TỔNG
CỤC LÂM NGHIỆP
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
40-LN
|
Hà
Nội, ngày 20 tháng 07 năm 1963
|
THÔNG TƯ
GIẢI THÍCH VÀ HƯỚNG DẪN THI HÀNH ĐIỀU LỆ TẠM THỜI VỀ SĂN BẮT
CHIM THÚ RỪNG
I. MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA CỦA ĐIỀU
LỆ SĂN BẮT
Tài nguyên chim thú rừng, cũng
như các tài nguyên thiên nhiên khác của đất nước ta, thuộc quyền sở hữu của
toàn dân. Nhà nước có trách nhiệm quản lý, bảo vệ. Mọi người dân đều có nghĩa vụ
tham gia vào việc bảo vệ phát triển chim thú rừng để phục vụ lợi ích chung của
toàn dân.
Chim thú rừng nước ta có nhiều
giá trị về các mặt kinh tế và khoa học, trong nước và trên thế giới, ngoài ra
còn giá trị về mặt văn hóa. Nhưng tài nguyên quý giá này chưa được bảo vệ chu
đáo. Số lượng chim thú ở nước ta giảm sút nhiều trong vòng một nửa thế kỷ này,
có những loài hiếm, quý, đến nay hầu như đã bị tiêu diệt do việc săn bắt bừa
bãi gây nên:
Tình hình chim thú rừng bị giết
hại nghiêm trọng đề ra yêu cầu cấp thiết phải đẩy mạnh công tác bảo vệ. Chính
phủ vừa ra Nghị định số 39-CP, ngày 05-04-1963 ban hành điều lệ tạm thời về săn
bắt chim thú rừng.
Mục đích của điều lệ là bảo vệ
và phát triển những loài có ích, hiếm và quý, đồng thời khai thác hợp lý tài
nguyên về chim thú rừng. Các quy định trong điều lệ nhằm mấy yêu cầu sau đây:
1. Bảo vệ các loài chim
thú rừng có ích, quý và hiếm, bảo vệ chim thú rừng trong mùa sinh đẻ, và trong
những trường hợp chúng không phá hoại sản xuất, hoặc trực tiếp đe dọa tính mạng
người.
2. Ngăn cấm dùng các
phương pháp và phương tiện săn bắt nguy hiểm cho người và gia súc, giết hại
hàng loạt chim thú rừng.
3. Dần dần quản lý việc
săn bắt chim thú rừng với mục đích thể thao, giải trí, nghiên cứu khoa học hoặc
kinh doanh.
Thông tư này giải thích quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành điều lệ để đạt mục đích yêu cầu nói trên.
Tinh thần của điều lệ là nêu lên
những biện pháp cần thiết để bảo vệ và dần dần phục hồi, phát triển tài nguyên
chim thú rừng. Vì là bước đầu, những biện pháp này chưa thật là chặt chẽ, nhưng
nếu được áp dụng nghiêm chỉnh,cũng sẽ có tác dụng nghiêm chỉnh, cũng sẽ có tác
dụng tốt. Mỗi cán bộ nhất là cán bộ lâm nghiệm, và mỗi người dân, nhất là các
nhà đi săn và đồng bào miền núi, phải nhận thức đầy đủ và tự giác thực hiện.
Riêng đối với đồng bào miền núi, điều lệ có chiếu cố thích đáng đến phong tục tập
quán, vì việc săn bắt chim thú đối với đồng bào còn là một hoạt động thường
xuyên, có mục đích cải thiện đời sống, bảo vệ tính mạng người và gia súc, bảo vệ
sản xuất.
II. NHỮNG BIỆN PHÁP BẢO VỆ
Điều lệ quy định những biện pháp
bảo vệ sau đây:
1. Phân biệt các loài chim thú cấm săn bắt, các loài hạn
chế săn bắt và các loài được săn bắt.
a) Điều 1 của điều lệ quy định danh sách
19 loài chim thú cần được bảo vệ triệt để, nghĩa là cấm bắn, bẫy chết làm bị
thương, bẫy bắt sống, cấm cả việc thu nhặt trứng (trứng công, gà lôi, gà sao,
chim trĩ) đào hang (hang têtê), phá tổ (tổ chim và ổ nằm của thú). Trong số những
loài này có những loài có giá trị kinh tế lớn như voi, bò rừng, hươu sao, hươu
sa, có những loài quý như công, trĩ, gà lôi, gà sao, bò tót, vẹc, kỳ lạ như sóc
bay, cầy bay, có ích như tê tê, có những loài đã trở nên hiếm như trâu rừng,
cheo cheo, chồn mực, vượn, culi, có những loài hầu như bị tiêu diệt như tê
giác, heo vòi.
Có thể ở một số địa phương một số
trong những loài nói trên không quý, hiếm, nhưng nhìn chung trong cả nước thì lại
là hiếm, quý.
b) Những loài thú dữ: hổ, báo, beo, gấm,
gấu…. cũng là những loài có giá trị và tương đối ít ở nước ta, cần được bảo vệ,
nhưng vì là thú dữ, nên điều 2 quy định có thể bắn chết nếu chúng trực tiếp uy
hiếp tính mạng người, nghĩa là nếu không bắn thì chúng có thể vồ người làm chết
hay bị thương. Ở một số nơi, có nhiều thú dữ, nếu chúng thường hay rình bắt người
qua lại trong rừng, hoặc thường hay lẫn vào thôn, xóm quấy nhiễu nhân dân thì
nhân dân có thể tổ chức bắt sống, hoặc bẫy chết, bắn chết. Cần quán triệt tinh
thần của quy định là kết hợp đúng đắn yêu cầu bảo vệ tính mạng người, không được
vịn vào lý do bảo vệ người để lợi dụng bắn bẫy, bắt thú kiếm lời, lấy xương nấu
cao, lấy mật làm thuốc.
c) Ngoài những loài chim thú cấm hẳn việc
săn bắt kể trong điều 1 và những loài hạn chế săn bắt kể trong điều 2, còn lại
là những loài được phép săn bắt.
2. Phân biệt các trường hợp săn bắt:
Ngoài trường hợp bắn, bẫy, bắt để
bảo vệ tính mạng người (điều 2), có trường hợp săn bắt để bảo vệ sản xuất nông,
lâm, ngư nghiệp (điều 3), trường hợp săn bắt với mục đích cải thiện đời sống,
giải trí, thể thao (điều 4), và trường hợp săn bắt để phục vụ yêu cầu khoa học,
văn hóa, chăn nuôi, xuất khẩu hoặc những yêu cầu đặc biệt khác (điều 5).
a) Có những loài chim thú rừng có thể gây
thiệt hại cho sản xuất nông lâm ngư nghiệp. Điều 3 của điều lệ đề ra biện pháp
ngăn chặn chim thú đến phá hoại sản xuất: trước hết cần tìm mọi cách xua đuổi,
chỉ sau khi xua đuổi không có kết quả mới được bẫy bắt sống (những loài có thể
nuôi được như nai, hoẵng v.v…), hoặc bẫy chết, bắn chết nhưng cũng chỉ trong phạm
vi đất đai trồng trọt, chăn nuôi, và liền chung quanh phạm vi đó. Quy định chặt
chẽ như vậy là để ngăn ngừa việc săn bắt bừa bãi, không thực sự cần thiết cho
việc bảo vệ sản xuất.
Điều 3 nhấn mạnh việc xử lý đúng
mức đối với voi đến phá hoại ruộng nương, nhà cửa vườn tược của nhân dân vì voi
là một loài rất quý, hiếm có thể thuần hóa để sử dụng trong khai thác gỗ, vận
chuyển trên những tuyến đường hiểm trở, một loài cần phải được bảo vệ tích cực
(điều 1). Biện pháp chủ yếu là tìm mọi cách xua đuổi. Nếu xua đuổi tích cực nhiều
lần mà voi vẫn đến phá hoại thì mới bắn chết.
Trường hợp có cả một đàn voi kéo
đến phá hoại mà cần bắn chết, thì chỉ được bắn một con và phải chọn con già,
con đực, không được bắn voi cái, voi con. Sau khi bắn chết phải báo cáo ngay với
Ủy ban hành chính huyện. Ủy ban hành chính huyện sẽ kiểm tra lại xem việc bắn
có thật là cần thiết hay không và báo cáo qua Ủy viên hành chính tỉnh, về Tổng
cục Lâm nghiệp.
b) Trường hợp săn bắt với mục đích cải
thiện đời sống, giải trí, thể thao, chỉ được săn bắt những loài không kể tên
trong các điều 1 và 2 và trong mùa săn doTổng cục Lâm nghiệp quy định hàng năm,
(trường hợp cần bắn, bẫy, bắt thú dữ uy hiếp tính mạng người, hoặc cần săn bắt
để bảo vệ sản xuất, thì không phải theo mùa quy định). Mùa săn nằm trong thời
gian mà đa số các loài chim thú không sinh đẻ và nuôi con nhỏ.
c) Theo điều 5 của điều lệ, để phục vụ
yêu cầu khoa học, văn hóa, chăn nuôi, xuất khẩu, hoặc những yêu cầu đặc biệt
khác, Tổng cục Lâm nghiệp được tổ chức hoặc cho phép tổ chức săn bắt một số
loài chim thú rừng, có thể là cả những loài ghi trong điều 1 và điều 2, trong
hoặc ngoài mùa săn, trong cả những khu vực cấm săn, với những phương tiện cần
thiết.
Đây là một quy định có tính chất
đặc biệt, cần áp dụng hạn chế trong một phạm vi nhất định.
d)
Xử lý chim thú sau khi săn bắt:
Sau khi bắn chết voi để bảo vệ sản
xuất, một mặt phải báo cáo với Ủy ban hành chính huyện, mặt khác phải lột da
nguyên vẹn và lấy bộ xương đầy đủ, giữ gìn cặp ngà nếu có, và báo cho cơ quan
Lâm nghiệp đến thu mua.
Sau khi bắn chết thú dữ để bảo vệ
tính mạng người, bắn chết thú đến phá hoại sản xuất, cũng như sau khi săn bắn
được thú trong các trường hợp khác cũng cần lột da nguyên vẹn và bảo quản tốt,
để bán cho cơ quan thu mua, không nên ăn cả da, hoặc bỏ phí. Nếu bẫy bắt sống
được chim thú quý, hiếm, nên nuôi, chăm sóc tốt, hoặc bán cho cơ quan thu mua,
không giết thịt phí phạm.
3. Quy định cấp giấy phép săn bắt:
Thủ tục về giấy phép săn bắt được
quy định trong các điều 9, 10, 11 và 12 của điều lệ, là nhằm bảo vệ chim thú rừng
khỏi bị giết hại quá mức, bảo đảm trật tự an ninh chung, tạo điều kiện thuận tiện
cho việc điều tra theo dõi tình hình săn bắt và tình hình tài nguyên chim thú rừng.
Trong điều 9, có nêu trường hợp
săn bắt bằng những phương tiện thô sơ thì không phải xin giấy phép săn bắt.
Phương tiện thô sơ, là phương diện dùng chỉ bắt được chim thú nhỏ, với số lượng
rất ít. Nếu dùng chó săn đuổi thú lớn như nai, hoẵng, lợn rồi dùng giáo mác
đâm, hay cung nỏ bắn, thì phải xin cấp giấy phép săn bắt.
Săn bắt bằng súng đạn, tuy hiện
nay cơ quan Công an chưa quản lý, nhưng ai muốn săn bằng súng hơi cũng phải xin
cấp giấy phép săn.
Người được cấp giấy phép săn bắt
loại A, để săn bắt các loài thú nhỏ và các loài chim, có thể đi săn bắt trong
phạm vi nhiều tỉnh. Còn giấy phép săn bắt loại B chỉ cho phép săn bắt 4 loài
thú nhất định (nai, hoẵng, sơn dương, lợn rừng), với tổng số tối đa là sáu con,
và trong phạm vi một tỉnh. Mỗi tỉnh sẽ ấn định tổng số bốn loài thú nói trên
cho săn bắt hàng năm.Nhưng trong mùa săn bắt 1963 – 1964, vì chưa ấn định được
số lượng đó, cho nên giấy phép săn bắt loại B còn cho phép săn bắt trong phạm
vi hai tỉnh. Người được cấp giấy phép loại A chỉ được săn bắt các loài chim thú
thuộc giấy phép loại A. Người được cấp giấy phép loại B chỉ được săn bắt các
loài thú thuộc giấy phép loại B. Mỗi người có thể xin cấp cả hai loại giấy
phép.
Khi xin cấp giấy phép loại A phải
trả ngay khoản tiền 5 đồng, cùng phí tổn về giấy tờ. Khi xin cấp giấy phép loại
B, ngoài phí tổn về giấy tờ, phải trả ngay một khoản tiền tính theo số lượng
con thú muốn săn bắt: từ 5 đồng nếu muốn săn bắt một con thú cho tới 30 đồng, nếu
muốn săn bắt số lượng tối đa là sáu con thú (trong số bốn loài đã quy định).
Sau khi được cấp giấy phép, nếu
vì lý do gì không săn bắt được con chim, con thú nào, cũng không có quyền đòi
hoàn lại số tiền đã nộp.
Khi giấy phép săn bắt hết hạn,
người có giấy phép phải gửi trả lại cơ quan đã cấp, sau khi đã ghi đầy đủ về
các loài chim thú đã săn bắt được, theo lời chỉ dẫn trong giấy phép.
Riêng đối với miền núi, điều 10
của điều lệ quy định là nhân dân miền núi săn bắt chim thú với mục đích cải thiện
đời sống, giải trí, thể thao, không phải xin cấp giấy phép săn bắt. Việc miễn
giấy phép chỉ áp dụng ở những nơi nào, và đối với những người nào mà tập quán
săn bắt chim thú rừng còn là một yêu cầu sinh hoạt cần thiết hàng ngày. Còn những
người là đồng bào dân tộc miền núi, nhưng đã đi làm việc ở cơ quan, công, nông,
lâm trường v.v… nếu muốn đi săn bắt, cũng phải xin cấp giấy phép săn bắt. Các địa
phương cần nghiên cứu áp dụng một cách thận trọng và linh hoạt việc miễn giấy
phép đối với nhân dân miền núi, để giải quyết tốt yêu cầu bảo vệ chim thú rừng
kết hợp với yêu cầu chiếu cố đến tập quán của địa phương, làm cho đồng bào nhận
thức được chính sách đúng đắn của Đảng và Chính phủ.
Tuy được miễn giấy phép săn bắt,
nhưng đồng bào miền núi khi săn bắt cũng phải theo những điều kiện ghi trong điều
4 của điều lệ, cụ thể là:
- Không được săn bắt các loài
chim thú kể trong điều 1 và điều 2 của điều lệ.
- Chỉ được săn bắt trong mùa săn
do Tổng cục Lâm nghiệp quy định hàng năm.
- Chỉ được săn bắt ngoài những
khu cấm săn bắt (kể trong điều 7 và điều 8 của điều lệ).
4. Quy định khu cấm săn bắt, khu săn bắt:
Điều 7 của điều lệ cấm săn bắt ở
những nơi tập trung đông người như nội thành, nội thị… là nhằm đảm bảo an ninh,
đồng thời bảo vệ một số loài chim bắt sâu có tác dụng lớn chống sâu bệnh cho
cây cối.
Để tạo điều kiện cho các loài
chim thú rừng sinh sống yên ổn, phát triển mau chóng, điều 7 còn cấm săn bắt ở
những khu bảo vệ thiên nhiên (bảo vệ thực vật và động vật), những khu dự trữ
chim thú rừng và những khu chăn nuôi đã được Chính phủ quy định.
Điều 8 của điều lệ đề ra biện
pháp phân chia đất săn bắt của khu, tỉnh ra nhiều khoảnh có ranh giới tự nhiên rõ
ràng, và lần lượt cấm săn bắt ở từng khoảnh, trong thời gian cần thiết (3 – 4
năm) cho chim thú rừng ở khoảnh cấm đó có điều kiện thuận lợi để sinh sản và
phát triển. Ví dụ: diện tích đất săn bắt của một tỉnh được phân ra thành 4 khoảnh:
A, B, C, D, lần đầu, theo đề nghị của Ty lâm nghiệp, Ủy ban hành chính tỉnh quyết
định cấm săn bắt trong khoảnh A, trong thời gian ba năm còn các khoảnh B, C, D,
thì mở cho săn bắt, hết thời hạn ba năm cấm săn bắt trong khoảnh A, đến lượt cấm
săn bắt trong khoảnh B, cùng trong ba năm, trong khi đó các khoảnh A, B, D, mở
cho săn bắt, và cứ như thế, luân chuyển cấm săn bắt cho tới khoảnh D.
5. Quy định các phương pháp và phương tiện săn bắt cấm
dùng.
Việc sử dụng bừa bãi các phương
pháp và phương tiện săn bắt là nguyên nhân chủ yếu giết hại chim thú, là nguyên
nhân phá hoại rừng và đất rừng, đồng thời là nguyên nhân gây tai nạn chết hoặc
bị thương đối với người và gia súc. Vì vậy mà điều 6 của điều lệ quy định cấm
dùng 9 phương pháp và phương tiện săn bắt nguy hiểm hay gây thiệt hại lớn. Trước
hết là phương pháp đốt đồng cỏ, lau lách, bụi rậm, rừng cây, nói chung là đốt
các loài thực vật trên một diện tích đất đai để dồn thú lại một chỗ mà săn bắt,
hoặc thiêu chết thú, chim non và trứng chim, gà rừng, gà gô v.v… hoặc để có chất
mặn ở than tro thực vật, hoặc để cỏ non mọc lên, làm mồi nhử thú đến mà săn bắt.
Cách đội đèn săn ban đêm cũng cấm
dùng vì:
- Dùng đèn soi rất khó phân biệt
con thú thuộc loài nào, con đực hay con cái, non hay già, nhất là đối với người
đi săn còn ít kinh nghiệm, do đó mà giết hại bừa bãi cả những con cần được bảo
vệ.
- Người soi đèn săn đêm ít kinh
nghiệm có thể bắn nhầm phải người và gia súc, trong thực tế đã xảy ra nhiều vụ
bắn nhầm như vậy.
Cũng cần tránh cả việc săn ban
đêm tối trời hoặc có trăng, hay lúc tờ mờ sáng, lúc sâm sẩm tối, vì trông không
rõ, rất dễ bắn nhầm phải người, hoặc gia súc.
Người đi săn không được dùng
súng trận hoặc súng trận cải biến còn nòng xoáy, và đạn bọc đồng đầu nhọn, vì
các loại súng và đạn đó bắn rất mạnh, đường đạn đi rất xa, xuyên qua thân thể
con thú rồi còn có thể gây tai nạn cho người và gia súc. Chỉ riêng có công an,
bộ đội, dân quân du kích đã quen sử dụng súng trận là được phép dùng loại vũ
khí này bắn thú để bảo vệ người, hoặc bảo vệ sản xuất. Những người hiện nay
đang có đăng ký sử dụng súng trận cái biến để săn bắn, nếu là nòng láng và dùng
đạn ria bằng chì, thì có thể xin cấp giấy phép săn.
Tên tẩm thuốc độc, chất độc để
đánh bả là những phương tiện cấm dùng vì hầu hết các con thú bị trúng độc không
chết ngay tại chỗ, mà còn chạy được xa mới chết, rất khó tìm, phải bỏ phí trong
rừng. Mặt khác, nếu thuốc độc trúng nhầm phải người hay gia súc, thì khó mà cứu
chữa được.
III. KHEN THƯỞNG, KỶ LUẬT
Điều 13 của điều lệ quy định việc
xử lý các vụ vi phạm điều lệ, điều 14 quy định việc khen thưởng những cá nhân
hoặc tập thể có thành tích chấp hành điều lệ.
Điều lệ về săn bắt chim thú mới
được ban hành, cần có thời gian tuyên truyền, giải thích trong cán bộ và nhân
dân để mọi người hiểu rõ điều lệ, tự giác chấp hành. Trong các trường hợp xử
lý, cần cân nhắc thận trọng, đặc biệt là ở những vùng miền núi, cần chú trọng
giải thích, giáo dục, đối với những người vì chưa hiểu rõ điều lệ mà mắc sai lầm,
xử lý thích đáng đối với những người cố tình vì phạm điều lệ hoặc tái phạm nhiều
lần. Việc xử lý phải linh hoạt, có lý có tình, tùy theo đối tượng phạm pháp và
mức độ, phạm vi của mỗi vụ vi phạm.
Việc khen thưởng phải làm kịp thời,
tùy theo mức độ thành tích, mà có thể đề nghị Ủy ban hành chính huyện, tỉnh, hoặc
khu tuyên dương, cấp giấy khen, hoặc bằng khen.
IV. KẾ HOẠCH TIẾN HÀNH
Ủy ban hành chính khu, tỉnh,
thành, nhất là ở miền rừng núi, chỉ đạo các cơ quan lâm nghiệp địa phương
nghiên cứu kỹ điều lệ và thông tư này để nắm vững tinh thần và nội dung, trên
cơ sở đó tiến hành ngay việc tuyên truyền, phổ biến, tổ chức học tập trong cán
bộ, quân đội và nhân dân. Ủy ban hhh khu, tỉnh, thành ra thông cáo về việc thi
hành điều lệ săn bắt, và dùng báo chí, phát thanh để tuyên truyền phổ biến rộng
rãi trong nhân dân, chỉ thị cho các Ủy ban hành chính huyện, xã, cơ quan công
an nghiên cứu ngay tổ chức kiểm tra việc thi hành điều lệ.
Căn cứ vào phong tục tập quán của
mỗi dân tộc ở mỗi nơi trong địa phương, Ủy ban hành chính các tỉnh miền núi,
sau khi thống nhất ý kiến với Tổng cục Lâm nghiệp, sẽ ấn định thời gian bắt đầu
thi hành và kế hoạch thi hành từng bước điều lệ này ở địa phương đối với đồng
bào miền núi (điều 15). Cần xúc tiến ngay việc này, để quá chậm thì không có lợi
cho việc bảo vệ và các loài chim thú quý, hiếm.
Cơ quan Lâm nghiệp ở tỉnh cần lập
ngay kế hoạch kế hoạch học tập và tuyên truyền phổ biến điều lệ cùng thông tư
trong cán bộ và nhân dân, ghi vào chương trình công tác 6 tháng cuối năm 1963
và cả năm 1964, và báo cáo kế hoạch về Tổng cục, chậm nhất là cuối tháng 8-1963.
Mặt khác cần phân công cán bộ phụ trách vấn đề chim thú rừng, chuẩn bị cấp giấy
phép săn bắt cho mùa săn 1963 – 1964, nghiên cứu biện pháp hướng dẫn và kiểm
tra việc thi hành điều lệ. Cũng cần tiếp tục điều tra tình hình chim thú, để bước
đầu đánh giá được trữ lượng của bốn loài thú lớn (nai, hoẵng, sơn dương, lợn rừng),
tuy chưa được chính xác lắm, nhưng đủ để ấn định số lượng mỗi loài cho săn bắt
hàng năm.
Dưới sự lãnh đạo của Ủy ban hành
chính tỉnh, cơ quan Lâm nghiệp ở tỉnh cũng cần nghiên cứu ngay việc phát hiện
và quy định những khu bảo vệ thiên nhiên, kết hợp việc bảo vệ chim thú với việc
bảo vệ rừng, và danh lam thắng cảnh, xác định ranh giới và đóng bảng niêm yết ở
chung quanh và trong khu vực cấm săn, phân chia đất săn, của tỉnh ra làm nhiều
khoảnh.
Cơ quan Lâm nghiệp tỉnh sẽ trực
tiếp chỉ đạo một địa phương (Huyện hay xã) thi hành điều lệ, rút kinh nghiệm
và báo cáo về Tổng cục Lâm nghiệp.
Cán bộ lâm nghiệp cần phải nắm vững
ý nghĩa và nội dung điều lệ, và gương mẫu chấp hành nghiêm chỉnh.
Cho đến nay, chúng ta mới có một
văn bản quy định toàn diện và có hệ thống việc săn bắt chim thú rừng, trong quá
trình áp dụng, không tránh khỏi có khó khăn và lúng túng. Đề nghị các địa
phương nghiên cứu kỹ điều lệ và thông tư để vận dụng theo đúng tinh thần, nội
dung của văn bản, và kịp thời phản ảnh những khó khăn mắc mứu để Tổng cục Lâm
nghiệp có ý kiến và biện pháp giải quyết.
|
TỔNG CỤC TRƯỞNG
TỔNG CỤC LÂM NGHIỆP
Nguyễn Tạo
|