BỘ
NÔNG LÂM
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
37-NL/LN
|
Hà
Nội, ngày 13 tháng 10 năm 1959
|
THÔNG TƯ
VỀ VIỆC LẬP QUY HOẠCH CÁC VÙNG KINH TẾ LÂM NGHIỆP
Trong công tác lâm nghiệp từ ngày
hòa bình lập lại đến nay chúng ta đã có nhiều cố gắng nhưng chưa kịp với yêu cầu
chung của công cuộc phát triển kinh tế, đưa miền Bắc tiến lên Xã hội chủ nghĩa.
Nhiều hiện tượng bất hợp lý còn xẩy ra.
Với khai thác rừng còn thiếu tổ
chức, tập trung vào nơi gần nơi dễ, bỏ nơi xa, nơi khô, chặt cây tốt, bỏ cây xấu,
chặt cây non, bỏ cây già, lãng phí cành ngọn. Kế hoạch khai thác không cơ sở
trên khả năng, vốn rừng bị hao hụt, trạng thái rừng ngày càng suy kiệt, thoái
hóa.
Việc đốt nương và lửa rừng hàng năm
thiêu hủy hàng vạn công mẫu rừng, cản trở việc phục hồi rừng, ảnh hưởng đến việc
phòng chống lũ, lụt, hạn hán.
Công tác cải tạo, trồng cây gây
rừng, chưa đẩy kịp với tốc độ khai thác, chưa nói đến bảo đảm cung cấp nhu cầu
to lớn sau này.
Nguyên nhân có tình trạng trên
là vì:
1. Việc kinh doanh rừng thiếu
toàn diện, nặng về khai thác, nhẹ về bảo vệ, gây trồng và bồi dưỡng rừng, lợi
trước mắt nhưng không bảo đảm tương lai.
2. Rừng núi chưa được quy hoạch
hợp lý, do đó hoạt động lâm nghiệp chưa đi vào nề nếp, trật tự, đặc biệt là việc
khai thác còn rất bừa bãi.
3. Nhiều khu rừng thực tế chưa
có tổ chức chịu trách nhiệm quản lý, coi như tài sản thiên nhiên, mọi người tự
do sử dụng.
Tóm lại công tác lâm nghiệp chưa
thật sự đi vào nề nếp xã hội chủ nghĩa mà còn chịu ảnh hưởng nhiều của lề lối
làm ăn cũ.
Nghị quyết Trung ương lần thứ 14
ghi: “Phải có những quy định toàn diện về bảo vệ rừng, trồng cây gây rừng, khai
thác rừng v.v… Ngành Lâm nghiệp cần kết hợp chặt chẽ với các ngành liên quan như
Quốc phòng, Thủy lợi,Giao thông, Bưu điện v.v… để tiến hành điều tra rừng, xây
dựng quy hoạch toàn diện về kinh doanh quản lý rừng”.
Gần đây căn cứ vào nghị quyết của
Thường vụ Hội đồng Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ lại ra thông tư số 335-TTg
ngày 08-09-1959, ghi nhiều vấn đề căn bản đối với lâm nghiệp, trong đó có vấn đề
quy hoạch kinh doanh rừng.
Căn cứ vào các nghị quyết và chỉ
thị trên,Bộ quy định dưới đây một số vấn đề căn bản của việc quy hoạch từng bước,
để địa phương căn cứ thực hiện.
I. MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA, VỊ TRÍ CỦA CÔNG
TÁC QUY HOẠCH KINH DOANH RỪNG
Diện tích rừng của ta rất rộng,
điều kiện tự nhiên và kinh tế mỗi nơi mỗi khác; việc định phương châm và biện
pháp kinh doanh phải thích hợp với đặc điểm tự nhiên và kinh tế mỗi địa phương.
Đó là nhiệm vụ của quy hoạch kinh doanh rừng.
Quy hoạch kinh doanh rừng sẽ
giúp khắc phục tình trạng quản lý chắp vá, vạch phương hướng phát triển cho nền
kinh tế lâm nghiệp từng vùng, làm cơ sở cho việc đặt các kế hoạch lâm nghiệp ngắn
hạn và dài hạn, đảm bảo lâm nghiệp phát triển cân đối với các ngành khác và
phát triển cân đối với việc gây trồng, khai thác, tu bổ, cải tạo và bảo vệ rừng
trong nội vụ kinh doanh rừng toàn diện và thống nhất. Việc quy hoạch kinh doanh
rừng là một công tác cơ bản, không thể thiếu được trong việc quản lý lâm nghiệp.
Nhờ có quy hoạch ta mới có thể khắc phục được tình trạng kinh doanh mù quáng, sử
dụng hợp lý đất đai, làm cho sản xuất miền núi phát triển toàn diện, ta sẽ có
phương hướng cụ thể, hướng hoạt động lâm nghiệp tiến lên từng bước chắc chắn,
có trọng tâm trọng điểm, phát huy được triệt để tác dụng của rừng núi, đưa nền
kinh tế lâm nghiệp tiến lên xã hội chủ nghĩa.
II. CÁC KHÓ
KHĂN THUẬN LỢI
Tiến hành quy hoạch kinh doanh rừng
có nhiều khó khăn vì ta còn thiếu kinh nghiệm trong lúc đầu, nhưng có nhiều thuận
lợi:
- Việc phát triển kinh tế chung
của Nhà nước và của nhân dân đòi hỏi đi vào tổ chức và kế hoạch.
- Sự lãnh đạo các cấp các ngành
ngày càng toàn diện tạo điều kiện cho việc quy hoạch.
- Kinh nghiệm của cán bộ và nhân
dân trong công tác quản lý lâm nghiệp.
III. NỘI DUNG
VÀ CÁC BƯỚC XÂY DỰNG QUY HOẠCH
Bước 1: Quy hoạch sơ bộ
các vùng kinh tế lâm nghiệp lớn, có trình độ phát triển khác nhau trong một tỉnh;
bước này chỉ làm ở cấp tỉnh (nội dung cụ thể xem phần dưới).
Bước 2: Xây dựng quy hoạch
tại các đơn vị cơ sở hoặc trực tiếp kinh doanh: xã, nông trường, xí nghiệp, Hợp
tác xã v.v… nhằm xác định mục đích và biện pháp kinh doanh thích hợp nhất với
điều kiện tự nhiên và kinh tế mỗi nơi.
Bước 3: Sau khi xây dựng
xong quy hoạch các đơn vị cơ sở, chủ yếu là quy hoạch xã, từng huyện sẽ tập hợp
chung thành quy hoạch của huyện, và tỉnh sẽ dựa vào quy hoạch của huyện để điều
chỉnh lại quy hoạch tỉnh.
Tóm lại việc lập quy hoạch có 3
bước, mỗi bước có yêu cầu nhất định, nhưng cuối cùng vẫn là thống nhất, việc lập
quy hoạch lần đầu tất nhiên chưa thể chính xác, còn phải tiếp tục điều chỉnh, bổ
sung trong quá trình quản lý lâm nghiệp sau này.
Việc lập quy hoạch các vùng kinh
tế của tỉnh trong bước 1 là cơ sở mấu chốt, làm được tốt, xác định được phương
hướng rõ ràng thì mới có thể thực hiện quy hoạch ở các đơn vị cơ sở trong các
bước sau.
IV. NHỮNG ĐIỂM
QUY ĐỊNH CƠ BẢN CỦA VIỆC LẬP QUY HOẠCH SƠ BỘ CÁC VÙNG KINH TẾ LÂM NGHIỆP TRONG
BƯỚC 1
A. Mục đích yêu cầu:
- Sơ bộ tập hợp tình hình rừng
và đất rừng cùng mọi hoạt động và nhân tố liên quan đến kinh tế lâm nghiệp
trong toàn tỉnh.
- Sơ bộ phận vùng theo tình hình
phát triển kinh tế lâm nghiệp để xác định phương châm kinh doanh lâm nghiệp
thích hợp mỗi vùng, đáp ứng yêu cầu cung cấp và phòng hộ hiện nay và tương lai;
làm cơ sở cho việc lãnh đạo lâm nghiệp trong tỉnh bước đầu đi vào trọng điểm;
chuẩn bị nghiên cứu kế hoạch dài hạn; vạch phương hướng cho việc xây dựng quy
hoạch kinh doanh quản lý rừng ở các đơn vị (xã, hợp tác xã, nông trường, xí nghiệp).
B. Nội dung công tác:
1. Nắm vững tình hình các điều
kiện tự nhiên và kinh tế của hoạt động lâm nghiệp (diện tích rừng và đất rừng,
khả năng thiết bị, khả năng lao động v.v…) tình hình kinh tế lâm nghiệp và yêu
cầu của các ngành có liên quan đến rừng núi (khai khẩn, chăn nuôi, cây công
nghiệp, hầm mỏ, xí nghiệp…).
2. Quy hoạch các vùng kinh tế
lâm nghiệp có trình độ và khả năng phát triển khác nhau.
3. Xây dựng phương châm kinh
doanh rừng cho từng loại vùng.
C. Các nguyên tắc lớn:
1. Quy định các vùng kinh tế lâm
nghiệp làm 3 vùng như sau:
Vùng A: Vùng cường độ kinh doanh
cao trong hiện tại hay một tương lai gần, cụ thể những vùng có triển vọng trở
thành những rừng cung cấp gỗ lâu dài:
- Sẵn có điều kiện giao thông
thuận lợi, đảm bảo vận xuất được hết số gỗ sản xuất hoặc những vùng dự trữ gỗ
quan trọng tuy hiện nay chưa có đường giao thông nhưng không đòi hỏi phải làm
đường xa quá.
- Tương tối gần các trung tâm
tiêu thụ.
- Tương đối đông dân cư đảm bảo
nhân lực kinh doanh lâm nghiệp ở cường độ cao.
- Các khu đất rừng cần trồng rừng
nhanh chóng vì lý do phòng hộ cấp bách.
Đi vào cụ thể có thể xếp những
vùng đã, đang khai thác hoặc sẽ khai thác trong thời gian kế hoạch 5 năm sắp tới.
Vùng B: Vùng cường độ kinh doanh
thấp trong hiện tại nhưng trong tương lai có thể cao:
- Các khu rừng hiện có, hiện tại
giao thông chưa thuận tiện, xa dân cư, chỉ mới sản xuất được một ít gỗ củi
nhưng tương lai có thể mở mang giao thông và cường độ kinh doanh có thể tăng
thêm.
- Các đồi trọc ở gần dân cư.
Nói chung, vùng B có tính chất dự
trữ.
Vùng C: Vùng cường độ kinh doanh
thấp trong một thời gian lâu dài:
- Các khu rừng hay đất rừng có địa
hình khó khăn, xa nơi tiêu thụ, xa nơi dân cư, gỗ chưa có giá trị kinh tế trong
một thời gian dài.
Trong từng vùng nói trên cần xác
định những khu vực phòng hộ quan trọng ảnh hưởng đến diện tích lớn.
2. Hướng kinh doanh đối với mỗi
vùng: (đây là gợi ý, mỗi địa phương sẽ cụ thể hóa cho sát với địa phương).
Vùng A: Áp dụng triệt để toàn bộ
phương châm công tác lâm nghiệp đề ra:
- Tích cực thanh toán nạn cháy rừng.
- Tích cực giải quyết vấn đề đốt
rẫy.
- Thực hiện khai thác toàn diện
đi đôi với cải tạo rừng, ít nhất cũng phải đảm bảo tái sinh rừng.
- Đẩy mạnh phong trào trồng cây
gây rừng, tiến lên vượt tốc độ khai thác; loại cây trồng có thể là gỗ tạo tác,
trụ mỏ, gỗ dán, gỗ cho nhu cầu công nghiệp; phục vụ kế hoạch chung kết hợp nhu
cầu địa phương.
- Điều tra , điều chế nhanh các
khu rừng định mở xí nghiệp lâm nghiệp.
- Đối với những nơi chưa chủ
trương lập xí nghiệp sẽ xúc tiến hoàn thành việc lập quy hoạch kinh doanh quản
lý rừng tận các cơ sở, chủ yếu là quy hoạch xã.
- Về kiến thiết cơ bản chủ yếu
là mở mang và tu bổ đường sá, giúp cho việc chuyển vận lâm sản được thuận tiện
và tạo điều kiện tăng cường công tác lâm nghiệp.
- Tổ chức quản lý rừng phải đảm
bảo có đủ cán bộ quản lý sát tận cơ sở từng khu rừng.
Vùng B: Tranh thủ áp dụng toàn bộ
phương châm công tác lâm nghiệp để thực sự là một vùng dự trữ cho tương lai;
- Triệt để bảo vệ rừng hiện có,
phòng chống cháy rừng.
- Hạn chế và hướng dẫn làm nương
rẫy hợp lý vào những nơi đất bằng, tạo điều kiện định canh, định cư, tránh làm
rẫy vào những vùng phòng hộ và rừng có lâm sản quý.
- Có thể khai thác chọn đi đôi với
đảm bảo tái sinh gỗ có giá trị.
- Trên những vùng đất trống, vận
động trồng cây công nghiệp, trồng lâm sản phụ, cây lấy nhựa, vỏ, hạt, trồng những
loại cây trong nhân dân đã có tập quán.
- Tiến tới lập quy hoạch xã kết
hợp điều tra tài nguyên rừng.
- Hết sức coi trọng việc mở mang
đường sá để chuẩn bị cho kế hoạch thời gian sắp đến.
- Về tổ chức quản lý, chủ yếu
trước mắt là dựa vào xã, lâm nghiệp sẽ lập các trạm kỹ thuật, hướng dẫn về kỹ
thuật cho cấp xã và các đơn vị kinh doanh như hợp tác xã, nông trường.
Vùng C: Chủ yếu là vận động phòng
chống nạn cháy rừng vào bảo vệ rừng:
- Hướng dẫn làm rẫy hợp lý như
vùng B.
- Đẩy mạnh trồng cây cung cấp
lâm sản phụ nhẹ, dễ vận chuyển, có giá trị kinh tế cao (quế, sa nhân …).
- Các mặt khác tùy tình hình cụ
thể để đặt vấn đề sát đúng.
Trong những khu vực có tác dụng
phòng hộ, trong mỗi loại vùng A, B, C nói trên, mọi chủ trương kinh doanh phải
đảm bảo phát huy tác dụng phòng hộ (như cấm chặt trắng, tích cực hạn chế rẫy
chuyển sang định canh, định cư, đẩy mạnh trồng cây gây rừng).
D. Phương chậm của việc lập
quy hoạch của tỉnh:
- Kết hợp lợi ích trước mắt và lợi
ích lâu dài.
- Kết hợp lợi ích bộ phận với lợi
ích toàn thể.
- Không cầu toàn, nắm tình hình
đến đâu, lập quy hoạch đến đó, quy hoạch sơ bộ sau sẽ bổ sung dần.
Ngành Lâm nghiệp chủ động, đồng
thời tranh thủ sự phối hợp với các ngành khác dưới sự lãnh đạo của Ủy ban.
E. Phương pháp tiến hành:
Theo sự hướng dẫn tỷ mỉ của Cục
Lâm nghiệp, đại cương có thể như sau:
Đợt 1 - Nắm tình hình:
Sưu tầm tình hình (rừng, khí hậu,
địa hình, giao thông, phân bố nhân khẩu và sức lao động, phân bố các loại kiến
thiết kinh tế, tập quán sản xuất sẵn có …). Sắp xếp số liệu, lên bản đồ, theo
yêu cầu đề ra trong phần nội dung. Dựa vào các ngành liên quan để sưu tầm.
Ty Lâm nghiệp hoặc Ty Nông lâm tập
hợp tình hình theo dõi trong thời gian qua, họp những người am hiểu tình hình rừng
và cán bộ Ty để phát hiện và liên lạc với các ngành liên quan như: Ban Công tác
nông thôn, thống kê, kế hoạch, giao thông thủy lợi, khí tượng thủy văn, thương
nghiệp, tài chính…
Những tình hình chưa nắm được hoặc
nắm được nhưng còn hồ nghi thì sẽ bổ sung trong đợt quy hoạch xã.
Đợt 2 – Dự kiến quy hoạch sơ bộ
các vùng kinh tế lâm nghiệp và phương châm kinh doanh:
Ty dự kiến và đề nghị Ủy ban
Hành chính tỉnh tổ chức cuộc họp giữa các ngành liên quan để thống nhất nhận định
tình hình, phân định vùng và đề ra phương châm kinh doanh.
Đợt 3 - Tỉnh sơ bộ duyệt quy hoạch
và dự kiến kế hoạch hướng dẫn lập quy hoạch xã:
Sau đợt 2, Ty Lâm nghiệp tập hợp
ý kiến dự thảo lại quy hoạch sơ bộ, trình Ủy ban Hành chính tỉnh duyệt sơ bộ, cần
dự kiến kế hoạch lập quy hoạch xuống xã (định nơi thí điểm, thời gian tiến
hành, phân công đào tạo cán bộ).
Tiến hành thí điểm quy hoạch xã,
đào tạo cán bộ hướng dẫn của Ty Lâm nghiệp đủ cho mỗi huyện một người.
Đợt 4 - Gửi quy hoạch về Bộ duyệt
sơ bộ lần đầu, điều chỉnh chỗ bất hợp lý (trong tháng 12-59). Bộ sơ kết kinh
nghiệm lập quy hoạch xã; xong 4 đợt trên có thể coi như xong quy hoạch tỉnh sẽ
tiếp tục như sau:
Đợt 5 - Tiến hành thí điểm đào tạo
cán bộ xã trong từng huyện.
Đợt 6 - Mở rộng diện lập quy hoạch
xã,
Đợt 7 – Ty tổng kết việc lập quy
hoạch xã, trình lấy ý kiến Ủy ban Hành chính tỉnh.
Đợt 8 - Bộ duyệt chính thức quy
hoạch các tỉnh.
Kế hoạch thời gian cụ thể tiến
hành các đợt 5, 6, 7, 8 sẽ định sau.
G. Vấn đề lập quy hoạch ở
vùng đồng bằng:
Ở vùng đồng bằng, trừ những khu
vực dành cho sản xuất nông nghiệp,chăn nuôi hoặc dùng vào mục đích khác, những
nơi còn lại như bãi biển, cồn hoang, bãi lầy, đồi núi trọc… quy hoạch kinh doanh
rừng nhằm phát hiện những diện tích có khả năm tiềm tàng dùng vào việc trồng
cây gây rừng và đề xuất ý kiến về vấn đề phân công và tổ chức thực hiện việc
gây trồng.
Các tỉnh trung du kết hợp làm
luôn khi nhận được chỉ thị này; đối với các Ty Nông lâm đồng bằng sẽ có chỉ thị
riêng.
V. LÃNH ĐẠO TỐT
VIỆC QUY HOẠCH
1. Về tư tưởng: Cần quan niệm
thông suốt việc lập quy hoạch các vùng kinh tế lâm nghiệp là cơ sở bước đầu đưa
việc kinh doanh lâm nghiệp vào nề nếp.
Trong khi xây dựng quy hoạch,cần
tránh hai khuynh hướng; cầu toàn, đòi hỏi tỷ mỷ, đi đến chỗ thấy nhiều khó khăn
không tin tưởng làm được; hay ngược lại qua loa đại khái, không kiên trì tập hợp
nghiên cứu phân tích để sử dụng những tình hình có thể nắm được.
2. Về tổ chức: Việc lập quy hoạch
lâm nghiệp liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp, Ủy ban Hành chính tỉnh cần vận
dụng các ngành các cấp thiết thực phối hợp với cơ quan nông lâm, Lâm nghiệp
cung cấp mọi tình hình và tích cực tham gia xây dựng các chủ trương công tác
lâm nghiệp.
Tuy nhiên ngành Lâm nghiệp không
vì thế mà đòi hỏi cầu toàn, hoặc ỷ lại chờ đợi. Hiện nay có thể có những tình
hình chưa thể cung cấp được hoặc cung cấp chưa đầy đủ; trong trường hợp này bản
thân ngành Lâm nghiệp phải chủ động tìm mọi cách khắc phục, phải nghiên cứu đề
xuất vấn đề.
3. Thời gian: Từ nay đến
15-12-1959 cần làm xong các việc ghi trong đợt 1, 2, 3.
Việc lập quy hoạch lâm nghiệp rất
cần thiết và quan trọng, mong Ủy ban Hành chính các khu, tỉnh và khu, ty Nông
lâm, ty Lâm nghiệp thi hành được kịp thời và kết quả; có khó khăn đề nghị báo
cáo kịp thời giải quyết.
|
K.T.
BỘ TRƯỞNG BỘ NÔNG LÂM
THỨ TRƯỞNG
Nguyễn Tạo
|