HỘI
ĐỒNG CHÍNH PHỦ
*******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
*******
|
Số:10-CP
|
Hà
Nội ngày 26 tháng 04 năm 1960
|
NGHỊ ĐỊNH
QUY ĐỊNH CHẾ ĐỘ TIẾT KIỆM GỖ
HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
Xét tình hình khai thác, cung
cấp, sử dụng, bảo quản gỗ hiện nay, nhất là việc sử dụng gỗ còn nhiều điều bất
hợp lý, gây lãng phí nghiêm trọng;
Theo đề nghị của ông Bộ trưởng Bộ Nông lâm;
Căn cứ vào Nghị quyết của Hội đồng Chính phủ trong phiên họp thứ ngày 9 tháng 3
năm 1960 của Hội nghị thường vụ của Hội đồng Chính phủ,
NGHỊ ĐỊNH:
Điều 1.
– Nay đặt chế độ tiết kiệm gỗ thành một kỷ luật của Nhà
nước mà các cấp, các ngành phải nghiêm chỉnh chấp hành, để:
- Chấm dứt tình trạng lãng phí gỗ;
- Bảo vệ rừng và cải tạo rừng;
- Bảo đảm nhu cầu về gỗ ngày
càng tăng của Nhà nước và nhân dân.
Chế độ tiết kiệm gỗ bao gồm các
mặt: khai thác, cung cấp, sử dụng và bảo quản gỗ.
Mục I – KHAI
THÁC GỖ
– Mỗi khi mở công trường
khai thác gỗ, các tổ chức được phép khai thác phải:
- Khai thác đúng trong phạm vi
khu rừng đã được ấn định;
- Theo đúng thể lệ lâm nghiệp;
- Khai thác có kế hoạch toàn diện,
tận dụng đến mức tối đa cành, nhánh.
Cơ quan Lâm nghiệp có trách nhiệm
theo dõi, hướng dẫn và kiểm tra các tổ chức khai thác gỗ để bảo đảm kỹ thuật
khai thác, tạo điều kiện tái sinh tự nhiên của rừng; đồng thời thực hiện kế hoạch
trồng rừng để bảo vệ rừng và cải tạo rừng.
Điều 3.
– Bộ Nông lâm quy định kích thước tối thiểu được chặt đối với từng loại gỗ ở từng
vùng; cùng với Bộ Nội thương nghiên cứu trình Hội đồng Chính phủ quy định giá
thu mua và giá bán gỗ cho hợp lý nhằm khuyến khích khai thác toàn diện.
Điều 4.
– Cơ quan Lâm nghiệp và các tổ chức được phép khai thác gỗ phải tìm mọi cách vận
chuyển và bảo quản gỗ không được để chỗ ứ đọng, mất phẩm chất ở rừng, ở ven đường
hoặc ở các bến; khi nào gỗ được mang đến những địa điểm đã quy định để giao nhận
mới coi là đã hoàn thành nhiệm vụ khai thác.
Mục II – SỬ DỤNG
VÀ CUNG CẤP GỖ
Điều 5.
– Sử dụng gỗ phải tiết kiệm, trường hợp có thể dùng tre hoặc các vật liệu khác
thay gỗ có lợi hơn thì phải triệt để dùng các vật liệu đó thay gỗ.
Điều 6.
– Sử dụng gỗ phải hợp lý theo đúng nguyên tắc gỗ nào dùng vào việc ấy. Bản quy
định tạm thời về sử dụng gỗ ban hành kèm theo Nghị định này chia loại các công
việc cần gỗ và định nhóm gỗ thích hợp cho từng loại công việc. Bộ Nông lâm phối
hợp với Ủy ban Khoa học Nhà nước nghiên cứu sắp xếp các loại gỗ hiện có vào từng
nhóm và xác định sức chịu của từng loại để hướng dẫn việc sử dụng gỗ cho đúng,
vừa đảm bảo được chất lượng của công trình kiến thiết vừa không bó hẹp vào một
số gỗ quen dùng gây khó khăn cho việc cung cấp gỗ. Cơ quan kiến thiết các công
trình xây dựng, các cơ sở sản xuất dùng gỗ làm nguyên liệu phải theo đúng
các điều quy định nói trên mà lựa chọn loại gỗ cần thiết.
Điều 7.
– Cỡ gỗ xẻ từ nay thống nhất theo các kích thước trong bản quy định cỡ gỗ xẻ
ban hành kèm theo Nghị định này. Các tổ chức cung cấp và sử dụng gỗ phải theo
đúng kích thước quy định mà xẻ gỗ và thiết kế. Trường hợp thật đặc biệt cần cỡ
gỗ xẻ khác thì phải được Ủy ban Kế hoạch Nhà nước đồng ý.
Điều 8.
– Chỉ có các công trình đã ghi trong kế hoạch Nhà nước và có thiết kế được Ủy
ban Kế hoạch Nhà nước duyệt mới được cung cấp gỗ. Những công trình không ghi
trong kế hoạch Nhà nước, hoặc thiết kế ở nước ngoài chưa đưa về kịp, hoặc những
công trình chưa được duyệt thiết kế kỹ thuật toàn bộ, mà muốn được cung cấp gỗ
ngay để chuẩn bị cho kịp thì phải được Thủ tướng Chính phủ cho phép và chỉ được
cung cấp dần tùy theo sự cần thiết.
Điều 9.
– Các tổ chức phụ trách cung cấp gỗ theo kế hoạch Nhà nước có trách nhiệm ký hợp
đồng và cung cấp gỗ kịp thời cho các công trình nói ở điều 8, theo đúng các bản
thiết kế đã được duyệt. Khi ký hợp đồng hai bên dựa trên cơ sở bản thiết kế và
căn cứ vào các bản quy định tạm thời về sử dụng gỗ và cỡ gỗ xẻ mà tính toán cụ
thể, ký kết cho sát với nhu cầu.
Điều 10.
– Các ngành và các Ủy ban hành chính địa phương nhất thiết không được làm
sai kế hoạch cung cấp và phân phối gỗ, như lấy kế hoạch gỗ phân phối cho chỗ
này dùng cho chỗ khác.
Điều 11.
– Các công trường xây dựng, các xưởng cưa, xưởng đồ mộc, xưởng chế biến, vv…
không được đem bán ra ngoài, tùy tiện dùng, hoặc hủy bỏ các loại gỗ đã dùng vào
các công việc tạm thời như ván cốp pha, cột đà giáo, cột chống cầu hoặc các loại
gỗ thừa khác. Tổng công ty vật liệu xây dựng thuộc Bộ Nội thương có trách nhiệm
thống nhất thu mua và có kế hoạch chế biến, phân phối, sử dụng hợp lý các
loại gỗ đó.
Mục III. – BẢO
QUẢN GỖ
Điều 12.
– Các tổ chức khai thác, cung cấp, sử dụng gỗ đều phải bảo quản gỗ bằng mọi
phương tiện và phương pháp thích hợp từ khi mới chặt hạ cho đến khi xây lắp để
tránh hoặc hạn chế sự hư hỏng gỗ do thời tiết và sâu, nấm, mối, mọt gây nên. Việc
bảo quản phải làm theo bản quy định tạm thời về bảo quản gỗ kèm theo Nghị định
này.
Điều 13.
– Bộ Nông lâm có trách nhiệm hướng dẫn và cùng các ngành có liên quan nghiên cứu
quy định về ngâm, tẩm gỗ bằng hóa chất để trình Thủ tướng Chính phủ duyệt và
ban hành.
Mục IV. – THƯỞNG
PHẠT
Điều 14.
Các cơ quan, tổ chức, cá nhân gương mẫu trong việc chấp hành chế độ tiết kiệm
có nhiều sáng kiến, nhiều thành tích sẽ được khen thưởng; tùy từng trường hợp
có thể được tuyên dương, được giải thưởng, bằng khen, hoặc huân chương.
Các cơ quan, tổ chức hoặc cá
nhân không chấp hành đúng chế độ tiết kiệm gỗ thì tùy từng trường hợp có thể bị
thi hành kỷ luật hành chính (cảnh cáo, giáng chức, cách chức) hoặc bị truy tố
trước tòa án và bị xử phạt theo sắc lệnh số 267-SL ngày 15-06-1956.
Điều 15.
– Ủy ban thanh tra Trung ương của Chính phủ và các Ban Thanh tra các cấp có
trách nhiệm kiểm tra việc chấp hành chế độ tiết kiệm gỗ.
Bộ Nông lâm, Bộ Kiến trúc và Bộ
Nội thương có trách nhiệm thường xuyên kiểm tra các tổ chức khai thác, cung cấp
và sử dụng gỗ.
Điều 16.
– Các quy định trước trái với Nghị định này đều bãi bỏ.
Nghị định này thi hành kể từ
ngày 26-04-1960.
|
TM.
HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Phạm Văn Đồng
|
QUY ĐỊNH TẠM THỜI VỀ SỬ DỤNG GỖ
Để thực hiện bản quy định sử dụng
gỗ dưới đây, cần chú ý những điểm sau:
1. Tiêu chuẩn quy định sử dụng gỗ
vào các công trình xây dựng ghi trong bản quy định này đã được mở rộng đến nhóm
VII là nhóm bao gồm trên 1/3 tổng số gỗ khai thác hiện nay.
2. Bản quy định này không quy định
bó hẹp với những tên gỗ nhất định mà chỉ quy định từng nhóm, loại gỗ cho mỗi loại
công trình để tránh khó khăn cho ngành sử dụng gỗ trong trường hợp ở địa phương
không có những tên gỗ đã quy định, còn việc chọn gỗ thích hợp để đảm bảo an
toàn của công trình là do ngành thiết kế tính toán lựa chọn và chịu trách
nhiệm về chuyên môn.
3. Sử dụng gỗ theo bản quy định
này với điều kiện thực hiện tốt chế độ bảo quản gỗ, ngâm, tẩm gỗ, chủ động làm
tăng thêm tính chất lâu bền của gỗ.
4. Để khỏi có sự lầm lẫn trong khi
sử dụng gỗ, từ nay gỗ chia thành 8 nhóm. Trong từng nhóm có các loại, cấp, hạng,
… như quy định của Bộ Nông lâm.
I. GỖ LÀM
NHÀ
A. Nhà lâu năm, quan trọng:
1. Trong nhà máy xí nghiệp, hội
trường, trường học, rạp hát, nói chung là nơi thường xuyên có nhiều người làm
việc, được dùng những loại gỗ có tên trong nhóm II trừ lim xanh, táu mật, nghiến,
để làm những bộ phận khó thay đổi lại chịu những lực nặng (lực nén, lực oằn, lực
kéo) như vì kèo, xà gồ, dầm, cầu phong… hoặc những bộ phận trực tiếp chịu
ảnh hưởng của hóa chất trong các kho chứa hóa chất hoặc trong xưởng chế hóa chất.
Những địa phương không có những loại khác trong nhóm II mới được dùng lim xanh,
táu mật, nghiến.
2. Trong những nhà thông thường
như nhà ăn, nhà ở, nhà làm việc, nhà kho nhỏ, … chỉ được dùng những gỗ có
tên trong nhóm V để làm các bộ phận khó thay đổi và chịu những lực nặng. Nếu
dùng gỗ từ nhóm VI trở xuống để làm những bộ phận đó thì phải tẩm thuốc chống
sâu, nấm.
Về khuôn cửa bất cứ nhà kho, hội
trường, hay nhà thường cũng chỉ được dùng gỗ nhóm V trở xuống.
3. Bộ phận không chịu lực nặng,
dễ thay đổi như cánh cửa, ván cửa, … chỉ được dùng gỗ có tên từ nhóm VI trở xuống,
Lati, Litô được dùng gỗ từ nhóm V trở lên.
B. Nhà tạm thời:
1. Nhà tạm thời dưới hai năm (kể
cả nhà lắp ghép di động ở các công trường): không dùng gỗ, trừ những trường
hợp không có tre, nứa thay thế.
Nếu dùng gỗ chỉ được dùng gỗ từ
nhóm VI trở xuống.
2. Nhà tạm thời từ hai đến
năm năm: chỉ được dùng gỗ từ nhóm VI trở xuống. Nếu dùng gỗ nhóm VII làm các bộ
phận ở trên mái chịu sức nặng thì phải tẩm hóa chất.
C. Ván cốp pha:
Chỉ được dùng gỗ từ nhóm
VII trở xuống và phải dùng ít nhất là 3 lần. Ván lát, đà giáo để công nhân làm
việc được dùng gỗ nhóm VI, nhóm VII.
D. Cột chống và đà giáo:
Không dùng gỗ, trừ trường hợp
không có tre thay thế. Nếu dùng cột gỗ chỉ được dùng gỗ từ nhóm VI trở xuống và
được dùng gỗ thẳng. Đối với những công trình lớn cần những cột chống và đà giáo
cao đến 30m thì được dùng gỗ nhóm V.
E. Cọc móng:
Đối với móng nhà dân dụng
không dùng gỗ. Đối với những công trình lớn chỉ được dùng gỗ từ nhóm V trở xuống.
II. GỖ ĐÓNG
TÀU, THUYỀN, PHÀ.
1.Tàu, thuyền, phà, sà-lan đi biển
được dùng riêng những loại gỗ: lim xanh, sang le, chò chỉ, tếch, huỳnh, cà ổi.
Ngoài ra có thể dùng gỗ từ nhóm II đến nhóm V. Đối với các loại gỗ sang le, chò
chỉ, cà ổi, tếch, huỳnh, chỉ dùng để đóng vỏ, còn khung thuyền thì dùng gỗ
nhóm V và nhóm VI.
2. Thuyền, phà ở nước ngọt chỉ
được dùng gỗ từ nhóm V trở xuống. Đối với thuyền từ 10 tấn trở lên, khung thuyền
có thể dùng gỗ nhóm II, đối với thuyền nhỏ hơn khung thuyền chỉ được dùng gỗ từ
nhóm V trở xuống.
3. Cột buồm: ưu tiên dùng cồng
tía, táu mật, ngoài ra có thể dùng gỗ trong nhóm V.
III. GỖ
CÔNG TRÌNH THỦY LỢI, CẦU CỐNG, GIAO THÔNG VẬN TẢI
1. Những bộ phận thường xuyên phơi
mưa, nắng và chịu sức nặng như cột tàu, dầm cầu, xà cầu, ván cầu, khung,
ván cửa đập, cửa cống, … được dùng gỗ trong nhóm II và V.
2. Thành cầu, tay vịn… chỉ được
dùng gỗ nhóm V và nhóm VI.
3. Tà vẹt chỉ được dùng gỗ từ
nhóm V trở xuống. Tà vẹt cầu và ghi được dùng gỗ trong nhóm II. Đối với gỗ từ
nhóm IV trở lên nếu đường kính dưới 0m30 và dài 2m50 cũng được dùng làm tà vẹt.
Bệ xe ô-tô, sàn toa xe hỏa được dùng gỗ nhóm V và nhóm VI.
4. Cột chống cầu chỉ được dùng gỗ
từ nhóm VI trở xuống.
5. Cột điện: chỉ được dùng gỗ từ
nhóm V đến nhóm VII.
6. Sà ngang cột điện: nếu mang từ
10 giây trở lên được dùng gỗ trong nhóm II (giây nối, điện thoại) nếu số giây
ít hơn chỉ được dùng gỗ trong nhóm V trở xuống. Sà ngang cột truyền điện cao thế
được dùng gỗ nhóm II.
IV. GỖ CÔNG
NGHIỆP VÀ TIỂU THỦ CÔNG NGHỆP
1. Trụ mỏ: chỉ được dùng gỗ từ
nhóm VI trở xuống và phải tẩm bằng hóa chất.
2. Gỗ lạng: được dùng riêng những
gỗ có tên sau: lát hoa, lát chun, lát gia đồng, huê mộc, lý mộc.
3. Đồ mỹ nghệ: được dùng gỗ
trong nhóm IV và I trừ các loại gỗ dành cho công nghiệp gỗ lạng.
4. Đồ đạc thông thường: chỉ được
dùng gỗ từ nhóm VI trở xuống.
5. Thùng đựng nước mắm: được ưu
tiên dùng mỡ và giổi.
6. Công nghiệp dệt vải: được ưu
tiên dùng giẻ đỏ để làm thoi và suốt.
7. Gỗ dán: được ưu tiên dùng những
khúc thẳng, tròn của những loại gỗ sau: lát hoa, gội, ràng ràng mật, xoan đào,
trám hồng, trám trắng, re xanh, mỡ, vàng tâm.
V. GỖ NÔNG CỤ
VÀ NGƯ CỤ
1. Theo cày được ưu tiên dùng giẻ
đỏ, muồng tía và bún.
2. Náng cầy, khung bừa và nông cụ
khác được ưu tiên dùng gỗ nghiến.
3. Cọc đáy (đánh cá) chỉ được
dùng gỗ nhóm V, nhóm VI.
4. Cọc phơi lưới: không dùng gỗ,
mà dùng tre thay thế.
KÍCH THƯỚC
I. Gỗ để xây dựng và đóng đồ
đạc (tạo tác) từ nay phải dùng kích thước như sau:
1. Đường kính đo ở đầu nhỏ khúc
gỗ 15 phân trở lên không kể vỏ.
2. Chiều dài khúc gỗ từ 1mét trở
lên, không kể sẹo.
3. Các xưởng xẻ máy được ưu tiên
phân phối gỗ to và dài để xẻ.
II. Những công trình hoặc bộ
phận dùng gỗ dài từ 4m50 trở lên:
1. Đóng tàu, thuyền, phà, cột buồm,
cột đáy: ưu tiên được dùng những gỗ dài. Đối với thuyền ngư dân chỉ được dùng
70% gỗ trên 4m50, còn 30% phải dùng gỗ từ 2m50 đến 4m50.
2. Dầm nhà, xà nhà, dầm cầu, cột
cầu, cầu phong, vì kèo, cột nhà, cột điện được dùng gỗ dài từ 4m50 trở lên nhưng
cố gắng dùng gỗ ngắn nối ở những chỗ không quan trọng.
III. Những công trình hoặc bộ
phận được dùng gỗ dài từ 2m50 đến 4m40:
Khuôn cửa, cánh cửa, ván cốp
pha, tà vẹt, thùng bao bì hạng lớn, …
IV. Gỗ dài dưới 2m50 dành cho
các công việc sau:
Công nghiệp ván sàn, bàn ghế, tủ
giường, áo quan, thùng bao bì nhỏ, thùng đựng nước, công cụ, học cụ, sà ngang,
cột điện, vv…
V. Đồ chơi trẻ em, guốc, đồ
dùng lặt vặt:
Chỉ được dùng gỗ dài từ 1m50 trở
xuống.
VI. La-ti, Li-tô:
Chủ yếu dùng bắp, bìa để xẻ và phải
tẩm bằng hóa chất.
VII. Những công trình đặc
biệt sau đây được dùng những gỗ có kích thước riêng: trụ mỏ, cột điện, gỗ dán,
tà vẹt.
Những quy đinh trên đây sẽ được
bổ sung cụ thể thêm sau mỗi thời kỳ kiểm tra, đúc kết kinh nghiệm trong quá
trình sử dụng gỗ.
Ban hành kèm theo Nghị định số
10-CP ngày 26-04-1960 của Hội đồng Chính phủ quy định chế độ tiết kiệm gỗ
|
TL.
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
PHÓ CHỦ NHIỆM VĂN PHÒNG KINH TẾ TÀI CHÍNH
THỦ TƯỚNG PHỦ
Nguyễn Năng Hách
|
QUY ĐỊNH TẠM THỜI
CÁC CỠ GỖ XẺ DÙNG TRONG CÔNG TÁC XÂY DỰNG NHÀ CỬA
I. NHỮNG GỖ VÁN
Chiều ngang
|
Chiều dài
|
Từ 10cm trở lên
|
1.cm
1.5
2.0
2.5
|
Từ 20cm trở lên
|
3.0
3.5
4.0
|
Chiều ngang
|
Chiều dày
|
Chiều ngang
|
Chiều dày
|
3cm
3,
3,
3,
3,
3,
4,
4,
4,
4,
4,
4,
5,
5,
5,
5,
5,
|
1cm
3,
4,
8,
10,
12,
4,
6,
8,
10,
12,
14,
5,
6,
8,
10,
12,
|
6cm
6,
6,
8,
8,
8,
8,
8,
8,
10,
10,
10,
10,
10,
10,
12,
12,
|
12cm
14,
16,
8,
10,
12,
14,
16,
18,
10,
12,
14,
16,
18,
20,
12,
14,
|
Chiều ngang
|
Chiều dày
|
Chiều ngang
|
Chiều dày
|
5,
5,
6,
6,
6,
|
14,
16,
6,
8,
10,
|
12,
15,
16,
18,
20
|
20,
15,
16,
18,
20,
|
Chú thích: kích
thước dùng thống nhất theo mét (thước tây).
Ban hành kèm theo Nghị định số
10-CP ngày 26-04-1960 của Hội đồng Chính phủ quy định chế độ tiết
kiệm gỗ
QUY ĐỊNH TẠM THỜI
VỀ BẢO QUẢN GỖ TRÁNH MỌT, MỤC, NỨT, NẺ…
I. BẢO QUẢN
GỖ CÂY TRƯỚC KHI XẺ
1. Nguyên tắc chung là gỗ chặt hạ
xong phải đưa ngay ra khỏi rừng và vận chuyển nhanh chóng đến nơi tiêu thụ,
càng nhanh càng tốt, đó là cách bảo quản tốt nhất.
2. Trường hợp vì điều kiện vận
chuyển thiếu thốn, phải để gỗ tại bãi, bến, ở ngoài trời trong một thời gian
thì phải làm những việc bảo quản sau đây:
a) Nếu thời gian để gỗ từ 2
tháng đến 6 tháng thì:
- Đối với những gỗ cây từ
nhóm VI trở lên, cần kê cách mặt đất ít nhất là 20 phân bằng đá, gạch, sắt,
…Hai đầu gỗ phải chát bùn, để giảm bớt nứt nẻ.
- Đối với gỗ từ nhóm VII
trở xuống, phải được quét hoặc phun bằng hóa chất thích hợp.
b) Nếu thời gian để gỗ từ 6
tháng trở lên, tất cả các gỗ đều phải được quét hoặc phun bằng hóa chất trừ những
gỗ thuộc nhóm II, mà phần giác đã lướt đi, chỉ còn lõi, nếu còn giác cũng phải
quét thuốc.
3. Tại các kho dự trữ gỗ cây:
a) Thời gian dự trữ từ 3 tháng
trở lên thì:
- Nếu có điều kiện phải ngâm gỗ
dưới nước không phân biệt các loại gỗ.
- Trường hợp phải để gỗ trên cạn,
thì đối với gỗ từ nhóm VI trở lên phải kê trên đà bằng gạch, béton, đá, gỗ đã tẩm
thuốc, … ít nhất phải che đậy hai đầu gỗ để khỏi bị nứt nẻ; đối với gỗ từ nhóm
VII trở xuống phải phun, quét bằng hóa chất thích hợp. Đầu gỗ cũng phải
che đậy.
Trong thời gian dự trữ, nếu thấy
cây gỗ nào bị sâu, nấm ăn thì phải đưa ra sử dụng ngay để khỏi lan ra cây khác.
b) Trong việc sắp xếp gỗ trong
kho, lán, phải bố trí để cây nào vào kho trước, sẽ được đem sử dụng trước,
tránh tình trạng chỉ những cây xếp ở trên được sử dụng trước, những cây ở dưới
nằm lại kho hàng năm.
c) Kho và bãi để gỗ đều phải sạch
sẽ thoáng gió, không ứ nước, không để cỏ mọc um tùm.
II. BẢO QUẢN
GỖ XẺ TRƯỚC KHI XÂY DỰNG
1. Nguyên tắc là gỗ phải
khô mới đem xẻ, hết sức tránh xẻ gỗ tươi để khỏi nứt nẻ, cong, vênh.
2. Trường hợp phải xẻ gỗ còn
tươi, thì sau thời gian để tại kho, xưởng xẻ ít nhất là một tháng mới nên giao
cho các ngành tiêu thụ. Trong thời gian đó phải bảo quản như sau:
a) Gỗ ván, gỗ thanh, gỗ hợp… phải
xếp cách nhau bằng những thanh gỗ nhỏ kê ở giữa và hai đầu.
Những thanh gỗ kê càng nhỏ càng
tốt, khoảng cách giữa các thanh gỗ kê tùy theo chiều dài của gỗ xẻ bảo quản để
cho thoáng gió.
b) Gỗ phải kê cách mặt đất ít nhất
là 40 phân, đà kê bằng gạch, đá, bê-tông, sắt, gỗ tẩm hóa chất, …
Ở hai đầu gỗ cần bôi những chất
có tác dụng phòng mục và tránh nứt nẻ như: bùn trộn muối, vôi, hóa chất, …
3. Các nhà máy xẻ cần có đủ kho
để chứa gỗ xẻ, không được để gỗ xẻ ngoài trời.
III. BẢO QUẢN
CÁC CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG
1. Công trình ở ngoài trời như
tà vẹt, cột điện, vỏ tàu, phà, gỗ cầu…
a) Những bộ phận bằng những gỗ
trong nhóm II, nếu không có giác bám, thì tạm thời không phải tẩm thuốc.
b) Những bộ phận phải chịu những
sức nặng lớn hoặc ở chỗ khó thay đổi như cột tàu, dầm cầu, chòi quan sát, … đều
phải được bảo quản bằng hóa chất và phương pháp thích hợp.
c) Tà vẹt, cột điện, trụ mỏ, phải
tẩm bằng hóa chất trước khi đem sử dụng.
2. Công trình xây dựng dưới mái
che:
a) Những bộ phận làm bằng gỗ
trong nhóm II, nếu không có giác bám, thì không phải tẩm thuốc, trừ một vài loại
mau mục như đinh gan ga.
b) Những bộ phận quan trọng như:
cột nhà, dầm, xà gồ, cầu phong, vì kèo…nếu dùng gỗ từ nhóm VI trở xuống thì nhất
thiết phải được bảo quản bằng hóa chất trước khi xây lắp.
Các bộ phận khác trên mái tuy ít
quan trọng, nhưng nếu làm bằng gỗ từ nhóm VII trở xuống cũng phải được bảo quản
bằng hóa chất trước khi xây lắp.
c) Những công trình ở nước mặn
phải chống hà như: tẩm thuốc, bọc tôn…
3. Nguyên tắc chung trong vấn đề
bảo quản các công trình xây dựng là gỗ phải được pha chế xong xuôi mới đem tẩm
thuốc. Trường hợp phải pha chế lại sau khi tẩm, thì phải quét hoặc phun thuốc
vào những nơi gỗ bị cưa, cắt, đục,…
4. Những công trình đã xây dựng
rồi cũng cần phun quét hóa chất để tránh mục, mọt.
Ban hành kèm theo Nghị định số
10-CP ngày 26-04-1960 Hội đồng Chính phủ quy định chế độ tiết kiệm gỗ