ỦY BAN NHÂN
DÂN
TỈNH PHÚ YÊN
--------
|
CỘNG HÒA XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 136/KH-UBND
|
Phú Yên, ngày
29 tháng 8 năm 2016
|
KẾ HOẠCH
VỀ VIỆC PHÒNG CHỐNG THIÊN TAI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ YÊN GIAI
ĐOẠN 2016-2020
Thiên tai là hiện tượng bất thường có thể gây
thiệt hại về người, tài sản, môi trường, điều kiện sống và các hoạt động kinh tế-xã
hội gồm các loại hình thiên tai như: Bão, áp thấp nhiệt đới, lốc, sét, mưa lớn,
lũ lụt, sạt lở đất do mưa lớn, sụt lún đất do mưa lũ hoặc dòng chảy, nước biển
dâng, xâm nhập mặn, nắng nóng, hạn hán, động đất, sóng thần và các loại thiên
tai khác. Trong những năm qua với sự tác động của biến đổi khí hậu thiên tai xảy
ra ngày càng cực đoan và phức tạp khó lường. Để chủ động công tác phòng ngừa, ứng
phó và khắc phục hậu quả thiên tai, nhằm giảm thiểu thiệt hại đến mức thấp nhất
về người và tài sản của Nhà nước và nhân dân, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm
vụ phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh, UBND tỉnh ban hành Kế hoạch Phòng chống
thiên tai trên địa bàn tỉnh, gồm các nội dung chính như sau:
Phần I
CƠ SỞ PHÁP LÝ, MỤC ĐÍCH,
YÊU CẦU
I. CƠ SỞ PHÁP LÝ.
- Luật Phòng, chống thiên tai số 33/2013/QH13
ngày 19/6/2013;
- Nghị định số 66/2014/NĐ-CP ngày 04/7/2014
của Chính phủ quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành một số điều của
Luật Phòng, chống thiên tai;
- Quyết định số 44/2014/QĐ-TTg ngày
15/8/2014 của Thủ tướng Chính phủ quy định chi tiết về cấp độ rủi ro
thiên tai;
- Quyết định số 46/2014/QĐ-TTg ngày
15/8/2014 của Thủ tướng Chính phủ quy định về dự báo, cảnh báo và
truyền tin thiên tai.
II. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU
1.
Mục đích:
Nhằm huy động mọi nguồn lực và cả
hệ thống chính trị để triển khai có hiệu quả các biện pháp cơ bản ứng phó với
thiên tai nhằm giảm đến mức thấp nhất những thiệt hại do thiên tai gây ra về
người và tài sản, hạn chế sự phá hoại tài nguyên thiên nhiên, môi trường; bảo vệ
sản xuất, giảm đói nghèo do thiên tai gây ra, góp phần quan trọng bảo đảm phát
triển bền vững kinh tế-xã hội và quốc phòng, an ninh trên địa bàn tỉnh.
2.
Yêu cầu:
- Các Sở, ban, ngành, đoàn thể và
các cấp chính quyền triển khai thực hiện nghiêm nguyên tắc 03 sẵn sàng “Chủ động
phòng ngừa, ứng phó kịp thời, khắc phục khẩn trương và hiệu quả”, quán triệt và
thực hiện nghiêm túc phương châm "bốn tại chỗ" (chỉ huy tại chỗ; lực
lượng tại chỗ; vật tư, phương tiện và kinh phí tại chỗ; hậu cần tại chỗ) trong
quá trình tổ chức thực hiện công tác phòng, chống, ứng phó và khắc phục hậu quả
do thiên tai gây ra.
- Đẩy mạnh công tác tuyên
truyền nhằm nâng cao nhận thức, phát huy ý thức tự giác, chủ động trong phòng,
tránh thiên tai của mọi người dân phải nghiêm chỉnh, tuân thủ các mệnh lệnh,
hướng dẫn của chính quyền và các cơ quan chức năng trong suốt quá trình ứng phó
thiên tai trước, trong và sau thiên tai; đồng thời tự giác tham gia phòng, chống,
ứng phó và khắc phục hậu quả cùng với chính quyền địa phương và các cơ quan chức
năng, đoàn thể ở địa phương.
Phần II
KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ
NHIÊN VÀ KINH TẾ-XÃ HỘI CỦA TỈNH
I. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN
1. Vị trí địa lý:
Tỉnh Phú Yên thuộc vùng Duyên hải Nam Trung bộ,
có tọa độ địa lý giới hạn từ 12042'36" đến 13041'28"
độ vĩ Bắc, từ 108040'40" đến 109027'47" kinh độ
Đông. Phía Bắc giáp tỉnh Bình Định, phía Nam giáp tỉnh Khánh Hòa, phía Tây giáp
tỉnh Gia Lai và Đắk Lắk, phía Đông giáp biển Đông với bờ biển dài 189km. Diện
tích tự nhiên toàn tỉnh là 5.060 km2, Phú Yên có 09 đơn vị hành
chính gồm: các huyện: Đông Hòa, Tây Hòa, Phú Hòa, Sơn Hòa, Sông Hinh, Đồng
Xuân, Tuy An; thị xã Sông Cầu và thành phố Tuy Hòa, với 112 đơn vị cấp xã (16
phường, 8 thị trấn và 88 xã).
2. Đặc điểm về địa hình:
Phía Đông của tỉnh Phú Yên là Biển Đông, ba mặt
còn lại đều có núi bao bọc, tỉnh Phú Yên có địa hình chia cắt mạnh, có tất cả
các loại các loại địa hình như đồi, núi, cao nguyên, thung lũng xen kẽ nhau;
nhưng nhìn chung có địa hình thấp dần từ Tây sang Đông.
3. Đặc điểm khí hậu:
Khí hậu Phú Yên mang những đặc điểm chung của
khí hậu nhiệt đới gió mùa thuộc miền phía Nam ở khu vực Nam Trung Bộ với những
đặc điểm cơ bản là: Có hai mùa gió Đông Bắc và Tây Nam, nền nhiệt độ cao, nắng
nhiều, không có mùa Đông lạnh, chỉ có mùa nóng và mưa, mùa khô kéo dài, mùa mưa
lũ. Nhiệt độ trung bình là 26,90C; số giờ nắng trung bình 2,476 giờ/năm;
độ ẩm trung bình 79,4%; lượng mưa trung bình 1.795,6 mm/năm.
4. Bão và áp thấp nhiệt đới:
Mùa bão ở tỉnh Phú Yên được xác định từ tháng 9
đến tháng 12 hàng năm, nhiều nhất là tháng 10 và tháng 11, nhưng cũng có năm cuối
tháng 6 đầu tháng 7 đã có bão đổ bộ (năm 1978).
5. Nắng nóng hạn hạn, xâm nhập mặn:
Mùa khô kéo dài 08 tháng (từ tháng 01 đến tháng
8) có lượng mưa trung bình nhiều năm (TBNN) đạt từ 300-700mm, chiếm 16-31% tổng
lượng mưa năm.
6. Đặc điểm sông ngòi và chế độ lũ:
Sông ngòi trên địa bàn tỉnh Phú Yên phân bố
tương đối đều trong toàn tỉnh, chỉ có sông Ba thuộc loại sông lớn, còn các sông
khác thuộc loại vừa và nhỏ. Phú Yên có khoảng 50 con sông có chiều dài trên 10
km, trong đó phần lớn là các sông ngắn từ 10-50 km. Mật độ sông ngòi tương đối
dày 0,3-1,3km/km2; trung bình là 0,5 km/km2. Các sông
chính chảy qua địa bàn tỉnh Phú Yên gồm:
- Sông Ba: Còn gọi là Eapa ở thượng
lưu và sông Đà Rằng ở hạ lưu, đây là con sông lớn nhất miền Trung, diện tích
lưu vực là 13.417 km2, chủ yếu tập trung ở Gia Lai, Kon Tum, Đak
Lak, phần diện tích ở Phú Yên chỉ có 2.243 km2, chiếm 17%. Tổng chiều
dài của sông 396 km, phần thuộc địa phận tỉnh Phú Yên dài 90 km, chiếm 25%,
sông Ba có tiềm năng thủy lợi lớn, tổng lượng nước đổ ra biển hàng năm là 9,7 tỷ
m3.
- Sông Kỳ Lộ: Còn gọi là sông La Hiêng
ở thượng nguồn và sông Cái ở hạ lưu, là sông lớn thứ hai trong tỉnh. Diện tích
toàn lưu vực 1.950 km2, phần thuộc tỉnh Phú Yên 1.560 km2,
chiều dài sông 102 km, trong đó thuộc tỉnh Phú Yên là 76 km. Sông bắt nguồn từ
dãy núi cao trên 1.000 m ở phía Đông Nam tỉnh Gia Lai và Tây Nam tỉnh Bình Định,
đổ nước ra cửa biển Bình Bá. Hàng năm tổng lượng nước đổ ra biển khoảng 1,5 tỷ
m3.
- Sông Bàn Thạch: Còn gọi là sông
Bánh Lái ở đoạn phía trên và sông Đà Nông ở phía gần biển. Sông có chiều dài là
68 km với diện tích lưu vực là 590 km2. Sông gồm ba nhánh hợp thành
là suối Đá Đen, sông Trong (suối Thoại) và sông Mới. Sông bắt nguồn từ dãy núi
cao án ngữ phía Nam tỉnh, vào mùa lũ sông đổ xuống cửa Đà Nông ra biển, nhưng
trong mùa cạn dòng chảy chuyển hướng theo Đông Nam-Tây Bắc đổ nước ra biển ở cửa
Phú Hiệp.
- Sông Cầu: Còn gọi là sông Cả, là một sông nhỏ
của tỉnh, diện tích lưu vực 146 km2, chiều dài sông 28 km toàn bộ
sông nằm trong tỉnh. Sông bắt nguồn từ vùng đồi núi biên giới giữa Phú Yên và
Bình Định, chảy theo hướng Tây Bắc-Đông Nam, đổ ra biển ở vũng Chao.
Mùa lũ trên địa bàn tỉnh Phú Yên kéo dài 04
tháng, từ tháng 9 đến tháng 12. Mưa lớn gây lũ có lượng và cường độ khá lớn, lượng
mưa ngày lớn nhất trong mùa lũ trung bình từ 190-300 mm. Cùng với lượng và cường
độ mưa lớn, tính chất đồi núi, độ dốc lớn, lòng sông ngắn, rừng tàn phá làm cho
lũ lụt trở nên nghiêm trọng hơn.
II. HIỆN TRẠNG KINH TẾ-XÃ HỘI
CỦA TỈNH.
Trong những năm gần đây, nền kinh tế Phú Yên có những bước chuyển biến
đáng kể. Tính riêng năm 2015, tăng trưởng kinh tế đạt 9,4%, một số ngành có
tăng trưởng cao như công nghiệp, xây dựng 11,6%, ngành nông-lâm-thủy sản tăng
3,3%; dịch vụ tăng 11%. Cơ cấu kinh tế
chuyển dịch đúng hướng, công nghiệp-xây dựng chiếm 36,1%; nông-lâm-thủy sản chiếm
21,9%; dịch vụ chiếm 42%. GDP bình quân đầu người là 29,4 triệu đồng;
tăng 10,1% so năm trước. Tổng kim ngạch xuất khẩu: 96,5 triệu USD (KH 120 triệu
USD) đạt 83,1% kế hoạch, tăng 03% so cùng kỳ; thu ngân sách trên địa bàn:
2.842,7 tỷ đồng (KH 2.732,7 tỷ đồng); tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội:
19.801,2 tỷ đồng (KH 19.800 tỷ đồng); giải quyết việc làm: 23.520 lao động (KH
23.500 lao động); giảm tỉ lệ hộ nghèo: 2,01% (KH 02%).
1. Sản xuất nông-lâm-thủy sản:
Trong năm 2015, giá trị sản xuất nông-lâm nghiệp
và thủy sản ước đạt 10.165,4 tỷ đồng (giá so sánh năm 2010), đạt 100,3%
so với kế hoạch, tăng 3,3% so cùng kỳ. Năng suất, sản lượng lúa, mía, sắn...
đạt khá, đảm bảo an ninh lương thực.
2. Sản xuất công nghiệp:
Năm 2015, gá trị sản xuất công nghiệp ước thực hiện
14.878,9 tỷ đồng, đạt 95,1% kế hoạch; tăng 11,5% so với
cùng kỳ, trong đó: công nghiệp khai khoáng tăng 10,6%, công nghiệp chế
biến tăng 12,3%, sản xuất và phân phối điện tăng 4,2%, cung cấp nước và xử lý
rác thải tăng 5,1%. Một số sản phẩm chủ yếu của tỉnh vẫn giữ mức tăng trưởng
khá như: Bia các loại tăng 81,9%, hải sản các loại tăng 32,2%, tinh bột sắn
tăng 29,2%; hàng may mặc tăng 25,4%; nhân hạt điều tăng 6,1%...
3. Thương mại và các ngành dịch
vụ:
Công tác xúc tiến thương mại được
đẩy mạnh trong năm 2015. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ ước thực hiện
22.633,9 tỷ đồng; đạt 96,3% kế hoạch tăng 12,7% so với năm 2014.
4. Dân số và Lao động:
Dân số trung bình
của tỉnh Phú Yên là 887.374 người, mật độ dân số là 175 người/km2.
Trong đó, dân số ở đô thị là 255.173 người, dân số ở nông thôn là: 632.201 người.
Tổng số lao động làm việc trong nền kinh tế quốc dân toàn tỉnh Phú Yên là
498.710 người. Trong đó, tỷ lệ lao động trong khu vực nông, lâm, ngư nghiệp là
295.236 người chiếm 59,2%; khu vực công nghiệp-xây dựng là 81.789 người chiếm
16,4%; khu vực dịch vụ là 121.685 người chiếm 24,4% tổng số lao động làm việc
trong các ngành kinh tế quốc dân.
III. CƠ SỞ HẠ TẦNG CHÍNH:
Thống kê về một số lĩnh vực, trong công tác
phòng chống thiên tai và TKCN trên địa bàn tỉnh Phú Yên:
1. Về nhà ở:
Tổng số nhà ở trên địa bàn toàn tỉnh năm 2011 là
230.761 căn. Tỷ lệ nhà ở kiên cố trên toàn tỉnh chiếm 46,65%, bán kiên cố chiếm
tỷ lệ 51,53% tập trung nhiều ở thành thị, nhà đơn sơ 1,82% tập trung nhiều ở
khu vực nông thôn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
2. Về Giao thông:
Hiện nay toàn tỉnh có 6.422,12km
đường bộ, trong đó: Quốc lộ: Tổng chiều dài 426,725 km chiếm 6,64% tổng số, gồm
QL.1A, QL.1D, QL.25, QL.29 và QL.19C qua tỉnh; 11 tuyến tỉnh lộ với tổng chiều
dài 348,7km chiếm 5,43 %; 89 tuyến huyện lộ với tổng chiều dài 675,8km chiếm
10,2%; tuyến đường xã, liên xã, thôn với tổng chiều dài 4.628,98km chiếm 72,08
%; tuyến đường đô thị dài 295,63km chiếm 4,6%; đường chuyên dùng dài 46,29 km
chiếm 0,72 %; về chất lượng mạng lưới đường bộ: Đường bê tông xi măng: 2.771km
chiếm 43%; đường bê tông nhựa: 929km chiếm 14,47%; các tuyến QL và tỉnh
lộ, đường sắt Bắc-Nam không bị ngập trong lũ mà chủ yếu bị sạt lở đất, đá hai
bên đường, sụt lún nền đường do mưa, gây ách tắc giao thông và khó khăn trong
công tác sơ tán, cứu trợ khi có bão, lũ lụt xảy ra.
3. Về Y tế:
Trong những năm
qua, ngành Y tế Phú Yên tiếp tục nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe ở tất cả
các tuyến trong lĩnh vực phòng bệnh, khám chữa bệnh, phục hồi chức năng. Hệ thống
y tế được thống nhất quản lý trực tiếp trên 03 tuyến từ cơ sở đến tỉnh. Toàn tỉnh có 156 cơ sở y tế điều trị, điều dưỡng với 2.211 giường bệnh,
đạt 20,5 giường/vạn dân; đạt 5,3 bác sĩ/vạn dân; có 66% số xã có bác sỹ; 56 xã
đạt chuẩn quốc gia về Y tế xã. Trong công tác phòng chống thiên tai, Y tế
Phú Yên đã có kế hoạch dự trữ thuốc men, hóa chất và phương tiện theo sự phân
công của Ban Chỉ huy PCTT và TKCN tỉnh. Đã xử lý cấp cứu, điều trị kịp thời các
trường hợp ốm đau, tai nạn do mưa lũ, bão, đồng thời chặn đứng dịch bệnh,
không để xảy ra dịch lớn sau lũ.
4. Hệ thống thông tin liên lạc:
Hệ thống thông tin liên lạc trên đất liền chủ yếu
thông qua các Đài Phát thanh và truyền hình, các phương tiện thông tin đại
chúng, các đơn vị này chịu trách nhiệm đưa tin kịp thời tình hình diễn biến của
thiên tai, lụt, bão và chỉ đạo của cấp trên để các cấp và nhân dân chủ động
phòng tránh; Đối với thông tin liên lạc trên biển, giữa đất liền với biển, Chi
cục Thủy sản, Đài Thông tin Duyên hải Phú Yên và các đơn vị lực lượng vũ trang
(Bộ đội Biên phòng tỉnh) có trang bị hệ thống thông tin liên lạc khu vực ven biển
trên địa bàn tỉnh Phú Yên.
5. Hệ thống Đài Khí tượng-Thủy Văn:
Mạng lưới quan trắc khí tượng-thuỷ văn trên địa bàn
tỉnh Phú Yên hiện có 15 trạm đo các yêu tố. Trong đó có 02 trạm đo các yếu tố
khí hậu-khí tượng, 06 trạm đo mưa, 07 trạm đo dòng chảy, và một số điểm khảo
sát kiệt (mùa kiệt) trên các lưu vực sông. Do địa hình chia cắt và đa dạng nên
mạng lưới trạm khí tượng thủy văn như hiện nay thưa thớt, không có tính đại diện
vùng nên chưa đáp ứng đầy đủ cho công tác nghiên cứu và phòng, chống bão, lũ lụt.
Bởi vậy, trong công tác thu thập tài liệu, đo đạc, phương tiện thông tin cập nhật
số liệu còn thô sơ, thiếu kịp thời gây khó khăn cho công tác cảnh báo, dự báo
lũ cũng như nguy cơ ngập lụt vùng hạ lưu.
Phần III
TỔNG HỢP ĐÁNH GIÁ TÌNH
HÌNH VÀ NĂNG LỰC ỨNG PHÓ VỚI THIÊN TAI
I. CÁC LOẠI THIÊN TAI THƯỜNG
XUYÊN XẢY RA TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH.
Phú Yên là một trong các tỉnh Duyên hải Nam
Trung có đặc điểm về khí hậu và địa hình rất phức tạp. Là nơi
chịu ảnh hưởng của hầu hết các loại thiên tai thường xảy ra ở Việt
Nam như: Bão, Áp thấp nhiệt đới (ATNĐ), lũ lụt, lũ quét, sạt lở bờ sông, bờ
biển, triều cường, lốc tố, dông sét, sạt lở đất, hạn hán, xâm nhập mặn,
… Trong đó dạng thiên tai thường xuyên xảy ra trên địa bàn tỉnh Phú Yên phải kể
đến bão, lũ lụt, hạn hán, sạt lở bờ sông, bờ biển, triều cường.
1. Bão và áp thấp nhiệt đới, lốc xoáy:
Như đã trình bày ở trên, mùa bão ở tỉnh Phú Yên
được xác định từ tháng 9 đến tháng 12 hàng năm, nhiều nhất là tháng 9 và tháng
11, nhưng cũng có năm cuối tháng 12 đã có bão đổ bộ (năm 1978). Tính từ năm
2001 đến 2014, tỉnh Phú Yên đã có 48 cơn bão và 08 cơn ATNĐ đổ bộ và gây ảnh hưởng.
Khi bão hoặc ATNĐ đổ bộ vào khu vực này thường gây ra mưa to đến rất to, gây lũ
lớn, tập trung nhanh, sạt lở đất mang theo bùn cát, sức tàn phá lớn đối với miền
núi cũng như tràn xuống đồng bằng.
2. Ngập lụt:
Do đặc điểm địa hình thấp dần từ Tây sang Đông,
các sông, suối đều ngắn và dốc, kết hợp với rừng bị tàn phá nặng, khi mưa lớn xảy
ra thì thời gian lũ lên rất nhanh, gây ngập lụt hầu hết vùng đồng bằng. Trong lịch
sử, tỉnh Phú Yên đã diễn ra một số trận lũ đặc biệt lớn, gây thiệt hại về người
và tài sản vào các năm 1993, 2007, 2009.
3. Dông lốc, sét:
Phú Yên, hàng năm vùng ven biển trung bình có
trên 40 ngày dông, còn ở vùng núi hay thung lũng số ngày dông xuất hiện nhiều
hơn, khoảng 100 ngày dông. Mùa dông thường xuất hiện từ tháng 3 đến tháng 11,
trong đó tập trung chủ yếu từ tháng 4 đến tháng 10.
4. Lũ quét:
Xảy ra chủ yếu ở ven các sông suối nhất là ở các
sông suối nhỏ, mang theo đất, đá làm thiệt hại hoa màu, ruộng đất bị sa bồi, thủy
phá, phá hại công trình nhất là giao thông, thủy lợi. Năm 2009, cơn bão số 11
(MIRINAE) đổ bộ vào phía Nam tỉnh kết hợp với không khí lạnh tăng cường mạnh đã
có mưa rất to ở thượng nguồn các sông nhất là sông Kỳ Lộ, Sông Cầu đã gây trận
lũ quét gây thiệt hại nặng nề cho các địa phương phía Bắc tỉnh gồm các huyện Đồng
Xuân, Tuy An (lưu vực sông Kỳ Lộ), thị xã Sông Cầu (lưu vực Sông Cầu).
5. Sạt lở bờ sông, bờ biển, triều cường:
Tình trạng sạt lở bờ của ba con sông lớn trên địa
bàn tỉnh diễn ra hết sức phức tạp và ngày càng nghiêm trọng, đe dọa cuộc sống của
hàng ngàn hộ dân. Các huyện dọc sông Ba đang diễn ra xâm thực mạnh, sạt lở đã
cuốn trôi hàng trăm ha đất canh tác. Mỗi khi mưa bão, lũ lụt xảy ra, sông ăn
sâu vào đất liền hàng chục mét. Hiện tượng triều cường và biển xâm thực cũng diễn
ra hết sức nghiêm trọng. Hơn 180 hộ dân ở xóm Rớ, phường Phú Đông, TP Tuy Hòa
đang phải đối mặt với tình trạng triều cường diễn biến ngày càng phức tạp. Từ
năm 2003, xóm Rớ đã bị nước biển xâm thực. Triều cường thường xuyên dâng cao
hàng chục mét.
6. Hạn hán:
Do lượng mưa phân bổ không đều trong năm, lượng
mưa 8 tháng mùa khô chỉ chiếm 30% tổng lượng mưa cả năm, có những năm gần như
02-03 tháng không mưa. Nhất là những năm gần đây, do ảnh hưởng của biến đổi khí
hậu lượng mưa hàng năm thiếu hụt so với trung bình nhiều năm và hầu như không
mưa Tiểu Mãn nên trong những năm gần đây hạn hán xảy ra cả vụ Đông Xuân, đặc biệt
là vụ Hè Thu hầu như năm nào cũng xảy ra hạn hạn, ít nhất cũng là hạn cục bộ do
cung cấp nước không kịp so với lượng nước bốc hơi do nắng nóng kéo dài gây hạn
cục bộ nhất là diện tích ở cuối kênh, vùng cao.
7. Xâm nhập mặn:
Việc thiếu nước vào mùa khô đã khiến tình hình
xâm nhập mặn ở Phú Yên diễn ra mạnh hơn. Ngoài việc ảnh hưởng đến diện tích đất
nông nghiệp, xâm nhập mặn còn gây ảnh hưởng đến nước dưới đất (nước ngầm) tại một
số địa phương, gây thiếu nước sinh hoạt trầm trọng.
II. CÁC TRẬN THIÊN TAI ĐIỂN
HÌNH:
1. Bão: Năm 2009, do ảnh hưởng của
cơn bão số 5, tỉnh Phú Yên có gió cấp 6, cấp 7 giật cấp 8, vào lúc 3h45’ ngày
29/9 tại Trạm Khí tượng Tuy Hòa tốc độ gió lớn nhất đo được đến 17,5m/s. Cơn
bão số 11 đã gây ảnh hưởng trực tiếp đến tỉnh Phú Yên, cơn bão số 11 đã gây mưa
to đến rất to. Trưa chiều ngày 02/11/2009 bão đổ bộ vào phía Nam tỉnh. Sức gió
trên cấp 8 kéo dài đến 08 giờ đồng hồ, gió giật lớn nhất cấp 12.
2. Lũ lụt:
Năm 1993, trận lũ tháng
9, với độ sâu ngập lụt tăng dần từ Đồng Cam về hạ lưu với độ sâu 1,5-02m ở hầu
hết đồng ruộng lúa 02 bên bờ sông Đà Rằng và Bàn Thạch, ngập sâu tới 3-4m, tổng
diện tích bị ảnh hưởng ngập lụt tương ứng với mực nước lũ cao nhất khoảng
2.261,2 ha, chiếm 52,2% các ruộng lúa. Năm 2008: Trận lụt từ ngày
24/11-26/11, do ảnh hưởng của không khí lạnh (KKL) tăng cường, kết hợp với gió
Đông trên cao, gió Đông Bắc hoạt động mạnh nên khu vực tỉnh Phú Yên có mưa vừa,
có nơi mưa to đến rất to, thượng nguồn sông Ba có mưa lớn nên mực nước các sông
lên nhanh, đạt đỉnh vượt báo động 3 từ 0,25m-0,73m. Năm 2009: Trận lũ từ
ngày 02/11-06/11 được coi là lũ lịch sử trên địa bàn tỉnh. Do ảnh hưởng của cơn
bão số 11 kết hợp với KKL tăng cường ở phía Bắc, trên địa bàn tỉnh đã có mưa to
đến rất to, lượng mưa phổ biến từ 193,3-439,3mm. Mực nước sông tại Trạm Thủy
văn Hà Bằng, sông Kỳ Lộ vượt báo động 3: 3,97m, tại Củng Sơn vượt báo động 3:
4,15m, tại Tuy Hòa vượt báo động 3: 1,45m.
3. Dông lốc, sét:
Năm 2013, thiệt hại do dông, sét gây ra trên địa
bàn tỉnh là ngày 09/7/2013, tại huyện miền núi Sơn Hoà, sét đã đánh vào nhóm 18
người đang lao động trên ruộng, làm 09 người trong số đó bị thương nặng.
4. Lũ quét:
Năm 2009, vùng tỉnh Bình Định giáp tỉnh Phú Yên
có Trạm Vân Canh có lượng mưa đo đạc được từ 19h, ngày 01/11/2009 đến 19h, ngày
03/11/2009 là 832mm, trong đó từ 13h, ngày 02/11 đến 13h, ngày 03/11/2009 là
754mm. Là trận lũ lịch sử trên Sông Kỳ Lộ, trận lũ quét này đã làm thiệt mạng
75 người ở Đồng Xuân, Tuy An và Sông Cầu.
5. Hạn hán:
Năm 2010, do ảnh hưởng thời tiết nắng nóng kéo
dài gây ra khô hạn cục bộ khoảng 912 ha lúa Hè Thu bị thiếu nước phải bơm chống
hạn (TP.Tuy Hoà: 60ha, huyện Đông Hoà: 334,4ha; huyện Tây Hoà: 352,5 ha; huyện
Đồng Xuân: 165ha) và 59ha lúa thuộc xã Hoà Hiệp Nam, huyện Đông Hoà bị nhiễm mặn.
Cây mía: 1.500ha bị hạn, giảm năng suất từ 15-20%; sắn:
420 ha bị hạn, giảm năng suất từ 15-20%.
- Năm 2013, do thiếu nguồn nước ngay đầu vụ các
địa phương đã phải cắt khoảng trên 516,13ha diện tích không sản xuất phải chuyển
đổi cây trồng hoặc chuyển sang gieo trồng vụ mùa sớm; 8.544 ha lúa Hè Thu bị
thiếu nước phải bơm chống hạn và triển khai các phương án chống hạn. Trong đó
có hơn 300ha lúa thuộc xã Hòa Thịnh, huyện Tây Hòa có khả năng mất trắng. Nắng
hạn cũng đã làm cho 4.300 ha các loại cây trồng khác bị ảnh hưởng giảm năng suất
từ 15-20%, không mọc hoặc không phát triển.
- Năm 2014: Hạn hán đã xảy ra ở cả 02 vụ: Vụ
Đông Xuân 2013-2014: Diện tích bị hạn khoảng 2.313ha, trong đó diện tích
mất trắng: 187,0ha (huyện Tuy An: 134ha; huyện Đồng Xuân: 53,7ha; vụ Hè Thu
2014: Diện tích không sản xuất do không có nguồn nước: 555ha, diện tích
chuyển đổi cây trồng 131 ha. Do nguồn nước thiếu hụt, mưa ít, nắng nóng kéo dài
đã gây hạn hán trên diện rộng, đã có khoảng 11.484 ha lúa Hè Thu bị thiếu
nước phải bơm chống hạn và triển khai các phương án chống hạn (trong đó có hơn
695ha lúa thuộc huyện Tây Hòa, Đông Hòa, Đồng Xuân, Tuy An và thị xã Sông Cầu bị
cháy khô, có khả năng mất trắng; 5.216 ha cây mía
bị hạn, giảm năng suất từ 30-70%; 6.489 ha
sắn không mọc hoặc không phát triển, giảm năng suất từ 30-70% và có khoảng
4.251 ha cây trồng khác bị hạn phải bơm chống hạn, giảm giảm năng
suất từ 30-70%.
6. Xâm nhập mặn:
Vùng hạ lưu sông Bàn Thạch thuộc huyện Đông Hòa,
xâm nhập mặn vào sâu 3-4km, khiến gần 500ha lúa thường xuyên ngập mặn, sản xuất
nông nghiệp gặp nhiều khó khăn.
III. TÁC ĐỘNG CỦA THIÊN TAI
ĐẾN ĐỜI SỐNG XÃ HỘI:
Tỉnh Phú Yên thường xuyên chịu tác động của
thiên tai, đây là nguyên nhân hạn chế sự phát triển của tỉnh, làm
ngưng trệ các hoạt động xã hội, gây nhiều thiệt hại đến con người, tài sản của
nhân dân và Nhà nước. Bên cạnh thiệt hại về kinh tế do hạn hán, xâm nhập
mặn, sạt lở bờ sông, bờ biển đã nêu trên, thiệt hại do bão lũ gây ra cũng vô
cùng lớn. Theo số liệu thống kê hàng năm của tỉnh, những năm chịu thiệt hại lớn
do thiên tai bão, lũ như sau:
1. Năm 2005:
Có 11 đợt ATNĐ, lốc xoáy và có 09
cơn bão hoạt động trên biển Đông, mưa lũ kéo dài nhiều ngày gây thiệt hại khá lớn
trên địa bàn tỉnh. Thiệt hại về người: 24 người chết, 05 người mất
tích. Thiệt hại về nhà cửa nhân dân và các ngành, giao thông, nông nghiệp, thủy
sản, giáo dục, y tế, thủy lợi, điện lực là: 161 tỷ đồng.
2. Năm 2007:
Có 07 đợt ATNĐ, lốc xoáy và có 07
cơn bão hoạt động trên biển Đông, từ giữa tháng 10/2007 đến cuối tháng 11/2007 ở
Phú Yên đã xảy ra 04 trận lũ. Trong đó có trận lũ từ ngày 01/11-07/11/2007, ảnh
hưởng của cơn bão số 7 ngày 23/11-24/11/2007 là lớn nhất. Thiệt hại về người: 21
người chết, 09 người bị thương. Thiệt hại về nhà cửa của nhân dân và các
ngành, giao thông, nông nghiệp, thủy sản, giáo dục, y tế, thủy lợi, điện lực
là: 200 tỷ đồng.
3. Năm 2009:
Có các đợt ATNĐ, có 11 cơn bão,
trong đó có 05 cơn bão đổ bộ vào đất liền nước ta. Chiều ngày 02/11/2009 bão số
11 có tên MIRINAE đã đổ bộ vào phía Nam tỉnh, kết hợp với không khí lạnh có mưa
to đến rất to, gây lũ lụt ở các địa phương. Đặc biệt xảy ra lũ quét ở các địa
phương phía Bắc tỉnh, gây thiệt hại nặng nề.
Thiệt hại về người: 81 người
chết trong đó 75 người chết do lũ quét, 97 người bị thương. Sập hoàn
toàn 1.764 căn nhà, hư hỏng, tốc mái 36.639 căn. Lúa mất trắng 3.083ha. Diện
tích các cây hoa màu khác bị ngập trên 28.000ha. Gia súc bị chết và cuốn trôi
6.981 con, gia cầm trôi 162.584 con. Hơn 200 chiếc thuyền bị chìm và hư hỏng,
hơn 18.000 lồng bè bị cuốn trôi. Nhiều cơ sở y tế bị sập và tốc mái. Tổng giá trị thiệt hại lên tới 3.178 tỷ đồng.
Căn cứ vào mức độ thiệt hại do các loại hình
thiên tai trên địa bàn, có thể sắp xếp mức độ tác động của các nhóm thiên tai đến
tỉnh Phú Yên như sau:
Tác động mạnh
|
Tác động vừa
|
Tác động nhẹ
|
Tiềm ẩn
|
Lũ lụt
|
Hạn hán
|
Dông sét, lốc xoáy
|
Động đất
|
Bão và áp thấp NĐ
|
Xâm nhập mặn
|
Sạt lở đất đồi núi
|
Sóng thần
|
|
Xói lở bờ sông
|
Nước biển dâng
|
|
|
Lũ quét
|
|
|
IV. ĐÁNH GIÁ NGUỒN LỰC ỨNG
PHÓ VỚI THIÊN TAI TẠI ĐỊA PHƯƠNG.
1 Về nhân lực:
- Về lực lượng dân sự: Ngoài lực
lượng của các Sở, Ban, ngành, ở địa phương mỗi thôn, buôn tổ chức 1-2 đội thanh
niên xung kích; mỗi xã, phường, thị trấn 1-2 trung đội dân quân cơ động (hoặc
dân quân tại chỗ); mỗi huyện, thị xã, thành phố tổ chức 1-2 đại đội dự bị động
viên. Cụ thể như sau: TP Tuy Hòa có 410 người; huyện Tây Hòa: 907 người; huyện
Phú Hòa:100 người; huyện Tuy An: 417 người; thị xã Sông Cầu: 200 người; huyện
Đông Xuân: 275 người; huyện Sơn Hòa: 100 người; huyện Sông Hinh: 200 người, huyện
Đông Hòa: 200 người.
Lĩnh vực phòng chống thiên tai và TKCN trên địa
bàn tỉnh tại một số địa phương và phần lớn các bộ phận dân cư chưa được quan
tâm đúng mức. Nguồn nhân lực cho công tác ứng phó thiên tai của cấp huyện, xã,
thôn, buôn, khu phố cũng như tại một số cơ sở còn nhiều hạn chế, bị động, trông
chờ, ỷ lại cấp trên.
- Về lực lượng vũ trang: Duy trì trực
100% quân số, sẵn sàng huy động tối đa lực lượng khi có tình huống thiên tai: Tổng
quân số 8.790 người; trong đó Quân sự 5.517đ/c, Bộ đội Biên phòng 378 đ/c, Công
an 572 đ/c, dân quân cấp huyện 1.560đ/c, Thanh niên xung kích 2.176 người. Toàn
tỉnh có 92 trạm, chốt sơ cấp cứu ở các xã, phường, thị trấn và tại các vùng trọng
điểm; thành lập được nhiều Đội Thanh niên Chữ thập đỏ xung kích với tổng số
thành viên tham gia là 305 người, được tập huấn kiến thức cơ bản về sơ cấp cứu
và tìm kiếm cứu hộ, sẵn sàng tham gia ứng cứu và trợ giúp nhân dân khi có thiên
tai.
Do kinh phí hạn chế nên hàng năm công tác diễn tập
tình huống phòng chống thiên tai và TKCN cho lực lượng nòng cốt chưa thực hiện
thường xuyên.
2. Phương tiện, vật tư, trang thiết bị dự
phòng phục vụ cứu hộ, cứu nạn:
Phương tiện, trang thiết bị dự kiến huy động để
phòng, tránh, ứng phó với bão, lũ lụt gồm có phương tiện, trang thiết bị cơ động,
chi viện của các sở, ban, ngành và phương tiện, trang thiết bị tại chỗ của các
huyện, thị xã, thành phố (có phụ lục kèm theo).
3. Về dự trữ lương thực, thực phẩm, thuốc
men, nước sạch và chất đốt:
Để kịp thời đáp ứng nhu cầu các loại hàng hóa
thiết yếu phục vụ đời sống của nhân dân trong mùa mưa bão, hàng năm Sở Công
Thương chủ động xây dựng kế hoạch và triển khai công tác phòng chống thiên tai,
lụt bão…, trong đó công tác dự trữ hàng hóa thiết yếu là nhiệm vụ trọng tâm. Sở
Công Thương cũng đã vận động các doanh nghiệp dự trữ hàng hóa ở tất cả các huyện,
thị xã, thành phố trong tỉnh; sẵn sàng phục vụ, tiếp tế cho người dân. Ngoài những
kho dự trữ tại các huyện, thị xã, thành phố, các doanh nghiệp cũng cam kết cung
cấp hàng đầy đủ cho các đại lý tại các địa phương; đảm bảo số lượng và giá cả ổn
định trong thời điểm mưa bão, lũ lụt. Hiện các doanh nghiệp có khoảng 1.500 đại
lý nhỏ ở khắp nơi trên địa bàn tỉnh. Mỗi đại lý sẽ là một điểm dự trữ hàng theo
chủ trương của tỉnh. Các công ty, đại lý lớn cũng sẽ thường xuyên kiểm tra, bổ
sung hàng hóa và kiểm soát giá cả của các đại lý này. Bên cạnh đó, sở Y tế cũng
đã có kế hoạch dự trữ cơ số thuốc, viên làm sạch nước, thuốc chống dịch bệnh…sẵn
sàng cung cấp về địa phương khi có thiên tai xảy ra (Phụ lục kèm theo).
4. Về nguồn lực tài chính dự phòng:
Nếu không tính đến các khoản hỗ trợ, cấp phát của
Trung ương thì nguồn kinh phí hàng năm cho toàn bộ hoạt động phòng, chống thiên
tai và TKCN của tỉnh rất hạn hẹp, thuộc diện thấp nhất cả nước. Ở cấp tỉnh dao
động từ 500 triệu đến 01 tỷ đồng/năm, trong đó chi cho các hoạt động cơ quan
thường trực, Văn phòng Thường trực chỉ dao động từ 300-400 triệu đồng/năm. Ở cấp
huyện, thị xã, thành phố và các xã phường, thị trấn kinh phí dành cho nhiệm vụ
này không đáng kể.
Chi cho nhiệm vụ tuyên truyền, tập huấn và diễn
tập, rà soát an toàn hồ chứa hàng năm ở cấp tỉnh, cấp huyện hầu như là không được
bố trí trong kế hoạch hàng năm.
Phần kinh phí chi cho nhiệm vụ TKCN và các nhiệm
vụ đột xuất, cấp bách chưa được bố trí cụ thể theo chỉ đạo hướng dẫn của các Bộ,
ngành, Trung ương và Chính phủ mà là gói gọn trong phần dự phòng ngân sách của
các cấp theo quy định tài chính hiện hành.
5. Hệ thống Ban Chỉ huy Phòng chống
thiên tai và Tìm kiếm cứu nạn các cấp và quy chế phối hợp điều hành:
Tổ chức bộ máy làm nhiệm vụ phòng chống thiên
tai và tìm kiếm cứu nạn ở các cấp, các ngành, các đơn vị và địa phương trên địa
bàn tỉnh được thành lập và kiện toàn hàng năm. Ban Chỉ huy phòng, chống thiên
tai và TKCN tỉnh do UBND tỉnh quyết định thành lập, gồm các thành phần: Trưởng Ban là Chủ tịch UBND tỉnh; Phó trưởng Ban Thường trực là Phó Chủ
tịch UBND tỉnh; Giám đốc Sở Nông nghiệp và PTNT, Chỉ huy trường BCH Quân sự tỉnh
làm Phó trưởng ban; lãnh đạo các Sở, ban, ngành có liên quan ủy viên. Thành phần
và số lượng các thành viên của Ban do Chủ tịch UBND tỉnh-trưởng Ban quyết định
theo đề nghị của Văn phòng Ban Chỉ huy Phòng chống thiên tai và TKCN tỉnh. Nhiệm
vụ cụ thể của từng thành viên do Trưởng ban phân công. Văn phòng Thường trực
Ban chỉ huy Phòng chống thiên tai và TKCN tỉnh đặt tại Sở Nông nghiệp-PTNT. Bộ
phận thường trực về công tác tìm kiếm cứu nạn đặt tại Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh.
Đây là cơ quan tham mưu, chỉ đạo của tỉnh trong công tác chỉ huy, đối phó và khắc
phục hậu quả phòng chống, giảm nhẹ thiên tai và tìm kiếm cứu nạn. Ban Chỉ huy
Phòng chống thiên tai và TKCN chịu sự quản lý trực tiếp, toàn diện của UBND tỉnh,
đồng thời chịu sự hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ của Ban Chỉ đạo Trung ương
về Phòng chống thiên tai và Ủy ban Quốc gia về Tìm kiếm cứu nạn.
V. NHẬN THỨC CỘNG
ĐỒNG VỀ THIÊN TAI:
Hầu hết người dân địa phương đều
chưa được tiếp cận một cách có hệ thống về thiên tai và cách phòng, tránh giảm
nhẹ thiên tai thông qua các buổi tập huấn, hướng dẫn do các cấp, các ngành tổ
chức. Chỉ mới triển khai đến đội ngũ cán bộ chuyên trách, bán chuyên trách được
giao làm nhiệm vụ phòng chống thiên tai và TKCN của các cấp, các ngành trong tỉnh.
Tuy nhiên, có thể nhận định rằng,
hầu hết nhận thức cộng đồng về thiên tai đều có đặc điểm chung là mang tính
phán đoán, cảm nhận, hiểu biết một cách sơ khai, một cách chung chung thông qua
các phương tiện thông tin đại chúng và chủ yếu là nhận biết để phục vụ cho sản
xuất, sinh hoạt hàng ngày. Phòng, tránh chủ yếu mang tính bộc phát, tức thời.
Hoàn toàn chưa thể hiểu biết sâu sắc về bản chất hiện tượng, chưa thể nhận biết
được những thiên tai đang tiềm ẩn tại nơi, vùng mà mình đang sinh sống cũng như
mức độ nguy hiểm của mỗi loại hình thiên tai, các phương thức phòng, tránh có
khoa học, tiết kiệm, dễ làm và hiệu quả. Đồng thời, họ cũng chưa nhận thức được
vị trí, vai trò, sự đóng góp của mỗi cá nhân, cả cộng đồng trong nhiệm vụ phòng
chống thiên tai và TKCN, nhất là trong điều kiện biến đổi khí hậu.
Phần IV
KẾ HOẠCH PHÒNG, CHỐNG
THIÊN TAI
I. KẾ HOẠCH PHÒNG NGỪA
THIÊN TAI
1. Quan điểm chỉ đạo của
công tác phòng, chống thiên tai.
- Công tác phòng, chống
thiên tai bao gồm: Phòng ngừa, ứng phó và khắc phục hậu quả nhằm giảm thiểu thiệt
hại do thiên tai gây ra, đảm bảo phát triển bền vững, góp phần ổn định xã hội,
bảo đảm an ninh, quốc phòng.
- Công tác phòng, chống thiên tai lấy phòng ngừa
là chính, không ngừng nghiên cứu tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu, nước
biển dâng và những hiện tượng bất thường khác của khí hậu, thời tiết để phòng,
tránh.
- Công tác phòng, chống thiên tai phải phát huy
và kế thừa kinh nghiệm truyền thống, rút các bài học kinh nghiệm, kết hợp với
kiến thức, công nghệ hiện đại và tăng cường hợp tác quốc tế.
- Thực hiện theo phương châm "bốn tại chỗ"
(chỉ huy tại chỗ, lực lượng tại chỗ, vật tư, phương tiện và kinh phí tại chỗ, hậu
cần tại chỗ) và phương châm “chủ động phòng tránh, đối phó kịp thời, khắc phục
khẩn trương và có hiệu quả”. Đồng thời, thực hiện theo phương thức nhà nước và
nhân dân cùng làm, sử dụng hiệu quả nguồn lực của nhà nước, huy động mọi nguồn
lực của cộng đồng, của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước để phòng, chống
thiên tai nhất là lụt, bão, giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai và tìm kiếm, cứu nạn
đạt hiệu quả.
2. Mục tiêu:
- Tăng cường nâng cao nhận
thức cộng đồng về hiểm họa thiên tai; tăng cường năng lực quản lý thiên tai cho
cán bộ các cấp, từng bước chuyên nghiệp hóa công tác quản lý thiên tai;…
- Phấn đấu giảm thiểu đến mức
thấp nhất thiệt hại về người do thiên tai gây ra.
3. Các giải pháp:
a) Các giải pháp phi công
trình:
- Triển khai, tổ chức thực hiện kế hoạch thực hiện
Đề án "Nâng cao nhận thức cộng đồng và quản lý rủi ro thiên tai dựa vào
công đồng" của tỉnh Phú Yên giai đoạn tư 2016-2020 đã được UBND tỉnh phê
duyệt tại Quyết định số 2105/QĐ-UBND ngày 30/10/2015.
- Thành lập các Tổ, đội xung kích tìm kiếm cứu nạn
để đưa vào hoạt động trong mùa lũ, bão, mỗi xã, phường, thị trấn thành lập 1-2
trung đội dân quân cơ động (hoặc dân quân tại chỗ); mỗi huyện, thị xã, thành phố
tổ chức 1-2 đại đội dự bị động viên.
- Thường xuyên tổ chức luyện tập, diễn tập phòng
chống thiên tai, Ban chỉ huy Phòng chống thiên tai các cấp phối hợp cùng các cơ
quan đơn vị liên quan tổ chức đào tạo, tập huấn cho từng đối tượng cụ thể trong
cộng đồng như giới tính, học sinh phổ thông, người lớn tuổi: 15 lớp/450 học
viên/năm, thuộc các đối tượng dễ bị tổn thương được tập huấn.
- Hàng năm Ban chỉ huy Phòng chống thiên tai và
TKCN các cấp rà soát lập kế hoạch di dời, sơ tán dân ở những vùng ngập sâu, ở
những khu vực sạt lở bờ sông, bờ biển cho phù hợp với tình hình thực tế của địa
phương.
- Các cơ quan, đơn vị, địa phương tuyên truyền
sâu rộng về công tác phòng chống thiên tai nhằm góp phần nâng cao nhận thức của
cộng đồng người dân.
- Xây dựng các bản đồ ngập lụt, lắp đặt biển cảnh
báo ở các vùng thường xuyên bị ngập lụt trên các lưu vực Sông Ba, sông Kỳ Lộ,
sông Bàn Thạch.
- Xây dựng bản đồ phân vùng hạn hán.
- Lập kế hoạch chuyển đổi giống cây trồng, vật
nuôi, cơ cấu mùa vụ cho phù hợp với tình hình thiên tai tại địa phương.
- Rà soát, bổ sung kế hoạch trồng rừng phòng hộ
đầu nguồn, ven biển, ven sông suối.
- Triển khai thực hiện Quy hoạch hệ thống đê biển
tỉnh Phú Yên giai đoạn 2012-2020 và sau năm 2020 sau khi được Bộ Nông nghiệp và
PTNT quyết định phê duyệt.
- Chủ động lồng ghép nội dung phòng, chống thiên
tai trong quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch phát triển của
ngành, lĩnh vực.
b) Các giải pháp công trình:
- Xây dựng các khu tái định cư do ảnh hưởng của
thiên tai.
- Giai đoạn 2016-2020 tập trung đầu tư xây dựng,
nâng cấp, bảo dưỡng các công trình PCTT: Kè biển An Chấn, xã An Chấn, huyện Tuy
An; dự án khu neo đậu, tránh trú bão cho tàu cá Đông Tác; dự án kè biển phía Bắc
cửa Đà Diễn; kè biển Xuân Hải, thị xã Sông Cầu; kè biển An Phú, thành phố Tuy
Hòa; dự án sửa chữa, nâng cấp chỉnh trị cửa sông Đà Nông thuộc dự án nạo vét cải
tạo thoát lũ sông Bánh Lái; kè chống xói lở ven bờ biển khu vực xóm Rớ-thành phố
Tuy Hòa; tiếp tục đầu tư xây dựng kè chống xói lở bờ sông Ba, sông Kỳ Lộ; triển
khai xây dựng các công trình đê kè biển theo quy hoạch sau khi được UBND phê
duyệt; đầu tư xây dựng hồ chứa nước Mỹ Lâm-huyện Tây Hòa, hồ Lỗ Ân-thành phố
Tuy Hòa, triển khai dự án sửa chữa, nâng cao an toàn đập (WB8).
- Tiếp tục dự án xây dựng nhà chòi tránh lũ,
công trình trú bão, khu neo đậu tàu thuyền theo quy hoạch.
- Lắp đặt hệ thống cảnh báo sớm trên sông Ba do
Tổ chức hợp tác Đức tài trợ.
- Phối hợp với các bộ ngành Trung ương triển
khai xây dựng hệ thống trực canh cảnh báo sóng thần.
II. KẾ
HOẠCH ỨNG PHÓ THIÊN TAI.
Công tác ứng phó với thiên
tai phụ thuộc vào việc xác định rõ vai trò, trách nhiệm và triển khai thực thi
với tinh thần trách nhiệm cao nhất, hoàn thành các nhiệm vụ đã được phân công cụ
thể đối với từng cơ quan, cá nhân, tổ chức như trong kế hoạch, trong suốt thời
gian thiên tai xảy ra nhất là đối với bão, lũ lụt, triều cường, mưa lớn là loại
hình thiên tai thường xuyên xảy ra trên địa bàn tỉnh Phú Yên, mức độ thiệt hại
lớn, địa bàn ảnh hưởng rộng, thời gian khắc phục thiệt hại dài. Để chủ động ứng
phó, khắc phục hậu quả thiên tai gây ra kịp thời và hiệu quả hạn chế đến mức thấp
nhất thiệt hại khi tình huống xấu nhất có thể xảy ra, các cấp, các ngành trong
tỉnh cần thực hiện tốt các nhiệm vụ sau:
- Ban Chỉ huy Phòng chống thiên tai và TKCN các
cấp chính quyền địa phương chuẩn bị lực lượng, phương tiện sẵn sàng sơ tán người
ra khỏi khu vực nguy hiểm, nơi không đảm bảo an toàn; tập trung triển khai biện
pháp đảm bảo an toàn cho người, đặc biệt đối tượng dễ bị tổn thương trong tình
huống thiên tai có thể xảy ra trên địa bàn.
- UBND các huyện, thị xã và thành phố ven biển
phối hợp với các đơn vị lực lượng vũ trang và các lực lượng khác di chuyển tàu
thuyền, phương tiện nuôi trồng thuỷ sản trên biển, ven biển, trên sông ra khỏi
khu vực nguy hiểm; tổ chức kiểm đếm, hướng dẫn tàu thuyền neo đậu an toàn.
- Thực hiện biện pháp đảm bảo an toàn đối với
nhà cửa, công sở, bệnh viện, trường học, kho tàng, công trình và cơ sở kinh tế,
an ninh, quốc phòng trên địa bàn.
- Tuyên truyền vận động nhân dân
chủ động ứng phó, dựa vào sức mình là chính, không ỷ lại, chủ quan trông
chờ vào Nhà nước. Chủ động thực hiện biện pháp bảo vệ sản xuất.
- Kiểm tra, phát hiện và xử lý sự cố công trình
phòng, chống thiên tai; công trình trọng điểm về kinh tế-xã hội và an ninh, quốc
phòng.
- Giám sát, hướng dẫn và chủ động thực hiện việc
hạn chế hoặc cấm người, phương tiện đi vào khu vực nguy hiểm trên sông, trên biển,
khu vực và tuyến đường bị ngập sâu, khu vực có nguy cơ sạt lở đất do mưa lũ hoặc
dòng chảy và khu vực nguy hiểm khác.
- Đảm bảo giao thông và thông tin liên lạc đáp ứng
yêu cầu chỉ đạo, chỉ huy phòng, chống thiên tai.
- Thực hiện hoạt động tìm kiếm cứu nạn, cứu chữa
người bị thương, hỗ trợ lương thực, thuốc chữa bệnh, nước uống và nhu yếu phẩm
khác tại khu vực bị chia cắt, khu vực ngập lụt nghiêm trọng và địa điểm sơ tán.
- Đảm bảo an ninh, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ
tài sản của Nhà nước và nhân dân tại khu vực xảy ra thiên tai.
- Huy động khẩn cấp và tuân thủ quyết định chỉ đạo,
huy động khẩn cấp về nhân lực, vật tư, phương tiện, trang thiết bị, nhu yếu phẩm
để kịp thời ứng phó với thiên tai.
1. Công tác ứng phó với
các loại hình thiên tai thường xảy ra.
1.1. Đối với bão, bão mạnh, siêu bão và áp thấp nhiệt
đới:
a) Công tác truyền thông: Trung tâm dự báo Khí
tượng Thuỷ văn Trung ương, Đài khí tượng Thủy văn tỉnh Phú Yên cung cấp, Ban Chỉ
huy Phòng chống thiên tai và TKCN tỉnh thông báo đến các sở, ban, ngành và các
địa phương trên địa bàn tỉnh thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng
(Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh và các cơ quan truyền thông thực hiện, ưu
tiên phát các tin về bão, lũ lụt, áp thấp nhiệt đới…). Hình thức truyền thông
tin từ các huyện, thị xã, thành phố đến cộng đồng dân cư qua hệ thống truyền
thanh của địa phương, loa cầm tay trực tiếp, xe loa tuyên truyền cơ động...
b) Công tác tổ chức ứng phó: Chỉ đạo,
tổ chức trực ban nghiêm túc, theo dõi sát diễn biến áp
thấp nhiệt đới, bão, bão mạnh bố trí lãnh đạo chủ chốt thường trực
để xử lý các tình huống; Chỉ đạo các đơn vị quản lý hồ chứa nước theo dõi chặt
chẽ diễn biến mưa, mực nước các hồ chứa, tổ chức kiểm tra
an toàn các hồ chứa nước trên địa bàn, sẵn sàng, triển khai lực lượng, phương
tiện, trang thiết bị để kịp thời xử lý các sự cố, chủ động sơ tán nhân dân vùng
hạ du hồ chứa nước và xả lũ của các hồ thủy điện.
- Sẵn sàng triển khai lực lượng,
phương tiện, trang thiết bị để kịp thời, chủ động sơ tán nhân
dân đến nơi an toàn theo phương án đã được xây dựng.
- Cắm biển báo, bố trí lực lượng
chốt chặn ở những đoạn đường bị ngập sâu, cấm người, phương tiện qua lại ở những
đoạn đường bị ngập, những nơi có dòng nước chảy xiết và
các khu vực nguy hiểm khác do mưa bão gây ra.
- Tổ chức bảo vệ an ninh, trật tự
an toàn xã hội tại các khu vực trọng điểm, các khu vực sơ tán đi và đến.
c) Tổ chức sơ
tán nhân dân: Trên cơ sở dự
báo bão, bão mạnh, áp thấp nhiệt đới, triều cường theo tình hình thực tế ở địa
phương, Chủ tịch UBND huyện, thị xã và thành phố chủ động phát lệnh
sơ tán và trực tiếp chỉ huy công tác sơ tán tại địa
phương; lực lượng hỗ trợ sơ tán nhân dân là các
đơn vị lực lượng vũ trang như (quân đội, công an, dân quân, thanh niên xung kích và các đơn vị lực lượng
vũ trang khác…); rà soát lại số người sơ tán, kiểm tra an toàn
nơi sơ tán đến; hình thức sơ tán là người dân tự sơ tán là
chính, ưu tiên sơ tán cho người già, trẻ em, phụ nữ, người khuyết tật. Đối với các trường hợp tổ chức, cá nhân không chịu sơ tán thì tổ chức
cưỡng chế sơ tán nhằm đảm bảo an toàn tính mạng nhân dân.
- Phương án sơ tán, di dời dân
tránh, trú bão khi xảy ra bão từ cấp 8-11 ứng với cấp độ rủi ro thiên tai cấp
3, gồm các nội dung sau: (có phụ lục kèm theo).
+ UBND các huyện, thị xã và thành
phố tổ chức tuyên truyền, vận động, khuyến cáo nhân dân sống trong các nhà
yếu, nhà tạm, nhà không đảm bảo an toàn, nhà ở tại các vùng trũng thấp, hạ
lưu các hồ đập, sơ tán đến khu vực an toàn theo phương án đề ra để đề phòng
bão kèm mưa lớn gây lũ lụt.
+ Các vùng được xác định là trọng
điểm phải triển khai di dời dân. Vị trí di dời ưu tiên đến các hộ gia đình, người
thân có nhà kiên cố đảm bảo an toàn về gió bão từ cấp 8-11 và ngập lụt; số còn
lại di dời đến các địa điểm trường học, trụ sở các cơ quan trên địa bàn và các
vùng lân cận.
Số lượng di dời, sơ tán dân trên địa
bàn tỉnh theo phương án ứng với cấp bão từ cấp 8-11 là: 22.376 hộ/85.086 nhân
khẩu, trong đó: Sơ tán tập trung 10.793 hộ/39.948 nhân khẩu; sơ tán tại chỗ:
11.583 hộ/45.138 nhân khẩu.
- Phương án sơ tán, di dời dân
khi xảy ra bão mạnh từ cấp 12-15, ứng với cấp độ rủi ro thiên tai cấp 4, gồm
các nội dung sau: (có phụ lục kèm theo)
+ Chủ tịch UBND tỉnh quyết định huy động tất cả các nguồn lực, các cơ sở, trụ sở, nhà cửa,
cơ quan, nhà thờ, chùa, khách sạn, khu nghỉ dưỡng, nhà hàng và các cơ sở an
toàn chịu bão lớn khác của tất cả tổ chức, hộ gia đình, cá nhân làm cơ sở sơ
tán đến cho nhân dân.
+ Chủ tịch UBND các huyện, thị xã
và thành phố chỉ đạo tổ chức di dời dân đến những vị trí tập trung theo kế hoạch
đã xây dựng, phải cưỡng chế đối với các hộ dân không chịu di dời. Vị trí di dời
ưu tiên đến các hộ gia đình, người thân có nhà kiên cố đảm bảo an toàn về gió
bão từ cấp 12-15 và ngập lụt; số còn lại di dời đến các địa điểm trường học, trụ
sở các cơ quan trên địa bàn xã và các xã lân cận đảm bảo an toàn tuyệt đối.
Số lượng di dời, sơ tán dân trên địa
bàn tỉnh theo phương án ứng với cấp bão từ cấp 12-15 là: 55.898hộ/210.466 nhân
khẩu, trong đó: Sơ tán tập trung 32.955 hộ/121.284 nhân khẩu; sơ tán tại chỗ:
22.943 hộ/89.182 nhân khẩu.
- Phương án sơ tán, di dời dân
khi xảy ra bão rất mạnh cấp 16 trở lên ứng với cấp độ rủi ro thiên tai cấp 5,
gồm các nội dung sau: (có phụ lục kèm theo)
+ Đây là cấp bão được xác định là
đặc biệt nguy hiểm, kèm theo mưa lớn, gió rất mạnh có thể mang tới thảm họa
thiên tai nên các biện pháp di dời dân phải được thực hiện triệt để. UBND huyện,
thị xã và thành phố phối hợp với UBND tỉnh, Ban Chỉ huy phòng, chống thiên tai
và TKCN tỉnh trong công tác chỉ đạo, chỉ huy phòng chống thiên tai, tổ chức các
biện pháp di dời dân đến những nơi được xác định là vị trí sơ tán dân đảm bảo
an toàn tránh bão, lũ. Thực hiện di dân bắt buộc và triển khai các biện pháp cưỡng
chế trong công tác sơ tán, di dời dân nhằm đảm bảo 100% số người dân được đưa đến
các địa điểm sơ tán đảm bảo an toàn theo phương án.
Số lượng di dời, sơ tán dân trên địa
bàn tỉnh theo phương án ứng với cấp bão từ cấp 16 trở lên là: 74.019hộ/273.069
nhân khẩu, trong đó: Sơ tán tập trung 52.353 hộ/187.880 nhân khẩu; sơ tán tại
chỗ: 21.666 hộ/85.189 nhân khẩu.
1.2. Đối với mưa lớn, lũ, ngập lụt:
a) Công tác truyền thông: Thông
tin về tình hình thời tiết do các cơ quan khí tượng thủy văn tỉnh, Trung
ương cung cấp, cơ quan truyền thông thực hiện. Trường hợp dự báo
mức lũ tại các trạm (Phú Lâm, Hà Bằng, Hòa Mỹ) trên báo động cấp III (BĐ III)
và có khả năng tiếp tục tăng lên, Sở Thông tin và Truyền
thông chỉ đạo các đài phát thanh và truyền hình, các hệ thống thông tin đại
chúng… ưu tiên phát các tin về lũ; xử lý các đài không đưa
tin về lũ đúng quy định của pháp luật. Hình thức truyền thông tin từ các huyện,
thị xã, thành phố đến cộng đồng dân cư: Qua hệ thống truyền thanh của địa
phương; qua loa cầm tay trực tiếp, xe tuyên truyền lưu động;
qua các đài phát thanh và truyền
hình; nhận tin từ cấp trên qua: Điện thoại, điện thoại di
động, fax, vi tính (email).
b) Tổ chức ứng
phó: Tùy thuộc vào các cấp báo động lũ lụt trên các lưu vực
sông tại các trạm Phú Lâm, Hà Bằng, Hòa Mỹ (BĐ III, BĐ III+1m, BĐ III +1,5, BĐ
III +2m) và dự báo khả năng tiếp tục tăng lên, các địa phương có các phương án ứng
phó theo từng cấp độ rủi ro thiên tai theo quy định và có sự thống nhất chỉ đạo
từ cấp tỉnh đến các Sở, ban, ngành và địa phương. Khi nhận được thông tin cảnh báo lũ lụt trên lưu vực
sông và dự báo mực nước có khả năng tiếp tục tăng lên mức báo động cấp BĐ III, BĐ III +1m, BĐ III +1,5; BĐ III +2m) các sở, ngành và địa phương chỉ đạo và khẩn trương triển
khai các biện pháp phòng, chống, ứng phó, sẵn sàng các biện pháp di dời, sơ tán
dân tại các vùng thường xuyên bị lũ lụt, chia cắt, cô lập đến nơi an toàn theo
phương án. Thường xuyên theo dõi tình hình dự báo, cảnh báo, hướng dẫn của
cơ quan chức năng để tự thực hiện các biện pháp phòng, tránh, không đi vào khu
vực ngập sâu, nguy hiểm.
c) Tổ chức sơ
tán nhân dân: Phát lệnh sơ tán và chỉ huy công tác
sơ tán, Chủ tịch UBND các huyện, thị xã, thành phố. Lực lượng
hỗ trợ sơ tán nhân dân, các đơn vị lực lượng vũ trang đã
hiệp đồng với các huyện, thị xã, thành phố, xã, phường, Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh, Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh, Ban
Quân sự các huyện, thị xã, thành phố, Công an tỉnh, các Sở,
ngành. Rà soát lại số người sơ tán, kiểm tra an toàn nơi sơ tán đến.
- Hình thức sơ
tán: Người dân tự sơ tán là chính, ưu tiên sơ tán cho người già, trẻ em, phụ nữ
mang thai, phụ nữ nuôi con dưới 12 tháng tuổi, người bệnh, người khuyết tật...Người
sơ tán phải mang theo lương thực, nước uống, trang vật dụng cần thiết để sử dụng
trong thời gian sơ tán. Lập kế hoạch chuẩn bị lương thực,
nước uống, thuốc dự phòng tối thiểu, vệ sinh môi trường, bếp… tại nơi sơ tán.
Triển khai kế hoạch đảm bảo an toàn, an ninh trật tự nơi sơ tán.
- Chủ tịch UBND các huyện, thị xã, thành phố quyết định tổ chức cưỡng chế sơ
tán trường hợp tổ chức, cá nhân không tự giác chấp hành chỉ đạo, chỉ huy, hướng
dẫn sơ tán phòng, tránh thiên tai vì mục đích an toàn cho người.
- Số lượng di dời, sơ tán dân trên
địa bàn tỉnh theo phương án ứng với cấp báo động lũ cụ thể: Lũ ở mức báo động cấp
III: 14.035hộ/51.357 nhân khẩu, trong đó số dân sơ tấn tập trung là: 8.296 hộ/30.500
nhân khẩu, sơ tán tại chỗ là: 5.739 hộ/20.857 nhân khẩu; lũ ở mức báo động cấp
III+1m là: 23.106 hộ/84.820 nhân khẩu, trong đó sơ tán tập trung là: 14.424 hộ/53.313
nhân khẩu, sơ tán tại chỗ là: 8.682 hộ/31.507 nhân khẩu; lũ ở mức báo động cấp
III+1,5-20m là:34.483 hộ/121.110 nhân khẩu, trong đó Sơ tán tập trung là:
23.345 hộ/81.999 nhân khẩu, sơ tán tại chỗ: 11.138 hộ/39.111 nhân khẩu. (Kèm theo Phụ lục lũ lụt với các cấp báo động:
III (ứng với rủi ro thiên tai cấp độ 1; cấp báo động:
III+1(ứng với rủi ro thiên tai cấp độ 2); cấp báo động
cấp: III+1,5- 2,0m ứng với rủi ro thiên tai cấp độ
3, cấp 4;).
1.3. Đối với hạn hán, nắng
nóng.
- Rủi
ro thiên tai cấp độ 1 gồm các trường hợp sau:
Tình trạng thiếu hụt lượng mưa tháng trên 50%, kéo dài từ 2 tháng đến 3 tháng
và nguồn nước trong khu vực hạn hán thiếu hụt từ trên 50% đến 70% so với trung bình
nhiều năm; tình trạng thiếu hụt lượng mưa tháng trên 50%, kéo dài từ trên 3
tháng đến 6 tháng và nguồn nước trong khu vực hạn hán thiếu hụt từ 20% đến 50%
so với trung bình nhiều năm.
- Rủi
ro thiên tai cấp độ 2 gồm các trường hợp sau: Tình trạng thiếu hụt lượng mưa
tháng tới trên 50%, kéo dài từ 2 tháng đến 3 tháng và nguồn nước trong khu vực
hạn hán thiếu hụt tới trên 70% so với trung bình nhiều năm; tình trạng thiếu hụt
lượng mưa tháng tới trên 50%, kéo dài từ trên 3 tháng đến 6 tháng và nguồn nước
trong khu vực hạn hán thiếu hụt từ trên 50% đến 70% so với trung bình nhiều
năm; tình trạng thiếu hụt lượng mưa tháng tới trên 50%, kéo dài trên 6 tháng và
nguồn nước trong khu vực hạn hán thiếu hụt từ 20% đến 50% so với trung bình nhiều
năm.
Do ảnh hưởng của sự biến đổi khí hậu nên diễn biến
khí hậu ngày càng bất lợi, thời tiết nắng nóng kéo dài, lượng mưa thiếu hụt gây
khó khăn cho sản xuất và đời sống của nhân dân ở những vùng thường xuyên bị khô
hạn. Trong nhưng năm qua Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã phối hợp với
các địa phương triển khai lập kế hoạch chủ động để đối phó với các diễn biến bất
thường về thời tiết, dịch bệnh, phòng chống cháy rừng, điều tiết nước với mục
tiêu hạn chế thấp nhất những rủi ro bất lợi trong sản xuất, chỉ đạo các địa
phương gieo sạ sớm để đảm bảo đúng thời vụ, tận dụng nguồn nước đầu vụ, tránh hạn
cuối vụ trên các chân ruộng không chủ động nước tưới từ các công trình thủy lợi,
được tổ chức gieo sạ sớm ngay cuối tháng 11 đầu tháng 12 với các loại giống ngắn
ngày. Đối với các chân ruộng thiếu nước không đảm bảo điều kiện sản xuất lúa nước,
được chuyển đổi sang diện tích cây trồng khác như ngô lai, khoai lang, đậu đỗ
các loại.
Với mục tiêu cung cấp đảm bảo nước tưới cho sản
xuất nông nghiệp cây lúa, cây trồng cạn và các loại hoa màu khác đồng thời cung
cấp nước phục vụ sinh hoạt và các ngành kinh tế khác trên địa bàn tỉnh. Các biện
pháp chỉ đạo chống hạn, xâm nhập mặn như sau:
- UBND các huyện, thị xã và
thành phố, các đơn vị quản lý thủy nông: Tập trung kiểm tra các công trình hệ
thống thủy lợi, khơi thông dòng chảy, nạo vét kênh mương, cống, theo
dõi sát diễn biến thời tiết; phối hợp với các các đơn vị
quản lý hồ, đập vận hành hợp lý các công trình cấp nước, sử
dụng tiết kiệm, chống thất thoát nước; đối với các vùng có diện tích không đảm
bảo cấp nước tưới cần chủ động chuyển đổi giống cây trồng cho phù hợp để
đảm bảo nước tưới; phối hợp cùng với ngành điện lực ưu tiên cung
cấp điện cho các cho các trạm bơm điện; chuẩn bị vật tư, nhiên liệu cần thiết để
phục vụ bơm tưới chống hạn và thực hiện theo phương án đã đề ra.
- Rà soát, bổ sung chuẩn bị
sẵn sàng trang thiết bị, máy móc để phục vụ tốt khi có hạn
xảy ra, triển khai phương án phòng, chống hạn
cho sản xuất nông nghiệp và cung cấp nước sinh hoạt cho nhân dân.
- Từng bước hoàn chỉnh hệ thống thủy lợi phục vụ
cấp nước; khẩn trương hoàn chỉnh quy hoạch thủy lợi chi tiết và giám sát thực
hiện quy hoạch để phát triển hạ tầng thủy lợi phục vụ cấp nước một cách đồng bộ
từ công trình đầu mối đến hệ thống kênh mương nội đồng.
- Các trạm bơm tưới dọc sông Ba trên địa bàn huyện
Sơn Hòa, huyện Sông Hinh phối hợp chặt chẽ với các nhà máy thủy điện trên lưu vực
để vận hành phát điện với lưu lượng và thời gian phù hợp nhu cầu dùng nước (Khi
Nhà máy thủy điện Sông Ba Hạ, Sông Hinh chạy phát điện hoặc xả nước, huyện Sơn
Hòa, Sông Hinh phải chỉ đạo các trạm bơm phải hoạt động đồng thời với công suất
tối đa để tiết kiệm nước xả của các hồ thủy điện theo đúng lịch tưới của địa
phương đã lập, đồng thời tổ chức nạo vét kênh dẫn vào trạm bơm đúng thiết kế).
- Sở Nông nghiệp và PTNT phối hợp Sở Công Thương
và các Nhà máy thủy điện lập kế hoạch chạy phát điện ở các Nhà máy thủy điện đảm
bảo tiếp nước cho hạ du theo kế hoạch sử dụng nước phục vụ sản xuất và sinh hoạt
ở hạ lưu các công trình thủy điện Sông Ba Hạ, thủy điện Sông Hinh trên địa bàn
tỉnh Phú Yên theo kế hoạch sử dụng nước của địa phương đã đề ra.
- Biện pháp giải quyết nước sinh hoạt và vệ sinh
môi trường nông thôn khi hạn hán: Trước hết phải khắc phục tình trạng hoạt động
kém hiệu quả của các công trình cấp nước hiện nay trên địa bàn toàn tỉnh đồng
thời từng bước củng cố, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống các công trình
cấp nước tập trung, tạo cơ sở thực hiện thắng lợi Chương trình mục tiêu quốc
gia về cấp nước và vệ sinh môi trường nông thôn (VSMTNT). Đề nghị các ban,
ngành liên quan phối hợp với Chương trình mục tiêu quốc gia áp dụng các nhóm giải
pháp sau:
+ Tổ chức khảo sát, đánh giá lại trữ lượng, chất
lượng nguồn nước, nhu cầu sử dụng nước, khả năng đóng góp đối ứng của người
dân, để giải pháp sửa chữa, nâng cấp các công trình.
+ Đối với các công trình có nguồn nước ổn định,
người dân thực sự có nhu cầu sử dụng thì xem xét cho lập phương án nâng cấp sửa
chữa.
+ Đối với công trình nguồn nước cung cấp không ổn
định, người dân không có nhu cầu sử dụng thì cho chuyển đổi mục đích sử dụng hoặc
cho thanh lý theo quy định.
+ Ưu tiên nguồn kinh phí của Chương trình cho việc
nâng cấp sửa chữa đối với những công trình hư hỏng, xuống cấp phát huy hiệu quả
kém mà người dân đang thực sự có nhu cầu sử dụng.
Khi hạn nặng, đơn vị quản lý công trình cấp nước
tập trung tiến hành dùng các biện pháp cấp nước bổ sung như: Đào sâu thêm các
giếng, nạo vét khơi thông làm sạch đầu nguồn đối với một số hệ thống cấp nước,
các giếng nước của dân nếu ảnh hưởng hạn hán không đủ nước; vận hành cấp nước hợp
lý; vận chuyển nước đến các điểm cấp nước; khoan giếng, đào giếng mới tập
trung, mua can đựng nước, thuê xe bồn chở nước sạch cấp cho người dân dùng
trong thời điểm hạn hán không còn nguồn nước để bơm.
1.4. Đối với triều cường:
- UBND các huyện, thị xã và thành phố ven biển
chủ động thông báo, cảnh báo các khu vực thường xuyên bị ảnh hưởng của triều cường,
đánh giá mức độ triều cường và khả năng ảnh hưởng đến khu dân cư, khu vực neo đậu,
sửa chữa tàu thuyền.
- Chủ động sơ tán người và tài sản, hướng dẫn
tàu thuyền di chuyển khỏi vùng có khả năng bị ảnh hưởng đến nơi an toàn; tổ chức
tìm kiếm cứu nạn, cứu chữa người bị thương; sẵn sàng hỗ trợ lương thực, thực phẩm,
nước uống, thuốc chữa bệnh và nhu yếu phẩm khác khi cần thiết.
- Triển khai các biện pháp đảm bảo an ninh, trật
tự an toàn xã hội, bảo vệ tài sản của Nhà nước và nhân dân tại khu vực xảy ra
thiên tai.
1.5. Đối với sạt lở đất.
Cấp độ
rủi ro thiên tai do sạt lở đất, sụt lún đất do mưa lũ hoặc dòng chảy có 2 cấp:
- Rủi
ro thiên tai cấp độ 1 gồm: Mưa lớn với lượng mưa từ 200 mm đến 300 mm trong 24
giờ, mưa đã xảy ra trước đó trên 2 ngày, trên các sườn dốc có độ dốc cao hơn 25
độ, với các nền đất yếu, đất bở rời; hoặc đất sườn tàn tích; mưa rất lớn với lượng
mưa trên 300 mm trong 24 giờ, mưa đã xảy ra trước đó từ 1 ngày đến 2 ngày, trên
sườn dốc có độ dốc nhỏ hơn 25 độ, với các nên đất yêu, đất bở
rời; mưa rất lớn với lượng mưa trên 300 mm trong 24 giờ, mưa đã xảy ra trước đó
trên 2 ngày, trên các sườn dốc có độ dốc cao hơn 25 độ, với các nền đá phiến và
sét bột kết gắn kết yếu.
- Rủi
ro thiên tai cấp độ 2: Khi có khả năng xảy ra mưa với lượng mưa trên 300 mm
trong 24 giờ, mưa đã xảy ra trước đó trên 2 ngày, trên các sườn dốc có độ dốc
cao hơn 25 độ, với các nền đất yếu, đất bở rời; hoặc đất sườn tàn tích.
a) Công tác truyền
thông: Tổ chức tuyên truyền đến cộng
đồng dân cư trên các thông tin đại chúng của địa phương
để các hộ dân hiện đang sinh sống tại các khu vực có nguy cơ sạt lở, không đảm bảo an toàn biết về tình hình lũ lụt
có khả năng gây sạt lở bờ, chủ động phòng tránh kịp thời.
b) Tổ chức ứng
phó: UBND các huyện, thị xã và thành phố chỉ đạo, tổ chức
trực ban nghiêm túc, theo dõi sát diễn biến mưa, lũ lụt trên địa bàn và triển khai lực lượng, phương tiện, trang thiết bị để kịp thời xử lý
các tình huống xấu có thể xảy ra, chủ động sơ tán nhân dân. Cắm biển báo tại các khu vực nguy hiểm,
có nguy cơ cao, rà soát, sẵn sàng triển khai phương án sơ tán dân. Theo dõi chặt
chẽ diễn biến mưa, lũ để kịp thời thông báo cho các khu dân cư đang sống dọc
ven sông, suối, vùng trũng, thấp, vùng có nguy cơ sạt lở.
c) Tổ chức sơ
tán nhân dân: Lực lượng hỗ trợ sơ tán
nhân dân các các đơn vị lực lượng vũ
trang như (quân đội, công an
và lực lượng vũ trang của địa phương); rà soát lại số người sơ
tán, kiểm tra an toàn nơi sơ tán đến; hình thức sơ tán là
người dân chủ động sơ tán là chính, ưu tiên sơ tán người
già, phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật.
Đối với các trường hợp tổ chức, cá nhân không chịu sơ tán thì tổ chức cưỡng chế
sơ tán nhằm đảm bảo an toàn tính mạng nhân dân.
2. Các giải pháp thực hiện.
Để triển khai thực hiện tốt công
tác phòng chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn có hiệu quả, giảm thiểu thiệt hại do thiên tai gây ra, triển khai thực
hiện một số nhiệm vụ sau:
2.1 Rà soát và triển khai các phương án di dời
tránh lũ, bão.
Căn cứ tình hình diễn biến của
thiên tai, bão, lũ Ban chỉ huy PCTT và TKCN tỉnh chỉ đạo các địa phương và cơ
quan đã được giao nhiệm vụ triển khai thực hiện các công việc cấp bách cụ thể:
- Rà soát, bổ sung gấp các
phương án di dời tránh lũ, bão cho phù hợp với diễn biến của thiên tai.
- Chuẩn bị sẵn sàng danh
sách cho việc phát lệnh huy động các phương tiện giao thông (xe ô tô các loại,
tàu, thuyền, cano, ghe, xuồng…) để phục vụ việc di dời người và tài sản đến các
khu vực an toàn theo phương án vừa được bổ sung.
2.2. Kiểm tra công tác quản lý, đảm bảo an
toàn di dời dân:
- Khi có tin bão, lũ ảnh hưởng trực tiếp đến địa
bàn và thông báo mức báo động lũ cao, phải triển khai chỉ huy sơ tán nhân dân
những vùng trũng thấp, vùng ảnh hưởng triều cường; lực lượng hỗ trợ sơ tán nhân
dân là lực lượng vũ trang gồm: Quân đội, công an và lực lượng xung kích của địa
phương. Rà soát số người sơ tán, kiểm tra an toàn nơi sơ tán đến; hình thức sơ
tán là người dân tự sơ tán là chính, ưu tiên sơ tán cho người già, trẻ em, phụ
nữ, người bệnh. Đối với các trường hợp tổ chức, cá nhân không chịu sơ tán, cố
thủ thì tổ chức cưỡng chế sơ tán.
2.3. Thiết lập hệ thống thông tin liên lạc khẩn
cấp.
- Trên cơ sở kết quả đánh giá nguồn lực sẵn có của
địa phương về hệ thống thông tin liên lạc, để đảm bảo thông tin liên lạc thông
suốt trong suốt thời gian ứng phó khẩn cấp với thiên tai, Ban Chỉ huy PCTT và
TKCN tỉnh chỉ đạo Đài truyền thanh và Truyền hình tỉnh và các kênh thông tin
khác triển khai phương án thông tin liên lạc khẩn cấp để ứng phó với thiên tai
(bão, lũ, triều cường…). Chuyển tải kịp thời các bản tin dự báo, cảnh báo lũ,
bão đến các địa phương vùng có nguy cơ ảnh hưởng và các cơ quan có liên quan.
- Ban Chỉ huy Phòng chống thiên tai và TKCN tỉnh
tổng hợp thông tin tình trước, trong và sau lụt, bão và các thiên tai khác báo
cáo kịp thời đến các cơ quan, địa phương để chuẩn bị phòng tránh và khắc phục
thiên tai.
2.4. Triển khai công tác đảm bảo y tế (bao gồm
cả y tế công và tư).
- Sở Y tế: Chỉ đạo các Bệnh viện, Trung tâm y tế
thành lập các tổ, đội y tế lưu động, chuẩn bị túi cấp cứu với cơ số thuốc và vật
tư tiêu hao đầy đủ; mỗi tổ, đội đảm bảo số lượng y, bác sĩ và các trang thiết bị,
hóa chất đáp ứng yêu cầu phòng chống dịch bệnh nếu xảy ra.
- Thông báo rộng rãi đến cộng đồng địa phương
vùng bị ảnh hưởng thiên tai biết các điểm khám, chữa bệnh khẩn cấp.
2.5. Tìm kiếm cứu nạn.
Các đơn vị lực lượng vũ trang (Quân sự, Công an)
là lực lượng nòng cốt trong công tác phòng chống thiên tai, tìm kiếm, cứu hộ, cứu
nạn phối hợp với các lực lượng dân quân, thanh niên xung kích địa phương.
2.6. Cứu trợ khẩn cấp.
- Công tác cứu trợ khẩn cấp là một trong những
hoạt động ứng phó khẩn cấp quan trong trong thiên tai nhằm đảm bảo tốt nhất lượng
lương thực cơ bản cần thiết cho người dân vùng ảnh hưởng thiên tai. Sở Y tế phối
hợp với Sở Lao động Thương binh và Xã hội, UBMTTQ Việt Nam tỉnh, Hội chữ thập đỏ
tỉnh chọn lựa nhanh đối tượng cần ưu tiên cứu trợ khẩn cấp cho hộ nghèo, khó
khăn, neo đơn, người khuyết tật, trẻ em, gia đình chính sách.
- Thiết lập một hệ thống để tiếp nhận sự cứu trợ,
phân phát hàng cứu trợ và những khiếu nại của nhân dân.
2.7. Kiểm tra, đánh giá
thiệt hại do thiên tai gây ra.
- Căn cứ vào tình hình diễn
biến của thiên tai và những thông tin thu được từ kết quả đánh giá nguồn lực sẵn
có của địa phương, Ban Chỉ huy Phòng chống thiên tai và Tìm kiếm cứu nạn huyện
tham mưu cho chính quyền địa phương triệu tập khẩn cấp các nhân viên đánh giá
thiên tai đã được tập huấn và tổ chức triển khai ngay các tổ, đội kiểm tra đánh
giá thiệt hại và nhu cầu cứu trợ khẩn cấp ở các khu vực xảy ra thiên tai.
- Báo cáo ngay sự kiện thiên
tai lên cấp có thẩm quyền về diễn biến và vùng ảnh hưởng của thiên tai tại địa
phương trước khi thu thập số liệu thiệt hại.
- Thu thập số liệu thiệt hại
thông qua chính quyền cấp cơ sở và các trưởng đoàn công tác được cử về địa
phương (nếu có) và thu thập từ báo cáo của các cấp.
- Phân tích số liệu đã thu
thập được trên cơ sở các số liệu đã thu thập được trước thiên tai để xác định
tính trung thực của số liệu.
- Lập báo cáo về tình hình
thiệt hại, nhu cầu cứu trợ khẩn cấp và đề xuất biện pháp khắc phục (theo biểu
mẫu báo cáo nhanh đã quy định) gửi lên cấp có thẩm quyền.
III. TỔ CHỨC KHẮC PHỤC HẬU
QUẢ THIÊN TAI.
Các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế-xã hội,
đơn vị lực lượng vũ trang và mọi công dân trên địa bàn tỉnh có trách nhiệm và
phải chủ động tiến hành, tích cực tham gia việc khắc phục hậu quả thiên tai nhằm
giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai gây ra, nhanh chóng ổn định đời sống nhân dân,
phục hồi sản xuất.
Ban Chỉ huy Phòng chống thiên tai và Tìm kiếm cứu
nạn các cấp, các ngành kịp thời cấp cứu, điều trị nạn nhân do thiên tai gây ra
(nếu có) tại các cơ sở y tế gần nhất. Chủ động phối, kết hợp với các địa phương
giáp ranh, đặc biệt là các khu vực ven biển, ven sông tích cực tìm kiếm người mất
tích.
1. Xác định nhiệm vụ:
Nhiệm vụ trước mắt sau mùa mưa bão là thực hiện
các hoạt động nhằm mục đích sửa chữa, khôi phục lại nhà cửa, sản xuất, cơ sở hạ
tầng đã bị thiên tai tàn phá, giúp nhân dân trong vùng thiên tai nhanh chóng ổn
định đời sống sinh hoạt và sản xuất thường ngày. Đồng thời, phải tiến hành rà
soát, điều chỉnh, lồng ghép việc tái thiết sau thiên tai với các quy hoạch xây
dựng phát triển của địa phương để thích ứng với diễn biến của thiên tai trong
các năm tiếp theo.
2. Các giải pháp thực hiện:
Công tác khắc phục hậu quả
và tái thiết sau thiên tai có khối lượng công việc lớn và phức tạp, có nhiều vấn
đề phát sinh so với kế hoạch phát triển ban đầu của địa phương. Về cơ bản, một
số hoạt động sau thường hay được tổ chức thực hiện cho giai đoạn này, bao gồm:
- Tiếp tục công tác tìm
kiếm cứu nạn và cứu trợ sau thiên tai.
- Đánh giá thiệt hại phục vụ
công tác khắc phục hậu quả.
- Xử lý và khắc phục các thiệt
hại về sản xuất, dân sinh đảm bảo các điều kiện cơ bản cho phục hồi sản xuất và
dân sinh; đồng thời tránh và giảm nhẹ thiệt hại đến mức thấp nhất nếu lũ, bão xảy
ra ngay sau đó.
- Xử lý và khắc phục các thiệt
hại về môi trường.
- Xử lý và khắc phục các sự
cố, đồng thời củng cố các công trình phục vụ phòng chống lụt bão, các công
trình phục vụ dân sinh và sản xuất.
- Xây dựng kế hoạch phục hồi
ngắn hạn và kế hoạch tái thiết và phát triển trong tương lai.
2.1. Tìm cứu cứu nạn và cứu trợ sau thiên
tai:
Tiếp tục triển khai công tác tìm kiếm cứu nạn, cứu
trợ, hỗ trợ lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, nhu yếu phẩm thiết yếu khác
và hỗ trợ tâm lý để ổn định đời sống của người dân:
- Cấp cứu người gặp nguy hiểm; tìm kiếm người,
phương tiện mất tích.
- Tiếp tục sơ tán người ra khỏi nơi nguy hiểm,
ưu tiên đối tượng dễ bị tổn thương.
- Lập các trạm cấp cứu tạm thời hoặc trưng dụng
có thời hạn trụ sở cơ quan, trường học, cơ sở y tế tại khu vực có thiên tai để
tiếp nhận cấp cứu người bị nạn.
- Xác định đối tượng cần được cứu trợ bao gồm cá
nhân bị thương, hộ gia đình có người bị chết; hộ gia đình, cá nhân bị mất nhà ở,
không có lương thực, nước uống và nhu yếu phẩm khác có nguy cơ ảnh hưởng tới
tính mạng và sức khỏe, đặc biệt quan tâm tới đối tượng dễ bị tổn thương.
- Huy động người, vật tư, trang thiết bị, thuốc
chữa bệnh để tham gia cứu chữa người bị nạn.
- Dựng các lán trại tạm thời cho người dân bị mất
nhà ở.
- Tiếp tục duy trì hệ thống tiếp nhận các nguồn
hàng cứu trợ.
- Cấp phát lương thực, thực phẩm, nước sạch, nhu
yếu phẩm, các loại cây con giống, vật liệu xây dựng, v.v…
- Xây dựng các phương án huy động nhân sự, vật
tư, phương tiện cho công tác khắc phục hậu quả của từng loại hình cứu nạn, cứu
trợ.
2.2. Đánh giá thiệt hại sau thiên tai:
Nhằm xác định mức độ, phạm
vi ảnh hưởng tiêu cực của thiên tai đối với con người, tài sản và môi trường tại
địa bàn xảy ra thiên tai từ đó đề xuất các phương án để khắc phục hậu quả.
- Nhiệm vụ của công tác đánh
giá thiệt hại sau thiên tai là tiếp tục thu thập và hoàn thiện số liệu thiệt hại,
phân tích, đánh giá và lập báo cáo cuối cùng để gửi lên cấp có thẩm quyền.
- Căn cứ vào mức độ thiệt hại
của thiên tai đã thu thập, phân tích và đánh giá ở trên để quyết định việc cứu
hộ, cứu trợ khẩn cấp cho khu vực bị ảnh hưởng và đề xuất các biện pháp phòng ngừa
cho các đợt thiên tai tiếp theo.
Các yêu cầu trong đánh
giá thiệt hại:
- Công tác đánh giá thiệt hại
phải có cơ cấu tổ chức chặt chẽ từ cấp xã, thôn đến cấp huyện.
- Việc đánh giá thiệt hại phải
được căn cứ vào tình hình thực tế tại khu vực bị ảnh hưởng và mức độ ảnh hưởng
bởi thiên tai.
- Số liệu thiệt hại phải
trung thực, chính xác.
- Đơn giá để tính giá trị
thiệt hại phải được căn cứ vào biểu giá do cấp có thẩm quyền qui định tại thời
điểm xảy ra thiên tai.
2.3. Vệ sinh môi trường và phòng chống dịch bệnh:
- Huy động lực lượng, phương tiện trên địa bàn,
phát động chiến dịch tổng vệ sinh môi trường sau thiên tai (thu dọn cây cối gẫy
đổ, thu hồi xác gia súc, gia cầm bị chết, tẩy uế nhà cửa, vệ sinh ruộng, vườn;
vệ sinh nguồn nước).
- Tổ chức khám, chữa bệnh, phát thuốc miễn phí
cho dân vùng bị thiên tai.
- Cung cấp viên lọc nước để khử trùng, lọc nước
phục vụ sinh hoạt khẩn cấp.
2.4. Lập và triển khai kế hoạch phục hồi:
Dựa vào kết quả thiệt hại và nhu cầu để lập kế
hoạch phục hồi:
- Trung hạn (tập trung vào hỗ trợ giống cây trồng,
vật nuôi, vật tư, trang thiết bị, nhiên liệu thiết yếu khác để phục hồi sản xuất;
cung ứng vật tư, hàng hóa thiết yếu và thực hiện các biện pháp quản lý giá,
bình ổn thị trường; sửa chữa, khôi phục trụ sở, công trình phòng, chống thiên
tai, giao thông, thông tin, thủy lợi, cấp nước sinh hoạt, điện lực, trường học,
cơ sở y tế và công trình hạ tầng thiết yếu khác bị thiệt hại).
- Về dài hạn (tập trung vào việc sửa chữa, khôi
phục, nâng cấp công trình phòng, chống thiên tai, giao thông, công trình hạ tầng
công cộng; tuyên truyền nâng cao nhận thức và năng lực của cộng đồng về phòng,
chống thiên tai).
Phần V
TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÂN
CÔNG, PHÂN CẤP TRÁCH NHIỆM
I. TỔ CHỨC THỰC HIỆN.
Kế hoạch phòng chống và khắc phục hậu quả thiên
tai ứng với bão mạnh, siêu bão, lũ lụt, sạt lở đất, triều cường, hạn hán, nắng
nóng và các loại hình thiên tai khác khi xảy ra trên địa bàn tỉnh Phú Yên được
triển khai thực hiện sẽ là cơ sở để phục vụ cho công tác phòng chống thiên tai
và tìm kiếm cứu nạn, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác chỉ đạo, chỉ huy về
di dời dân, sơ tán dân khi có thiên tai lớn xảy ra; giúp cho các địa phương, đặc
biệt là nhân dân các vùng trũng thấp, vùng ven sông, ven biển vùng có nguy cơ
cao về thiên tai có thông tin để tự phòng tránh, nhằm giảm nhẹ đến mức thấp nhất
thiệt hại do thiên tai gây ra trên địa bàn tỉnh.
Để kế hoạch phòng chống thiên tai được triển
khai thực hiện kịp thời có hiệu quả, UBND tỉnh, Ban Chỉ huy Phòng chống thiên
tai và Tìm kiếm cứu nạn tỉnh yêu cầu các cơ quan, đơn vị và địa phương thực hiện
các nội dung sau:
1. Tăng cường năng lực chỉ huy trong công
tác phòng, chống thiên tai cho các đơn vị, địa phương, nhất là các khu vực ven
biển, vùng trũng thấp ven sông, vùng có nguy cơ cao xảy ra thiên tai.
2. Các cơ quan, đơn vị, đoàn thể các cấp
phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương tích cực tuyên truyền, vận động
nâng cao ý thức cộng đồng trong nhân dân, đề cao hơn nữa tinh thần chủ động, thực
hiện tốt công tác phòng chống thiên tai, nhằm hạn chế đến mức thấp nhất do
thiên tai gây ra.
3. Các cơ quan, đơn vị phát huy tốt
phương châm “4 tại chỗ” trong công tác phòng chống thiên tai nhất là bão, lũ lụt,
thực hiện nghiêm túc việc phân cấp chỉ huy phòng chống thiên tai, sơ tán dân, cụ
thể: Cấp xã đảm bảo chỉ huy phòng chống thiên tai (bão, lụt...) sơ tán dân cho
xã, cấp huyện đảm bảo chỉ huy sơ tán dân cho huyện, cấp tỉnh đảm
bảo chỉ huy sơ tán dân cho tỉnh (theo cấp độ thiên tai được quy định).
4. Tiếp tục đầu tư kiên cố
các công trình công cộng, cơ sở hạ tầng nơi dân sơ tán đến, nhằm đảm bảo phục vụ
lâu dài, ổn định, an dân.
5. Quy hoạch, sắp xếp lại
các khu dân cư hợp lý, đối với nhân dân vùng đồng bằng ven biển, vùng trũng thấp
ven sông.
6. Tăng cường công tác giữ
rừng, trồng rừng đầu nguồn, đầu tư xây dựng các hồ chứa nước, các công trình
trú đậu tàu thuyền, kè bảo vệ bờ và các công trình phòng chống lụt bão trong thời
gian tới.
II. PHÂN CÔNG, PHÂN CẤP
TRÁCH NHIỆM.
1. Các cấp độ rủi ro
thiên tai.
Cấp độ rủi ro thiên tai được xác dịnh cho từng
loại hình thiên tai và công bố cùng nội dung bản tin dự báo, cảnh báo thiên
tai, làm cơ sở việc phân công, phân cấp trách nhiệm và phối hợp trong ứng phó
thiên tai. Được phân thành 5 cấp được quy định chi tiết tại Quyết định số
44/2014/QĐ-TTg ngày 15/8/2015 của Thủ tướng Chính phủ.
a) Thiên tai cấp độ 1:
- Chủ tịch UBND, Trưởng Ban Chỉ huy Phòng
chống thiên tai và TKCN cấp xã có trách nhiệm trực tiếp chỉ huy, huy động nguồn
lực tại chỗ để ứng phó kịp thời ngay khi thiên tai xảy ra, báo cáo và chịu
trách nhiệm thực hiện chỉ đạo, chỉ huy của các cơ quan đơn vị phòng chống thiên
tai được huy động các lực lượng trên địa bàn như: Dân quân tự vệ, thanh niên
xung kích và các tổ chức, cá nhân tình nguyện; chuẩn bi vật tư, trang thiết bị,
phương tiện; trong trường hợp vượt quá khả năng ứng phó thiên tai của cấp xã,
Chủ tịch UBND cấp xã đề nghị UBND, Ban Chỉ huy Phòng chống thiên tai và
TKCN cấp huyện hỗ trợ.
- Chủ tịch UBND, Trưởng Ban Chỉ huy Phòng
chống thiên tai và TKCN cấp huyện có trách nhiệm trực tiếp chỉ huy và huy động
nguồn lực theo thẩm quyền để ứng phó thiên tai trong trường hợp thiên tai cấp độ
1 xảy ra trong trường hợp từ 02 xã trở lên hoặc khi nhận được yêu cầu trợ giúp
của Chủ tịch UBND cấp xã; chịu trách nhiệm thực hiện chỉ huy, chỉ đạo của các
cơ quan chỉ đạo phòng chống thiên tai cấp trên. Chủ tịch UBND cấp huyện được
huy động các nguồn lực ứng phó thiên tai gồm: Dân quân tự vệ, thanh niên xung
kích và các tổ chức, cá nhân t́nh nguyện.
b) Thiên tai cấp độ 2:
- Chủ tịch UBND, Trưởng ban Ban Chỉ huy
Phòng, chống thiên tai và TKCN cấp tỉnh chỉ huy các địa phương, cơ quan, đơn vị
trên địa bàn triển khai ứng phó thiên tai; huy động nguồn lực theo thẩm quyền để
ứng phó kịp thời, phù hợp với diễn biến thiên tai tại địa phương; báo cáo và chịu
trách nhiệm thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Ban Chỉ đạo Trung ương về
phòng, chống thiên tai và Ủy ban Quốc
gia Tìm kiếm cứu nạn.
- Chủ tịch UBND cấp tỉnh được quyền huy động
các nguồn lực sau để ứng phó thiên tai: Dân quân tự vệ, thanh niên, các tổ chức,
cá nhân, lực lượng tìm kiếm cứu nạn, lực lượng kiểm ngư, lực lượng vũ trang địa
phương và các tổ chức, cá nhân tình nguyện; vật tư, trang thiết bị, phương tiện
của cấp tỉnh, vật tư dự trữ phòng, chống thiên tai và của tổ chức, cá nhân trên
địa bàn.
- Chủ tịch UBND, Trưởng ban Ban Chỉ huy
Phòng, chống thiên tai và TKCN cấp huyện, cấp xã tổ chức thực hiện nhiệm vụ
theo quy định; tuân thủ sự chỉ huy của cơ quan cấp trên; hướng dẫn và tổ chức
sơ tán người đến nơi an toàn; Chủ tịch UBND cấp huyện quyết định
tổ chức cưỡng chế sơ tán trường hợp tổ chức, cá nhân không tự giác chấp hành chỉ
đạo, chỉ huy, hướng dẫn sơ tán phòng, tránh thiên tai vì mục đích an toàn cho
người.
- Trong trường hợp vượt quá khả năng ứng phó của
cấp tỉnh, Chủ tịch UBND, Trưởng ban Ban Chỉ huy phòng, chống thiên tai và TKCN
cấp tỉnh báo cáo, đề nghị Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống thiên tai
và Ủy ban Quốc gia Tìm kiếm cứu
nạn hỗ trợ.
c) Thiên tai cấp độ 3:
- Chủ tịch UBND, Trưởng ban Ban Chỉ huy
Phòng, chống thiên tai và TKCN cấp tỉnh chịu trách nhiệm chỉ huy, huy động nguồn
lực theo thẩm quyền, triển khai các biện pháp ứng phó thiên tai trên địa bàn.
- Chủ tịch UBND, Trưởng ban Ban Chỉ huy
Phòng, chống thiên tai và Tìm kiếm cứu nạn cấp huyện, cấp xã thực hiện nhiệm vụ
theo quy định tại khoản 3, Điều 8 Nghị định 66/2014/NĐ-CP, phù hợp với tình huống
cụ thể tại địa phương; tuân thủ sự chỉ đạo, chỉ huy của cơ quan cấp trên.
d) Thiên tai cấp độ 4:
- Chủ tịch UBND, Trưởng ban Ban Chỉ huy
Phòng, chống thiên tai và Tìm kiếm cứu nạn cấp tỉnh có trách nhiệm chỉ huy, huy
động nguồn lực theo thẩm quyền triển khai các biện pháp ứng phó thiên tai trên địa
bàn, tuân thủ sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Ban Chỉ đạo Trung ương về
phòng, chống thiên tai và Ủy ban Quốc
gia tìm kiếm cứu nạn.
- Chủ tịch UBND, Trưởng ban Ban Chỉ huy
Phòng, chống thiên tai và Tìm kiếm cứu nạn cấp huyện và cấp xã thực hiện nhiệm
vụ theo quy định tại khoản 3, Điều 8 Nghị định 66/2014/NĐ-CP, phù hợp với tình
huống cụ thể tại địa phương; tuân thủ sự chỉ đạo, chỉ huy của cơ quan cấp trên.
e) Thiên tai cấp độ 5 (tình trạng khẩn cấp về
thiên tai):
Khi xảy ra thiên tai cấp độ 5 việc phân công,
phân cấp trách nhiệm và phối hợp trong ứng phó tình trạng khẩn cấp về thiên tai
thực hiện theo quy định của pháp luật về tình trạng khẩn cấp.
2. Phân công, phân trách nhiệm và phối hợp của
các cơ quan trong ứng phó thiên tai.
Tình hình thời tiết diễn biến ngày
càng phức tạp khó lường nhất là bão, lũ lụt tần suất diễn ra thấp và nhân dân
trên địa bàn tỉnh chưa có kinh nghiệm trong công tác phòng
tránh thiên tai nhất là bão, lũ lụt lớn xảy ra nhiều nơi nhân dân và chính quyền địa phương còn tư tưởng chủ quan, nên thiệt hại do thiên tai gây ra là khó lường.
Vì vậy, nhất thiết phải phân công lãnh đạo UBND tỉnh thường
trực từng khu vực để trực tiếp chỉ đạo khi có những tình huống bão, lũ lụt và
các thiên tai khác đột xuất xảy ra.
2.1.
UBND các huyện, thị xã, thành phố:
Chủ tịch UBND
huyện, thị xã, thành phố là tổng chỉ huy trên địa bàn, chịu
trách nhiệm:
a) Đối với bão.
- Trực tiếp chỉ
huy và huy động nguồn lực theo thẩm quyền để ứng phó thiên tai; chịu trách nhiệm
thực hiện chỉ huy, chỉ đạo của các cơ quan chỉ đạo phòng chống thiên tai cấp
trên.
- Thông báo
cho người dân chằng chống nhà cửa, kéo tàu thuyền nhỏ lên bờ, chằng giữ ổn định;
tàu thuyền lớn cho neo đậu đúng quy định; yêu cầu tất cả thuyền viên rời khỏi
tàu thuyền trước khi bão vào, kiểm tra phòng cháy nổ trên tàu.
- Phân công
lãnh đạo và cán bộ xuống địa bàn kiểm tra, đôn đốc.
- Yêu cầu các
đơn vị phải triển khai công tác phòng chống thiên tai của đơn vị.
- Tổ chức kiểm
tra, rà soát lại lực lượng, phương tiện, vật tư sẵn sàng ứng phó, rà soát lại
phương án sơ tán, kiểm tra và thực hiện công tác đảm bảo an toàn nơi sơ tán đến.
- Hạn chế, cấm
người đi lại trong thiên tai; thông báo cho học sinh tạm nghỉ học tránh bão khi
có lệnh của cấp trên.
- Phối hợp với
Sở Giao thông Vận tải, Công an tỉnh thực hiện các biện
pháp đảm bảo an toàn giao thông, chốt chặn, an ninh trật tự, bảo vệ tài sản trước,
trong và sau thiên tai.
- Sẵn sàng
phương án phòng chống lũ, lũ quét, vỡ hồ chứa do mưa kèm theo bão.
- Đảm bảo
thông tin liên lạc, kiểm soát tình hình, các khu vực trọng điểm cần phải tổ chức
ứng cứu, tìm kiếm cứu nạn, báo cáo UBND tỉnh.
- Đảm bảo
lương thực, nước uống, y tế trước, trong và sau thiên tai.
- Ngay sau thiên
tai, tổ chức ứng cứu, tìm kiếm cứu nạn, cấp cứu người bị nạn.
-
Trong trường hợp vượt quá khả năng ứng phó của cấp huyện, thị xã,
thành phố, Chủ tịch UBND cấp huyện, thị xã, thành phố,
đề nghị UBND, Ban Chỉ huy Phòng, chống thiên tai và
Tìm kiếm cứu nạn cấp tỉnh hỗ trợ.
b) Đối với lũ
lụt, triều cường, sạt lở đất và các thiên tai khác.
- Chỉ đạo và tổ
chức trực ban nghiêm túc, theo dõi sát diễn biến mưa, lũ và các thiên
tai khác; bố trí lãnh đạo chủ chốt thường trực để xử lý các tình
huống.
- Triển
khai thực hiện phương án phòng chống lũ lụt, triều cường, sạt lở đất..; rà soát các khu dân cư đang sống ở những vùng trũng, thấp, vùng ven
sông suối, vùng có nguy cơ sạt lở, lũ quét, triều
cường… triển khai phương án sơ tán nhân dân; thông báo tình hình
mưa lũ để nhân dân chủ động ứng phó, hạn chế đi lại trong vùng thiên tai
xảy ra (ngập lụt).
- Chỉ đạo các
địa phương, các đơn vị quản lý hồ chứa theo dõi chặt chẽ diễn biến mực nước các
hồ chứa, tổ chức kiểm tra an toàn các hồ chứa nước trên địa bàn; tổ chức trực
ban phòng chống thiên tai các hồ chứa nước 24/24h; phối hợp
với Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh sẵn sàng, triển khai lực lượng,
phương tiện, trang thiết bị để kịp thời xử lý các sự cố, hư hỏng công trình và
hỗ trợ, ứng cứu, sơ tán nhân dân hạ du các hồ chứa.
- Dự trữ lương
thực, thực phẩm, thuốc men và các nhu yếu phẩm khác, nhất là đối với những vùng
dễ bị chia cắt, vùng sâu, vùng xa, đi lại khó khăn.
- Tổ chức thu
hoạch sớm cho cây trồng nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản,.. theo phương châm
“xanh nhà hơn già đồng”.
- Phối hợp với
sở, ngành của tỉnh khơi thông cống rãnh thoát nước, tránh ngập
úng khu vực nội thành.
- Triển khai
các biện pháp bảo đảm an ninh trật tự trên địa bàn.
- Cắm biển
báo, bố trí lực lượng chốt chặn ở những đoạn đường bị ngập sâu, cấm người,
phương tiện qua lại ở những đoạn đường bị ngập và những nơi có dòng nước chảy
xiết và các khu vực nguy hiểm sạt lở, triều cường…; phối hợp
với Công an tỉnh tổ chức sắp xếp các phương tiện giao
thông đang đậu đổ trên quốc lộ và nội thành đảm bảo an toàn và an ninh.
- Tổ chức bảo vệ an ninh, trật tự
an toàn xã hội tại các khu vực trọng điểm, các khu vực sơ tán đi và đến.
- Rà soát, sẵn sàng triển khai
phương án phòng chống lũ lụt cho các công trình đang thi
công, các biện pháp phòng chống ngập úng do mưa lớn cho các khu dân cư do công
trình đang thi công dở dang.
- Theo dõi chặt chẽ diễn biến lũ lụt
để kịp thời cắt điện ở những vùng ngập.
- Phân công lãnh đạo và cán bộ xuống
cụm chống lũ lụt, sạt lở đất, triều cường, đặc biệt là các
vùng trọng điểm.
- Giữ thông tin liên lạc, báo cáo
kịp thời, thường xuyên về diễn biến lũ, lụt và các sự cố công trình đến các cấp
có thẩm quyền đề chỉ đạo.
- Sẵn sàng nguồn lực để hỗ trợ các
địa bàn lân cận khi có yêu cầu.
- Dừng các cuộc họp không cần thiết
để tập trung cho công tác đối phó với lũ lụt.
- Các cấp, các ngành phối hợp với
các lực lượng vũ trang trên địa bàn sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ tìm kiếm cứu nạn,
ứng cứu, sơ tán dân khi cần.
- Tổ chức hướng dẫn các tàu thuyền
neo đậu an toàn tại các nơi quy định.
- Cấm các đò ngang, đò dọc hoạt động
và bố trí lực lượng ứng trực tại các bến đò ngang, đò dọc để kiểm tra việc thực
hiện. Cấm người dân vớt củi hoặc hoạt động sinh kế trên sông.
- Đánh giá thiệt hại, tổ chức khắc
phục hậu quả, ổn định đời sống, phục vụ sản xuất, phòng chống dịch bệnh, xử lý
môi trường, do thiên tai gây ra.
- Tổ chức cứu trợ cho cá nhân và
gia đình bị thiệt hại do thiên tai gây ra.
- Tổng hợp, báo cáo đến cơ quan cấp
trên về diễn biến mưa, lũ, lụt, triều cường… tình hình thiệt
hại và kết quả triển khai đối phó, khắc phục hậu quả.
2.2.
Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh:
- Hàng năm, Bộ
Chỉ huy Quân sự tỉnh lập Kế hoạch hiệp đồng công tác Phòng
chống, giảm nhẹ thiên tai và tìm kiếm cứu nạn với các đơn vị lực lượng vũ trang
trên địa bàn tỉnh.
- Xây dựng Kế
hoạch nêu cụ thể về các kịch bản thiên tai và phân công trách nhiệm về địa bàn ứng
phó xử lý của từng đơn vị cụ thể. Các lực lượng trong kế hoạch hiệp đồng của Bộ
Chỉ huy Quân sự tỉnh gồm: Các lực lượng của Quân khu, Quân
sự, Công an và Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh, Trung
đoàn Không quân 910 và các đơn vị liên quan khác....
- Rà soát lại
các Phương án hiệp đồng với các lực lượng vũ trang.
- Rà soát lại
phương án hoạt động của Đội ứng cứu khẩn cấp thiên tai.
- Triển khai
công tác hỗ trợ sơ tán, ứng phó cho các huyện, thị xã, thành phố theo địa bàn.
- Triển khai
công tác bố trí lực lượng, phương tiện ứng phó, xử lý tình huống khẩn cấp và
tìm kiếm cứu nạn tại các khu vực trọng điểm.
- Thực hiện
công tác ứng cứu, tìm kiếm cứu nạn trong thiên tai trong điều kiện có thể.
- Rà soát lại các Phương án hiệp đồng
các lực lượng vũ trang, nhất là ứng cứu cho các vùng trọng điểm thiên
tai, hồ chứa và vùng hạ du hồ chứa.
- Triển khai công tác bố trí lực
lượng, phương tiện ứng phó, xử lý tình huống và tìm kiếm cứu nạn, nhất là khi dự
báo có lũ trên Báo động (BĐ III, BĐIII +1m BĐ III +1,5-2,0m)
tại trạm Phú Lâm, Hà Bằng, Hòa Mỹ, khi có yêu cầu.
- Phối hợp với Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng triển khai hoạt động của cứu hộ, cứu nạn trên sông
(vùng cửa sông), vùng triều cường...
2.3.
Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh:
a) Đối với bão:
- Triển khai công
tác thông tin liên lạc với tàu thuyền, thông tin về bão, kêu gọi tàu thuyền vào
bờ hoặc thoát ra khỏi khu vực nguy hiểm.
- Tổ chức bắn
pháo hiệu báo bão theo quy định.
- Chủ trì, phối
hợp với Sở Nông nghiệp và PTNT và các địa phương hướng dẫn tàu thuyền, các
phương tiện khai thác, nuôi trồng thủy sản neo đậu an toàn tại các điểm
tránh trú bão của tỉnh; phối hợp với Trung tâm Tìm kiếm cứu nạn Hàng hải khu vực IV, Cảnh sát biển
vùng III, Hải quân vùng IV, thông báo thông tin về tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn trên
biển.
- Triển khai
phương án hoạt động ứng cứu của Đội Cứu hộ trên biển, cửa sông.
- Triển khai
công tác hỗ trợ sơ tán, ứng phó cho các huyện, thị xã, thành phố, xã, phường
theo địa bàn.
b) Đối với lũ lụt, triều cường:
- Phối hợp với các địa phương, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thông báo,
hướng dẫn người dân tổ chức di chuyển toàn bộ tàu thuyền về neo đậu,
tránh trú an toàn nơi quy định.
- Phối hợp với Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh triển khai các hoạt động cứu hộ, cứu nạn trên sông (vùng cửa sông),
triều cường.
2.4.
Đề nghị Đài Thông tin Duyên hải Phú Yên:
- Đài Thông
tin Duyên hải Phú Yên đảm bảo thông tin liên lạc với tàu thuyền,
thông tin về bão, kêu gọi tàu thuyền vào bờ hoặc thoát ra khỏi khu vực nguy hiểm.
- Phối hợp Hải
quân vùng IV, Cảnh sát biển vùng III, Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn trên biển theo đề nghị của tỉnh.
2.5.
Công an tỉnh:
- Phối hợp với
các sở, ban, ngành, đoàn thể, các địa phương và nhất
là phối hợp với lực lượng Quân sự và Bộ đội Biên phòng tổ chức di dời, sơ tán
dân đến nơi an toàn và tham gia tìm kiếm cứu nạn, cứu hộ, khắc phục hậu quả do
bão mạnh, siêu bão và lũ lụt, triều cường… gây ra.
- Triển khai phương án đảm bảo
an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội, trật tự an toàn giao thông tại các
khu vực chịu ảnh hưởng trực tiếp của bão mạnh, siêu bão, lũ lụt, triều cường…
các khu vực nguy hiểm, sơ tán dân; bảo vệ an toàn tài sản của Nhà nước và nhân
dân, không để các loại tội phạm lợi dụng hoạt động phạm tội.
- Chủ động, sẵn sàng và tổ
chức công tác phòng, chống cháy nổ, cứu hộ, cứu nạn trước, trong và sau khi bão
mạnh, siêu bão, lũ lụt và các loại thiên tai khác xảy ra.
2.6.
Sở Xây dựng:
- Triển khai phương án phòng chống bão, lũ lụt, triều cường cho
các công trình, công trình đang thi công dở dang, các nhà cao tầng, tháp cẩu,
cây xanh, hệ thống điện chiếu sáng, cấp nước sinh hoạt, đô thị.
- Chủ động
phối hợp với Sở Giao thông Vận tải triển
khai phương án huy động các trang thiết bị, phương tiện phục
vụ công tác ứng phó bão, lũ lụt và các thiên tai khác.
2.7. Sở
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Cơ quan Thường trực Ban Chỉ huy Phòng chống
thiên tai và TKCN tỉnh):
- Phối hợp với
Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh, các địa phương triển
khai phương án neo đậu an toàn cho các tàu thuyền.
- Phối hợp với
Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh, Sở Công Thương và UBND các huyện
và thành phố tổ chức trực phòng chống thiên tai và ứng cứu cho các hồ chứa thuỷ
lợi, thuỷ điện khi có yêu cầu.
- Đôn đốc, chỉ
đạo công tác trực ban của Văn phòng Thường trực Ban Chỉ huy Phòng, chống thiên
tai và TKCN tỉnh.
- Chỉ đạo Công
ty TNHH MTV Thủy nông Đồng Cam tổ chức trực ban về phòng
chống thiên tai, bão, lũ lụt cho 02 hồ chứa lớn Phú Xuân
và Đồng Tròn; xây dựng kế hoạch, phương án phòng chống, khắc phục hạn
hán thuộc đơn vị quản lý.
- Lập dự toán, kế hoạch công
tác phòng chống thiên tai trình Sở Tài chính, UBND tỉnh phê duyệt.
2.8. Công ty TNHH MTV Thủy
nông Đồng Cam:
Kiểm tra, đánh giá chất lượng
công trình, xây dựng phương án bảo vệ trọng điểm đối với các công trình hồ chứa
do đơn vị quản lý và có kế hoạch chống hạn hán, ngập úng; chuẩn bị phương tiện,
máy móc sẵn sàng cơ động phục vụ chống hạn hán, ngập úng, tổ chức thực hiện
theo kế hoạch.
2.9. Sở Giao thông Vận tải:
- Triển khai
phương án phòng chống bão, lũ lụt, triều cường.. đối với
các công trình giao thông.
- Phối hợp với
Sở Xây dựng rà soát phương án chuẩn bị huy động trang thiết
bị, phương tiện, vật tư phục vụ công tác sơ tán, ứng phó.
- Xây dựng
và tổ chức thực hiện phương án bảo đảm an toàn giao thông vận tải
trước và trong và sau thiên tai được thông suốt phục vụ cho công tác cứu
hộ, cứu nạn, di dời dân. Phối hợp với Công an tỉnh và các địa phương chốt chặn các đoạn đường các khu vực nguy hiểm,
khu vực xảy ra thiên tai.
- Phối hợp với
Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh, Công an tỉnh
chỉ đạo lực lượng Thanh tra Giao thông vận tải tỉnh thực
hiện công tác giải phóng lòng, lề đường, phục vụ cho công tác ứng cứu, tìm kiếm
cứu nạn.
- Có kế hoạch bố trí phương
tiện vận tải của ngành và của đơn vị vận tải khác trong tỉnh sẵn sàng huy động
phục vụ khi có yêu cầu di chuyển dân cư, lực lượng cứu nạn, cứu trợ.
2.10. Sở Công Thương:
- Rà soát
phương án chuẩn bị, dự trữ, cung ứng các mặt hàng thiết yếu cho nhân dân trước
và sau bão, lũ lụt...
- Triển khai phương
án phòng chống bão, lũ lụt và các thiên tai khác đối với
các công trình, kho tàng, trụ sở của ngành.
- Theo dõi, kiểm
tra việc chấp hành quy trình vận hành đơn hồ chứa và liên hồ chứa của các nhà máy thủy điện
theo đúng quy định. Phối hợp cùng Sở Nông nghiệp và PTNT và các nhà máy
thủy điện điều tiết cung cấp nước tưới cho sản xuất nông nghiệp vùng hạ du.
2.11. Công ty Điện lực
Phú Yên:
- Triển khai các
phương án đảm bảo an toàn hệ thống, mạng lưới điện trên địa bàn tỉnh
do đơn vị quản lý.
- Đảm bảo điện lưới phục vụ
công tác phòng chống thiên tai nhất là bão, lũ lụt ưu tiên cung cấp điện phục vụ
cho công tác phòng chống thiên tai; cung cấp điện cho các trạm bơm điện phục vụ
bơm tưới cho sản xuất nông nghiệp khi có hạn hán xảy ra.
2.12. Sở Tài nguyên-Môi trường:
- Phối hợp với Sở Xây dựng triển khai phương án xử lý ứng phó và
khắc phục hậu quả động đất, sạt lở đất...Phổ biến, tuyên
truyền sâu rộng đến nhân dân tình huống và biện pháp ứng phó khi xảy ra động đất,
sạt lở đất…
- Sẵn sàng
phương án tổ chức khắc phục môi trường sau bão, lũ lụt và các thiên tai
khác phương án xử lý sự cố tràn dầu, phương án bảo đảm an toàn
các công trình xử lý môi trường.
2.13. Sở Y tế:
- Chuẩn
bị thuốc dự phòng, phương tiện cấp cứu và cán bộ y tế để chăm sóc bảo vệ sức khỏe
ban đầu khi xảy ra thiên tai; phát hiện và ngăn chặn kịp thời các bệnh dịch; điều
động ứng cứu người bị nạn, khắc phục hậu quả sau thiên tai khi có yêu cầu.
- Triển khai phương án cấp cứu, tiếp nhận nạn nhân; phương án đảm bảo an toàn cho các
cơ sở y tế, bệnh viện, bệnh nhân.
- Chỉ đạo các trung tâm y tế,
bệnh viện các huyện tổ chức các đội y tế xung kích cùng trang thiết bị và cơ số
thuốc phù hợp để phục vụ công tác phòng chống thiên tai trên địa bàn, cũng như
sẵn sàng nhiệm vụ.
- Tham gia
cùng với Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh, Bộ đội Biên phòng tỉnh, Công an tỉnh trong công tác cấp cứu của các Đội
cứu nạn, cứu sập.
2.14. Sở Giáo dục và Đào tạo:
- Triển khai
công tác phòng chống lụt, bão và các thiên tai khác cho các công trình, cơ sở giáo dục, đào tạo.
- Phối hợp với
các huyện, thị xã, thành phố sử dụng cơ sở giáo dục đào tạo làm nơi sơ tán nhân
dân.
- Thông báo và
phối hợp với Đại học Phú Yên và các trường Đại học, Cao đẳng và Trung cấp thông
báo cho các huyện, thị xã, thành phố; các trường học khi có lệnh cho học sinh,
sinh viên tạm nghỉ học tránh bão, lũ lụt và các thiên tai khác của lãnh đạo tỉnh hoặc của Ban Chỉ huy Phòng chống
thiên tai và Tìm kiếm cứu nạn tỉnh.
2.15. Sở Tài chính:
Hàng năm căn cứ khả năng cân
đối ngân sách, tham mưu UBND tỉnh bố trí kinh phí chi thường xuyên để đảm bảo
thực hiện Kế hoạch phòng chống thiên tai theo đúng Luật Ngân sách nhà nước hiện
hành.
Bố trí vốn đầu tư: Sở Tài
chính phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư tham mưu UBND tỉnh bố trí vốn đầu tư
phù hợp với kế hoạch đầu tư công và tình hình thực tế cho công tác phòng, chống
thiên tai và TKCN.
2.16. Sở Lao động Thương
binh và Xã hội:
Chủ trì, phối hợp cùng các sở,
ban, ngành và các địa phương tổ chức khắc phục hậu quả, cứu trợ xã hội…hướng dẫn
UBND các huyện, thị xã và thành phố, cấp xã, phường, thị trấn giải quyết các
chính sách, chế độ trợ giúp đột xuất cho các đối tượng bị ảnh hưởng bởi thiên
tai theo quy định hiện hành.
2.17. Sở Thông tin và Truyền thông, Đài Phát thanh truyền hình tỉnh, Báo Phú Yên và đề nghị Trung tâm Truyền
hình Việt Nam tại Phú Yên.
- Triển khai
phương án thông tin truyền thông, kịp thời phát tin bão, lũ lụt và các
thiên tai khác về các công điện, văn bản chỉ đạo của Trung ương, tỉnh và Ban Chỉ huy Phòng chống thiên tai và Tìm kiếm cứu nạn tỉnh cho chính quyền, cộng đồng, người dân.
- Triển khai
phương án phân công phóng viên đến các vùng trọng điểm về thiên tai để kịp thời
đưa tin về tình hình thiên tai, ứng phó và khắc phục.
- Triển khai
phương án đảm bảo an toàn các cơ sở phát thanh, truyền hình, các công trình viễn
thông, các trụ ăng ten trong khu dân cư; phương án dự phòng và đảm bảo an toàn
mạng lưới phục vụ thông tin liên lạc
thông suốt với Trung ương, tỉnh và các huyện,
thị xã và thành phố để phục vụ việc chỉ đạo, chỉ huy điều hành trong
công tác phòng chống thiên tai kịp thời, hiệu quả.
- Sở Thông tin và Truyền
thông chủ trì và phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị: Đài Phát thanh và Truyền
hình tỉnh, Đài Thông tin duyên hải Phú Yên, Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh
và các doanh Bưu chính, Viễn thông theo dõi, cập nhật, thông báo, đăng tải
thông tin kịp thời đến các cấp chính quyền và nhân dân.
2.18. Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch:
- Triển khai
phương án đảm bảo an toàn cho tất cả các cơ sở văn hóa, thể thao và du lịch, kể
cả tàu du lịch, khách sạn, khu nghỉ dưỡng.
- Phương án đảm
bảo an toàn cho khách du lịch (nếu có).
- Phối hợp với
UBND các huyện, thị xã, thành phố trong công tác sử dụng các cơ sở du lịch,
khách sạn, khu nghỉ dưỡng để làm nơi sơ tán đến cho người
dân.
- Phối hợp với UBND cấp huyện
kiểm tra, yêu cầu các tổ chức, cá nhân có biển quảng cáo ngoài trời, thực hiện
chằng chống, gia cố đảm bảo yêu cầu kỹ thuật đề phòng gãy đổ khi có thiên tai xảy
ra nhất là bão, giông lốc.
2.19. Đề nghị Đài Khí tượng thủy văn tỉnh:
Triển khai
phương án đảm bảo thông tin về dự báo, cảnh báo bão, lũ lụt và các thiên
tai khác kịp thời, nhanh chóng đến lãnh đạo tỉnh, Ban Chỉ huy Phòng chống thiên tai và Tìm kiếm cứu nạn tỉnh, các cấp, các ngành chủ động chỉ huy, chỉ đạo phòng chống
thiên tai có kết quả, chế độ thông tin đặc biệt khi có tình huống thiên tai khẩn
cấp xảy ra.
2.20. Đề nghị Hội chữ thập
đỏ tỉnh:
Hội Chữ thập đỏ tỉnh xây dựng
phương án cứu trợ, cứu trợ khẩn cấp và trợ giúp nhân đạo cho các nạn nhân bị ảnh
hưởng bởi thiên tai, thảm họa; phối hợp cùng các sở, ngành, đoàn thể liên quan
hỗ trợ, ứng cứu, vận động các nguồn lực trong và ngoài tỉnh, góp phần giảm nhẹ
các thiệt hại do thiên tai, thảm họa gây ra cho cộng đồng.
2.21. Các sở, ngành khác:
Căn cứ theo chức năng nhiệm
vụ, phân công, phân cấp trách các cơ quan, đơn vị xây dựng, tổ chức triển khai
thực hiện, phương án, kế hoạch phòng chống thiên tai của đơn vị, ngành mình quản
lý, đồng thời thực hiện nhiệm vụ chung của tỉnh.
Trên đây là kế hoạch phòng chống thiên tai trên địa bàn tỉnh, căn
cứ kế hoạch của tỉnh, các cấp, các ngành trong tỉnh chủ động xây dựng kế hoạch
của ngành, địa phương, đơn vị mình thật cụ thể, chi tiết sát với tình hình, điều
kiện của địa phương, ngành mình quản lý nhằm để chủ động ứng phó, khắc phục với
mọi tình huống thiên tai có thể xảy ra. UBND tỉnh yêu cầu các Sở, ban, ngành và địa phương nghiêm túc triển khai thực
hiện./.