BỘ Y TẾ
--------
|
CỘNG HÒA XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 2174/QĐ-BYT
|
Hà Nội, ngày
21 tháng 6 năm 2013
|
QUYẾT ĐỊNH
PHÊ DUYỆT KẾ HOẠCH HÀNH ĐỘNG QUỐC GIA VỀ CHỐNG
KHÁNG THUỐC GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 2013 ĐẾN NĂM 2020
BỘ TRƯỞNG BỘ Y TẾ
Căn cứ Nghị định số
63/2012/NĐ-CP ngày 31 tháng 8 năm 2012 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Y tế;
Xét đề nghị của ông Cục trưởng
Cục Quản lý Khám, chữa bệnh - Bộ Y tế,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Phê duyệt kèm theo Quyết định này
Kế hoạch hành động quốc gia về chống kháng thuốc giai đoạn từ năm 2013 đến năm
2020.
Điều 2. Quyết định này có hiệu lực thi
hành kể từ ngày ký ban hành.
Điều 3. Các ông, bà: Chánh Văn phòng Bộ,
Chánh Thanh tra Bộ, Cục trưởng các Cục: Quản lý Khám, chữa bệnh, Quản lý Dược,
Khoa học công nghệ và Đào tạo, Phòng, chống HIV/AIDS, An toàn thực phẩm, Y tế dự
phòng; Quản lý môi trường y tế, Vụ trưởng các Vụ: Kế hoạch - Tài chính, Truyền
thông và Thi đua, khen thưởng, Bảo hiểm y tế, Giám đốc Sở Y tế tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương, Giám đốc bệnh viện trực thuộc Bộ Y tế và Thủ trưởng các
đơn vị có liên quan chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.
Nơi nhận:
- Như Điều 3;
- Văn phòng Chính phủ (để b/c);
- Bộ NN & PTNT (để phối hợp);
- Bộ trưởng (để b/c);
- Các Thứ trưởng;
- CTTĐT Bộ Y tế, CTTĐT Cục QLKCB;
- Lưu VT, KCB.
|
BỘ TRƯỞNG
Nguyễn Thị Kim Tiến
|
KẾ HOẠCH HÀNH
ĐỘNG QUỐC GIA
VỀ CHỐNG KHÁNG THUỐC
Giai đoạn từ năm 2013 đến năm
2020
(Phê duyệt kèm theo Quyết định số 2174/QĐ-BYT ngày 21
thán 6 năm 2013 của Bộ trưởng Bộ Y tế)
MỤC LỤC
Phần thứ nhất:
SỰ CẦN THIẾT XÂY DỰNG KẾ HOẠCH
ĐẶT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ THỰC
TIẾN
1. Thực trạng
kháng thuốc
1.1.Tình hình
kháng thuốc trên thế giới
1.2. Tình hình
sử dụng kháng sinh và sự kháng thuốc tại Việt Nam
2. Nguyên nhân
kháng thuốc
3. Hậu quả và
gánh nặng do kháng thuốc
II. CƠ SỞ PHÁP
LÝ
Phần thứ hai:
NỘI DUNG KẾ HOẠCH
I. MỤC TIÊU
1. Mục tiêu
chung
2. Mục tiêu cụ
thể
II. NỘI DUNG
HOẠT ĐỘNG
1. Nâng cao nhận
thức của cộng đồng và cán bộ y tế về kháng thuốc
2. Tăng cường,
hoàn thiện, nâng cao năng lực hệ thống giám sát quốc gia về sử dụng kháng sinh
và kháng thuốc
3. Bảo đảm
cung ứng đủ các thuốc thiết yếu có chất lượng
4. Tăng cường sử dụng thuốc
an toàn, hợp lý
5. Tăng cường kiểm soát nhiễm
khuẩn
6. Tăng cường sử dụng kháng
sinh hợp lý, an toàn trong trồng trọt và chăn nuôi gia súc, gia cầm, thủy sản
Phần thứ ba: CÁC GIẢI PHÁP
I. Cơ chế chính sách và quản
lý
II. Thông tin, truyền thông,
giáo dục
III. Chuyên môn, kỹ thuật và
đào tạo
IV. Tài chính
V. Nghiên cứu khoa học và hợp
tác quốc tế
Phần thứ tư: TỔ CHỨC THỰC HIỆN
I. Thành lập Ban Chỉ đạo
II. Phân công trách nhiệm thực
hiện
CÁC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
|
Tiếng Việt
|
Tiếng Anh
|
AFB
|
Trực khuẩn kháng cồn kháng toan
|
Acid - Fast Bacilli
|
ANSORP
|
Mạng lưới giám sát của châu Á về sự kháng thuốc của
vi khuẩn gây bệnh thường gặp
|
Asian Network for Surveillance of Resistant
Pathogens
|
AMR
|
Kháng thuốc
|
Antimicrobial resistance
|
ARV
|
Kháng retro vi rút
|
Antiretrovirus
|
AZT - ZDV
|
Zidovudine
|
|
DDD
|
Liều xác định trung bình trong ngày
|
Defined Daily Dose
|
ESBL
|
Men Beta - Lactamase phổ rộng
|
Extended - Spectrum Beta - Lactamase
|
HAART
|
Liệu pháp kháng retro vi rút hoạt tính cao
|
|
HIV/AIDS
|
Vi rút suy giảm miễn dịch ở người/Hội chứng suy
giảm miễn dịch mắc phải
|
Human Immunodeficiency Virus/Acquired Immune
Deficiency Syndrome
|
KONSAR
|
Mạng lưới giám sát quốc gia về kháng thuốc của
Hàn Quốc
|
Korean Nationwide Surveillance of Antimicrobial
Resistance
|
KSNK
|
Kiểm soát nhiễm khuẩn
|
Infection Control
|
NDM1
|
Men làm cho vi khuẩn kháng với các kháng sinh
nhóm beta-lactam
|
New Delhi metallo - beta – lactamase 1
|
NKBV
|
Nhiễm khuẩn bệnh viện
|
Hospital Infection
|
NNRTI
|
Ức chế men sao chép ngược không nucleosid
|
|
NRTI
|
Ức chế men sao chép ngược nucleosid và nucleotid
|
|
NVP
|
Nevirapine
|
|
MDR-TB
|
Bệnh lao đa kháng thuốc
|
Multidrug - resistant tuberculosis
|
MIC
|
Nồng độ ức chế tối thiểu
|
Minimum Inhibitor Concentration
|
MRSA
|
Staphylococcus aureus kháng methicillin
|
Methicillin Resistance Staphylococcus aureus
|
3TC
|
Lamivudine
|
|
d4T
|
Stavudine
|
|
PLTMC
|
Phòng lây truyền mẹ con
|
|
TCYTTG
|
Tổ chức Y tế Thế giới
|
World Health Organization
|
XDR-TB
|
Bệnh lao siêu kháng thuốc
|
Extensively Extremely Drug Resistance - TB
|
Phần
thứ nhất
SỰ CẦN THIẾT
XÂY DỰNG KẾ HOẠCH
ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ khi phát hiện ra kháng
sinh penicilline đến nay, hàng trăm loại kháng sinh và các thuốc tương tự đã được
phát minh và đưa vào sử dụng. Sự ra đời của kháng sinh đã đánh dấu kỷ nguyên
phát triển mới của y học về điều trị các bệnh nhiễm khuẩn.
Ngoài vai trò trong y học đối
với loài người, thuốc chống vi khuẩn còn được sử dụng rộng rãi trong chăn nuôi
gia súc, gia cầm, thủy sản và trồng trọt để điều trị, phòng chống dịch bệnh
trên động vật, cũng như cho mục đích sản xuất. Kết quả của việc tiếp xúc liên tục
với thuốc chống vi khuẩn, tỷ lệ vi khuẩn kháng trong phân của các động vật
tương đối cao.
Sử dụng kháng sinh có lợi
ích to lớn trong điều trị, chăm sóc người bệnh và cả thú y khi được kê đơn và điều
trị đúng. Tuy nhiên, những loại thuốc này đã được sử dụng rộng rãi, kéo dài, lạm
dụng, làm cho các vi sinh vật thích nghi với thuốc, tạo điều kiện cho nhiều loại
vi khuẩn trở thành kháng thuốc, làm cho thuốc kém hiệu quả hoặc không hiệu quả.
Tình trạng kháng thuốc không chỉ là mối lo ngại của các bác sỹ lâm sàng trong điều
trị mà còn là mối quan tâm chung của toàn xã hội đối với sức khỏe cộng đồng.
Kháng thuốc (AMR) là tình trạng
các vi sinh vật (như vi khuẩn, vi rút, nấm và ký sinh trùng) kháng lại các thuốc
kháng sinh đã nhạy cảm với các vi sinh vật này trước đây. Sinh vật đề kháng (vi
khuẩn, vi rút, ký sinh trùng) có thể chịu được sự tấn công của các thuốc chống
vi khuẩn (như thuốc kháng sinh, thuốc kháng vi rút, thuốc chống sốt rét) dẫn đến
việc áp dụng các phương pháp, thuốc điều trị đặc hiệu sẽ trở nên không hiệu quả,
nhiễm khuẩn kéo dài (thậm chí gây tử vong) và có thể lây lan cho người khác.
AMR là hệ quả tất yếu của quá trình sử dụng thuốc trong điều trị và đặc biệt
gia tăng khi việc lạm dụng thuốc kháng sinh ngày càng phổ biến hơn.
Trên thế giới đã xuất hiện
các vi khuẩn kháng với hầu hết kháng sinh, còn gọi là vi khuẩn siêu kháng thuốc.
Ở Việt Nam, hầu hết các cơ sở
khám, chữa bệnh đang phải đối mặt với tốc độ lan rộng các vi khuẩn kháng với
nhiều loại kháng sinh. Mức độ và tốc độ kháng thuốc ngày càng gia tăng, đang ở
mức báo động. Gánh nặng do kháng thuốc ngày càng tăng do chi phí điều trị tăng
lên, ngày điều trị kéo dài, ảnh hưởng đến sức khỏe người bệnh, cộng đồng và sự
phát triển chung của xã hội. Trong tương lai, các quốc gia có thể phải đối mặt
với khả năng không có thuốc để điều trị hiệu quả các bệnh truyền nhiễm nếu
không có các biện pháp can thiệp phù hợp.
Hiện nay, kháng thuốc không
phải là vấn đề mới, nhưng đã trở nên nguy hiểm, cấp bách, đòi hỏi phải có sự nỗ
lực tổng hợp nhằm giúp nhân loại tránh khỏi nguy cơ quay trở lại thời kỳ chưa
có kháng sinh. Tổ chức Y tế Thế giới (TCYTTG) nhận định, chúng ta đang sống
trong kỷ nguyên phụ thuộc kháng sinh và yêu cầu toàn cầu có trách nhiệm bảo vệ
nguồn thuốc kháng sinh quý giá cho thế hệ sau.
Ngày sức khỏe thế giới năm
2011, TCYTTG đã lấy khẩu hiệu phòng chống kháng thuốc là “Không hành động ngày
hôm nay, ngày mai không thuốc chữa” và kêu gọi các quốc gia phải có kế hoạch kịp
thời để đối phó với tình trạng kháng thuốc.
Do đó việc xây dựng Kế hoạch
chống kháng thuốc mang tính toàn diện, tổng thể, dài hạn là hết sức cần thiết đối
với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
I.
CƠ SỞ THỰC TIỄN
1. Thực
trạng kháng thuốc
1.1. Tình hình kháng thuốc
trên thế giới
Trên thế giới, đặc biệt là
các nước đang phát triển, vấn đề kháng thuốc đã trở nên báo động. Gánh nặng về
chi phí điều trị do các bệnh nhiễm khuẩn gây ra khá lớn do việc thay thế các
kháng sinh cũ bằng các kháng sinh mới, đắt tiền.
Năm 2011, tình hình lao
kháng thuốc đang xảy ra ở hầu hết các quốc gia.
Toàn cầu có khoảng 640.000
trường hợp lao đa kháng thuốc (MDR - TB), trong số đó khoảng 9% là siêu kháng
thuốc (XDR - TB) [1].
Ký sinh trùng sốt rét
Falciparum kháng với artemisinin đang nổi lên ở Đông Nam Á. Đề kháng với thuốc
chống sốt rét thế hệ trước đó như chloroquine và sulfadoxine-pyrimethamine là
phổ biến ở hầu hết các nước lưu hành sốt rét [2].
Việc tiếp cận toàn cầu đối với
các thuốc kháng vi rút để điều trị người bệnh HIV làm tăng nguy cơ kháng thuốc.
Sự kháng của vi rút đối với các thuốc này đang là mối đe dọa đối với loài người.
Khoảng 15% người bệnh được điều trị đã phải dùng đến các thuốc phác đồ bậc hai
và bậc ba. Chi phí các thuốc này gấp 100 lần so với các thuốc phác đồ bậc một.
Sự kháng thuốc của HIV tăng lên đặt ra một thách thức cần phải duy trì chương
trình tiếp cận toàn cầu ở các nước có thu nhập thấp. Các nước này cần phải tăng
cường các dịch vụ y tế và cải tiến chất lượng chăm sóc người nhiễm HIV để giảm
tối thiểu việc lan truyền vi rút kháng.
Số liệu nghiên cứu giám sát
ANSORP từ tháng 1/2000 đến tháng 6/2001 của 14 trung tâm từ 11 nước Đông Nam Á
cho thấy tỷ lệ kháng cao của vi khuẩn S. pneumoniae. Trong số 685 chủng
vi khuẩn S. pneumoniae phân lập được từ người bệnh, có 483 (52,4%) chủng
không còn nhạy cảm với penicillin, 23% ở mức trung gian và 29,4% đã kháng với
penicillin (MIC ≥ 2mg/l). Kết quả phân lập vi khuẩn cho thấy tỷ lệ kháng
penicillin ở Việt Nam cao nhất (71,4%) tiếp theo là Hàn Quốc (54,8%), Hồng Kông
(43,2%) và Đài Loan (38,6%). Tỷ lệ kháng erythromycin cũng rất cao, ở Việt Nam
là 92,1%, Đài Loan là 86%, Hàn Quốc là 80,6%, Hồng Kông là 76,8% và Trung Quốc
là 73,9%. Số liệu từ nghiên cứu giám sát đa trung tâm đã chứng minh rõ ràng về
tốc độ và tỷ lệ kháng của S. pneumoniae tại nhiều nước châu Á, những nơi
có tỷ lệ mắc bệnh nhiều nhất thế giới [3].
Theo số liệu nghiên cứu
KONSAR từ 2005-2007 ở các bệnh viện Hàn Quốc cho thấy S. aureus kháng
Methicillin (MRSA) 64%; K. pneumoniae kháng cephalosporin thế hệ 3 là
29%; E. coli kháng fluoroquinolone 27%, P. aeruginosa kháng 33%,
Acinetobacter spp. kháng 48%; P. aeruginosa kháng amikacin 19%, Acinetobacter
spp. kháng 37%. E. faecium kháng vancomycin và Acinetobacter spp.
kháng imipenem tăng lên dần. Tỷ lệ kháng phát hiện tại các phòng xét nghiệm của
E. coli và K. pneumoniae đối với cephalosporin thế hệ 3 và P.
aeruginosa đối với imipenem cao hơn trong bệnh viện [4].
Các thuốc kháng sinh điều trị
hiệu quả bệnh lỵ do Shigella trước đây đã bị kháng, vì vậy hiện nay
TCYTTG đang khuyến cáo dùng ciprofloxacin. Tuy nhiên tỷ lệ kháng ciprofloxacin
tăng lên nhanh chóng đã làm giảm cả độ an toàn và hiệu quả điều trị, đặc biệt
là đối với trẻ em.
AMR đã trở thành một vấn đề
nghiêm trọng trong điều trị bệnh lậu (gây ra bởi N. gonorrhoeae), thậm
chí liên quan đến cả cephalosporin uống (phương thuốc cuối trong điều trị) và
ngày càng gia tăng trên toàn thế giới. Nhiễm khuẩn do lậu cầu không thể điều trị
được sẽ dẫn đến tăng tỷ lệ bệnh và tử vong, do đó làm đảo ngược lại các thành tựu
đã đạt được trong chương trình kiểm soát các bệnh lây truyền qua đường tình dục.
Việc kiểm soát các loại bệnh này đã và đang chịu sự tác động bất lợi của sự
phát triển và lan rộng của tình trạng kháng thuốc.
Cơ chế kháng mới, như
beta-lactamase NDM-1, đã nổi lên trong số các trực khuẩn gram âm. Điều này có
thể làm mất hiệu quả của các kháng sinh mạnh - thường là chỉ định cuối cùng để
chống lại các chủng vi khuẩn đa kháng.
1.2. Tình hình sử dụng
kháng sinh và sự kháng thuốc tại Việt Nam
1.2.1. Sử dụng kháng sinh
trong cộng đồng:
Theo kết quả khảo sát về việc
bán thuốc kháng sinh ở các hiệu thuốc vùng nông thôn và thành thị các tỉnh phía
Bắc cho thấy nhận thức về kháng sinh và kháng kháng sinh của người bán thuốc và
người dân còn thấp đặc biệt ở vùng nông thôn. Trong tổng số 2953 nhà thuốc được
điều tra: có 499/2083 hiệu thuốc ở thành thị (chiếm tỷ lệ 24%) và 257/870 hiệu
thuốc ở nông thôn (chiếm tỷ lệ 29,5%) có bán đơn thuốc kê kháng sinh. Kháng
sinh đóng góp 13,4% (ở thành thị) và 18,7% (ở nông thôn) trong tổng doanh thu của
hiệu thuốc. Phần lớn kháng sinh được bán mà không có đơn 88% (thành thị) và 91%
(nông thôn). Mua kháng sinh để điều trị ho 31,6% (thành thị) và sốt 21,7% (nông
thôn). Ba loại kháng sinh được bán nhiều nhất là ampicillin/amoxicillin
(29.1%), cephalexin (12.2%) và azithromycin (7.3%). Người dân thường yêu cầu được
bán kháng sinh mà không có đơn 49,7% (thành thị) và 28,2% (nông thôn) [5].
1.2.2. Sử dụng kháng sinh
và tình hình kháng kháng sinh trong bệnh viện
Điểm lại kết quả báo cáo
tính nhạy cảm của các kháng sinh đã được tiến hành từ năm 2003-2006 cho thấy tỉ
lệ đề kháng của Klebsiella spp. đối với các kháng sinh cephalosporins thế
hệ 3, thế hệ 4, fluoroquinolon và aminosid đã tăng nhanh từ >30% trong năm
2003 lên >40% trong năm 2006; đối với Pseudomonas spp. từ >40%
trong năm 2004 lên >50% trong năm 2006 và đối với Acinetobacter spp.
từ >50% trong năm 2004 lên >60% trong năm 2006. Trong khi
imipenem/cilastatin, carbapenem được đưa vào thị trường Việt Nam mới gần được
10 năm, cũng đã giảm nhạy cảm đối với các trực khuẩn gram âm không sinh men.
Tỷ lệ đề kháng
imipenem/cilastatin của Pseudomonas spp. tăng dần qua các năm 12,5%
(2003), 15,5% (2005) và 18,4% (2006) [5].
Theo số liệu báo cáo của 15
bệnh viện trực thuộc Bộ, bệnh viện đa khoa tỉnh ở Hà Nội, Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng,
Hồ Chí Minh,… về sử dụng kháng sinh và kháng kháng sinh giai đoạn 2008 - 2009
cho thấy: năm 2009, 30 - 70% vi khuẩn gram âm đã kháng với cephalosporin thế hệ
3 và thế hệ 4, gần 40-60% kháng với aminoglycosid và fluoroquinolon. Gần 40% chủng
vi khuẩn Acinetobacter giảm nhạy cảm với imipenem.
Sử dụng kháng sinh trung
bình là 274,7 DDD/100 ngày-giường. Tỷ lệ này cao hơn đáng kể so với báo cáo của
Hà Lan cùng kỳ là 58,1 DDD/100 ngày-giường và báo cáo từ 139 bệnh viện của 30
nước châu Âu năm 2001 là 49,6 DDD/100 ngày-giường. Sự tương quan giữa việc dùng
kháng sinh và kháng kháng sinh thể hiện rõ khi tỷ lệ kháng của vi khuẩn gram âm
đối với cephalosporin thế hệ 4 cao ở những nơi việc tiêu thụ kháng sinh lớn
[6].
Theo kết quả “Tìm hiểu thực
trạng sử dụng kháng sinh trong nhiễm khuẩn bệnh viện tại các đơn vị điều trị
tích cực ở một số cơ sở khám, chữa bệnh” cho thấy 4 chủng vi khuẩn phân lập được
nhiều nhất là Acinetobacter spp, Pseudomonas spp, E.coli, Klebsiella
spp. Tần xuất nhiễm Acinetobacter spp. hay Pseudomonas spp.
chiếm tỷ lệ ưu thế (>50%) trong viêm phổi bệnh viện (thở máy hay không thở
máy). 4 chủng này đều là vi khuẩn đa kháng kháng sinh. Sự kháng thuốc cao đặc
biệt ở nhóm cephalosporin thế hệ 3, 4 (khoảng từ 66-83%) tiếp theo là nhóm
aminosid và fluoroquinolon tỷ lệ kháng xấp xỉ trên 60%.
Sự kháng thuốc cao còn được
phản ánh qua việc sử dụng kháng sinh theo kinh nghiệm ban đầu không phù hợp với
kết quả kháng sinh đồ là 74% [7].
1.2.3. Sử dụng thuốc
kháng lao và lao kháng thuốc
Báo cáo của TCYTTG năm 2012
ước tính, Việt Nam đứng thứ 12 trong 22 nước có gánh nặng bệnh lao cao trên
toàn cầu, đứng hàng thứ 14 trong số 27 quốc gia có gánh nặng lao đa kháng thuốc
trên thế giới.
Tỷ lệ lao kháng đa thuốc là
2,7% trong số bệnh nhân lao mới (khoảng 4800 bệnh nhân), 19% trong số bệnh nhân
lao điều trị lại (khoảng 3400 bệnh nhân)
TCYTTG ước tính năm 2011 có
khoảng 3.500 (95% CI: 2.600 - 4.700) bệnh nhân lao kháng đa thuốc trong số bệnh
nhân lao phổi được khám phát hiện [8].
Tuy nhiên, trong những năm gần
đây, tình hình bệnh lao trở nên phức tạp hơn do có tác động của đại dịch
HIV/AIDS và kháng thuốc.
Theo TCYTTG hiện nay bệnh
lao kháng thuốc là một vấn đề đặc biệt nghiêm trọng. Kết quả điều trị với người
bệnh kháng thuốc thường không cao, nhất là đối với người bệnh mắc lao kháng đa
thuốc. Chi phí điều trị người bệnh lao kháng đa thuốc tăng lên hàng trăm lần so
với người bệnh lao không kháng thuốc và thậm chí không thể điều trị được ở một
số trường hợp. Hiện nay, tỷ lệ kháng đa thuốc ở người bệnh lao mới tại Việt Nam
còn ở mức < 3%, song với số lượng người bệnh lao phổi AFB (+) mới phát hiện
tại Việt Nam hàng năm vẫn cao thì số lượng người bệnh mắc lao kháng đa thuốc
không phải là con số nhỏ. Hơn nữa mỗi năm có khoảng 350 người bệnh lao
phổi mạn tính và hầu hết trong số đó là lao phổi kháng đa thuốc làm nặng hơn
tình trạng kháng thuốc hiện nay.
Nguyên nhân vi khuẩn lao
kháng thuốc có thể là do vi khuẩn tự biến đổi để tồn tại; do người bệnh không
tuân thủ đúng phác đồ điều trị, tự ý ngừng thuốc, giảm liều...; do môi trường ô
nhiễm, do khạc nhổ, xả rác bừa bãi nơi công cộng…
Đây là những yếu tố khiến Việt
Nam có số người mắc lao và bị kháng thuốc cao.
1.2.4. Sử dụng thuốc điều
trị HIV và tình hình kháng HIV
Từ trường hợp nhiễm đầu tiên
được phát hiện vào năm 1990, tính đến ngày 31 tháng 03 năm 2012, số người nhiễm
HIV còn sống là 199.744 người, trong đó 49.369 người chuyển sang AIDS và 52.681
người tử vong do AIDS. Tốc độ dịch vẫn đang có chiều hướng gia tăng, tuy nhiên
có dấu hiệu chững lại trong những năm gần đây nhờ sự triển khai các chương
trình can thiệp.
Tại Việt Nam, từ giữa thập
niên 1990, thuốc ARV đã được sử dụng nhưng rất hạn chế tại một số tỉnh, thành
phố lớn, đặc biệt là ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh với phác đồ một hoặc kết
hợp hai loại thuốc ARV.
Từ năm 2005, phác đồ kết hợp
ba thuốc theo liệu pháp kháng retro vi rút hoạt tính cao (HAART) đã được đề cập
trong hướng dẫn quốc gia chẩn đoán và điều trị HIV/AIDS của Bộ Y tế. Trong đó,
vấn đề tuân thủ điều trị ARV được xem như là một trong các yếu tố tiên quyết
cho sự thành công của điều trị.
Việc sử dụng thuốc ARV cũng
làm xuất hiện các chủng vi rút HIV kháng ARV và nguy cơ làm lan truyền các chủng
kháng thuốc trong cộng đồng. Ở những nước mà thuốc ARV đã được đưa vào sử dụng
nhiều năm, 5-27 % những người mới nhiễm HIV mang các chủng vi rút HIV-1 có tính
kháng với một hay nhiều loại thuốc ARV.
Trong một nghiên cứu về tính
kháng thuốc được thực hiện tại thành phố Hồ Chí Minh, tỷ lệ vi rút HIV kháng
thuốc trên các đối tượng là những người nghiện chích ma túy, gái mại dâm và người
bệnh mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục chưa từng tiếp cận với ARV là
6,5 %. Các kết quả nghiên cứu của Viện Pasteur thành phố Hồ Chí Minh trên nhóm
thai phụ chưa tiếp cận ARV và trên những người mới nhiễm HIV (tuổi dưới 30, số
lượng tế bào lympho T CD4 +>500 tế bào/mm3 chưa dùng thuốc ARV) đều có tỷ lệ
HIV kháng thuốc thấp <5%. Một nghiên cứu khác tại thành phố Hồ Chí Minh, tỷ
lệ HIV kháng thuốc trên thai phụ tham gia chương trình PLTMC ở thời điểm trước
khi uống thuốc tương đối thấp 0,6 %. Hai tuần sau khi sinh, tỷ lệ thai phụ được
phát hiện có mang vi rút HIV kháng thuốc là 17,53 % và giảm xuống còn 3,06 %
hai tháng sau khi sinh. Các đột biến kháng 3TC thường phát hiện trong nhóm thai
phụ dùng phác đồ kết hợp AZT+3TC và đột biến kháng NVP ở những phụ nữ mang thai
dùng sd-NVP. Các đột biến kháng 3TC thường phát hiện trong nhóm thai phụ uống
phác đồ kết hợp AZT+3TC và đột biến kháng NVP ở những phụ nữ mang thai dùng
sd-NVP. Mặc dù sau khi ngưng uống thuốc dự phòng, tỷ lệ vi rút mang đột biến
kháng thuốc giảm dần theo thời gian, nhưng các chủng kháng thuốc có thể vẫn tồn
tại ở mức độ dưới ngưỡng được phát hiện và có thể tái bùng phát khi người mẹ được
điều trị với các phác đồ có các loại thuốc đã bị kháng.
Năm 2008, Bộ Y tế đã xây dựng
kế hoạch quốc gia về dự phòng, theo dõi HIV kháng thuốc theo khuyến cáo của
TCYTTG. Kế hoạch quốc gia bao gồm những nội dung liên quan đến: (1) thu thập
các chỉ số cảnh báo sớm HIV kháng thuốc; (2) theo dõi sự xuất hiện của HIV
kháng thuốc trong số những người bệnh điều trị ARV phác đồ bậc 1; và (3) điều
tra sự xuất hiện của HIV kháng thuốc trong số người nhiễm HIV chưa điều trị
ARV.
Kể từ năm 2008, hàng năm Việt
Nam đã tiến hành thu thập số liệu liên quan đến kết quả điều trị ARV cùng với
việc thu thập các chỉ số cảnh báo sớm HIV kháng thuốc tại các cơ sở điều trị
ARV đại diện trên toàn quốc.
Việc giám sát HIV kháng thuốc
ở những người mới nhiễm HIV chưa điều trị ARV đã được một số đơn vị thực hiện
cho thấy tỷ lệ kháng HIV dưới 5%.
1.2.5. Sử dụng kháng sinh
và kháng kháng sinh trong trồng trọt, chăn nuôi
Trong chăn nuôi, để hạn chế
rủi ro với các nguy cơ dịch bệnh, người chăn nuôi có thói quen dùng nhiều loại
kháng sinh, thuốc kích thích bao gồm cả các hoạt chất và thuốc thú y ngoài danh
mục lưu hành được sử dụng nhằm kích thích tăng trưởng hoặc phòng và điều trị
cho vật nuôi. Nếu không được kiểm soát tốt, việc sử dụng các loại hoạt chất,
thuốc thú y trong chăn nuôi sẽ gây ra một nguy cơ rủi ro lớn cho môi trường và
sức khỏe con người như hiện tượng kháng thuốc, kháng kháng sinh ở người, do tồn
dư kháng sinh từ phân, nước tiểu sang cây trồng và qua nguồn nước sang con người,...
Trong chăn nuôi công nghiệp có hiện tượng lạm dụng quá nhiều các loại kháng
sinh tổng hợp, số hộ sử dụng thuốc kháng sinh có từ 3 - 6 hoạt chất chiếm 27% số
trang trại nuôi lợn thịt, 24% trang trại nuôi lợn con và 10% số trang trại nuôi
gà thịt (Vũ Đình Tôn và cộng sự 2010). Việc sử dụng kháng sinh và hóa chất thú
y chủ yếu dựa vào kinh nghiệm dẫn tới người chăn nuôi thường tự ý tăng liều và
liệu trình điều trị. Sử dụng kháng sinh theo triệu chứng bệnh (44%), theo chỉ định
của thú ý viên là 33%, sử dụng kháng sinh theo khuyến cáo của nhà sản xuất chiếm
17% và chỉ 6% trang trại sử dụng kháng sinh theo kết quả thử nghiệm kháng sinh
đồ (Nguyễn Quốc Ân, 2009) [5].
1.2.6. Nhiễm khuẩn bệnh
viện và kiểm soát nhiễm khuẩn trong bệnh viện
Nhiễm khuẩn bệnh viện (NKBV)
là một trong những thách thức và là mối quan tâm hàng đầu tại Việt Nam cũng như
trên toàn thế giới. Nhiều nghiên cứu cho thấy NKBV làm tăng tỉ lệ tử vong, kéo
dài thời gian nằm viện, tăng thời gian sử dụng kháng sinh, làm tăng đề kháng
kháng sinh và tăng chi phí điều trị.
Thống kê của Mỹ cho thấy:
chi phí của một NKBV thường gấp 2 đến 4 lần so với những trường hợp không NKBV.
Trong đó chi phí phát sinh do nhiễm khuẩn huyết có liên quan đến dụng cụ đặt
trong lòng mạch là từ 34.508 đô la lên đến 56.000 đô la và do viêm phổi trên
người bệnh có thông khí hỗ trợ là từ 5.800 đô la lên đến 40.000 đô la. Tại Mỹ,
hằng năm ước tính có 2 triệu người bệnh bị NKBV, làm 90.000 người tử vong, làm
tốn thêm 4,5 tỉ đô la viện phí.
Tình hình NKBV tại Việt Nam
chưa được xác định đầy đủ. Có ít tài liệu và giám sát về NKBV được công bố. Những
tổn phí về nhân lực và tài lực do NKBV trong toàn quốc cũng chưa được xác định.
Có ba điều tra cắt ngang tầm quốc gia đã được thực hiện. Điều tra năm 1998 trên
901 người bệnh trong 12 bệnh viện toàn quốc cho thấy tỉ lệ NKBV là 11,5%, trong
đó nhiễm khuẩn vết mổ chiếm 51% trong tổng số các ca NKBV. Năm 2001 tỉ lệ NKBV
là 6,8% trong 11 bệnh viện và viêm phổi bệnh viện là nguyên nhân thường gặp nhất
(41,8%). Điều tra năm 2005 tỉ lệ NKBV trong 19 bệnh viện toàn quốc là 5,7% và
viêm phổi bệnh viện cũng là nguyên nhân thường gặp nhất (55,4%). Chưa có những
nghiên cứu quốc gia đánh giá chi phí của NKBV.
Các bệnh phát sinh do NKBV
có mức độ đa kháng thuốc kháng sinh cao hơn các bệnh do nhiễm khuẩn trong cộng
đồng. NKBV do vi khuẩn có sự đề kháng cao như S. aureus kháng
methicillin (MRSA) và Enterococci kháng vancomycin, A. baumanni, P.
aeruginosa đa kháng kháng sinh chiếm tỷ lệ đáng kể.
Thực trạng công tác kiểm
soát NKBV: Hệ thống tổ chức KSNK chưa hoàn thiện theo yêu cầu; Đội ngũ cán bộ
quản lý KSNK vừa thiếu vừa chưa đủ năng lực, phần lớn chưa được đào tạo; Cơ sở
hạ tầng và phương tiện thiết yếu phục vụ KSNK còn thiếu nhất là ở các bệnh viện
tuyến huyện; Nhiều nhiệm vụ chuyên môn trọng yếu về KSNK chưa được thực hiện;
chưa có hệ thống cơ sở dữ liệu về NKBV, dịch bệnh, vi sinh vật kháng thuốc,…
2.
Nguyên nhân kháng thuốc
2.1. Sử dụng thuốc kháng
khuẩn không thích hợp
Việc sử dụng quá liều, dưới
liều hoặc lạm dụng thuốc kháng khuẩn đều gây ra tình trạng kháng thuốc, tạo điều
kiện thuận lợi cho các vi sinh vật kháng thuốc xuất hiện, biến đổi và lây lan.
Thực tế nhiều người bệnh mua kháng sinh tự điều trị khi không có đơn của thầy
thuốc, sử dụng kháng sinh để điều trị đối với trường hợp không do bệnh lý nhiễm
khuẩn gây ra, sử dụng kháng sinh, thuốc không phù hợp với loại, chủng vi khuẩn,
vi rút, ký sinh trùng gây ra,.... sử dụng không đúng liều lượng, hàm lượng, thời
gian sử dụng...
2.2. Công tác kiểm nghiệm,
kiểm tra chất lượng thuốc còn hạn chế
Hệ thống kiểm tra chất lượng
chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế do còn thiếu năng lực kiểm nghiệm với nhiều
danh mục hoạt chất; chưa bảo đảm kiểm soát được chất lượng của tất cả các lô
hàng sản xuất khác nhau của từng loại sản phẩm lưu hành trên thị trường.
2.3. Phòng và kiểm soát
các bệnh truyền nhiễm chưa hiệu quả
Việc phòng và kiểm soát các
bệnh truyền nhiễm không hiệu quả làm tăng sự lan truyền của vi khuẩn kháng thuốc.
Người bệnh được điều trị trong bệnh viện là một nguồn lan truyền chính các vi
sinh vật đề kháng từ người này tới những người khác.
2.4. Hệ thống giám sát về
kháng thuốc chưa được thiết lập
Hiện tại, Việt Nam chưa có mạng
lưới giám sát quốc gia về kháng thuốc.
Việc giám sát về kháng thuốc
chỉ được thiết lập và triển khai ở một số đơn vị, như bệnh viện Bệnh nhiệt đới
trung ương, bệnh viện Bạch Mai, bệnh viện Nhi đồng 1...
Tuy nhiên, những hoạt động
giám sát chưa được thực hiện thường xuyên. Việc thiếu các cơ sở xét nghiệm có
thể xác định chính xác vi sinh vật đề kháng dẫn đến khó khăn trong việc phát hiện
các vi sinh vật đề kháng mới nổi, nên không thể có những hành động nhanh chóng
để khống chế tình trạng kháng thuốc này.
2.5. Sử dụng thuốc kháng
khuẩn trong chăn nuôi chưa được kiểm soát hợp lý
Kháng sinh ngày càng được sử
dụng rộng rãi trong chăn nuôi để thúc đẩy tăng trưởng và phòng ngừa bệnh tật. Điều
này có thể dẫn đến các vi sinh vật đề kháng và gây ra kháng thuốc ở người.
2.6. Các quy định chuyên
môn về khám, chữa bệnh chưa được cập nhật thường xuyên, liên tục
Nhiều bệnh truyền nhiễm chưa
có đủ các hướng dẫn chẩn đoán và điều trị hoặc hướng dẫn chưa được cập nhật.
Bên cạnh đó, việc quy định về sử dụng kháng sinh, làm kháng sinh đồ, xét nghiệm
vi sinh chưa hoàn thiện, đầy đủ; việc kiểm tra, giám sát trong quá trình thực
hiện tại các địa phương chưa được thường xuyên.
2.7. Nhận thức của cộng đồng,
cán bộ y tế về kháng thuốc còn hạn chế.
Thói quen tự chữa trị và “bắt
chước” đơn thuốc của người dân dẫn đến tình trạng sử dụng kháng sinh tùy tiện,
góp phần làm gia tăng sự kháng thuốc. Bên cạnh đó, trình độ cán bộ y tế, trang
thiết bị của một số cơ sở y tế, đặc biệt ở các tuyến dưới, vùng sâu, vùng xa
còn hạn chế, chưa có điều kiện, khả năng làm kháng sinh đồ nên người bệnh không
được sử dụng kháng sinh hợp lý.
3. Hậu
quả và gánh nặng do kháng thuốc
Kháng thuốc không phải là một
hiện tượng mới, tuy nhiên mức độ ngày càng trầm trọng và tốc độ gia tăng của vấn
đề này ảnh hưởng lớn đối với sức khỏe cộng đồng. Kết quả là chỉ sau 70 năm kể từ
khi giới thiệu thuốc kháng sinh, chúng ta đang phải đối mặt với khả năng của một
tương lai không có thuốc kháng sinh điều trị hiệu quả đối với một số bệnh nhiễm
khuẩn, nhất là đối với các phẫu thuật và phương pháp điều trị như hóa trị liệu
ung thư và cấy ghép mô, bộ phận cơ thể người.
Ngoài ra, kháng thuốc gây ra
sự khan hiếm, thiếu hụt các thuốc kháng khuẩn mới, đặc biệt ở người bệnh bị nhiễm
khuẩn do sinh vật đa kháng (MDR).
Các chi phí xã hội và tài
chính trong điều trị các bệnh nhiễm khuẩn kháng thuốc đặt gánh nặng đáng kể lên
mỗi cá nhân, gia đình và xã hội: do thời gian điều trị kéo dài, tiên lượng xấu
và lãng phí nhiều chi phí tiền thuốc do sử dụng thuốc không phù hợp.
II. CƠ SỞ
PHÁP LÝ
1. Luật Khám bệnh, chữa bệnh
số 40/2009/QH12 ngày 23 tháng 11 năm 2009
2. Luật Dược số 34/2005/QH11
ngày 14 tháng 6 năm 2005
3. Luật Phòng, chống bệnh
truyền nhiễm số 03/2007/QH12 ngày 21 tháng 11 năm 2007.
4. Luật Phòng, chống nhiễm
vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) số
64/2006/QH11 ngày 29 tháng 6 năm 2006.
5. Nghị định số
63/2012/NĐ-CP ngày 31 tháng 8 năm 2012 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Y tế.
6. Quyết định số 1208/QĐ-TTg
ngày 04 tháng 9 năm 2012 về việc phê duyệt chương trình mục tiêu quốc gia y tế
giai đoạn 2012-2015 của Thủ tướng chính phủ.
Phần
thứ hai
NỘI DUNG KẾ HOẠCH
I. MỤC
TIÊU
1. Mục tiêu chung
Đẩy mạnh các hoạt động
phòng, chống kháng thuốc, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác
phòng, chống dịch bệnh, khám bệnh, chữa bệnh để bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức
khỏe nhân dân.
2. Mục tiêu cụ thể
2.1. Nâng cao nhận thức của
cộng đồng và cán bộ y tế về kháng thuốc.
2.2.Tăng cường, hoàn thiện hệ
thống giám sát quốc gia về sử dụng kháng sinh và kháng thuốc
2.3.Bảo đảm cung ứng đầy đủ
các thuốc có chất lượng đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe nhân dân.
2.4.Tăng cường sử dụng thuốc
an toàn, hợp lý
2.5.Tăng cường kiểm soát nhiễm
khuẩn.
2.6.Tăng cường sử dụng kháng
sinh hợp lý, an toàn trong trồng trọt và chăn nuôi gia súc, gia cầm, thủy sản
II. NỘI
DUNG HOẠT ĐỘNG
1.
Nâng cao nhận thức của cộng đồng và cán bộ y tế về kháng thuốc
1.1. Hoạt động
a) Biên soạn tài liệu cho
đào tạo liên tục và phát triển các tài liệu truyền thông.
b) Tổ chức các hoạt động
truyền thông, gồm: truyền thông trực tiếp (tọa đàm, nói chuyện, tư vấn,…) và
truyền thông gián tiếp trên các phương tiện thông tin đại chúng (tivi spot,
radio spot, phổ biến kiến thức, bài viết trên báo,…).
1.2. Thời gian và lộ
trình thực hiện
Giai đoạn 1 (từ 2013 đến
2016):
a) Xây dựng các tài liệu
truyền thông: tờ rơi, pano, áp phích, tranh lật, video spot, tivi spot về tuyên
truyền, phổ biến nguyên nhân và hậu quả, các biện pháp phòng kháng thuốc.
b) Xây dựng các tài liệu để
hướng dẫn cho cán bộ y tế, cộng đồng về việc phòng, chống kháng thuốc.
c) Tổ chức các buổi tọa đàm,
nói chuyện và tư vấn giải đáp thắc mắc về phòng, chống kháng thuốc trên các
phương tiện thông tin đại chúng.
d) Tổ chức các hoạt động
truyền thông giáo dục sức khỏe về phòng, chống kháng thuốc trên các phương tiện
thông tin đại chúng từ trung ương đến địa phương.
đ) Tổ chức phát động tháng
phòng, chống kháng thuốc trên toàn quốc.
e) Tổ chức hội nghị tập huấn,
phổ biến, giáo dục pháp luật về phòng, chống kháng thuốc
g) Tổ chức các khóa đào tạo
liên tục, tập huấn về kỹ năng truyền thông, giám sát, đánh giá phòng, chống
kháng thuốc.
Giai đoạn 2 (từ 2016 –
2020):
Tiếp tục duy trì các hoạt động
truyền thông bên cạnh việc khảo sát, đánh giá kiến thức của cộng đồng về kháng
thuốc.
2.
Tăng cường, hoàn thiện, nâng cao năng lực hệ thống giám sát quốc gia về sử dụng
kháng sinh và kháng thuốc
2.1. Hoạt động
a) Xây dựng và hoàn thiện
các văn bản quy định về xét nghiệm vi sinh lâm sàng; quy trình xét nghiệm chuẩn,
xây dựng phòng xét nghiệm vi sinh chuẩn và phòng xét nghiệm tham chiếu;
b) Thiết lập hệ thống giám
sát kháng thuốc;
c) Tham gia xây dựng khung
chương trình, giáo trình đào tạo về vi sinh, kháng sinh trong các trường đại học,
trung cấp y - dược;
d) Đào tạo liên tục, tập huấn
nhằm nâng cao năng lực xét nghiệm vi sinh lâm sàng, năng lực nghiên cứu khoa học
của cán bộ về sự kháng thuốc;
đ) Xây dựng các chương trình
hợp tác đào tạo liên tục về chống kháng thuốc giữa các trường Y, Dược trong và
ngoài nước;
e) Xây dựng cơ sở dữ liệu về
sử dụng kháng sinh và kháng thuốc.
2.2. Thời gian và lộ
trình thực hiện
2.2.1. Giai đoạn 1
a) Xây dựng và hoàn thiện
các quy trình xét nghiệm chuẩn, hướng dẫn về xét nghiệm vi sinh lâm sàng.
b) Thành lập Trung tâm quốc
gia về xét nghiệm vi sinh lâm sàng.
c) Tập huấn, đào tạo liên tục
chuyên môn kỹ thuật về vi sinh lâm sàng cho các cán bộ làm xét nghiệm tại Trung
tâm chuẩn quốc gia và 30 xét nghiệm trong toàn quốc.
d) Xây dựng chức năng, nhiệm
vụ, cơ cấu tổ chức, nhân lực, trang thiết bị cho các phòng xét nghiệm vi sinh
lâm sàng.
đ) Tổ chức khóa học tập tại
nước ngoài về hệ thống giám sát kháng thuốc.
e) Thiết lập mạng lưới giám
sát về sử dụng kháng sinh và kháng thuốc tại 30 phòng xét nghiệm trong toàn quốc.
g) Xây dựng các biểu mẫu, phần
mềm theo dõi và báo cáo sử dụng kháng sinh, báo cáo tình hình kháng thuốc.
h) Triển khai các đề tài
nghiên cứu khoa học về kháng thuốc.
i) Tham gia các hội nghị
khoa học trong nước và nước ngoài về kháng thuốc.
2.2.2. Giai đoạn 2
a) Xây dựng được cơ sở dữ liệu
về sử dụng kháng sinh và sự kháng thuốc.
b) Xây dựng bộ chỉ số đánh
giá, thiết lập hệ thống thu thập xử lý thông tin, xây dựng trang web về theo
dõi, giám sát và đánh giá về kháng thuốc.
c) Tổ chức hội nghị khoa học
về chống kháng thuốc.
3. Bảo
đảm cung ứng đủ các thuốc thiết yếu có chất lượng
3.1. Hoạt động
a) Hoàn thiện, cập nhật hệ
thống các văn bản quy định về danh mục thuốc thiết yếu, danh mục thuốc chủ yếu
sử dụng trong các cơ sở khám, chữa bệnh;
b) Đầu tư cho sản xuất để
cung ứng cho thị trường các loại thuốc có chất lượng tốt, giá cả phù hợp;
c) Quản lý chất lượng thuốc
toàn diện trong suốt cả quá trình sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu, lưu hành và sử
dụng thuốc.
3.2. Thời gian và lộ
trình thực hiện
3.2.1. Giai đoạn 1
a) Cập nhật danh mục thuốc
thiết yếu, danh mục thuốc chủ yếu sao cho phù hợp với mô hình bệnh tật và điều
kiện kinh tế, xã hội của Việt Nam; phù hợp với tiến bộ về khoa học, kỹ thuật
trong y tế trong từng giai đoạn cụ thể và khả năng chuyên môn kỹ thuật của từng
tuyến.
b) Theo dõi, giám sát thuốc
giả lưu hành trên thị trường.
c) Tiếp tục đẩy mạnh triển
khai Đề án “Người Việt Nam ưu tiên dùng thuốc Việt Nam”.
d) Xây dựng, đề xuất cơ chế,
giải pháp để ưu tiên sản xuất thuốc generic cho các doanh nghiệp dược trong nước.
đ) Đầu tư cho sản xuất để
cung ứng cho thị trường các loại thuốc có chất lượng tốt, giá cả hợp lý.
3.2.2.Giai đoạn 2
Tiếp tục một số hoạt động của
giai đoạn trước năm 2015 kết hợp với Hội thảo khoa học chuyên đề về tăng cường
khả năng tiếp cận các thuốc thiết yếu của người bệnh.
4. Tăng
cường sử dụng thuốc an toàn, hợp lý
4.1. Hoạt động
a) Xây dựng và hoàn chỉnh, cập
nhật các văn bản quy định, hướng dẫn sử dụng thuốc hợp lý, Hướng dẫn sử dụng
kháng sinh, Hướng dẫn điều trị;
b) Hội thảo, hội nghị, tập
huấn, đào tạo liên tục về thực hành kê đơn thuốc tốt, thực hành dược lâm sàng.
c) Nâng cao năng lực hoạt động
của Hội đồng Thuốc và Điều trị;
d) Hội thảo, hội nghị đánh
giá việc sử dụng thuốc an toàn, hợp lý, đánh giá hoạt động của Hội đồng Thuốc
và Điều trị.
đ) Theo dõi, kiểm tra, giám
sát việc sử dụng thuốc an toàn, hợp lý trong các cơ sở khám, chữa bệnh.
e) Xây dựng, hoàn chỉnh
chương trình đào tạo, đào tạo liên tục về thực hành dược lâm sàng.
4.2. Thời gian và lộ
trình thực hiện
4.2.1. Giai đoạn 1
a) Xây dựng, cập nhật và ban
hành các Hướng dẫn điều trị.
b) Xây dựng tài liệu Hướng dẫn
sử dụng kháng sinh cho cán bộ y tế và cộng đồng.
c) Tập huấn, đào tạo liên tục
về thực hành dược lâm sàng, kê đơn thuốc tốt.
d) Xây dựng quy định về hoạt
động của Hội đồng Thuốc và Điều trị.
đ) Đào tạo liên tục, tập huấn
về Hướng dẫn điều trị cho cán bộ y tế.
e) Đánh giá sự tuân thủ Hướng
dẫn điều trị tại các cơ sở y tế.
g) Xây dựng văn bản quy định
việc đánh giá sử dụng thuốc.
h) Xây dựng bộ chỉ số đánh
giá sử dụng thuốc trong bệnh viện, ngoài cộng đồng
i) Giám sát, đánh giá về sử
dụng thuốc, giám sát tuân thủ điều trị, hoạt động của Hội đồng Thuốc và Điều trị
tại các cơ sở khám, chữa bệnh.
k) Hội thảo đánh giá về sử dụng
thuốc, hoạt động của Hội đồng Thuốc và Điều trị trong các cơ sở y tế.
4.2.2. Giai đoạn 2
a) Hợp tác nghiên cứu về sử
dụng thuốc, đặc biệt là kháng sinh
b) Đào tạo liên tục, tập huấn
trong nước và quốc tế về thông tin thuốc, sử dụng thuốc, thực hành dược lâm
sàng
c) Quản lý, thu thập thông
tin, đánh giá các chỉ số sử dụng thuốc
d) Hội thảo khoa học về
kháng sinh và kháng kháng sinh.
5. Tăng
cường kiểm soát nhiễm khuẩn.
5.1. Hoạt động
a) Hoàn thiện, cập nhật các
văn bản quy định về kiểm soát nhiễm khuẩn;
b) Đào tạo liên tục, tập huấn,
kiểm tra, giám sát, đánh giá việc thực hiện kiểm soát nhiễm khuẩn cho cán bộ y
tế.
c) Thúc đẩy hệ thống giám
sát và báo cáo số liệu để hình thành cơ sở dữ liệu về kiểm soát nhiễm khuẩn của
quốc gia.
5.2. Thời gian và lộ
trình thực hiện
5.2.1. Giai đoạn 1
a) Bổ sung, cập nhật và ban
hành các văn bản quy phạm pháp luật, chính sách, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia và
các tài liệu hướng dẫn KSNK bệnh viện.
b) Hoàn thiện tổ chức kiểm
soát nhiễm khuẩn theo quy định tại Thông tư số 18/2009/TT-BYT ngày 14/10/2009 về
hướng dẫn tổ chức thực hiện công tác KSNK trong các cơ sở khám, chữa bệnh.
c) Đào tạo liên tục, tập huấn
nâng cao kiến thức, kỹ năng thực hành kiểm soát nhiễm khuẩn cho cán bộ y tế và
cán bộ chuyên trách KSNK tại các cơ sở y tế.
d) Xây dựng các chỉ số giám
sát kiểm soát nhiễm khuẩn.
đ) Hình thành hệ thống giám
sát và báo cáo số liệu về nhiễm khuẩn bệnh viện từ các bệnh viện trực thuộc Bộ
Y tế và bệnh viện đa khoa tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
5.2.2. Giai đoạn 2
a) Đẩy mạnh công tác nghiên
cứu khoa học thuộc lĩnh vực KSNK.
b) Thường kỳ tổ chức Hội thảo
khoa học quốc gia 2 năm/lần và Hội thảo khoa học quốc tế về kiểm soát nhiễm khuẩn
5 năm/lần.
6. Tăng
cường sử dụng kháng sinh hợp lý, an toàn trong trồng trọt và chăn nuôi gia súc,
gia cầm, thủy sản
6.1. Hoạt động
a) Xây dựng các văn bản quy
định và hướng dẫn sử dụng kháng sinh, thuốc tăng trưởng trong trồng trọt và
chăn nuôi gia súc, gia cầm, thủy sản.
b) Xây dựng danh mục kháng
sinh được phép sử dụng và quy định giới hạn dư lượng kháng sinh trong trồng trọt
và chăn nuôi gia súc, gia cầm, thủy sản
c) Thiết lập hệ thống giám
sát sử dụng kháng sinh an toàn, hợp lý trong trồng trọt và chăn nuôi gia súc,
gia cầm, thủy sản.
6.2. Thời gian và lộ
trình thực hiện
6.2.1. Giai đoạn 1
a) Xây dựng các văn bản quy
định việc sử dụng kháng sinh trong nuôi trồng và chăn nuôi gia súc, gia cầm, thủy
sản
b) Quy định danh mục kháng
sinh và giới hạn dư lượng kháng sinh sử dụng trong trồng trọt và chăn nuôi gia
súc, gia cầm, thủy sản.
c) Thiết lập hệ thống giám
sát việc sử dụng kháng sinh trong trồng trọt và chăn nuôi gia súc, gia cầm, thủy
sản.
6.2.2. Giai đoạn 2
a) Hợp tác nghiên cứu, đánh
giá việc sử dụng kháng sinh và sự kháng thuốc trong trồng trọt và chăn nuôi gia
súc, gia cầm, thủy sản.
b) Đánh giá việc sử dụng
kháng sinh và sự kháng thuốc trong trồng trọt và chăn nuôi gia súc, gia cầm, thủy
sản.
c) Tiếp tục triển khai các
hoạt động nhằm ngăn chặn tình trạng kháng thuốc.
Phần
thứ ba
CÁC GIẢI PHÁP
I.
CƠ CHẾ CHÍNH SÁCH VÀ QUẢN LÝ
1. Từng bước hoàn thiện hệ
thống văn bản pháp quy và xây dựng các hướng dẫn chuyên môn kỹ thuật về kiểm
soát bệnh truyền nhiễm, kiểm soát nhiễm khuẩn, giám sát về kháng thuốc, tăng cường
sử dụng thuốc hợp lý.
2. Hoàn thiện hệ thống văn bản
về sử dụng kháng sinh trong nuôi trồng và chăn nuôi gia súc, gia cầm, thủy sản.
3. Tăng cường công tác thanh
tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định chuyên môn nghiệp vụ liên
quan đến hướng dẫn điều trị, sử dụng thuốc, nhà thuốc bệnh viện, chống nhiễm
khuẩn trong các cơ sở y tế.
4. Tăng cường đánh giá tình
hình dịch tễ bệnh lao, thuốc và trang thiết bị, tình hình bệnh lao nhiễm
HIV/AIDS, tình hình kháng thuốc của vi khuẩn lao.
5. Tăng cường giám sát chặt
chẽ chất lượng thuốc, không để thuốc kém chất lượng, thuốc giả lưu hành trên thị
trường.
6. Nâng cao năng lực quản lý
các chương trình: phòng chống lao, phòng chống HIV/AIDS, phòng chống kháng thuốc,
kiểm soát nhiễm khuẩn.
II.
THÔNG TIN, TRUYỀN THÔNG, GIÁO DỤC
1. Đẩy mạnh công tác phổ biến,
tuyên truyền, giáo dục pháp luật về sử dụng thuốc an toàn, hợp lý.
2. Nâng cao nhận thức của cộng
đồng, cán bộ y tế, người nuôi trồng và chăn nuôi gia súc, gia cầm, thủy sản về
kháng sinh và sự kháng thuốc.
3. Tiến hành vận động tháng
phòng, chống kháng thuốc
4. Tăng cường công tác giáo
dục truyền thông trong toàn dân, từng bước xã hội hóa công tác phòng, chống
lao: vận động, yêu cầu, sử dụng các thành phần của xã hội, người thân trong gia
đình người bệnh vào công tác phòng, chống lao ở mọi cấp độ và hình thức khác
nhau.
III.
CHUYÊN MÔN KỸ THUẬT VÀ ĐÀO TẠO
1. Hoàn thiện các hướng dẫn
chuyên môn, quy trình kỹ thuật trong khám, chữa bệnh, xét nghiệm vi sinh, giám
sát kháng thuốc làm cơ sở cho các đơn vị triển khai thực hiện.
2. Tăng cường đào tạo, nâng
cao trình độ cán bộ y tế, đa dạng hóa các loại hình đào tạo, đào tạo liên tục,
đào tạo bổ sung, đào tạo trong nước, nước ngoài về chẩn đoán, điều trị bệnh, đặc
biệt là bệnh truyền nhiễm; xét nghiệm vi sinh; kiểm soát nhiễm khuẩn, giám sát
kháng thuốc trong các cơ sở y tế.
3. Hoàn thiện khung chương
trình, giáo trình đào tạo về vi sinh, kháng sinh trong các trường đại học,
trung cấp y.
4. Tăng cường đầu tư cơ sở hạ
tầng, hỗ trợ phương tiện, trang thiết bị nhằm đáp ứng nhu cầu kiểm soát nhiễm
khuẩn, xét nghiệm vi sinh, giám sát kháng thuốc, kiểm nghiệm chất lượng thuốc.
5. Nâng cấp các phòng xét
nghiệm, trung tâm nghiên cứu về vi sinh tại các bệnh viện Trung ương, trường đại
học Y trong nước
6. Không ngừng nâng cao chất
lượng thuốc và đánh giá tương đương sinh học.
7. Đảm bảo cung ứng đủ thuốc
trong Danh mục thuốc chủ yếu sử dụng tại các cơ sở khám, chữa bệnh.
8. Hoàn thiện hệ thống thu
thập số liệu và thống kê báo cáo, dần từng bước hiện đại hóa, ứng dụng công nghệ
tin học để có thể quản lý thông tin trên mạng trong toàn quốc.
9. Phối hợp hoạt động chống
lao quốc gia với các chương trình y tế quốc gia khác tại các tuyến quận, huyện,
phường xã và thôn bản.
IV. TÀI
CHÍNH
Đầu tư từ nguồn ngân sách
nhà nước, các nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA và các nguồn vốn hợp
pháp khác để triển khai thực hiện Kế hoạch hành động quốc gia về chống kháng
thuốc giai đoạn từ năm 2013 đến năm2020:
1. Trong nước: Các
đơn vị bảo đảm nguồn kinh phí để triển khai hoạt động trong phạm vi được phân
công và nguồn ngân sách nhà nước cấp theo kế hoạch hàng năm và 5 năm.
2. Huy động nguồn lực từ
các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ: WHO, quỹ nông lâm liên hiệp quốc,
GARP - Việt Nam, UNAIDS, World bank,...
V. NGHIÊN
CỨU KHOA HỌC VÀ HỢP TÁC QUỐC TẾ
1. Tăng cường nghiên cứu và
chuyển giao kỹ thuật mới trong chẩn đoán và điều trị bệnh truyền nhiễm, xét
nghiệm vi sinh, kiểm định chất lượng xét nghiệm vi sinh.
2. Nâng cao năng lực nghiên
cứu về đánh giá sử dụng thuốc, nghiên cứu kháng thuốc đặc biệt là nghiên cứu về
các vi khuẩn đa kháng thuốc.
3. Đẩy mạnh nghiên cứu về
nhiễm khuẩn bệnh viện.
4. Phối hợp với các đơn vị
liên quan để đẩy mạnh hợp tác nghiên cứu: đánh giá sử dụng kháng sinh, kháng
virút, ký sinh trùng; nghiên cứu về kháng thuốc đặc biệt là nghiên cứu về các
vi khuẩn đa kháng thuốc.
5. Tăng cường hợp tác quốc tế,
trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm, tham gia các hội thảo, hội nghị khoa học chuyên
ngành, các diễn đàn về phòng, kiểm soát bệnh truyền nhiễm, sử dụng thuốc hợp
lý, nhiễm khuẩn bệnh viện, kiểm định chất lượng xét nghiệm vi sinh, kháng thuốc.
6. Hợp tác quốc tế về đào tạo
liên tục, nghiên cứu sử dụng thuốc, thực hành dược lâm sàng.
Phần
thứ tư
TỔ CHỨC THỰC HIỆN
I.
THÀNH LẬP BAN CHỈ ĐẠO
1. Trưởng ban: Bộ trưởng Bộ
Y tế
2. Các Phó Trưởng ban: Thứ
trưởng Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
3. Các Ủy viên: Lãnh đạo Cục
Quản lý khám, chữa bệnh, Cục An toàn thực phẩm, Cục Y tế dự phòng, Cục Phòng,
chống HIV/AIDS, Cục Quản lý Dược, Cục Quản lý môi trường y tế, Cục Khoa học
công nghệ và Đào tạo,… Lãnh đạo Vụ Kế hoạch - Tài chính, Vụ Trang thiết bị và
Công trình y tế, Vụ Bảo hiểm y tế,…
Thanh tra Bộ của Bộ Y tế;
Các Vụ, Cục liên quan thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn.
4. Các thư ký: Đại diện các
Vụ, Cục liên quan của Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
5. Các tiểu ban chuyên môn:
a) Tiểu ban kiểm soát nhiễm
khuẩn
b) Tiểu ban điều trị (Truyền
nhiễm, Hồi sức tích cực, HIV/AIDS, Lao)
c) Tiểu ban giám sát, thanh
tra, kiểm tra việc sử dụng kháng sinh:
- Dự phòng,chẩn đoán, điều
trị trong các cơ sở y tế và cộng đồng
- Trồng trọt và chăn nuôi
gia súc, gia cầm, thủy sản
d) Tiểu ban hậu cần
đ) Tiểu ban truyền thông,
giáo dục
6. Bộ phận thường trực: Cục
Quản lý Khám, chữa bệnh
II.
PHÂN CÔNG TRÁCH NHIỆM THỰC HIỆN
1. Các đơn vị thuộc Bộ Y
tế
1.1. Cục Quản lý Khám, chữa
bệnh:
a) Làm đầu mối phối hợp với
các đơn vị liên quan triển khai chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện; tổng hợp các kết
quả hoạt động trong Kế hoạch để báo cáo Lãnh đạo Bộ Y tế;
b) Xây dựng các hướng dẫn
chuyên môn kỹ thuật về kiểm soát bệnh truyền nhiễm, phác đồ điều trị, giám sát
kháng thuốc, sử dụng thuốc;
c) Tổ chức kiểm tra, giám
sát việc thực hiện các quy định chuyên môn nghiệp vụ liên quan đến hướng dẫn điều
trị, sử dụng thuốc, kiểm soát nhiễm khuẩn trong các cơ sở y tế;
d) Thiết lập hệ thống giám
sát kháng thuốc quốc gia; theo dõi, quản lý, giám sát, cảnh báo sự kháng thuốc
và sự nguy hiểm của kháng thuốc; xây dựng cơ sở dữ liệu về sử dụng kháng sinh
và kháng thuốc; tập huấn, đào tạo liên tục chuyên môn kỹ thuật về vi sinh lâm
sàng cho các cán bộ làm xét nghiệm tại Trung tâm chuẩn quốc gia và 30 phòng xét
nghiệm trong toàn quốc;
đ) Hình thành hệ thống giám
sát và báo cáo số liệu về nhiễm khuẩn bệnh viện từ các bệnh viện trực thuộc Bộ
Y tế và bệnh viện đa khoa tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
e) Giám sát, đánh giá về sử
dụng thuốc, giám sát tuân thủ điều trị, đẩy mạnh hoạt động của Hội đồng Thuốc
và Điều trị tại các cơ sở khám, chữa bệnh;
g) Tổ chức đánh giá tình
hình dịch tễ bệnh lao, thuốc và trang thiết bị, tình hình bệnh lao nhiễm
HIV/AIDS, tình hình kháng thuốc của vi khuẩn lao.
1.2. Cục Quản lý Dược
a) Thực hiện các biện pháp
nhằm nâng cao chất lượng thuốc và đánh giá tương đương sinh học.
b) Cung ứng đủ thuốc trong
Danh mục thuốc chủ yếu sử dụng tại các cơ sở khám, chữa bệnh.
c) Theo dõi, giám sát thuốc
giả lưu hành trên thị trường.
1.3. Cục Phòng, chống
HIV/AIDS
a) Đầu mối thu thập số liệu
liên quan đến kết quả điều trị ARV; thu thập các chỉ số cảnh báo sớm HIV kháng
thuốc tại các cơ sở điều trị HIV/AIDS đại diện trên toàn quốc.
b) Theo dõi, giám sát, đánh
giá HIV kháng thuốc trên người bệnh đang điều trị và ở những người mới nhiễm
HIV chưa điều trị ARV.
c) Triển khai các biện pháp
nhằm nâng cao năng lực cho các labo xét nghiệm kháng HIV.
1.4. Cục Y tế dự phòng
Theo dõi, giám sát, nghiên cứu,
đánh giá sử dụng kháng sinh và kháng kháng sinh trong cộng đồng
1.5. Cục An toàn thực phẩm
Theo dõi, giám sát dư lượng
kháng sinh trong thực phẩm ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người dân.
1.6. Thanh tra Bộ
Tổ chức thanh tra, kiểm tra
việc bán thuốc kháng sinh không theo đơn.
1.7. Vụ Kế hoạch - Tài
chính
a) Hướng dẫn các đơn vị liên
quan lập dự trù kinh phí hàng năm theo nội dung kế hoạch được phân công.
b) Đầu tư từ nguồn ngân sách
nhà nước, các nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức và các nguồn vốn hợp pháp
khác để triển khai thực hiện Kế hoạch hành động quốc gia về chống kháng thuốc giai
đoạn 2013-2020.
c) Bố trí, phân bổ ngân sách
thường xuyên cho các bệnh viện thực hiện các giải pháp phòng, chống kháng thuốc.
1.8. Vụ Bảo hiểm y tế, Cục
Quản lý môi trường y tế
Phối hợp với các đơn vị liên
quan để triển khai Kế hoạch hành động phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được
giao.
1.9. Cục Khoa học công
nghệ và Đào tạo
a) Đề xuất, hỗ trợ, ưu tiên
cho các nghiên cứu và chuyển giao kỹ thuật mới trong chẩn đoán bệnh truyền nhiễm,
xét nghiệm vi sinh.
b) Đào tạo nâng cao năng lực
nghiên cứu về đánh giá sử dụng thuốc, nghiên cứu kháng thuốc đặc biệt là nghiên
cứu về các vi khuẩn đa kháng thuốc, nghiên cứu về nhiễm khuẩn bệnh viện.
c) Tăng cường đào tạo liên tục
với các hình thức phù hợp trong và ngoài nước nhằm nâng cao trình độ của cán bộ
y tế.
d) Hoàn thiện khung chương
trình, giáo trình đào tạo về vi sinh, kháng sinh trong các cơ sở đào tạo y và
dược.
1.10. Vụ Truyền thông và
Thi đua, khen thưởng
Chủ trì, phối hợp với các
đơn vị liên quan trong việc phổ biến, tuyên truyền giáo dục, nâng cao nhận thức
của cộng đồng và cán bộ y tế về phòng chống kháng thuốc, vận động thực hiện
tháng hành động chống kháng thuốc.
1.11. Sở Y tế các tỉnh/thành
phố trực thuộc trung ương
Chỉ đạo các đơn vị thuộc tỉnh
xây dựng kế hoạch, triển khai thực hiện, bố trí nguồn lực để thực hiện kế hoạch
hành động quốc gia chống kháng thuốc giai đoạn 2013-2020 phù hợp với hoàn cảnh
cụ thể của từng địa phương.
1.12. Bệnh viện
a) Xây dựng kế hoạch cụ thể
phù hợp với điều kiện của từng đơn vị để triển khai thực hiện Kế hoạch hành động
quốc gia về chống kháng thuốc giai đoạn 2013-2020.
b) Bố trí nguồn lực cho các
hoạt động phòng chống kháng thuốc: nâng cấp các phòng xét nghiệm vi sinh, tăng
cường kiểm soát nhiễm khuẩn; giám sát, kiểm tra việc sử dụng kháng sinh không hợp
lý,…
2. Bộ Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn
Bộ Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn phân công các đơn vị phối hợp với Bộ Y tế để chỉ đạo, hướng dẫn các
đơn vị liên quan xây dựng quy định về sử dụng kháng sinh, danh mục kháng sinh,
giới hạn dư lượng kháng sinh sử dụng trong trồng trọt và chăn nuôi gia súc, gia
cầm, thủy sản. Thanh tra, kiểm tra, giám sát việc sử dụng kháng sinh trong trồng
trọt và chăn nuôi gia súc, gia cầm, thủy sản.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Global tuberculosis
control 2012- WHO
2. Transatlantic Taskforce
on Antimicrobial Resistance, U.S & E.U, 2011.
3. Nghiên cứu giám sát
ANSORP từ 1/2000 đến 6/2001 (Song JH & ANSORP. Antimicrobial Agents And
Chemotherapy, June 2004, p. 2101–2107).
4. Nghiên cứu KONSAR từ
2005-2007 ở các bệnh viện Korea (Yonsei Med J. 2010 Nov;51(6):901-11)
5. Phân tích thực trạng sử dụng
kháng sinh và kháng kháng sinh tại Việt Nam, 2010 (Situation Analysis on
Antibiotic Use and Resistance in Vietnam, 2010, GARP – Việt Nam)
6. Báo cáo sử dụng kháng
sinh và kháng kháng sinh tại 15 bệnh viện Việt Nam năm 2008-2009 (Report on AB
use and resistance in 15 hospitals in Vietnam 2008-2009).
7. Lý Ngọc Kính, Ngô Thị
Bích Hà và cộng sự, “tìm hiểu thực trạng sử dụng kháng sinh trong nhiễm khuẩn
bệnh viện tại các đơn vị điều trị tích cực ở một số cơ sở khám, chữa bệnh”
năm 2009-2010.