BỘ
THUỶ LỢI
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
28-TL-ĐĐ
|
Hà
Nội, ngày 29 tháng 09 năm 1964
|
THÔNG TƯ
GIẢI THÍCH VÀ HƯỚNG DẪN THI HÀNH NGHỊ ĐỊNH SỐ 173-CP NGÀY
21-11-1963 CỦA HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ VỀ VIỆC BAN HÀNH ĐIỀU LỆ BẢO VỆ ĐÊ ĐIỀU
Điều lệ bảo vệ đê điều đã ban
hành là văn bản của Nhà nước có tính chất pháp lý, quy định những điểm cơ bản
nhất trong công tác bảo vệ đê điều.
Trong khuôn khổ một bản điều lệ không thể nói hết được các điểm chi tiết. Chiếu
theo điều 2 của nghị định và điều 16 của điều lệ, Bộ Thủy lợi giải thích
và hướng dẫn một số điểm cụ thể để Ủy ban hành chính, Ty Thủy lợi các tỉnh có
đê, các thành phố trực thuộc trung ương và các ngành có liên quan nghiên cứu
thi hành đúng với tinh thần của bản điều lệ.
MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA
Đây là phần cơ sở của bản điều lệ,
nêu lên tác dụng của đê điều đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc. Khảng định ý nghĩa cực kỳ quan trọng và tính chất quần chúng của
công tác bảo vệ đê điều, phòng chống lụt bão cần phải quán triệt trong toàn
dân.
Miền Bắc nước ta hàng năm phải
phòng chống thiên tai lũ bão. Dưới chế độ đế quốc phong kiến, nhân dân ta chịu
xiết bao thảm họa vỡ đê do lũ gây ra.
Từ hòa bình lập lại đến nay, đê
điều của ta không ngừng được củng cố tăng cường, do đó đã góp phần tích cực bảo
vệ tính mạng tài sản của nhân dân và tài sản của Nhà nước. Tuy nhiên, việc bảo
vệ đê điều còn bị xem nhẹ. Trong cán bộ và nhân dân còn nhiều người chưa thấy hết
tầm quan trọng của công tác này, còn có nhiều hành động làm tổn hại đến đê kè cống
như: tự ý cuốc xé đê, đóng mở cống, đào hầm trú ẩn trên đê, chân đê, đào ao, giếng,
kênh, mương, xây nhà kho sát chân đê, găm đậu ca-nô, thuyền, bè tại mái kè gây
sạt lở, chưa tích cực đề phòng âm mưu phá hoại của địch đối với đê, kè, cống.
Điều lệ này quy định chế độ bảo
vệ đê điều phòng, chống lụt bão, ngăn ngừa những hành động gây tổn hại cho đê,
kè, cống, nhằm bảo vệ và phát triển sản xuất, bảo vệ thành quả lao động của
nhân dân ta.
Chương 1:
NỘI DUNG CÔNG TÁC BẢO VỆ
ĐÊ ĐIỀU
Điều 1 của điều
lệ quy định chỉ áp dụng cho các đê, kè, cống phụ thuộc vào đê thuộc phạm vi
trung ương quản lý.
Hiện nay có nhiều loại đê: đê
sông, đê biển, đê nông trường, đê đồng muối, đê khai hoang v.v... do nhiều
ngành, nhiều cấp quản lý. Theo phân loại và phân cấp thì có hai khu vực đê: khu
vực đê thuộc trung ương quản lý (Bộ Thủy lợi) và khu vực đê thuộc địa phương quản
lý (Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương). Điều lệ này chỉ
áp dụng đối với đê thuộc trung ương quản lý.
1. Đê thuộc phạm vi trung
ương quản lý bao gồm:
a) Đê sông chính là những đê có tác dụng
bảo vệ cho một khu vực rộng lớn, bảo vệ những trung tâm chính trị, kinh tế, văn
hóa, những cơ sở sản xuất quan trọng trong lưu vực sông chính như đê sông Hồng,
sông Đuống, sông Luộc, sông Trà Lý, đê sông Thái Bình, sông Văn Úc, sông Lạch
Tray, sông Kinh Thầy, đê sông Chu, sông Mã, sông Cả, sông La, v.v... Nếu vỡ đê
sông chính thì nước lũ có thể tràn ngập gây thiệt hại cho một hoặc nhiều huyện,
thậm chí ảnh hưởng trực tiếp đến một hoặc nhiều tỉnh, uy hiếp nghiêm trọng đến
tính mạng, của cải của nhân dân và tài sản của Nhà nước.
Trường hợp đê dọc theo sông
chính, nhưng có tác dụng bảo vệ ít thì cũng không thuộc phạm vi trung ương quản
lý, như một số đê khoanh vùng ở thượng du, một số đê bối ở trung du và đồng bằng,
những đê này do địa phương quản lý.
b) Đê sông nhánh: Đê nằm dọc theo những
sông có lưu lượng tương đối nhỏ so với sông chính gọi là đê sông nhánh như: đê
sông Hóa, sông Kinh Thày, sông Phó đáy, đê sông Cầu chầy.
c) Đê biển là những đê đắp dọc theo bờ biển;
có tác dụng chắn sóng, ngăn mặn tràn vào đồng ruộng. Cũng có nhiều đê biển không
ở dọc bờ biển mà nằm sâu trong nội địa hoặc nằm dọc các cửa sông có tác dụng
ngăn mặn, chống sóng nên còn gọi là đê ngăn mặn.
Đê biển thuộc phạm vi trung ương
quản lý là những đê ngăn mặn, chống bão, bảo vệ làng mạc, đồng ruộng trên một
phạm vi rộng lớn. Trường hợp đê chỉ bao quanh một vùng nhỏ; có tính chất lấn dần
ra biển, những đê biển đó không thuộc trung ương quản lý.
d) Đê bao thành phố: Một số thành phố
quan trọng đã được bảo vệ bằng tuyến đê chính, còn có một tuyến đê thứ 2 đề
phòng lũ ở các nơi khác do vỡ đê chảy về tập hậu. Tuyến đê thứ 2 đó gọi là đê
bao thành phố, có thể ví dụ như đê bao Hà Nội.
2. Ngoài những loại đê
thuộc phạm vi trung ương quản lý còn lại là đê thuộc địa phương quản lý. Trong
phạm vi phân cấp, Ủy ban hành chính các khu, tỉnh, thành có đê căn cứ vào nội
dung điều lệ và tình hình cụ thể của địa phương mà quy định việc bảo vệ.
Điều 2 của điều
lệ quy định phạm vị bảo vệ đê, kè, cống tức là khu vực không được xâm phạm đến
để giữ cho đê, kè, công được ổn định. Phạm vi bảo vệ đó như sau:
1. Đối với đê:
a) Đê song chính thường đắp cao và to,
nên phạm vi bảo vệ quy định từ chân đê phía sông (tức là chỗ giáp giới của mái
đê với đất thiên nhiên) trở ra 20 thước, từ chân đê phía đồng trở vào 20 thước.
b) Đê sông nhánh là những đê tuy cũng
quan trọng nhưng thông thường nhỏ và thấp hơn đê sông chính đầu nước và áp lực
nước cũng thấp hơn, nên phạm vi bảo vệ quy định là 10 thước từ chân đê phí sông
trở ra và 10 thước từ chân đê phía đồng trở vào.
Khoảng cách quy định này là dựa
vào nghiên cứu sự ổn định của đê, tình hình đất đai hai bên đê, tình hình thực
tế của đê hiện nay và yêu cầu cần thiết của công tác phòng chống lụt, bão. Khoảng
cách hẹp hơn sẽ ảnh hưởng đến tính ổn định của đê và gây trở ngại cho việc kiểm
tra quan sát trong mùa lụt, bão. Nếu rộng quá sẽ chiếm mất nhiều đất, ảnh hưởng
đến sản xuất.
c) Đê biển phần lớn nằm ở những vùng bãi
rộng ven biển: Vì gió bão ở biển thổi mạnh, sóng to hơn ở sông và điều kiện đất
đai ven biển cho phép nên quy định phạm vi bảo vệ đê về phía biển là 100 thước
để tăng khả năng chống đỡ của đê đối với sóng biển, phạm vi nàhy là kể cả khu vực
trồng rừng cây chắn sóng, mà rừng cây muốn có tác dụng ngăn và cắt sóng phải rộng
ít nhất từ 50 thước trở lên.
Phạm vi bảo vệ đê biển về phía đồng
phải bảo đảm theo yêu cầu cấu tạo nên chỉ cần 20 thước, kể cả rãnh ngăn mặn (nếu
có). Biện pháp làm rãnh ngăn nước mặn không cho chảy vào đồng là cần thiết để
chống mặn cho lúa và hoa màu phía trong đê.
d) Đối với đê bao thành phố: Vì thành phố
ít đất bỏ không, vì tính chất của đê bao la tuyến phòng ngự thứ hai chống ảnh
hưởng tập hậu của lũ do vỡ đê ở nơi khác tràn tới, hơn nữa điều kiện đất đai
xây dựng ở thành phố khác với ở nông thôn, nên điều lệ quy định phạm vi bảo vệ
mỗi bên là 5 thước.
2. Về phạm vi bảo vệ kè bờ sông.
Đầu kè ở phía thượng lưu, cuối
kè ở phía hạ lưu sông. Kè nằm nghiêng theo bờ sông, chân kè sát lòng sông, còn
đỉnh kè (hay mép kè) là phần cao nhất của kè nhô khỏi mắt nước có khi tới mặt đất
bằng ở bờ sông. Đầu kè trở ngược tức là đầu kè dọc theo bờ sông ngược lên thượng
lưu và cuối kè trở xuôi tức là từ cuối kè xuôi theo dòng nước về hạ lưu mỗi
phía 100 thước là phạm vi bảo vệ cho đầu kè và cuối kè. Chân kè nằm sát đáy
sông, chịu sức nặng của kè dồn xuống, nếu lòng sông sát chân kè bị đào sâu (như
khi nạo vét lòng sông) thì chân kè bị sạt lở và mái kè cũng đổ theo. Vì vậy quy
định phạm vi bảo vệ chân kè 20 thước là kể từ chỗ giới hạn cuối cùng của chân
kè trở ra và theo đáy sông.
Phạm vi bảo vệ đính kè quy định
50 thước là tính từ đỉnh kè trở vào phía chân đê nếu là kè bảo vệ đê, hoặc là
trở vào đất liền nếu là kè bảo vệ bờ sông.
Tóm lại, điều lệ quy định bốn
phía bao quanh kè (đầu kè, cuối kè, chân kè, đỉnh kè) đều có phạm vi bảo vệ rộng,
hẹp khác nhau.
3. Về phạm vi bảo vệ cống,
điều lệ quy định kể từ giới hạn xây dựng cuối cùng ở thượng và hạ lưu cống trở
ra mỗi phía 50 thước giới hạn xây dựng cuối cùng của cống là chỗ giáp giới
giữa vật liệu làm cống (bê-tông, gạch, đá xây, đát lát, đất sét làm sân, cống
chống thấm…) với đất thiên nhiên.
Trên đây là quy định chung phạm
vi bảo vệ của từng loại công trình đê, kè, cống. Trong những trường hợp cá biệt
cần thiết hay gặp những nơi đất quá xấu, Bộ trưởng Bộ Thủy lợi có thể nghiên cứu
rút bớt hoặc tăng thêm những phạm vi bảo vệ nói trên cho thích hợp với điều kiện
cụ thể. Những thay đổi cá biệt này, sau khi Bộ Thủy lợi loan báo, chính quyền địa
phương phải công bố cho nhân dân và các cơ quan, xí nghiệp hữu quan biết.
Điều 3 của điều
lệ nói về việc xây dựng các công trình trong phạm vi bảo vệ đê điều là phát triển
cụ thể của điều 2, nêu những quy định chi tiết trên và dưới mặt đất:
a) Cấm xây dựng bất kỳ công trình gì trên
mặt đất hoặc đào sâu xuống đất trong phạm vi bảo vệ đê điều, trừ trường hợp đặc
biệt phải được Bộ Thủy lợi cho phép. Những trường hợp đặc biệt này là quá cần
thiết không thể tránh được như: xây cột điện cao thế vượt sông, xây cống, xây
trạm bơm, làm mổ cầu hoặc đường giao thông qua đê. Đứng về nguyên tắc thì đây
là những vi phạm điều lệ và ảnh hưởng đến an toàn của đê điều. Nhưng vì lý do
quá cần thiết, Bộ Thủy lợi sẽ căn cứ vào đồ án thiết kế kỹ thuật các công trình
của từng trường hợp mà xét về mặt an toàn đối với chống lụt, bão và có thể cho
phép xây dựng với một số điều kiện nhất định.
b) Phần b điều 3 của điều lệ nói rõ:
ngoài phạm vi bảo vệ, muốn đào ao, giếng, kênh, mương… ở phía trong đê (phía đồng)
thì cứ đào sâu một thước phải cách xây dựng lán trại và kho thêm 10 thước, đào
sâu hai thước phải cách xa thêm 20 thước, v.v... Đây là những số liệu đã tính
toán để đảm bảo an toàn cho đê điều khi nước lũ lên cao. Vì địa chất vùng gần
đê phần lớn là đất cát, nếu đào sâu xuống mà không tôn trọng phạm vi đã quy định
ấy thì có thể tạo điều kiện phát sinh thẩm lậu hoặc vòi nước nghiêm trọng khi
có lũ lớn. Tuy nhiên trong một số trường hợp cần thiết phải đào công trình
tương đối sâu mà vị trí lại nằm trong phạm vi nguy hiểm như đào móng một số
công trình, đào giếng lấy nước cung cấp cho thành phố, công trường, xí nghiệp lớn…
thì Bộ Thủy lợi sẽ căn cứ vào đồ án thiết kế của từng công trình và các biện
pháp xử lý có thể dự kiến đối phó được mà cho phép thực hiện với một số điều kiện
nhất định.
Trong trường hợp đào sâu và tôn
trọng điều lệ chung mà khi đào gặp điều kiện địa chất xấu như bùn, cát cháy…
thì phải đình chỉ việc đào để báo cáo Bộ Thủy lợi xét. Nếu muốn tiếp tục đào
thêm thì phải được sự đồng ý của Bộ Thủy lợi, nếu không có thể gây trượt lún
các tầng lớp đất phía dưới làm mất thế ổn định tự nhiên của vùng này, ảnh hưởng
đến an toàn của đê điều ở gần đấy.
Điểm C của điều 3 quy định biện
pháp giải quyết đối với những công trình (nhà cửa, kho tàng, hàng quán, ao giếng)
của các cơ quan và nhân dân đã sẵn có trong phạm vi bảo vệ. Nói chung, những
công trình này đều ít nhiều gây trở ngại cho việc bảo vệ đê điều, nhưng hiện
nay chưa thể ngay trong một lúc di chuyển đi hết được, trừ một số trường
hợp thật cần thiết. Điêu lệ quy định như sau:
1. Điểm C – 1 của điều 3 quy định:
- Loại xây dựng đã lâu mà xét
không ảnh hưởng lớn đến việc bảo vệ đê điều như: đình chùa, miếu, di tích lịch
sử v.v... có móng vững chắc thì Ủy ban hành chính các tỉnh, thành sẽ xét lập
danh sách theo thứ tự vị trí để đề nghị Bộ Thủy lợi cho phép được giữ nguyên
như cũ.
- Đối với nhà cửa, hàng quán,
tài sản sẵn có của nhân dân nằm trong phạm vi bảo vệ đê điềum, nói chung, chưa
đặt thành vấn đề di chuyển, trừ những trường hợp quy định ở điểm C – 2, C – 3,
C – 4 của điều 3 sẽ nói rõ sau đây.
2. Điểm C – 2 của điều 3 quy định cho loại
xét có ảnh hưởng lớn đến việc bảo vệ đê điều trừ những loại có thể gây sạt lở,
lún, tổn hại đến tính ổn định của đê, kè, cống hoặc trở ngại lớn cho việc phòng
chống lụt, bão như những nhà cửa, đồn vọng gác, trạm bơm, cột điện, công sự cũ,
v.v... xây dựng trên mặt đê, mái đê, cơ đê, thì phải di chuyển dần đi nơi khác
trong thời hạn không quá ba năm, tính từ khi ban hành thông tư này. Trong khi
thi hành, Ủy ban hành chính tinh thần nghiên cứu cụ thể để xét châm chước cho một
số ít trường hợp cá biệt có thể để lại, di chuyển sau, như trạm bơm, cột điện,
các công trình nhả cửa kiên cố của Nhà nước và của nhân dân, v.v... với một số
điều kiện nhất định.
3. Điểm C – 3 của điều 3 quy định cho những
loại trực tiếtp gây nguy hiểm cho việc bảo vệ đê điều như: những nhà cửa, công
trình, kho tàng ở gần đê, kè, cống; có loại xây bằng gạch đá nhưng bị nứt thành
vết to ở tường, ở nền, móng, v.v... có loại bằng gỗ, tre, nứa bị mối mọt đục
khoét, loại ở gần đê kè xung yếu đang sạt lở, hay những cây cối sắp đổ ngã. Những
loại này có thể đột biến gây sạt lở nguy hiểm cho đê, kè, cống nên hàng năm phải
kiểm tra lại kỹ và nếu có diễn biến thì phải nhanh chóng di chuyển đi nơi khác
trước mua lụt, bão hàng năm.
4. Điểm C – 4 của điều 3 đã quy định rõ
những trường hợp cần phải di chuyên để bảo vệ đê, kè, cống, bảo vệ tính mạng
tài sản của nhân dân và tài sản của Nhà nước. Thông tư này không phát triển
thêm.
Việc di chuyển những công trình
của Nhà nước thuộc cơ quan hay ngành nào, địa phương nào thi do cơ quan hay
ngành đó, địa phương đó đảm nhận và phải liên hệ với Ủy ban hành chính tỉnh nơi
có công trình và nơi sẽ di chuyển đến để được giúp đỡ và bố trí sắp xếp. Nếu là
những công trình mang tính chất lịch sử thì phải báo cáo và có ý kiến của
Bộ Văn hóa.
Việc lấp hồ, ao ở gần đê của địa
phương nào sẽ do địa phương đó đảm nhận.
Việc di chuyển tài sản của nhân
dân, của cá nhân, của hợp tác xã thì do nhân dân, hợp tác xã đảm nhận, không có
trợ cấp đền bù, nhưng chính quyền địa phương có trách nhiệm giúp đỡ về tổ chức,
liên hệ sắp xếp với Ủy ban hành chính nơi di chuyển đến, động viên hợp tác xã
và nhân dân địa phương giúp đỡ một phần về nhân lực và phương tiện.
Trên đây là một số điểm cơ bản về
việc di chuyển các công trình, nhà cửa, kho tàng trong phạm vi bảo vệ đê
điều. Ủy ban hành chính tỉnh và Ty Thủy lợi dựa và đây mà nghiên cứu kế
hoạch, biện pháp thực hiện cho từng trường hợp cụ thể phù hợp với tình hình địa
phương và nếu gặp khó khăn trở ngại gì thì báo cáo lên Bộ Thủy lợi góp thêm ý
kiến.
Điều 4 quy định
việc trồng cây, cỏ trên đê và trong phạm vi bảo vệ đê điều.
Trên mặt đê, mái đê, cơ đê chỉ
được trồng cỏ vì cỏ là lớp áo khoác ngoài có tác dụng bảo vệ đê chống xói mòn.
Không được trồng bất cứ loại cây gì khác, nhất là cây có rễ ăn sâu vào thân đê,
dễ bị bão đánh gãy đổ gây hư hại cho đê và cản trở dòng nước lũ. Cỏ trên đê cần
được gây trồng và bảo vệ cho tốt, đi đôi với khai thác có kế hoạch. Vì vậy cấm
cuốc, nhổ cỏ trên đê, bờ kè, máng, cống. Việc cắt cỏ cho trâu, bò ăn cần chia
khoảnh cắt lượt để nuôi dưỡng cỏ, nhưng cũng không nên để cỏ mọc quá cao trở ngại
cho việc kiểm tra đê, kè, cống, việc phát hiện các hư hỏng, nứt nẻ, rò rỉ, nhất
là trong mùa mưa, bão.
Trâu bò thả rong trên đê là điều
cần tránh. Cấm cột và thả trâu bò đàn trên đê để tránh gây sạt lở đê và dẫm chết
cỏ. Tuyệt đối cấm trâu bò ăn cỏ trên những đê mới đắp chưa qua mùa mưa bão, vì
đây là những đê chưa qua thử thách, đất mới đắp có thể còn nhiều kẻ hở chưa
dính chặt dễ sạt lở. Những nơi thiếu chỗ chăn dắt trâu, bò thì Ủy ban hành
chính tỉnh tạm thời có thể cho phép chăn trâu, bò ăn lẻ trên đê, nếu đoạn đê đó
không phải là đường giao thông.
Trồng cây chắn sóng, ngăn gió
bão là biện pháp bảo vệ đê có nhiều hiệu quả nhất đối với những quãng đê xung yếu,
trong mùa lũ thường bị dòng nước thúc mạnh hoặc gió bão gây sóng lớn vỗ vào gây
sạt lở đê. Vì vậy, Bộ Thủy lợi chủ trương trồng tre chắn sóng ven đê sông và
nhiều hàng cây nước mặn ven đê biển. Hàng tre gần nhất nên cách chân đê sông 2
mét, và hàng cây nước mặn gần nhất nên cách chân đê biển 10 mét để cắt sóng trước
khi sóng vỗ vào đê. Những nơi đã trồng vào sát chân đê thì vẫn giữ nguyên như
cũ, nhưng cần trồng thêm những hàng cây mới cách chân đê đúng theo quy định
trên, đến khi hàng cây mới lớn lên đủ sức cắt sóng, ngăn gió bão thì có thể đẵn
những hàng cây cũ ở sát đê.
Điều 5 của điều
lệ quy định cấm phá hoại hoặc lấy những vật liệu phòng chống lụt, bão và các vật
liệu xây dựng kè, cống như đá hộc, đá dăm, gạch, cát, sạn, phên, nứa, v.v... để
tập trung hoặc đã giả ra ở các tuyến đê. Đấy là một quy định hết sức quan trọng
nhằm đảm bảo sẵn sàng chiến đấu phòng chống lụt, bão. Nhưng ở nhiều nơi,
do địa phương quản lý không được chặt chẽ nên những vật liệu này bị hao hụt, mất
mát nhiều, nhất là đá hộc. Các Ty Thủy lợi cần kiểm kê số đá dự trữ chống lụt,
có biện pháp thu hồi số bị hao hụt, sắp xếp lại và tổ chức bàn giao bảo quản
chu đáo.
Điều 6 của điều
lệ quy định việc giao thông đi lại trên đê.
Nguyên tắc chung là cấm xe cộ đi
lại trên đê (nếu đê đó không phải là đường giao thông, mặt đê, cơ đê chưa được
rải đá, rãi nhựa nhằm bảo đảm cho đê khỏi bị hư hỏng, nứt lún, sạt lở. Những xe
cấm là những xe ô tô, máy kéo, xe xúc vật kéo, xe ba gác, nhất là các loại xe
bánh xích.
Nhưng điều lệ có châm chước cho
một số xe trong một vài trường hợp thật cần thiết được đi lại một vài lần trên
đê trong mùa khô mà không phải xin phép, như: xe quân sự, máy cày, máy kéo, xe
bánh xích, xe vận tải, nếu trọng lượng của những xe này không quá sức chịu đựng
của cống, không gây hư hỏng cho cống dưới đê, nhưng khi đi phải có ý thức và
trách nhiệm bảo vệ đê như xe bánh xích cần có vật chắn xích tránh làm hỏng mặt
đê, xe trọng tải nặng không được leo lên mái con chạch, không được đi ra mép đê
để tránh gây sạt lở cho đê, v.v... Nếu gây sạt lở, hư hỏng tổn hại đến đê thì
cơ quan có xe đi phải chịu mọi chi phí tu sửa, đắp lại theo đúng kỹ thuật.
Nếu muốn đi thường xuyên thì: đối
với ô tô, máy kéo xe bánh xích phải được phép của Ủy ban hành chính cấp tỉnh, đối
với xe súc vật kéo, xe ba-gác phải được phép của Ủy ban hành chính cấp huyện.
Những giấy phép này chỉ có giá trị trong phạm vi tỉnh, huyện đã cấp giấy phép,
nếu không thi chính quyền địa phương các cấp có quyền địa phương các cấp có quyền
bắt giữ lập biên bản báo cáo lên trên.
Để thi hành khoản này của điều
6, Ty Thủy lợi và Ty Giao thông các tỉnh cần thống nhất nghiên cứu lý lịch đê,
kè, cống trong tỉnh, trọng tải các loại xe, trên cơ sở đó mà đề nghị Ủy ban
hành chính tỉnh quy định những loại xe nào được phép đi trên từng con đê cho
phù hợp với sức chịu đựng của đê và các loại cống dưới đê. Nếu xét cần thiết
cho giao thông đi lại thường xuyên thì phải nghiên cứu mọi biện pháp ngăn ngừa
gây hư hỏng sạt lở đê, nghiên cứu lát đá, rải nhựa, biến đê thành đường giao
thông.
Đối với những đê là đường giao
thông đã lát đá, rải nhựa thì Ủy ban hành chính tỉnh cũng dựa vào cơ sở thống
nhất nghiên cứu giữa Ty Thủy lợi và Ty Giao thông mà quy định những loại xe nào
được đi lại trên đê, quy định trọng tải và tốc độ cho phù hợp với sức chịu đựng
của đê theo quy tắc chung của giao thông.
Trong mùa mưa, lụt phải hạn chế
xe cộ đi lại trên đê. Một số xe nếu thấy cần thiết đi thì phải có giấy phép của
Ban chỉ huy chống lụt bão cấp tỉnh trở lên. Các giấy phép của Ủy ban hành chính
tỉnh, huyện chỉ được sử dụng khi nước sông không lên tới mức báo động và không
có tin bão. Khi có báo động II và có báo bão gần thì các giấy phép không được
đi nữa, chỉ còn lại có các xe ô-tô làm việc hộ đê chống lụt, bão, cứu thương, cứu
hỏa và xe quân sự khẩn cấp.
Điều 7 của điều
lệ quy định cấm tự ý đóng mở cống dưới đê trong mùa lụt cũng như trong mùa khô.
Việc đóng mở phải do thủ cổng và những người có trách nhiệm và phải tuân theo nội
quy đóng mở. Cấm kích chèn cửa cổng vì làm như vậy có thể gây hư hòng và khi nước
sông lên không đóng kín cửa được rất nguy hiểm.
Điều 8 quy định
cấm không ai được tự ý xé đê. Nếu muốn xẻ đê để chống hạn hay xây dựng công
trình thì địa phương phải xin phép và phải được Bộ Thủy lợi đồng ý, những đoạn
đê xẻ để chống hạn phải được đắp lại như cũ khi chống hạn xong, và bảo đảm kỹ
thuật đầm nện tốt. Trước mùa lụt bão, Ty Thủy lợi cần kiểm tra phát hiện tất cả
những đoạn đê xé mà chưa đắp lại hoặc đắp chưa kỹ để đắp và tu bổ lại thật tốt.
Ở nhiều nơi, nhân dân thưòng hạ
thấp con chạch làm lối đi lại cho người và súc vật trong phạm vi hợp tác xã,
thôn xóm, khu phố. Trường hợp này chỉ cho phép hạ thấp con chạch ở những đoạn
đê ít quan trọng, không được cuốc hạ cấp đê.
Ủy ban hành chính tỉnh xét tình
hình cụ thể cần thiết mà cho phép và quy định nội quy bảo vệ, cùng khối lượng đất
dự trữ, số lượng dụng cụ, nhân lực sẵn sàng để lấp bịt khi cần thiết.
Điều 9 đề cập đến
những quãng bờ sông, bờ biển đã hoặc đang bị sạt lở. Trong điều này không nói
việc di chuyển nhà cửa, công trình (vì đã nói trong điều 3, điểm 4) mà chỉ quy
định: ở những quãng bờ sông, bờ biển đã hoặc đang sạt lở, kể từ mép kè bờ sông,
bờ biển trở vào phía đồng 100m chi được sản xuất lúa, hoa màu hay cây công nghiệp
ngắn ngày. Đây là nhằm đảm bảo thu hoạch sản xuất vì bờ sông, bờ biển đang sạt
lở thì chỉ nên trồng những thứ có thể thu hoạch trong thời gian ngắn, nếu trồng
cây to lâu năm sẽ đổ ngã và cản trở dòng nước lũ. Cùng với tinh thần này mà điều
lệ quy định ở những dòng sông có bãi sa bồi nằm giữa (chia sông làm hai luồng)
nếu độ cao của bãi sa bồi dưới mức báo động III mà bãi đó đã bị ngập thì chỉ được
sản xuất lúa, hoa màu hay cây công nghiệp ngắn ngày (các Ty Thủy lợi, Ty Nông
nghiệp các tỉnh cần thống nhất nghiên cứu xác định những quãng sông này và công
bố cho nhân dân nơi ấy biết mà thi hành).
Ở những quãng sông bị thắt hẹp,
nước chảy xiết, tốc độ dòng chảy mạnh, nên quy định hai bên bờ sông không được
đắp đê bồi, không được làm đường giao thông cao, không được làm nhà, không được
xây dựng những công trình kiên cố và không được trồng cây lâu năm mục đích là để
khai thông dòng chảy và vấn đề phòng sạt lở nguy hiểm cho đê.
Việc đắp thêm đê bồi ở quãng
sông bị thắt hẹp là tuyệt đối cấm. Đối với đê bồi ở các đoạn sông khác nói
chung chỉ được đắp tới mức bảo đảm chống được mức nước báo động II. Nếu lũ vượt
báo động II, đê bồi bị uy hiếp thì phải sẵn sàng chủ động mở đê bồi cho nước
vào thử thách và bảo vệ quãng đê chính phía trong là hết sức cần thiết, nếu
không đê bồi có thể bị phá vỡ bất thần làm cho đê chính cũng bị phá vỡ theo, nhất
là ở chỗ giáp với đê bồi.
Việc xây dựng các mổ cầu, trụ cầu
qua sông cần được sự thỏa thuận trước của cơ quan quản lý đê điều.
Chương 2:
TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC
NGÀNH, CÁC CẤP
Điều 12 nói về
nhiệm vụ Ủy ban hành chính các cấp.
Khi thi hành điều khoản này, cần
chú ý mấy việc dưới đây:
1. Căn cứ vào điều lệ và
thông tư đã ban hành, Ủy ban hành chính, Ty Thủy lợi và Ty Công an các tỉnh,
thành cùng với các ngành có liên quan thống nhất nghiên cứu những điều khoản và
nội quy bảo vệ đê điều áp dụng cụ thể trong tỉnh.
Ty Thủy lợi giúp Ủy ban hành
chính tỉnh xây dựng, sưu tầm hồ sơ lý lịch đê, kè, cống trong tỉnh, thường
xuyên theo dõi nắm vững tình hình đê, kè, cống và tinh hình bảo vệ đê điều ở địa
phương, có kế hoạch thực hiện và kiểm tra, đôn đốc việc thực hiên điều lệ trong
phạm vi tỉnh.
2. Trên cơ sở nghiên cứu
đề nghị của Ty Thủy lợi và các Ty có liên quan và dựa vào tình hình cụ thể của
địa phương, Ủy ban hành chính các tỉnh, thành có đê nghiên cứu ban hành thể lệ
thực hiện điều lệ bảo vệ đê điều trong tỉnh, có kế hoạch giáo dục, động viên
cán bộ, nhân dân trong tỉnh chấp hành, tích cực giúp đỡ cơ quan quản lý đê điều
các cấp, và có kế hoạch biện pháp chỉ đạo phối hợp với các ngành để đảm bảo thực
hiện đầy đủ điều lệ trong tỉnh.
Ở những công trình lớn và xung yếu,
Ủy ban hành chính tỉnh, huyện cần đặt những bản niêm yết nội quy bảo vệ để cho
cán bộ và nhân dân thực hiện. Bản niêm yết nội quy bảo vệ các công trình và các
đoạn đê xung yếu cần căn cứ vào bản điều lệ chung của Nhà nước mà quy định. Các
thể lệ thực hiện điều lệ bảo vệ đê điều của các tỉnh phải có các nội dung chính
sau đây:
- Mục đích ý nghĩa (nét lớn);
- Phạm vi bảo vệ và điều lệ áp dụng
đối với từng loại công trình đê, kè, cống;
- Quy định việc giải quyết những
công trình sẵn có và việc xây dựng công trình trong và ngoài phạm vi bảo vệ,
trên và dưới mặt đất;
- Vấn đề giao thông đi lại của
các loại xe cộ, thuyền bè và quy định những loại xe được phép và không được
phép đi lại trên công trình;
- Việc trồng cây, cỏ, sản xuất,
trồng trọt, chăn dắt trâu, bò;
- Trách nhiệm, quyền hạn các
ngành, các cấp;
- Khen thưởng, kỷ luật.
3. Để đảm bảo chấp hành
nghiêm chỉnh điều lệ đã ban hành, biện pháp đầu tiên là phải tổ chức học tập,
phổ biến sâu rộng trong cán bộ và nhân dân.
Ủy ban hành chính các tỉnh,
thành có đê, các cơ quan, đơn vị và các ngành có liên quan cần có kế hoạch học
tập cụ thể: học tập trong cán bộ từ tỉnh xuống huyện, xã, hợp tác xã, nghiên cứu
thảo luận trong các ngành có liên quan như nông nghiệp, nông trường, công nghiệp,
công an, giao thông, kiến trúc, v.v... học tập, thảo luận riêng đối với cán bộ,
nhân viên ngành thủy lợi. Sau đó sẽ tổ chức học tập, phổ biến rộng rãi trong
nhân dân thành thị, nông thôn, xã, hợp tác xã. Thông tư này chỉ giải thích và
nói rõ những phần mà điều lệ nói quá cô đọng. Những phần mà điều lệ nói đã đầy
đủ thì thông tư không nhắc lại, nên khi học tập và thực hiện cần nghiên cứu cả
hai (điều lệ và thông tư).
Trong quá trình học tập, thảo luận,
các nơi ghi chú những điểm nào xét thấy chưa rõ, yêu cầu giải thích thêm, hoặc
những ý kiến cụ thể đề nghị bổ sung để báo cáo phản ánh lên Bộ Thủy lợi.
Với tinh thần quyết tâm phấn đấu
chống lụt, bão của nước ta. Bộ Thủy lợi rất mong các tỉnh, thành có đê và các
ngành có liên quan ra sức thực hiện đầy đủ điều lệ và thông tư này, gây một biến
chuyển mạnh mẽ trong công tác bảo vệ đê, kè, cống, góp phần tích cực bảo vệ và
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
|
BỘ TRƯỞNG BỘ
THỦY LỢI
THỨ TRƯỞNG
Trần Quý Kiên
|