BỘ
KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ VÀ MÔI TRƯỜNG
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
1971/1999/QĐ-BKHCNMT
|
Hà
Nội, ngày 10 tháng 11 năm 1999
|
QUYẾT ĐỊNH
CỦA
BỘ TRƯỞNG BỘ KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ VÀ MÔI TRƯỜNG SỐ 1971/1999/QĐ-BKHCNMT NGÀY 10
THÁNG 11 NĂM 1999 VỀ VIỆC BAN HÀNH QUY TRÌNH CÔNG NGHỆ TIÊU HUỶ HOẶC TÁI SỬ DỤNG
XYANUA
BỘ TRƯỞNG BỘ KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ VÀ MÔI TRƯỜNG
Căn cứ Luật bảo vệ Môi trường
ngày 27 tháng 12 năm 1993;
Căn cứ Nghị định số 22/CP ngày 20 tháng 5 năm 1993 của Chính phủ về nhiệm vụ,
quyền hạn và tổ chức bộ máy của Bộ khoa học, Công nghệ và Môi trường;
Căn cứ Chỉ thị số 29/1998/CT-TTg ngày 25 tháng 8 năm 1998 của Thủ tướng
Chính phủ về tăng cường công tác quản lý việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật và
các chất hữu cơ gây ô nhiễm khó phân huỷ;
Theo kết luận tại biên bản ngày 17 tháng 12 năm 1998 của Hội đồng khoa học
(thành lập theo Quyết định số 2312/QĐ-BKHCNMT của Bộ trưởng Bộ Khoa học, Công
nghệ và Môi trường ngày 1 tháng 12 năm 1998) nghiệm thu đề tài "Nghiên cứu
xây dựng quy trình công nghệ xử lý một số chất độc tồn đọng gây ô nhiễm môi trường";
Để thực hiện việc thu gom, tiêu huỷ các loại hoá chất độc còn tồn đọng nhằm
đảm bảo vệ sinh môi trường;
Xét đề nghị của ông Cục trưởng Cục Môi trường,
QUYẾT ĐỊNH
Điều 1. Ban hành kèm theo Quyết định này Quy trình công nghệ tiêu huỷ
hoặc tái sử dụng Xyanua.
Điều 2. Quyết định này có hiệu lực thi hành sau 15 ngày kể từ ngày
ký.
Điều 3. Cục trưởng Cục Môi trường có trách nhiệm theo dõi, kiểm tra
việc thực hiện Quy trình ban hành kèm theo Quyết định này.
Điều 4. Cục trưởng Cục Môi trường, Giám đốc các Sở khoa học, Công
nghệ và Môi trường và các tổ chức cá nhân thực hiện việc thu gom, tiêu huỷ các
hoá chất độc xyanua chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này.
Trong qua trình thực hiện quy
trình công nghệ này, nếu phát sinh những khó khăn, vướng mắc, các tổ chức, cá
nhân kịp thời phản ảnh về Bộ khoa học, Công nghệ và Môi trường để nghiên cứu sửa
đổi, bổ sung cho thích hợp.
QUY TRÌNH
CÔNG NGHỆ TIÊU HUỶ HOẶC TÁI SỬ DỤNG XYANUA
(Ban hành kèm theo Quyết định số 1971/1999/QĐ-BKHCNMT ngày 10 tháng 11
năm 1999 của Bộ trưởng Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường)
MỞ ĐẦU
Axit xyanhydric và các muối
xyanua tan của nó là chất độc rất mạnh, chỉ cần lượng chừng 50 mg là có thể giết
chết một người. Tuy nhiên các muối kim loại của Axit xyanhydric lại có vai trò
rất lớn trong nhiều ngành công nghiệp:
- Công nghiệp mạ vàng, bạc, đồng
hoặc các kim loại khác.
- Công nghiệp khai thác vàng-lấy
vàng bằng phương pháp xyanua hoá.
- Công nghiệp sản xuất các
pigmen mầu dùng cho ngành công nghiệp sơn, bột vẽ, dệt nhuộm cần các muối
xyanua làm nguyên liệu.
- Công nghiệp sản xuất thuốc trừ
sâu: xyanit canxi để diệt rệp và côn trùng trong nhà ở.
Trong y dược, axit xyanhydric được
dùng ở dạng muối như Hg(CN)2 hay ở thể kết hợp như nước anh đào với
tỷ lệ 1% HCN.
Xyanua là một chất loại cực độc
nhưng nó lại được sử dụng phổ biến trong sản xuất, vì vậy nếu không có những
quy chế chặt chẽ và có tính khả thi trong các khâu nhập khẩu, lưu thông phân phối,
bảo quản, sử dụng và kiểm soát ô nhiễm, xyanua có thể gây tác hại lớn cho môi
trường và sức khoẻ con người.
Hàng năm, ở nước ta đã xảy ra rất
nhiều vụ ngộ độc xyanua như: sử dụng xyanua đầu độc nhau, do làm việc ở nơi có
nồng độ HCN, (CN)2 cao mà không có phương tiện bảo hộ hoặc do không
thận trọng. Mặt khác, những vùng khai thác, đào đãi vàng bừa bãi trái phép, các
cơ sở mạ thủ công là những nơi thải chất độc xyanua vào đất, nước gây ô nhiễm
môi trường, huỷ diệt các loài sinh vật. Do đó việc xây dựng và ban hành một quy
trình công nghệ xử lý tiêu huỷ hoặc tái sử dụng xyanua là một việc làm cấp bách
đáp ứng yêu cầu thực tế.
Quy trình bao gồm các nội dung
sau:
- Tính chất lý, hoá học và độc
tính của axit xyanhydric và xyanua.
- Các phương pháp kiểm nghiệm
axit xyanhydric và xyanua.
- Nguồn gốc sự tồn đọng xyanua
gây ô nhiễm môi trường trong khai thác vàng.
- Các phương pháp tiêu huỷ
xyanua
- Quy trình công nghệ tiêu huỷ
hoặc tái sinh xyanua để sử dụng lại.
I. TÍNH CHẤT
LÝ, HOÁ HỌC VÀ ĐỘC TÍNH CỦA AXIT XYANHYDRIC VÀ XYANUA
1. Tính chất
lý học
- Axit xyanhydric (hay
nitrifocmic) có công thức hoá học HCN, trọng lượng phân tử 27. Ở thể khan là chất
lỏng rất linh động, tỷ trọng d=0,696. Nhiệt độ sôi ở 200C, đông đặc ở
-140C, có mùi hạnh nhân, vị rất đắng, hoà tan rất dễ trong nước và
rượu, là một chất axit yếu có pK~9,4. Hơi của HCN có tỷ trọng d=0,968.
- Các muối xyanua kiềm như NaCN,
KCN là các muối tinh thể trắng, dễ bị phân huỷ trong không khí bởi hơi nước, Co2,
SO2..., tan rất tốt trong nước, ít tan trong rượu, tan trong dung dịch
nước rượu. Dung dịch nước của các muối này có tính kiềm mạnh.
- Muối xyanua của các kim loại
kiềm thổ tan nhiều trong nước, xyanua của các kim loại khác tan ít hơn.
- Muối xyanua thuỷ ngân Hg(CN)2
tan trong nước nhưng là chất điện ly yếu.
- Xyanua ở trạng thái tự do CN rất
độc (gọi chung là nhân ngôn) nhưng khi nó liên kết bền trong phức, thí dụ phức
Fe[Fe(CN)6] thì lại không độc. Vì sự phân ly của phức quá nhỏ nên
trong dung dịch nồng độ CN không đủ để gây độc.
- Đixyan (CN)2 là chất
khí độc không màu, mùi hạnh nhân, tan tốt trong H2O và rượu, (CN)2
hình thành do nhiệt phân một số muối xyanua như Hg(CN)2 hay oxy hoá
CuCN bằng FeCl3. (CN)2 kém bền, do bị thuỷ phân.
2. Tính chất
hoá học
- Axit xyanhydric và các xyanua
bị oxy hoá bởi oxy trong không khí chuyển thành xianat:
2CN
- + O2 2CNO-
- Ở dung dịch loãng 1:5000 trong
5 tháng HCN bị phân huỷ hết
HCN
+ 2H2O HCOONH4 (ammonium foocmic)
2HCN
+ 2H2S + O2 2HCNS + 2H2O (axit
sunfoxyanhydric)
- Các muối xyanua kim loại kiềm
bị dioxyt cacbon trong không khí phân huỷ tạo thành HCN.
2NaCN
+ CO2 + H2O 2HCN + Na2CO3
Vì vậy phải bảo quản muối kim loại
xyanua trong thùng kín, để ở chỗ mát.
- Các muối xyanua tan trong nước
dễ tạo với các xyanua không tan thành các ion phức.
- Axit nitric tác dụng với các
chất hữu cơ như axit malic, xitric, ancaloit, tanin cũng tạo nên HCN. Qua đó cắt
nghĩa việc tạo nên các glucosit xyanhydric ở một số thực vật.
- Các aldehyt, đường cũng phá huỷ
được HCN
C6H12O6
+ HCN C7H13O6N
- Trong một số các cây cối, thực
vật có chứa các dẫn xuất hữu cơ của Axit xyanhydric, ví dụ: hạnh nhân đắng,
nhân quả mận, lá trúc anh đào, rễ sắn, măng tre nứa, nấm, các hạt lá và cành loại
đậu phaseolus lunatus. Dầu hạnh nhân đắng có chứa amogdalis C20H27NO11
do tác dụng của men emulsin hay synaptase sẽ bị thuỷ phân và giải phóng HCN:
C20H27NO11
+ 2H2O C7H6O + 2C6H12O6
+ HCN
Trong dầu hạnh nhân đắng cứ 1,5g
dầu thì có 0,24g HCN. Lượng HCN chứa trong năm, sáu hạt hạnh nhân đủ giết chết
một em bé. Trong hạt đậu có chất phaseolumatin C10H17NO6
do tác dụng của men phaseosaponin sẽ thuỷ phân và giải phóng HCN:
C10H17NO6
+ H2O C6H12O6 + CH3 - CO
- CH3 + HCN
3. Độc tính của
axit xyanhydric và các xyanua tan
3.1. Độc tính
- Axit xyanhydric tác dụng lên
quá trình hô hấp tế bào bằng cách làm tê liệt các men sắt của xyto erom oxydaza
hoặc men đỏ vacbua (Warburg). Do thiếu oxy nên máu trong tĩnh mạch có mầu đỏ thẫm
và có những triệu trứng ngạt.
- Axit xyanhydric gây độc nhanh
qua đường hô hấp, với liều lượng 0,3mg/1kg trọng lượng cơ thể đã có thể gây chết
ngay.
Nồng độ từ 0,12 - 0,15mg/l gây
chết từ 30 phút đến 1 giờ.
Qua đường tiêu hoá: liều lượng
gây tử vong là 1mg/1 kg trọng lượng cơ thể đối với các muối như KCN, NaCN.
- Axit xyanhydric có thể thâm nhập
vào cơ thể rồi gây ngộ độc bằng cách thấm qua các vết thương ngoài da.
Nồng độ cho phép tiếp xúc nhiều
lần trong không khí là 10ml/m3 hoặc 11mg/m3 không khí ở
200.
3.2. Triệu trứng lâm sàng
- Ngộ độc cấp: Xảy ra khi hít phải
hay uống phải liều cao HCN. Ngộ độc xảy ra rất nhanh chóng, các trung tâm hành
tuỷ bị tê liệt, người bị nạn bất tỉnh, co giật và các cơ bị cứng. Sự hô hấp bị
ngắt quãng và dừng lại, tim đập rất nhanh và không đều, nạn nhân chết sau 1 - 2
phút.
- Ngộ độc bán cấp: Các hiện tượng
thường gặp là chóng mặt, buồn nôn, đau đầu, các niêm mạc hô hấp bị kích thích.
Nạn nhân sợ hãi, lo lắng nhưng vẫn còn sáng suốt, sau đó xuất hiện rối loạn thần
kinh, co giật, dãn đồng tử, cứng hàm, hiện tượng ngạt bắt đầu, nạn nhân chết
sau 20 phút. Nếu cấp cứu kịp thời, nạn nhân không chết nhưng tổn thương tim, tê
liệt bộ phận.
- Ngộ độc thường diễn: Xảy ra đối
với những người làm việc thường xuyên ở nơi có khí HCN bốc lên. Các hiện tượng
rõ rệt là đau đầu, chóng mặt, nôn và mệt nhọc.
3.3. Cách cấp cứu, điều trị
- Nếu bị ngộ độc bằng đường hô hấp:
đưa bệnh nhân ra khỏi vùng nhiễm độc, người làm cấp cứu phải đeo mặt nạ đề
phòng. Tiến hành ngay hô hấp nhân tạo, cho thở ô xy hoặc cacbongen để loại
nhanh chất độc qua đường phổi. Tiêm các thuốc trợ tim như Caphein campho,
niketamit. Nếu đã truỵ tim, tiêm thẳng vào tim ubain.
Đồng thời với việc làm các cấp cứu,
vãn hơi, hô hấp tế bào cần tiến hành:
+ Tiêm tĩnh mạch glutation liều
0,01
+ Tiêm các chất tạo nên
methemoglobin.
Cũng có thể điều trị bằng các chất
tạo nên methemoglobin khác:
+ Tiêm tĩnh mạch 5-10ml dung dịch
2-3% natrinitrit sau đó tiêm tiếp vài lần nữa (liều không quá 1-1,5g)
+ Tiêm tĩnh mạch 50ml dung dịch xanh
metylen.
Ngoài ra có thể dùng các thuốc
chuyển HCN thành chất không độc như tiêm natri tiosunphat (20ml dung dịch 25%
vào tĩnh mạch) có thể tới 200ml.
- Nếu ngộ độc qua đường tiêu hoá
thì dùng với apomocphin để gây nôn. Rửa dạ dày với dung dịch 2% KMnO4,
hoặc với pehyrol và cấp cứu như đã nêu trên.
II. CÁC
PHƯƠNG PHÁP PHÁT HIỆN VÀ XÁC ĐỊNH HÀM LƯỢNG XYANUA Ô NHIỄM
1. Phương
pháp định tính
Để phát hiện xyanua ta dùng các
phản ứng sau
- Tạo thành màu xanh beclin
Fe2+
+ 6CN - [Fe (CN)6]4-
4Fe3+
+ 2 [Fe(CN)6]4- Fe4[Fe(CN)6]2
xanh beclin
Lấy vào ống nghiệm 1ml dung dịch
nghiên cứu có chứa CN - , tiếp thêm vài giọt NaOH, một vài giọt muối
sắt 2(FeSO4), đun nóng hỗn hợp, sau đó axit hoá hỗn hợp bằng HCl và
thêm một vài giọt dung dịch Fe3+(Fe2(SO4)3.H2SO4).
- Phản ứng Chinha hay
picrosodic:
OH
OH
O2N
NO2 O2N NO2
+
3 HCN NC CN + HCNO
NO2 NO2
Lấy một băng giấy lọc, lần lượt
nhúng vào dung dịch bão hoà axit picric, xong nhúng vào dung dịch 10% Na2CO3,
ép khô bằng giấy lọc và phơi trong tối (giấy có màu vàng). Khi có HCN tác dụng
vào, giấy chuyển sang mầu vàng cam rõ rệt của isopurprin.
Để tăng độ nhận biết sau khi chuẩn
bị giấy thử trên, tiếp tục nhúng một nửa băng giấy vào axit axetic 10% để trung
hoà cacbonat (vùng này trở nên có tính axit sẽ không nhạy với HCN). Khi có HCN
tác dụng băng giấy có hai màu rõ rệt.
Phương pháp này để phát hiện HCN
trong không khí, trong kho tàng sau khi phun thuốc chống rệp có còn HCN không.
2. Phương
pháp định lượng
Để xác định lượng xyanua trong
nguồn nước, đất ta dùng phương pháp đơn giản và dễ thực hiện nhất là chuẩn độ
thể tích. Để chuẩn độ thể tích xyanua dùng phương pháp chuẩn độ iot hoặc chuẩn
độ bạc.
2.1. Phương pháp chuẩn độ iot
Phản ứng chuẩn độ
CN
- + I2 + H2O CNO- + 2I -
+ 2H+
Khi
hết CN - thì I2 + tinh bột màu xanh
Trung hoà dung dịch chứa CN -
bằng natri hydrocacbonat bão hoà, tốt nhất là dùng thẳng vài gam NaHCO3
bột, chuẩn độ dung dịch bằng dung dịch I2 0,1 N cho tới khi xuất hiện
màu xanh của chỉ thị hệ tinh bột với I2.
1ml dung dịch I2 0,1
N tương đương với 0,00135g HCN
2.2. Phương pháp chuẩn độ bạc
nitrat
Phản ứng chuẩn độ
2CN
- + Ag+ [Ag (CN)2] -
Điểm cuối chuẩn độ xuất hiện kết
tủa do
[Ag
(CN)2] - + Ag+ 2AgCN
Kiềm hoá dung dịch định phân có
chứa CN - bằng vài gam NaHCO3 bột, sau đó thêm vài giọt NaCl
làm tăng độ chỉ thị và chuẩn độ bằng bạc nitrat cho tới khi xuất hiện kết tủa
không tan màu trắng đục.
1 ml dung dịch AgNO3
0,1N tương đương với 0,0054g HCN.
III. NGUỒN
GỐC SỰ TỒN ĐỌNG XYANUA GÂY Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG TRONG KHAI THÁC VÀNG
Nước ta có trữ lượng vàng (Au)
không lớn lại nằm rải rác trên nhiều địa phương. Vì vậy việc khai thác đang được
nhiều cấp đảm nhiệm. Nhà nước quản lý các vùng quặng tập trung trữ lượng lớn
như vùng Quảng Nam, Đà Nẵng (Bồng Miêu), Lâm Đồng. Cấp tỉnh quản lý khai thác
những vùng mỏ nhỏ thuộc địa phương mình: Thái Nguyên, Bắc Cạn, Cao Bằng, Nghệ
An,... Nhưng do cách quản lý tổ chức khai thác của ta chưa tốt nên nhiều địa
phương để xảy ra sự khai thác, xử lý quặng vàng bừa bãi, trái phép gây lãng phí
tài nguyên, huỷ hoại môi trường, làm mất cân bằng sinh thái. Ở đây ta đặc biệt
lưu ý đến việc đổ bỏ bã thải, dịch thải còn chứa nhiều xyanua ra đất, nước gây
ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
Để tìm hiểu nguồn gốc tồn đọng
xyanua ta hãy xem xét sơ lược công nghệ khai thác vàng:
SƠ ĐỒ 1: SƠ ĐỒ CÔNG NGHỆ TIÊU CHUẨN KHAI QUÁT
Hỗn hống Au
Mẫu
quặng Tinh quặng Tinh quặng màng
Xái
Dịch
Môi
trường cát thải. Nước thải không chứa xyanua
|
Theo sơ đồ trên, quặng vàng trước
tiên được nghiền đập và phân cấp hạt qua sàng 0,1 mm, sau đưa sang tuyển trọng
lực bằng nước để thu những hạt vàng lớn (nếu có). Tinh quặng thu được trong quá
trình tuyển nổi nằm trên máng tuyển được thu lại và chuyển vào hỗn hống với Hg.
Quặng tươi ở dạng bột ướt sau
khi tuyển trọng lực được đưa vào bể hoà tách xyanua trong kiềm vôi có thiết bị
cấp oxy cưỡng bức và thêm các phụ gia cần thiết. Sau thời gian hoà tan thích hợp,
dung dịch chứa các phức xyanua Au, Ag được chuyển sang cột hoàn nguyên kim loại
vàng, bạc.
Hỗn hợp thu được đem phân kim để
thu vàng tinh khiết và bạc tinh khiết.
Theo sơ đồ tách vàng bằng xyanua
trên, ta thấy nếu thực hiện nghiêm chỉnh theo chu trình kín, có xử lý xyanua
sau khi thu hồi vàng thì không gây ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên, thực tế tại
các bãi đào vàng những người làm vàng tự do lại không thực hiện khâu xử lý
xyanua dư thừa sau khi tách vàng ở trong bùn và nước lọc. Do thiếu ý thức trách
nhiệm bảo vệ môi trường, do sợ tổn phí thêm khâu xử lý hoặc do thiếu hiểu biết
khoa học nên sau khi thu hồi được vàng, người ta đổ bừa chất thải ra môi trường.
Thực tế tại các bãi đào vàng người ta hoà tách bằng xyanua để lấy vàng rất cẩu
thả. Vì vậy, lượng xyanua thải ra môi trường rất lớn.
IV. CÁC
PHƯƠNG PHÁP TIÊU HUỶ CHẤT ĐỘC XYANUA
Xyanua rất dễ bị phân huỷ thành
những chất không độc bởi các tác nhân hoá học. Vì vậy, biện pháp xử lý hoá học
chất độc xyanua là đơn giản, rẻ tiền và dễ thực hiện nhất. Tuy nhiên, tuỳ từng
trường hợp cụ thể người ta vận dụng các phương pháp xử lý khác nhau. Dưới đây
là một số phương pháp xử lý:
1. Phương
pháp oxy hoá:
Xyanua dễ bị oxy hoá bởi các tác
nhân oxy hoá thông thường như clo, hydropeoxyt, focmandehyt, permanganat, axit
peoximonosunfuric (H2SO5), persunfat v.v...
1.1. Oxy hoá bằng khí clo, nước
giaven hay clorua vôi. Tác nhân oxy hoá ở đây chính là hypocloril OCl -:
NaCN
+ NaOCl NaOCN + NaCl
2NaCN
+ Ca(OCl)2 2NaOCN + CaCl2
2NaCN
+ Cl2 + 2NaOH 2NaOCN + 2NaCl + H2O
Natri xianat (NaOCN) ít độc hơn nhiều
và dễ phân huỷ tạo nên sản phẩm không độc.Thực hiện quy trình tiêu huỷ ở pH =
11-12.
Ở
pH = 5 - 8 xianat có thể bị oxy hoá tiếp:
2NaOCN
+ 3NaOCl + H2O 2NaHCO3 + N2 + 3NaCl
2NaOCN
+ 3Cl2 + 6NaOH 2NaHCO3 + N2 + 6NaCl + 2H2O
Nhưng nếu 8 < pH < 10 sẽ xảy
ra phản ứng phụ bất lợi:
NaCN
+ NaOCl + H2O CNCl + 2NaOH
(xyanua clorua dễ bay hơi và rất
độc)
và
CNCl + 2NaOH + H2O NaOCN + NaCl + 2H2O
Bởi
vậy quá trình tiêu huỷ phải khống chế pH = 11,5 để không xảy ra phản ứng phụ sinh
ra CNCl. Sau khi phân huỷ hết (CN - CNO-) có thể hạ thấp
pH xuống 5-8 để phân huỷ triệt để CN- thành những sản phẩm không độc.
Các tác nhân oxy hoá này phá huỷ
CN - rất mạnh và triệt để nhưng kỹ thuật thực hiện tương đối ngặt
nghèo.
1.2. Oxy hoá bằng ClO2
Clodioxyt được chế tạo tại chỗ bằng
tác dụng của mối NaClO2 với Cl2 hay axit clohydric:
2NaClO2
+ Cl2 2ClO2 + 2NaCl
5NaClO2
+ 4HCl 4ClO2 + 5NaCl + 2H2O
Oxyt clo oxy hoá được CN -
tự do cũng như CN - trong phức xiano, ví dụ: [Zn (CN)4]2-
, [Cd(CN)4 ]2-
Việc oxy hoá phức chất xyano của
Co và Ni khó hơn, phải dùng nhiều ClO2: 8-10kg ClO2 cho 1
kg CN -. Trong khi thực hiện oxy hoá CN - đơn cần ít hơn
1,2 kg ClO2/1kg CN -
Nói chung việc oxy hoá CN -
bằng tác nhân ClO phân tử hoặc dioxytclo phải thực hiện kỹ nghiêm ngặt để không
gây độc hại cho những người thao tác thực hiện quy trình.
1.3. Oxy hoá bằng ozon
Tác nhân này ít độc hại hơn clo,
thực hiện đơn giản hơn và oxy hoá CN - triệt để thành chất không độc.
CN
- + O3 OCN - + O2
6OCN
- + 8O3 6CO2 + 3N2 + 902
Tỷ lệ dùng: 4,6kg O3
cho 1kg CN -
1.4. Oxy hoá bằng hydroperoxyt
(H2O2)
Hydroperoxyt cũng là chất oxy
hoá mãnh liệt CN - thành chất không độc phản ứng cần có xúc tác.
Cu 2+
CN
- + H2 O2 OCN - + H2O
Xúc tác
OCN
- + 2H2 O2 CO2 + NH3 +
OH -
Tỷ lệ dùng 3,3 lít H2O2
35%/1kg CN -
Việc dùng H2O2 hay
O3 có thể oxy hoá được phức xyano của sắt rất bền và xyanua hữu cơ.
1.5. Oxy hoá bằng hydroperoxyt
và natrihypoclorit H2O2 + NaOCl
2CN
- + H2O2 + OCl - 2OCN -
+ Cl - + H2O
Ở đây không đòi hỏi pH cao như
khi dùng một mình muối hypoclorit, không phải thực hiện chế độ pH nghiêm ngặt để
đề phòng sinh ra khí độc. Vì không cần thêm nhiều NaOH để điều chỉnh pH nên tiết
kiệm được ~ 30% chi phí.
1.6. Oxy hoá bằng H2O2
+ HCHO (focmandehyt)
* Riêng H2O2:
CN
- + H2Oư2 OCN - + H2O
* Riêng HCHO:
CN
- +H-C =O + H2O HO-CH2- C º N + OH-
H (glucolonitril)
[Zn(CN)4]2-
+ 4HCHO + 4H2O 4HO-CH2-C º N + 4OH- + Zn2+
* Hỗn hợp H2O2
+ HCHO:
OH-
HO-CH2-C
º N + H2O HO - CH2 - C - NH2
xúc tác O
Dưới tác dụng của vi khuẩn, sản
phẩm này phân huỷ thành muối glucolat HO-CH2 - COO- không
độc hại.
1.7. Oxy hoá bằng KMnO4
xúc tác Cu2+
3CN
- + 2MnO4- + H2O 2MnO2 +
3OCN - + 20H-
Tỷ lệ dùng cần 4,05 kg KMnO4/1kg
CN -. Như vậy dùng tác nhân oxy hoá này khá đắt và để lại những sản phẩm
chưa an toàn cho môi trường.
1.8. Oxy hoá bằng oxy không khí
và than hoạt tính khi có CuSO4 xúc tác
than hoạt tính
2CN
- + O2 2OCN -
Cu2+
OCN
- H2O HCO3- + NH3
HCO3-
+ OH - CO3 2- + H2O
2Cu2+
+ 2OH- + CO3 CuCO3. Cu(OH)2
Việc xuất hiện kết tủa cacbonnat
bazơ cho thấy xianat bị thuỷ phân; có thể thêm Cu2+ để bổ sung chất
xúc tác.
2. Phương
pháp điện phân
2.1. Điện phân dung dịch chứa CN
-
Trong môi trường kiềm (bazơ) ở
dương cực CN - được oxy hoá thành xianat:
CN
- + OH- OCN - + H2O+2e
[Zn(CN)4]2-
+ 8OH - Zn2+ + 4OCN- + 4H2O + 8e
Xianat được tạo thành bị phân huỷ
oxy hoá:
2OCN
- + 6OH- 2HCO3- + N2 +
3H2O + 8e
Nếu dung dịch có nồng độ CN -
quá thấp nên dùng H2SO5 hay H2S2O8
để oxy hoá.
2.2. Điện phân dung dịch chứa CN
- có thêm NaCl (3-5%)
Thực
chất đây là trường hợp oxy hoá CN - bằng NaOCl vì trong dung dịch
khi điện phân thì NaCl NaOCl, và:
CN
‑ + OCl- OCN - + Cl -
H2O
+ 2OCN - + 3ClO- 2CO2 + N2 + 3Cl -
+ 2OH-
3. Phương
pháp tạo phức kết tủa
Đây là phương pháp cổ điển nhưng
có ưu điểm là chi phí thấp và dễ thực hiện. Tác nhân tạo phức kết tủa là muối
sunphat sắt hai hoặc hỗn hợp sắt hai và sắt ba. Các phản ứng diễn tả như sau:
Trong môi trường kiềm (bazơ)
FeSO4 tác dụng với CN -
Fe2+
+ 2CN - Fe (CN)2
Fe
(CN)2 + 4CN - [Fe(CN)6]4-
[Fe(CN)ư6]4-
+ 2Fe2+ Fe2 [Fe(CN)6]
Phản ứng tổng cộng:
3Fe2+
+ 6CN - Fe2 [Fe(CN)6]
Tỷ lệ dùng: 5,35 kg FeSO4
cho 1 kg CN -
Thực tế trong dung tích có lẫn
Fe3+ nên kết tủa có mầu xanh prusse hoặc khi dùng thêm muối Fe (SO4)3.H2SO4
ta thu được kết tủa xanh prusse.
[Fe(CN)6]4
- + Fe3+ Fe[Fe(CN)6]-M+
V. QUY
TRÌNH CÔNG NGHỆ TIÊU HUỶ VÀ TÁI SỬ DỤNG XYANUA
Trong công nghệ tách vàng bằng
phương pháp hoà tách xyanua, chất thải tồn tại dưới hại dạng chất lỏng và chất
rắn (bã).
1. Chất thải
lỏng
Sau khi hoàn nguyên vàng, bạc,
nước thải có chứa CN - tự do dư thừa và xyanua tồn tại trong các phức
kim loại Zn(CN)42-, Cu(CN)42-....
Thực tế lượng CN - tự
do còn rất nhiều vì quá trình hoà tách Au, Ag chỉ tiêu tốn khoảng 30% lượng CN -
ban đầu đưa vào hoà tách. Vậy trong dung dịch thải lỏng còn tới 70% xyanua, nếu
thải ra môi trường thì rất nguy hiểm. Có hai cách xử lý: tiêu huỷ hoặc tái
sinh.
1.1. Tiêu huỷ CN - tồn
đọng trong nước:
Nước dịch thải của bể hoà tách
vàng, bạc ở các vùng khai thác vàng.
Nước dịch thải của các bể mạ kim
loại bạc, vàng, đồng, kẽm.
Các bước tiến hành:
- Xác định tổng lượng CN - có
trong thể tích nước cần xử lý: Dùng phương pháp chuẩn độ với nitrat bạc. Thực tế
khi xử lý tại hiện trường người ta ít có điều kiện chuẩn độ nghiêm chỉnh. Để
đơn giản chỉ cần mốt số dụng cụ sau: Một chiếc cốc thuỷ tinh dung tích 100ml có
khắc dấu ấn định thể tích 20ml ở thành cốc. Một lọ đựng dung dịch nitrat bạc
0.1 M. Một công tơ hút. Lấy vào cốc 20ml dung dịch có chứa CN -,
dùng công tơ hút lấy nitrat bạc và bơm nhỏ từng giọt vào cốc lắc đều cốc. Nhỏ
giọt đến khi thấy xuất hiện kết tủa trong cốc, lắc không tan. Đếm tổng số giọt
dung dịch AgNO3 đã tiêu tốn. Giả sử là n giọt thì lượng dung dịch
AgNO3 tiêu tốn là 0,2 n ml (một giọt công tơ hút gần bằng 0,2 ml).
- Tổng lượng CN - có
trong khối nước cần xử lý tính theo công thức:
PCN = 0.052 V.n
(gram)
Ở đây: V là thể tích khối nước cần
xử lý tính bằng lít
n số giọt AgNO3 0.1 M
tiêu tốn cho phép chuẩn độ.
Chú ý: Thể tích dung dịch lấy để
chuẩn độ luôn là 20ml
Ví dụ: n = 45 giọt, V = 100lit
PCN = 0,052.100.45 =
234 g CN -
- Tính lượng FeSO4.5H2O
và Fe2 (SO4)3. H2SO4
theo công thức:
PFeSO4 = PFe2(SO4)3
= 5,35.PCN = 0,28.V.n
- Thao tác tiêu độc:
Đổ lượng PFeSO4 xuống
hố CN - khuấy đều dung dịch trong thời gian 15 phút.
Đổ
tiếp lượng PFe2(SO4)3 xuống dung dịch, khuấy kỹ 15 phút. Một khối tủa
xanh xuất hiện là Fe[Fe(CN)6]M không độc, có thể thải được ra môi
trường.
SƠ
ĐỒ TIÊU HUỶ NHƯ SAU:
Khối
dịch thải có chứa CN - V (lit)
|
Chuẩn
độ AgNO3 xác định CN - , n giọt
|
20 ml
Khuấy
30 phút
Lượng
FeSO4 và Fe2(SO4)3 bằng 0,28 V.n
(gram)
|
Tổng
lượng CN - có trong Vlit PCN= 0,52 V.n (gram)
|
1.2. Tái chế xyanua
1.2.1.
Nguyên lý tái chế
CN
- + H+ HCN
MCN
+ H+ HCN + M+
HCN
+ NaOH NaCN + H2O
Khi đưa một axit mạnh vào dịch
thải có chứa CN - tự do vào trong các phức kim loại thì axit
xyanhydric được giải phóng. Khí HCN được hấp thụ bởi dung dịch kiềm NaOH chuyển
thành dung dịch muối natrixyanua, dung dịch này chỉ cần bổ sung thêm một lượng
nhỏ NaCN nữa là được dung dịch để lại tiếp tục đưa vào bể hoà tách Au, Ag.
1.2.2. Kỹ thuật tái chế
Sự tái chế được thực hiện trong
một hệ thống kín bằng nhựa PVC gồm hai tháp: tháp giải phóng HCN và tháp thụ
HCN. (Sơ đồ 6)
Những phần chưa kịp phản ứng ở
buồng phản ứng tiếp tục tác dụng với nhau ở tháp 1. Để đuổi hết HCN ở tháp 1
sang tháp 2 ta dùng thêm máy khuấy hoặc nâng nhiệt độ tháp 1 lên 600C.
HCN chuyển sang tháp 2 theo đường
từ dưới tháp đồng thời dung dịch NaOH được tưới từ trên xuống.
Để phản ứng xảy ra hoàn toàn (khử
hết HCN) ta dùng bơm hồi lưu và trong tháp 2, bố trí các vách ngăn để tăng tiếp
xúc HCN và NaOH.
Sau khi hấp thụ hết HCN dung dịch
NaCN được tháo ra, dịch này được bổ sung thêm lượng nhỏ NaCN mới để đạt được nồng
độ NaCN 1% và lại chuyển vào bể hoà tan xái.
Sơ đồ 6
Tháp
1 sau khi phản ứng chất thải tháo ra ở đáy tháp gồm: các muối Na2SO4,
FeSO4, ZnSO4, CuSO4... và còn lại nồng độ CN -<
10-8 m/l.
Hệ thống tái sinh NaCN đã qua ứng
dụng thực tế tại các bãi đào đãi vàng đảm bảo tận thu tốt NaCn và đặc biệt
không gây ô nhiễm môi trường bởi xyanua.
Khả năng gia công chế tạo đáp ứng
đầy đủ nhu cầu thực tế, phương tiện gọn nhẹ đảm bảo thuận tiện thao tác, lắp đặt
bất kỳ hiện trường đào đãi vàng nào. Hiệu quả kinh tế rõ rệt, giá thành một hệ
thống rất thấp có thể chịu đựng cho tất cả các chủ làm vàng tự do, hơn nữa lại
thu hồi được xyanua tính ra lượng NaCn thu nạp lại sau 10 mẻ đủ chi phí cho vốn
ban đầu mua hệ thống xử lý.
2. Tiêu huỷ
xyanua tồn đọng trong đất (xái vàng)
- Tính lượng CN -
trong 1 kg đất:
Lấy ở 5 vị trí khác nhau (bề mặt,
dưới độ sâu 20 cm) trong bể chứa xái, lượng tổng cộng lấy là 1 kg xái. Hoà chiết
xái với nước nhiều lần (3-4 lần) mỗi lần 100ml. Định mức thành 500ml. Lấy 50 ml
chuẩn độ CN - bằng nitrat bạc 0.01M đến vừa xuất hiện tủa không tan.
Giả sử hết n giọt, lượng CN - có trong 1 kg xái là 0,2 n x10 x
0,00052 = 0,00104 n (gram).
- Tính lượng CN - có
trong bể: Giả sử trong bể chứa Px tấn xái, tổng lượng CN -
được tính theo công thức (gram):
PCN = Px .
1000 . 0,00104 . n = 1,04.n.Px
Ở đây: Px là trọng lượng
xái trong bể, đơn vị tấn
n là số giọt Ag NO3
0,01M đã sử dụng trong phép chuẩn độ.
- Tính lượng FeSO4.5H2O
và Fe2(SO4)3.5H2SO4 cần
thiết:
PFeSO4 = PFe2(SO4)3
= 5,35.n.PCN
PFeSO4 = P Fe2(SO4)3
= 5,56.n.Px
PFeSO4
= PFe2(SO4)3 = 5,56.n.Px (gram)
|
- Hoà tan 5,56.n.Px
gam FeSO4.5H2O trong nước với thể tích bằng 1/10 khối xái
trong bể.
- Hoà tan 5,56.n.Px gam
Fe2 (SO4)3. H2SO4 trong
nước với thể tích bằng 1/10 khối xái trong bể.
- Tiến hành tiêu độc:
Dội thể tích dung dịch FeSO4
lên khắp bề mặt xái để yên 30 phút.
Dội thể tích dung dịch Fe2(SO4)3
lên khắp bề mặt xái để yên 30 phút. Sau khi xử lý, xái được đổ thải ra môi trường.
SƠ
ĐỒ XỬ LÝ XÁI:
Xác
định CN - hết n giọt AgNO3 0,01 M
|
1 kg
Tưới
lên
mặt
bể chứa
Lượng
CN - trong xái là: 1,04.n.Px
|
PFe2+
= PFe3+ = 5,56.n.PCN
|
H2O
1/10Vx