BỘ
TÀI CHÍNH - BỘ TƯ PHÁP
BỘ NÔNG LÂM
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
01-TT-LB
|
Hà
Nội, ngày 19 tháng 01 năm 1956
|
THÔNG TƯ
GIẢI THÍCH VỀ VIỆC THI HÀNH NGHỊ ĐỊNH SỐ 01-NĐ-LB
BỘ TRƯỞNG BỘ NÔNG LÂM
- BỘ TRƯỞNG BỘ TÀI CHÍNH - BỘ TRƯỞNG BỘ TƯ PHÁP
Kính
gửi:
Đồng kính gửi:
|
- Các ông Chủ tịch Ủy ban hành chính các Khu
Việt bắc, Liên khu 3, 4, Khu tự trị Thái – Mèo, Khu Hồng – quảng, Hà – nội, Hải
– phòng
- Các ông Giám đốc Khu canh nông Việt – bắc, Liên khu 3, 4, Khu tự trị
Thái – Mèo, Khu Hồng – quảng, Hà – nội, Hải – phòng. Liên bộ Nông lâm – Tài
chính – Tư pháp gửi kèm theo đây nghị định bổ khuyết Các nghị định số 08 và
09 về điều lệ kiểm thu
|
Dưới đây, Liên bộ giải thích
thêm về một số điểm được bổ khuyết.
1) Việc tính
giá bán lâm sản :
Trước đây vì hoàn cảnh giao
thông khó khăn, việc định giá bán giao cho Ủy ban hành chính tỉnh, căn cứ vào
giá thị trường quan trọng nhất ở địa phương.
Kiểm điểm lại, nhận thấy hiện
nay việc tính giá như vậy có nhiều điểm không hợp lý. Giá bán chênh lệch
quá nhiều từ tỉnh này qua tỉnh khác, tuy điều kiện sản xuất không khác nhau,
thí dụ giá lim ở Hải-ninh 9.600đ, ở Thanh hóa 40.000đ, nhiều nơi cũng trên một
luồng sông giá tiền ở nơi xa hơn lại đắt hơn giá phía dưới, thí dụ lim ở Tuyên
quang 36.000đ, ở Việt trì 28.000đ hoặc ở Thái nguyên 30.000đ, Bắc-giang 28.000đ
- giá thay đổi quá nhiều từ tháng này sang tháng khác thí dụ lim ở
Tuyên-quang tháng 5 là 24.000đ, tháng 6 là 36.000đ, tháng 7 là 40.000đ.
Tình trạng đó có ảnh hưởng
không tốt như sau:
- Không khuyến khích nhân dân
khai thác những rừng xa;
- Không bảo vệ được những rừng gần
đã bị tàn phá nhiều vì khai thác ồ ạt;
- Thất thu cho công quỹ;
- Giá hàng tháng thay đổi
quá nhiều cản trở việc tính toán kinh doanh của Mậu dịch cũng như tư nhân
và cản trở việc dự trù ngân sách của cơ quan.
Nguyên nhân là:
- Tổ chức thu mua của Mậu dịch
còn yếu, nên thương nhân lũng đoạn thị trường, giá cả chưa bình ổn- việc lãnh đạo
sản xuất thu mua còn thiếu sót.
- Việc lấy giá thị trường không
sát, hoặc có nơi thấy tư nhân kêu ca thì hạ giá (Hải-ninh, Hồng-quảng, Việt-trì)
- Giá lâm sản do địa phương quyết
định, nên thiếu bao quát, không có tác dụng điều hòa thị trường.
- Nguyên tắc tính giá bán mới chỉ
căn cứ đơn thuần vào giá thị trường chưa chú trọng đến giá vốn sản xuất tại rừng.
Để chấm dứt tình trạng trên,
Liên bộ định lại giá bán theo nguyên tắc sau đây:
- Một mặt căn cứ vào giá vốn sản
xuất tại rừng của từng loại lâm sản (công gây rừng, công quản lý, công
khai thác).
- Mặt khác phải chiếu cố đến giá
thị trường, nơi khai thác xa giá hạ hơn nơi gần để khuyến khích sản xuất.
- Những nơi nào hoàn cảnh khai
thác, vận chuyển giống nhau thì giá ngang nhau.
Muốn như vậy, việc định giá bán
phải do Trung ương quyết định để có lãnh đạo bao quát. Ủy ban hành chính tỉnh địa
phương có nhiệm vụ cung cấp đầy đủ giá thị trường hàng tháng một cách chính xác
để giúp Trung ương định giá được sát. Với điều kiện giao thông hiện tại,việc phổ
biến giá bán cho các địa phương áp dụng không gặp trở ngại như trước.
Trong lúc thị trường chưa ổn
định, vẫn có thể có giá hàng tháng, nhưng sẽ tiến dần bình ổn thị trường để có
giá bán tương đối ổn định cho từng thời gian dài hơn.
2) Về tổ
chức thu:
Tuy hiện nay trên các luồng lâm
sản quan trọng, theo đường thủy, các trạm kiểm thu đã tổ chức tương đối hợp
lý; nhưng còn một số lớn lâm sản phụ vẫn chuyển theo đường bộ rất phân tán. Nếu
kể riêng từng luồng thì số lượng không đáng đặt một trạm kiểm thu nhưng cộng
nhiều luồng thì số thất thu khá quan trọng.
Do đó cần đặt thêm ủy nhiệm thu.
Tổ chức trước đây đã đặt, nhưng vì thiếu lãnh đạo chặt chẽ nên có tình trạng lợi
dụng tham ô, làm thiệt hại đến công quỹ và ảnh hưởng không tốt đến chính sách
kiểm thu. Ngày nay các Ủy ban xã đã và đang được chấn chỉnh điều lệ khai thác của
Chính phủ đã ban hành cũng đặt chính thức nhiệm vụ quản lý rừng cho các Ủy
ban. Do đó việc lập lại ủy nhiệm cho các xã có thể làm được tốt.
Ủy nhiệm thu ở xã có thể là một ủy
viên trong ban kinh tế phụ trách nếu có điều kiện, hoặc một cán bộ đoàn thể do ủy
ban chọn và chịu trách nhiệm.
Đối với ủy nhiệm thu, dù là của Ủy
ban xã hay cơ quan thuế vụ, hải quan, cần nhận rõ trách nhiệm lãnh đạo trực tiếp
mọi mặt là Ủy ban và cơ quan ngành dọc. Nhưng đồng thời các Ty Nông lâm
có trách nhiệm hướng dẫn kiểm tra đôn đốc về mặt chuyên môn.
Đối với cơ quan thuế vụ, hải
quan, nên coi như một nhiệm vụ chính quyền giao thêm nên không có thù lao.
3) Về việc thu
thêm tiền bán một số lâm sản :
Sở dĩ trong kháng chiến những
lâm sản này không thu tiền, vì tiêu thụ còn ít. Chính phủ cần khuyến
khích nâng đỡ đồng bào miền núi. Ngày nay số lượng khai khác nhiều, tiêu thụ mạnh,
nếu không thu thì người khai thác thu mua được hưởng một số lợi quá đáng, mà
công quỹ bị thiệt thòi, mặt khác không được thực hiện đầy đủ chính sách quản lý
rừng.
4) Về thủ tục
kiểm thu :
Trong nghị định số 08 và số 09
chưa qui định đầy đủ, nên đã xảy những trường hợp lợi dụng, vin vào văn bản thiếu
sót để không thi hành như không đem theo thông hành với lâm sản, không để cán bộ
kiểm tra lại bè, làn gỗ, làm thông hành giả. Nay cần quy định thêm cho đầy đủ
và chặt chẽ hơn.
5) Về cách xử
trí với vi phạm:
Trong nghị định số 8 đã quy định
là ai trốn tránh không nộp tiền thì phạt gấp hai lần số tiền đã qui định- như vậy
quá cứng rắn. Nay quy định lại để phân biệt tùy trường hợp nặng nhẹ đối xử cho
thích hợp.
Trường hợp các trạm phía trên
tính nhầm hoặc phân sai loại gỗ, hoặc có nông dân mới khai thác chưa thông hiểu
thể lệ thì chỉ thu thêm chỗ tính sai mà không nên phạt.
Nhưng nếu có hành vi như chở gỗ
không có dấu bua hoặc số lâm sản phụ, than củi vượt quá nhiều so với thông
hành, hoặc cố ý dùng những thủ đoạn trốn tránh như đẩy gỗ dưới gầm bè, vượt trạm
ban đêm, bán lén lút dọc đường không trả tiền bán. cố ý không cho phúc
khám.v.v… đều coi như gian lận.
Vi phạm một lần đầu hoặc trốn
ban ngày phạt nhẹ hơn tái phạm hoặc trốn ban đêm.
Nếu có những hành động như cố ý
che giấu không chịu khai hoặc kháng cự không cho kiểm tra, cố ý che chở
hoặc trốn nộp tiền bán có tổ chức, làm giấy tờ giả mạo thì tùy nặng nhẹ tịch
thu một phần hoặc toàn bộ lâm sản gian lận hoặc áp dụng cả phạt tiền và tịch
thu. Những hành vi sau này nghiêm trọng vượt hẳn những hình phạt hành
chính, nếu cần đưa tòa án xử lý. Gặp trường hợp này, các trạm cần phải lập
biên bản nói rõ ngày tháng tên tuổi người vi phạm trường hợp phạm pháp đã
xảy ra cùng những chứng cớ cụ thể có tuyên bố và đọc cho vi phạm biết. Biên bản
sẽ gửi lên Ủy ban hành chính tỉnh (qua Ty Nông lâm). Ủy ban sẽ gửi sang tòa án
để xét xử theo hình luật chung.
Hiện nay việc khai thác rừng
phát triển mạnh, công tác kiểm thu trở nên rất quan trọng. Trong việc quản
lý rừng mà kiểm thu là một bộ phận, không thể đơn thuần giao phó cho cơ quan
chuyên môn. Liên bộ đề nghị các Ủy ban khu chỉ thị cho các Ủy ban các cấp và
các ngành có liên quan (cơ quan Tài chính, Công an, Tư pháp, Thuế vụ) tham gia
một cách tích cực để đảm bảo việc quản lý rừng được tốt, đảm bảo kế hoạch
thu.
Muốn đạt mục đích đó, một mặt cần
phổ biến sâu rộng thể lệ kiểm thu, nhất cho đồng bào miền núi và những người
khai thác thu mua lâm sản; một mặt cần tăng cường kiểm tra theo dõi công tác kiểm
thu, giúp đỡ và giải quyết kịp thời những khó khăn cho cán bộ.
Liên bộ đề nghị các Ủy ban có kế
hoạch chấn chỉnh cụ thể cho từng địa phương.
BỘ
TRƯỞNG
BỘ TƯ PHÁP
Vũ Đình Hòe
|
KT.
BỘ TRƯỞNG BỘ NÔNG LÂM
THỨ TRƯỞNG
Lê Duy Trinh
|
KT.
BỘ TRƯỞNG BỘ TÀI CHÍNH
THỨ TRƯỞNG
Trịnh Văn Bính
|