HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
TỈNH VĨNH PHÚC
--------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 47/NQ-HĐND
|
Vĩnh Phúc,
ngày 18 tháng 12 năm 2018
|
NGHỊ QUYẾT
VỀ VIỆC TĂNG CƯỜNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ
MÔI TRƯỜNG TRONG CÁC KHU CÔNG NGHIỆP, CỤM CÔNG NGHIỆP, LÀNG NGHỀ VÀ KHU VỰC
NÔNG THÔN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH VĨNH PHÚC
HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH VĨNH PHÚC
KHOÁ XVI KỲ HỌP THỨ 10
Căn cứ Luật tổ chức chính quyền địa phương
ngày 19 tháng 6 năm 2015;
Căn cứ Luật hoạt động giám sát của Quốc hội
và Hội đồng nhân dân ngày 20 tháng 11 năm 2015;
Trên cơ sở xem xét Báo cáo số 82/BC-ĐGS ngày
30 tháng 11 năm 2018 của Đoàn giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh về kết quả
giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường trong các
khu công nghiệp, cụm công nghiệp, làng nghề và khu vực nông thôn trên địa bàn tỉnh
Vĩnh Phúc; ý kiến thảo luận của đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh tại kỳ họp,
QUYẾT NGHỊ:
Điều 1. Tán thành Báo cáo kết
quả giám sát số 82/BC-ĐGS ngày 30 tháng 11 năm 2018 của Đoàn giám sát của Hội đồng
nhân dân tỉnh về việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường
trong các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, làng nghề và khu vực nông thôn trên
địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc và nhấn mạnh một số vấn đề sau:
Công tác chỉ đạo, triển khai tổ chức
thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường trong các khu công
nghiệp, cụm công nghiệp, làng nghề và khu vực nông thông trên địa bàn tỉnh đã được các cấp, các ngành tích cực triển khai
thực hiện, ban hành một số cơ chế chính sách, các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn,
quy chế, kế hoạch, tổ chức tuyên truyền triển khai thực hiện. Đội ngũ làm công tác bảo vệ môi trường từ tỉnh đến cơ sở từng bước được
kiện toàn và năng lực được nâng lên; đầu tư, mua sắm trang
thiết bị hỗ trợ, phục vụ công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát về môi trường
tương đối hiện đại và đồng bộ; công tác thanh tra, kiểm
tra, giám sát việc chấp hành pháp luật bảo vệ môi trường đã được quan tâm, tăng cường.
Đến nay, trên địa bàn tỉnh có:
09 khu công nghiệp đã và đang chuẩn bị đi vào hoạt động,
trong đó có 07 khu công nghiệp đang
hoạt động đã có và đang hoàn thiện hệ thống xử lý nước thải tập trung; có 5 khu công nghiệp đã đưa nhà máy xử
lý nước thải tập trung vào hoạt động và lắp đặt hệ thống
quan trắc tự động tại các nhà máy xử lý nước thải tập trung của khu công
nghiệp; hình thành 16 cụm công
nghiệp, trong đó có 11 cụm công nghiệp đã đi vào hoạt động, trong
11 cụm công nghiệp đi vào
hoạt động có 02 cụm công nghiệp có hệ thống thu gom xử lý nước thải tập trung;
02 cụm công nghiệp đang được đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ
thuật bảo vệ môi trường; đã thành lập được 02 Trung tâm phát triển cụm công
nghiệp tại 02 huyện Vĩnh Tường, Yên Lạc; đã có 09 cụm công
nghiệp được thành lập, giao chủ đầu tư; hiện
có 25 làng nghề đã được công nhận; có 35 lò đốt rác (33 lò do nhà nước đầu tư từ trước năm 2016 với quy
mô, công suất 500 kg/giờ đặt ở các xã, thị trấn; 02 lò do tư nhân đầu tư), các
lò đốt rác hoạt động tương đối hiệu quả. Toàn tỉnh có 300 điểm tập kết, chôn lấp
rác đang được quản lý hoạt động theo quy hoạch với diện tích khoảng 25 ha.
Từ năm 2015 đến nay, có 250 dự án
được phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường, 61 dự án được xác nhận kế
hoạch bảo vệ môi trường, 23 dự án được phê duyệt đề án bảo vệ môi trường; 400
cơ sở được cấp sổ đăng ký chủ nguồn thải chất thải nguy hại, đồng thời tổ chức
thanh tra, kiểm tra trên 1.000 cơ sở sản xuất, kinh doanh trên địa bàn tỉnh, đã
xử lý vi phạm hành chính đối với 245 đơn vị với tổng số tiền phạt 11,336 tỷ đồng.
Thường xuyên giám sát trực tuyến chất
lượng nước thải tại 5 nhà máy xử lý nước thải tập trung của 5 khu công nghiệp
qua hệ thống quan trắc tự động được kết nối truyền dữ liệu về Sở Tài nguyên và
Môi trường. Công tác bảo vệ môi trường tại các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh hiện nay cơ bản đã đáp ứng được các yêu cầu về bảo vệ
môi trường. 100% các khu công nghiệp đã được Bộ Tài nguyên
và Môi trường phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường.
Bên cạnh những kết quả đạt được
nêu trên, việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo
vệ môi trường trong khu công nghiệp, cụm công
nghiệp, làng nghề và khu vực nông thôn vẫn còn những hạn chế, bất
cập:
Công tác quản lý nhà nước đối
với việc thực hiện quy định về bảo vệ môi trường trong khu công nghiệp, cụm công nghiệp còn nhiều hạn chế, chưa tập trung chỉ đạo quyết liệt và thống nhất để giải quyết dứt điểm một số hạn chế bất cập liên quan đến công tác bảo vệ môi
trường khu công nghiệp, khu công
nghiệp Bá Thiện đã đi vào hoạt động nhưng hệ thống xử lý nước thải
tập trung và nhà máy xử lý nước thải tập trung chưa hoàn thiện nên chưa vận
hành, nên chưa lắp đặt trạm quan trắc tự động để giám sát chất lượng nước thải;
còn 02 khu công nghiệp Tam Dương
và khu công nghiệp Phúc Yên đã đi vào hoạt động nhưng chưa
xây dựng nhà máy xử lý nước thải tập trung.
Đối với
các cụm công nghiệp từ năm 2017 về trước quản lý còn lỏng
lẻo, phân cấp quản lý và giao trách nhiệm cho UBND cấp huyện chưa rõ ràng, chưa
quan tâm đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật bảo vệ môi trường, hiện còn 07/11 cụm
công nghiệp đi vào hoạt động chưa xây dựng trạm xử lý
nước thải tập trung; thực hiện chuyển đổi mô hình quản lý cụm công nghiệp
chưa thống nhất, còn 02 cụm kinh tế - xã hội (Hợp Thịnh và
Tân Tiến) hiện chưa có chủ đầu tư, chưa có quyết định đổi tên thành cụm công
nghiệp và còn 07 cụm công nghiệp được
hình thành nhưng chưa có quyết định thành lập, chưa có chủ đầu tư; chưa quyết
liệt chỉ đạo, hướng dẫn để thống nhất thực hiện thu phí dịch vụ môi trường đối với các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh trong cụm công
nghiệp, nên 100% các cụm công nghiệp trên địa
bàn tỉnh chưa thực hiện thu phí dịch vụ môi trường đối với các doanh nghiệp. Công tác quản lý quy hoạch về xây dựng hạ tầng kỹ thuật bảo vệ môi
trường trong các cụm công nghiệp chưa đảm bảo; tình trạng
ô nhiễm môi trường ở các cụm công nghiệp ngày càng có chiều hướng gia tăng. Công tác phối
hợp trong quản lý đất đai, cấp giấy chứng nhận đầu tư, kinh doanh, xây dựng
trong các cụm công nghiệp chưa chặt chẽ, còn tình trạng
xây nhà ở trong cụm công nghiệp. Nhiều doanh nghiệp
chưa có báo cáo đánh giá tác động môi trường, cam kết bảo vệ môi trường được
duyệt, song vẫn được giao đất, cho thuê đất, cấp giấy chứng nhận đầu tư vào cụm
công nghiệp. Việc thực hiện quy hoạch, bố trí các công
trình phúc lợi xã hội chưa phù hợp: địa điểm xây dựng Bệnh viện Sản - Nhi tỉnh
nằm cạnh cụm kinh tế - xã hội Hợp Thịnh và cụm công nghiệp Đồng Văn.
Hầu hết các cơ sở làng nghề có quy
mô sản xuất nhỏ, xen kẽ với khu dân cư, kết cấu hạ tầng chưa được xây dựng đồng
bộ, không đáp ứng yêu cầu thực tế về bảo vệ môi trường; chưa có địa phương nào
xây dựng, phê duyệt phương án bảo vệ môi trường làng nghề để triển khai thực hiện,
chưa thành lập tổ chức tự quản về bảo
vệ môi trường làng nghề theo quy định. Hiện nay 300 bãi tập kết, xử lý rác thải ở các địa
phương cấp xã đều quá tải; việc xử lý rác thải đạt tỷ lệ rất thấp so với thực tế.
Khí thải của 33 lò đốt rác với quy mô, công suất nhỏ
chưa đảm bảo quy chuẩn kỹ thuật quốc gia QCVN61-MT: 2016/BTNMT của Bộ Tài
nguyên và Môi trường về lò đốt chất thải rắn sinh hoạt. Hạ
tầng thiết yếu về tiêu thoát và xử lý nước thải ở khu vực nông thôn còn hạn chế,
manh mún, chắp vá, thiếu đồng bộ.
Những hạn chế, vướng mắc, bất cập
nêu trên do nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu là: Công tác quản lý nhà nước
nhiều năm trước đây còn lỏng lẻo, chưa gắn trách nhiệm
rõ ràng với các ngành, địa phương; việc giao thẩm quyền quản lý không có cơ chế
phân cấp nguồn lực cho cấp huyện đầu tư hạ tầng kỹ thuật bảo vệ môi trường.
Công tác quản lý quy hoạch, quản lý đất đai, xây dựng, đầu tư, kinh doanh, an
ninh trật tự trong các khu công nghiệp, nhất là cụm công
nghiệp còn bị buông lỏng; quy hoạch xây dựng nhà máy xử lý
rác thải tập trung còn chậm chưa đáp ứng kịp nhu cầu. Cấp uỷ, chính quyền một số địa phương, cơ sở chưa thật sự
quan tâm quyết liệt lãnh đạo, quán triệt chỉ đạo thực hiện chính sách pháp luật
về bảo vệ môi trường. Công tác tuyên truyền, thanh tra, kiểm tra còn dàn trải, ý thức chấp hành
pháp luật về bảo vệ môi trường của không ít doanh nghiệp, một bộ phận nhân dân
còn hạn chế. Mặc dù các cấp, các
ngành, các địa phương đã có nhiều cố gắng trong công tác quản lý, bố trí nguồn
lực của Nhà nước, huy động nguồn lực từ xã hội hóa để đầu tư xây dựng hệ thống
hạ tầng kỹ thuật về bảo vệ môi trường trong các khu công nghiệp, nhất là cụm công nghiệp, làng nghề và khu dân cư
vùng nông thôn, song hiệu quả đạt được chưa cao, chưa đáp ứng được nhu cầu; chưa xây dựng được cơ chế, chính sách phù hợp để thu hút đầu tư cho
công tác bảo vệ môi trường.
Hệ thống văn bản pháp luật liên
quan đến công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường còn nằm rải rác ở nhiều
văn bản, thiếu tính đồng bộ, thiếu ổn định, một số quy định còn mâu thuẫn, chồng
chéo, chưa phù hợp thực tiễn. Bảo vệ môi trường là lĩnh vực phức tạp, liên quan
đến nhiều cấp, nhiều ngành, các tổ chức, mỗi cá nhân trong xã hội và đòi hỏi phải
bố trí nguồn kinh phí lớn. Việc lập quy hoạch các bãi
rác, nhà máy xử lý rác thải tập trung gặp nhiều khó khăn về quỹ đất, nhiều nơi người dân không đồng thuận.
Điều 2. Giao Ủy
ban nhân dân tỉnh tập trung thực hiện các yêu cầu, nhiệm vụ sau:
1. Tiếp tục chỉ
đạo các Sở, ban, ngành, Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã tăng cường thực hiện
chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường theo chức năng nhiệm vụ và thẩm quyền
được giao, đưa chỉ tiêu về bảo vệ môi trường vào kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội của các cấp chính quyền địa phương, coi đây là chỉ tiêu cần được ưu tiên
thực hiện.
2. Rà soát hoàn thiện các văn bản chỉ đạo, quy chế phối
hợp, hướng dẫn, phân
cấp, ủy quyền quy định rõ trách nhiệm thẩm định, phê duyệt báo cáo đánh giá tác
động môi trường giữa Ban Quản lý các Khu công nghiệp, Sở Tài nguyên và Môi trường,
Ủy ban nhân dân cấp huyện; gắn trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị trong việc
thực hiện nhiệm vụ về công tác bảo vệ môi trường cho
phù hợp với điều kiện thực tế.
3. Tập trung
chỉ đạo giải quyết, có kế hoạch, phương án hỗ trợ di rời hoặc chuyển đổi loại
hình sản xuất đối với một số doanh nghiệp tái chế thép, phế
liệu ngay cạnh Bệnh viện Sản - Nhi tỉnh. Giải quyết dứt điểm một số tồn tại đã lâu tại khu công nghiệp Khai
Quang, Bình Xuyên; đầu tư hoàn thiện nhà
máy xử lý nước thải tập trung tại khu công nghiệp Bá Thiện để đưa vào vận hành
trong năm 2019.
4. Rà soát công tác quản
lý quy hoạch xây dựng hạ tầng kỹ thuật bảo vệ môi trường trong các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, làng nghề và khu
vực nông thôn; đánh giá thực
trạng ô nhiễm môi trường của các cụm công nghiệp, làng nghề, 300 điểm tập kết xử lý rác thải tại địa bàn cấp xã, việc vớt
và xử lý rác vớt lên tại các điểm đặt lưới chắn rác trên các kênh tưới Liễn
Sơn, 6A, 6B trên địa bàn tỉnh. Khẩn trương
xây dựng kế hoạch, có lộ trình cụ thể thực hiện các giải pháp, biện pháp khắc
phục, giải quyết những hạn chế, bất cập về hệ thống hạ tầng kỹ thuật bảo vệ môi
trường và nguy cơ tiềm ẩn ô nhiễm môi trường trong các khu công nghiệp, nhất là cụm công nghiệp, làng nghề và khu
vực nông thôn trên địa bàn tỉnh.
5. Bố trí nguồn lực đảm bảo tối
thiểu cho đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật bảo vệ môi trường cụm công
nghiệp theo quy định của pháp luật; ưu tiên cho việc khắc phục, xử
lý đối với các cụm công nghiệp, làng nghề, khu vực nông
thôn đang bị ô nhiễm, tiềm ẩn nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao. Đánh giá kết quả, hiệu quả đầu
tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật bảo vệ môi trường trong các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, làng nghề, khu dân cư trên địa bàn tỉnh.
6. Tiếp tục xây dựng cơ chế chính sách hỗ trợ, thu hút các
doanh nghiệp vào đầu tư xây dựng, kinh doanh hạ tầng về bảo vệ môi trường trong
cụm công nghiệp, làng nghề, khu vực
nông thôn, đặc biệt là xây dựng nhà máy xử lý rác thải tập trung.
7. Thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, hướng dẫn các doanh nghiệp
nhằm nâng cao trách nhiệm, nghiêm túc thực hiện quy định của pháp luật về bảo
môi trường; tăng cường kiểm tra, thanh tra các doanh nghiệp trong khu công
nghiệp, trong và ngoài cụm công nghiệp, làng
nghề trong việc thực hiện quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường; đẩy mạnh
ứng dụng công nghệ thông tin đối với việc quản lý, giám sát tự động việc xả thải
của các doanh nghiệp.
8. Đẩy mạnh công tác phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội các cấp làm tốt công tác tuyên truyền để nâng cao ý thức trách nhiệm của doanh nghiệp,
nhân dân trong việc bảo vệ môi trường; vận động nhân dân tạo sự đồng thuận
trong việc quy hoạch và xây dựng nhà máy xử lý rác thải tập trung, xây dựng hệ
thống hạ tầng kỹ thuật bảo vệ môi trường nông thôn; kịp thời
thông tin về dấu hiệu gây ô nhiễm môi trường của các doanh nghiệp sản xuất tại
địa phương.
Điều 3. Tổ chức
thực hiện
1. Uỷ ban nhân dân tỉnh
tổ chức thực hiện Nghị quyết này.
2. Thường trực
Hội đồng nhân dân tỉnh, các Ban của Hội đồng nhân dân tỉnh, Tổ đại biểu Hội đồng
nhân dân tỉnh và đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh có trách nhiệm kiểm tra, giám
sát việc thực hiện Nghị quyết này.
Nghị quyết này đã được Hội đồng nhân dân tỉnh khoá XVI, kỳ
họp thứ 10 thông qua ngày 09 tháng 12 năm 2018
và có hiệu lực kể từ ngày ký./.