Tại những địa phương
không có y sĩ, bác sĩ thì y tá được phép chữa các bệnh dễ như: nhức đầu,
sốt, cảm, ghẻ, lỡ... và không được dùng những thuốc có chất độc.
Điều 4.- Muốn
xin làm nghề, các y sĩ, bác sĩ phải gửi kèm theo đơn, bản sao văn bằng, nếu mở
bệnh viện phải gửi kèm theo sơ đồ bệnh viện của mình.
Muốn xin làm nghề, các y tá phải
gửi kèm theo đơn, bản sao văn bằng và giấy chứng nhận đã làm việc 5 năm cho Nhà
nước không phạm kỹ luật.
2.- Làm nghề
chữa bệnh theo Đông y:
Điều 5. - Những
người làm nghề chữa bệnh theo Đông Y chia làm ba loại:
- Loại thứ nhất: Chỉ xem mạch,
kê đơn, rồi bệnh nhân mang đơn đi mua thuốc tại các hiệu thuốc.
- Loại thứ hai: xem mạch, châm cứu,
không cho thuốc.
-Loại thứ ba: Sau khi xem mạch rồi
bốc thuốc của mình cho bệnh nhân. Các thầy thuốc Đông y loại thứ ba phải thi
hành các điều quy định ở phần bán thuốc Đông y nói trong bản đìêu lệ này.
Điều 6. – Các
thầy thuốc đông y được dùng:
- Những phương pháp chữa bệnh
theo lối cỗ truyền như: bó xương, châm cứu, lê, bóp, nặn....
- Những loại thứôc như: cao,
đơn, hoá, tàn....
Không được dùng các phương pháp
chữa bệnh theo Tây y như: mổ, tiêm, thụt v.v... và những sản phẩm hoá học, sản
phẩm tổng hợp, sinh hoá, huyết thanh, thuốc kháng sinh và những thuốc tiêm.
Điều 7.- Các thầy thuốc Đông y được phép dùng những thuốc bắc hoặc
nam có chất độc như: nhân ngôn, phụ tử, thiên liên tử, cà độc dược, mã tiền,,,
nhưng việc dùng các chất độc ấy đễ chữa bệnh có thể nguy hại
tới tính mệnh của nhân dân, nên thầy thuốc phải chịu trách nhiệm về liềư lượng
và chất độc đã sử dụng, và phải có sổ sách rõ ràng( sẽ có quy định riêng).
Điều 8.- Những
điều kiện để được làm nghề chữa bệnh theo Đông y sẽ quy định sau. Tạm thời những
người đã thực sự làm nghề chữa bệnh theo Đông Y trước ngày 21-7-1954 có giấy chứng
nhận của Ủy ban hành chính địa phương từ cấp xã trở lên ở nông thôn, và từ cấp
quận trở lên thành phố, có thể đề nghị xin tiếp tục làm nghề .Đơn xin tiếp tục
làm nghề phải kèm theo giấy chứng nhận của Ủy ban Hành chính địa phương. Những
người làm nghề sau ngày 21-7-1954 muốn xin làm nghề có thể nộp đơn kèm giấy chứng
nhận của Ủy ban Hành chính địa phương. Bộ y tế sẽ xét định tuỳ theo từng
trường hợp cụ thể.
B. HỘ SINH:
Điều 9: - Được
làm nghề hộ sinh:
- Những y sĩ, bác sĩ như đã nói ở
đìêu 2.
- Những người có:
a) Bằng hộ sinh trung cấp, sơ cấp
( hộ sinh xã) của Chính phủ Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà cấp.
b) Bằng hộ sinh cao cấp học hộ
sinh Quốc gia, bằng hộ sinh Đông dương của Trương Đại học Đông dương cũ cấp.
c) Các bà mụ có giấy chứng nhận
của Ủy ban Hành chính địa phương từ cấp xã trở lên cấp.
Điều 10.- Những
bà mụ và hộ sinh sơ cấp chỉ được những trường hợp đẻ thường, trường hợp đẻ
khó phải gửi sản phụ đi bệnh viện hay nhà hộ sinh có y sĩ hoặc hộ sinh được Bộ
y tế cử điều khiển.
Điều 11.- Muốn
mở nhà hộ sinh thì ngoài điều kiện văn bằng, đương sự phải có trụ sở đủ điều kiện
vệ sinh do Bộ y tế ấn định và do cơ quan Y tế địa phương xét nhận.
Điều 12.- Muốn
xin làm nghề, các đương sự phải gửi theo đơn , bản sao văn bằng hoặc giấy chứng
nhận của Ủy ban Hành chính địa phương đối với các bà mụ.
C.- CHỮA RĂNG
Điều 13.- Được
phép làm nghề chữa răng:
a) Những người có bằng bác sĩ
nha khoa, Nha sĩ do trường Đại học Y dược khoa của Nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà câp.
b) Bằng Nha khoa do trường Đại học
Đông dương cấp.
c) Bằng Nha khoa do trường Đại học
ngoại quốc cấp và được Chính phủ Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà công nhận.
Điều 14.- Đối
với những người làm thợ trồng răng không có bằng chuyên môn về nha khoa sẽ phải
qua một kỳ sát hạch trước một Hội đồng sẽ chính thức cho phép và qui định phạm
vi làm nghề tuỳ theo trình độ của từng người như : chỉ được trồng răng hoặc
chỉ nhổ và trồng răng. Những người chỉ được trồng răng không được chữa và nhổ
răng trong trường hợp dễ. Đối với những người chưa được sát hạch sẽ được phép tạm
thời tiếp tục làm nghề nếu có đủ giấy tờ chứng minh đã thực sự làm nghề
trước ngày 21-7-1954.
Điều 15.- Các
thợ làm răng tuỵêt đối không được làm nghề một cách lưu động, mà phải làm việc
một trụ sở nhất định, trụ sở làm việc phải đầy đủ điều kiện vệ sinh.Người thợ
trồng răng phải trực tiếp làm công việctrồng răng chứ không để người giúp việc
thay thế mình. Trong khi làm nghê, tuyệt đối không được dùng địên để chữa bệnh,
dùng thuốc gậy mê. Về thuốc tê chỉ đựơc dùng những thuốc tê như: nô-vo-ca-in
không có a-đơ-rê-na-lin và cơ-lô-ruya-đê-tin để gây tê tại chỗ.
Điều 16.- Những
người mở cửa hàng bán dụng cụ và nguyên liệu về răng giả có giấy tờ chứng minh
đã thực sự làm nghề trước ngày 21-7-1954 vẫn được tiếp tục làm nghề nhưng không
được buôn bán thuốc dùng để chữa răng và nhổ răng như các loại: nô-vo-ca-in ,
a-xit ac-xê-mi-ơ, a-xit tờ-ri-cơ-lo-ra-xê-rich....
Đìều 17.- Muốn
xin làm nghề các bác sĩ nha khoa , nha sĩ phải gửi kèm theo đơn bản sao văn bằng:
các thợ trồng răng và các người mở hiệu bán dụng cụ và nguyên liệu về
răng phải gửi kèm theo đơn những giấy chứng nhận đã trúng tuyển qua một kỳ
sát hạch hoặc đã thực sự làm nghề trước ngày 21-7-1954.
D.- BÀO CHẾ
THUỐC VÀ BÁN THUỐC
I.- Hiệu
thuốc tây
Điều 18.- Được
mở hiệu thuốc tây hoặc phòng bào ché những người có:
a) Bằng Dược sĩ hạng nhất do trường
Đại học Y dược Kho Việt Nam hoặc bằng của một trường chuyên môn về Dược khoa do
Chính phủ Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà cấp.
b) Bằng Dược sĩ hạng nhất và bằng
dược sĩ Đông dương do trường Đại học Đông dương cũ cấp.
c) Bằng Dược sĩ của một trường Đại
học ngoại quốc cấp và được Chính phủ Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà công nhận.
Điều 19. – Các
dược sĩ được:
1.- Bào chế các thuốc dùng để
phòng bệnh hoặc chữa bệnh cho người và cho súc vật.
2.- Bào chế các thuốc theo đơn của
y sĩ, bác sĩ .
3-. Bán buôn và bán lẽ các thuốc,
các dược thảo, bông băng, các y cụ, dược sụ, các loại huyết thanh sinh hoá trị
bệnh.
Điều 20. Đối
với các loại thuốc độc bảng A và bảng bác sĩ, các biệt dược của bảng B phải đề
vào tủ riêng và có đơn của y sĩ, bác sĩ các hiệu thuốc mới có quyền bán. Riêng
đối với thuốc độc bảng B các hiệu thuốc không được bán nguyên chất và không đựoc
thi hành những đơn kê số lượng thuốc quá bảy ngày. Các đơn thuốc phải ghi vào sổ
riêng và giữ lại trong thời gian 5 năm để khi cần xuất trình cho cơ quan y tế.
Trong khi bào chế thuốc mà dùng
với các chất thuốc bảng A, bảng B nguyên chất thì phải ghi rõ số lượng
dùng trong mỗi làn vào sổ riêng.
Điều 21.- Việc
bào chế các thuốc phải tự tay dược sĩ làm, trường hợp bận,công việc bào chế có
thể do dược tá làm, nhung dược sĩ chủ nhân phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về
những thuốc đó.
Các thuốc bào chế theo công thức
của dược thì phải có nhãn ghi rõ tên thuốc công thức, trọng lượng, số lượng, khối
lượng tên hiệu thuốchoặc phòng bào chế , số ghi trong số bào chế, số kiểm soát
nếu có. Thuốc bào chế theo công thức riêng ghi nhãn phải ghi thêm công thức và
cách dùng.
Ngoài ra nếu thuốc có chứa chất
độc thuộc các bảng A,B,C thời nhãn phải theo những thể thức quy định đối với những
loại thuốc đó.
Dược sĩ không được bào chế các
sinh hoá, huyết thanh trị bệnh.
Đối với các thuốc chế bằng các bộ
phận của sinh vật:phi-latôp, những tinh chất phủ tạng, đồ tiêm, nếu muốn sản xuất
phải có giấy phép riêng của Bộ y tế.
Điều 22.- Các
hiệu thuốc tây thống nhất lấy tên là: “Hiệu thuốc tây “kèm theo tên hiệu.
Các phòng bào chế thuốc tây thống
nhất lấy tên là: “ Phòng bào chế” kèm theo tên hiệu.
Điều 23: -
Các dược sĩ phải có mặt ở hiệu thuốc và phòng bào chế trong những giờ mở
cửa. Trường hợp đi vắng lâu có thể nhờ một dược sĩ khác trông nom giúp,
sau khi được Bộ y tế đồng ý, thời gian thay thế không được quá một năm.
Dược sĩ trông nom giúp phải chịu
hoàn toàn trách nhiệm về việc bào chế. Bán thuốc trong thời gian mình phụ
trách. Ngoài trường hợp thay thế trên, dược sĩ không được đứng tên hai hiệu thuốc.
Điều 24.- Ngoài
những sổ sách do Bộ Tài chính, Bộ Thương nghiệp quy định cho tất cả các loại
kinh doanh công thương nghiệp, các hiệu thuốc tây và phòng bào chế mở thêm các
số sau đây:
1.- Số bào chế theo công thức dược
thư và công thức riêng.
2.- Số bào chế theo đơn của y
sĩ, bác sĩ .
3. - Số xuất nhập thuốc bảng A
nguyên chất.
4.- Số xuất nhập thuốc bảng bác
sĩ nguyên chất và biệt dược có kèm đơn và giấy phép.
Tất cả các số nói trên đều phải
đánh số trang có chữ ký và đóng dấu của cơ quan Y tế địa phương.
Tất cả các khoản thuốc bào chế đều
phải ghi vào số bào chế, ghi rõ ngày bào chế và số thứ tự này phải ghi
vào nhãn thuốc.
Đối với thuốc bào chế theo đơn của
y sĩ, bác sĩ phải ghi rõ tên địa chỉ của y sĩ, bác sĩ và của bệnh nhân.
Các sổ bào chế phải giữ lại
trong hai năm, các sổ xuất nhập thuốc bảng A nguyên chất, thuốc bảng B nguyên
chât và biệt dược phải giữ lại trong 5 năm để khi cần phải xuất trình cho cơ
quan Y tế.
Điều 25.-
Các hiệu thuốc tây hoặc phòng bào chế phải có đủ điều kiện vệ sinh do
Bộ Y tế ấn định.
Điều 26.-
Muốn xin làm nghề, các dược sĩ phải gữi kèm theo đơn, bản sao bằng dược
sĩ, hoặc giấy chứng nhận của Bộ Y tế.
2.- Đại lý
thuốc tây:
Điều 27.-
Được mở“ đại lý thuốc tây” những người.
1.- Đã học một thời gian từ 3 đến
6 tháng (tại một phòng bào chế của Nhà nước, hoặc giúp việc ít nhất một năm tại
một hiệu thuốc tây do dược sĩ phụ trách và qua một thời kỳ sát hạch của Bộ Y tế.
Nếu thi đỗ thì được cấp bằng Đại lý thuốc tây.
2.- Những y tá, dược tá từng phục
vụ trong cơ quan Nhà nước 5 năm trở lên không bị kỹ luật.
3.- Những người hiện đang mở đại
lý thuốc tây mà không có bằng sẽ phải qua một kỳ sát hạch trước một Hội đồng do
Bộ Y tế thành lập. Nếu thi đỗ thì được cấp bằng Đại lý thuốc tây.
Điều 28.-
Các đại lý thuốc tây chỉ được bán:
1.- Các biệt dược, các thuốc làm
sẵn của các hiệu thuốc, không được bán các loại thuốc bản A,B,C hoặc các
biệt dược có chứa chất độc thuộc các bảng A,B,C hoặc các sinh hoá huyết
thanh trị bệnh.
Về loại xuyn- pha- mit chỉ được
bán mỗi lần không được quá 20 viên.
Về loại thuốc kháng sinh không
được trữ mỗi thứ quá 20 lọ và phải bảo đảm giữ gìn thuốc tránh hư hỏng.
Tại các thị xã chưa có một hiệu
thuốc do dược sĩ mở thì Ty Y tế có thể cho phép một số đại lý thuốc tây trình độ
chuyên môn khá, được chính quyền địa phương chứng nhận hạnh kiểm tốt, được bán
thêm một số biệt dược có chứa các chất thuốc thuộc bản A,B,C, khi có đơn của y
sĩ,bác sĩ.
2.- Những thuốc đã đóng gói sẵn,
vào chai, hộp, ống, túi, gói có nhãn đề tên thuốc, cách dùng, trọng lượng, khối
lượng và tên hiệu thuốc hoặc phòng bào chế sản xuất.
3.- Những bông băng và các y cụ
thông thường như : bơm tiêm, bốc, kim, kéo, ống giác, ống nhỏ giọt, v.v...
Điều 29.-
Các đại lý thuốc tây không được sản xuất thuốc, bào chế thuốc đề bản hoặc
bào chế thuốc theo đơn của y sĩ,bác sĩ.
Điều 30.-
Hiện đại lý thuốc tây thống nhất lấy tên là : Đại lý thuốc tây” kèm
theo tên hiệu.
Điều 31.-
Người đại lý thuốc tây phải có mặt ở cửa hàng và chịu trách nhiệm hoàn
toàn về những thuốc do cửa hàng mình bán ra, các cửa hàng phải có đủ điều kiện
bảo đảm việc bảo quản thuốc không bị hư hỏng.
Điều 32.-
Trường hợp đại lý thuốc tây có bán thêm các thứ hàng khác như :tạp hoá,
cao đơn hoàn tán v.v... thì không được để lẫn lộn mà phải có tủ riêng đựng
thuốc tây.
Điều 33.-
Các đại lý thuốc tây được mở cửa hàng tại các thành phố, tỉnh lỵ, thị trấn, các
chợ. Só đại lý thuốc tây tại một địa phương không được quá số cần thiết phục vụ
nhân dân số này do Ủy ban Hành chính tỉnh ấn định.
Điều 34.-
Nơi nào chưa có hiệu thuốc hoặc đại lý thuốc tây thì các hàng tạp hoá
có thể được bán một số thuốc thông thường sau đây để nhân dân dùng:
Thuốc viên: kỳ-nin, ky-na-cờ-rin,
pa- luy- đờ-rin, át-pi-rin, viên ho, viên đi rửa.
Thuốc nước: thuốc đau mắt( xuyn-phat-đờ-danh),
thuốc đỏ (méc- cuya-rô-cờ-rôm), dầu tây, dầu giun.
- Thuốc bột : thuốc tim (
péc-măng- ga-nat-đờ-K)
- Thuốc mỡ: pom-mat-su-phờrê,
pom-mat-ôc-xit-đờ-danh, thuốc bắc lào (pom-mat-cờ-ri-dô-pha-nich).
- Bông,băng
Những thuốc này phải có ngăn để riêng,
không được để lẫn lộn với các thứ hàng khác và phải bảo quản cẩn thận.
Ngoài những thứ thuốc kể trên,
không được bán các thứ thuốc khác.
3.- Bán
thuốc Đông y
Điều 35.-
Những người bán thuốc Đông y gồm có:
- Những người làm và bán cao,
đơn, hoàn, tán và thục dược.
- Những người bán thuốc bắc và
thuốc nam, sinh dược.
Điều 36.-
Những người bán thuốc Đông y được bán các dược liệu thuộc khoáng chất
thảo mộc hay động vật dùng dưới hình thức nguyên liệu hoặc sau khi đã pha chế
theo lối cỗ truyền. Riêng về chất độc như: nhân ngôn, hoàng nan, phụ tử, thiên
liên tử, mã tiền, cà độc dược.v.v...( Bộ Y tế sẽ ra bản quy định riêng)với điều
kiện là phải mở riêng số kê khai từng loại chất độc, cùng số lượng xuất nhập và
tồn kho hàng ngày, những thuốc này phải có chỗ để riêng.
Không được bán và dùng trong việc
pha chế:
- Những thuốc hoặc sản phẩm hoá
học, sản phẩm tổng hợp.
- Sinh hoá, huyết thanh và thuốc
kháng sinh.
- Những thuốc tiêm.
Điều 37.-
Những hiệu làm hoặc bán thuốc bắc, thuốc nam hoặc cao đơn, hoàn tán,
thống nhất lấy tên là : “Hiệu thuốc Đông y” kèm theo tên hiệu.
Điều 38.-
Những người bán thuốc bắc, thuốc nam không được chữa bệnh như các thầy
thuốc Đông y, trừ trường hợp nói trong điều 5.
Điều 39.-
Muốn xin làm nghề, đương sự phải gửi kèm theo đơn, giấy chứng nhận đã
thực sự làm nghề bán thuốc Đông y trước ngày 21 tháng 7 năm 1954 của Ủy ban
Hành chính địa phương từ cấp xã trở lên ở nông thôn và cấp quận trở lên ở thành
thị. Những người làm nghề sau ngày 21 tháng 7 năm 1954 muốn xin làm nghề có thể
nộp đơn kèm theo giấy chứng nhận của Ủy ban Hành chính địa phương. Bộ Y tế
sẽ xét định tuỳ theo từng trường hợp cụ thể. Những người bán ở chợ những lá cây
dùng chữa bệnh nếu được Ủy ban Hành chính xã chứng nhận vẫn được tiếp tục làm
nghề.
Chương 3:
ĐIỀU KHOẢN CHUNG
Điều 40.-
Các người làm nghề chữa bệnh, hộ sinh, chữa răng, bào chế thuốc,
bán thuốc Tây y, Đông y đều phải 25 tuổi trở lên, được Ủy ban Hành chính địa
phương chứng nhận hạnh kiểm tốt.
Đơn xin làm nghề, các bản sao văn
bằng, các giấy chứng nhận hạnh kiểm điều phải gửi đến Ủy ban Hành chính tỉnh
hay thành phố để xét. Ủy ban Hành chính tỉnh, thành phố có thể uỷ quyền xét các
đơn xin làm nghề và cấp giấy phép làm các nghề trên cho cơ quan Y tế tỉnh
hay thành phố.
Điều 41.-
Những người làm nghề chữa bệnh, hộ sinh, chữa răng phải thuộc quyền kiểm
soát của các cơ quan Y tế và phải đăng ký ở các cơ quan Y tế tỉnh hay thành phố.
Những người mở phòng bào chế, hiệu thuốc tây , đại lý thuốc
tây, hiệu thuốc Đông y, hàng bán dụng cụ và nguyên liệu về răng, phải thuộc quyền
kiểm soát của các cơ quan Y tế tỉnh hay thành phố và phải đăng ký tại cơ quan
Công thương theo đúng điều lệ kinh doanh công thương nghiệp số 489-TTg ngày
30 tháng 3 năm 1956 của Thủ tướng Phủ.
Điều 42.-
Thuốc bán ra phải tốt, những thứ đã hỏng, quá hạn, vấn đục, mốc phải bỏ
đi không được bán.
Điều 43.-
Những người làm nghề chữa bệnh ở, hộ sinh, chữa răng, bán thuốc không
được dùng dấu hiệu “ hồng thập tự” ở cửa hàng, trên sổ sách và nhãn thuốc.
Điều 44.-
Những người làm nghề trên mà không tuân theo điều lệ này thì sẽ tuỳ lỗi
nhẹ hay nặng mà bị phê bình, cảnh cáo hoặc bị truy tố trước toà án và xử theo
luật trừng phạt các vi phạm vào điều lệ , bị can có thể bị thu hồi giấy phép có
thời hạn và vĩnh viễn.
Ngoài ra nếu còn phạm thêm tội
nào khác như làm người bị ngộ độc, làm chết người.v.v... thì sẽ bị xử phạt theo
luật hình chung.
Điều 45.-
Gặp những trường hợp chưa được quy định trong bản điều lệ tạm thời này
thì các Ủy ban Hành chính sẽ báo cáo lên Bộ Y tế xét định.