BỘ
TÀI CHÍNH
******
|
VIỆT
NAM
DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
76-TC/HCVX
|
Hà
Nội, ngày 16 tháng 04 năm 1970
|
THÔNG TƯ
VỀ VIỆC CẢI TIẾN CẤP PHÁT KINH PHÍ CÔNG ĐOÀN
BỘ TRƯỞNG BỘ TÀI CHÍNH
Căn cứ Thông tư số 141-TTg ngày 29-12-1969 của
Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài chính đã quy định việc cải tiến cấp phát kinh phí
công đoàn như sau:
“Đối với các xí nghiệp, công trường và cơ quan hành chính sự nghiệp thuộc các
ngành trung ương quản lý, Bộ Tài chính cấp trực tiếp cho Tổng công đoàn bằng
nguồn kinh phí của ngân sách trung ương.
Đối với các xí nghiệp, công trường và cơ quan hành chính sự nghiệp thuộc các Ủy
ban hành chính địa phương quản lý, các sở, ty tài chính cấp trực tiếp cho các
liên hiệp công đoàn bằng nguồn kinh phí của ngân sách địa phương” (Thông tư số
23-TC/VP ngày 14-01-1970 của Bộ Tài chính)
Sau khi đã thống nhất ý kiến với Tổng công đoàn Việt-nam và Ngân hàng Nhà nước
Việt-nam, Bộ Tài chính hướng dẫn việc thi hành quy định trên như sau:
I.CĂN
CỨ ĐỂ TÍNH KINH PHÍ CÔNG ĐOÀN VÀ GHI VÀO NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
Hằng năm, Tổng công đoàn (ở
Trung ương), liên hiệp công đoàn (ở địa phương) - dưới đây đều gọi tắt là cơ
quan công đoàn, căn cứ vào chỉ tiêu quỹ tiền lương kế hoạch Nhà nước của cả hai
khu vực sản xuất vật chất và không sản xuất vật chất đã được Hội đồng Chính phủ
phê chuẩn, để lập dự trù kinh phí công đoàn bằng 2% quỹ lương kế hoạch, và gửi
đến cơ quan tài chính cùng cấp xét và ghi vào dự toán chi của Ngân sách, loại
II, khoản 49 mục 7. (Kinh phí công đoàn ghi chung vào khoản 49 của mục lục Ngân
sách, không ghi theo từng ngành).
II. CẤP PHÁT VÀ THANH TOÁN KINH PHÍ CÔNG ĐOÀN
Cuối mỗi quý, cơ quan công đoàn
lập kế hoạch cấp phát kinh phí cho quý sau, gửi đến cơ quan tài chính. Dựa vào
kế hoạch quỹ tiền lương quý do các ngành báo cáo, cơ quan tài chính tính toán số
kinh phí kế hoạch phải cấp.
Trong 10 ngày đầu tháng thứ nhất
của quý, cơ quan tài chính phải cấp phát cho cơ quan công đoàn số kinh phí đó,
bằng lệnh chi, vào tài khoản “quỹ công đoàn” của cơ quan công đoàn mở tại Ngân
hàng Nhà nước, để kịp phân phối cho các công đoàn cơ sở.
Trường hợp ngân sách có khó
khăn, thì cơ quan tài chính thương lượng với cơ quan công đoàn để cấp phát làm
hai lần, nhưng phải bảo đảm kịp thời nhu cầu chi của các công đoàn cơ sở.
Sau mỗi quý, cơ quan công đoàn đề
nghị với cơ quan tài chính thanh toán lại với cơ quan công đoàn, căn cứ vào số
tiền lương mà cơ quan tài chính (đối với cơ quan hành chính sự nghiệp), ngân
hàng Nhà nước (đối với các xí nghiệp sản xuất, kinh doanh), ngân hàng kiến thiết
(đối với các nông trường) thực tế đã trả trong quý. Số tiền lương thực tế đã trả
nói ở đây:
a) Đối với cơ quan hành chính
sự nghiệp, là số liệu ghi trong báo cáo, lập theo chế độ hiện hành, để quyết
toán chi về tiền lương thuộc khu vực không sản xuất vật chất của từng ngành.
b) Đối với các đơn vị sản xuất,
kinh doanh, xây dựng cơ bản, là số liệu ghi trong báo cáo của ngân hàng Nhà
nước kiến thiết, lập theo chế độ hiện hành, để thống kê tình hình chi tiêu quỹ
tiền lương thuộc khu vực sản xuất vật chất của các ngành.
Ở trung ương, Ngân hàng Nhà nước
trung ương và Ngân hàng kiến thiết trung ương cung cấp cho Bộ Tài chính các tài
liệu thống kê về kế hoạch và tình hình thực hiện kế hoạch quỹ tiền lương quý,
năm của các ngành thuộc trung ương quản lý; ở các địa phương, các chi nhánh
ngân hàng Nhà nước và các chi nhánh ngân hàng kiến thiết cung cấp cho các sở,
ty tài chính các tài liệu thống kê về kế hoạch và tình hình thực hiện kế hoạch
quỹ tiền lương quý, năm của các ngành thuộc địa phương quản lý.
Các cơ quan tài chính, ngân hàng
Nhà nước, ngân hàng kiến thiết cần tăng cường công tác quản lý chi tiêu quỹ tiền
lương ở các xí nghiệp, cơ quan, theo đúng các quy định hiện hành của Nhà nước,
giám đốc việc hạch toán và bảo đảm việc thống kê quỹ tiền lương được kịp thời
và chính xác, dựa vào đó mà thanh toán kinh phí công đoàn cho kịp thời và đầy đủ.
Các cấp công đoàn ở địa phương cần
phối hợp chặt chẽ với các cơ quan tài chính và ngân hàng Nhà nước, ngân hàng kiến
thiết trong công tác tác này.
Việc cải tiến cấp phát kinh phí
công đoàn theo Thông tư này thi hành kể từ ngày 01-01-1970.
Để bảo đảm cho việc hạch toán
vào ngân sách Nhà nước năm 1970 theo đúng các chế độ thu chi, và mục lục ngân
sách mới ban hành, các đơn vị đã nộp kinh phí công đoàn quý I-1970 theo quy định
cũ, nay cần giải quyết như sau:
1. Đối với
các đơn vị hành chính sự nghiệp, từ đầu quý I-1970, cơ quan tài chính đã cấp
phát kinh phí, gồm có kinh phí công đoàn (2% quỹ lương) cho các đơn vị hành
chính sự nghiệp; vì vậy các đơn vị này có trách nhiệm, căn cứ vào số tiền lương
đã thực trả mà trích nộp đầy đủ kinh phí công đoàn quý I-1970 cho cơ quan công
đoàn và ghi vào quyết toán chi của đơn vị, theo chế độ hiện hành. Kể từ quý
II-1970 trở đi, cơ quan tài chính phải cấp phát kinh phí công đoàn theo quy định
của Thông tư này.
Riêng đối với các đơn vị hành
chính sự nghiệp trung ương đóng ở địa phương, thì sau khi nộp kinh phí 2% cho
công đoàn, phải báo cáo ngay về Bộ chủ quản để Bộ chủ quản tổng hợp, gửi Bộ Tài
chính trước ngày 30-05-1970:
- Số tiền lương thực trả của đơn
vị trong quý I-1970.
- Số tiền đã nộp cho liên hiệp
công đoàn địa phương về kinh phí công đoàn quý I-1970 (ghi rõ từng địa phương).
Các tài liệu trên đây rất cần
thiết cho việc điều chỉnh ghi chép số thu, chi của kế toán ngân sách 1970 theo
đúng các chế độ mới ban hành.
2. Đối với
các đơn vị sản xuất, kinh doanh và kiến thiết cơ bản.
Để bảo đảm thi hành quy định mới
từ 01-01-1970, đồng thời bảo đảm việc các đơn vị phải nộp trả ngân sách Nhà nước
số tiền đã trích từ lợi nhuận để nộp kinh phí công đoàn của quý I-1970.
a) Cơ quan công đoàn lập
kế hoạch đề nghị cấp phát kinh phí công đoàn (kinh phí này tính từ 01-01-1970
theo như quy định ở phần II trên) gửi đến cơ quan tài chính, kèm theo danh sách
các đơn vị đã trích lợi nhuận để nộp kinh phí công đoàn quý I-1970. Danh sách
này cần ghi rõ số tiền mỗi đơn vị đã trích nộp và phải làm thành 3 bản:
- 1 bản gửi cơ quan ngân hàng
Nhà nước,
- 1 bản gửi cơ quan tài chính
cùng cấp,
- 1 bản gửi Tổng công đoàn Việt-nam.
Căn cứ vào danh sách này, cơ
quan công đoàn:
- Một mặt làm giấy chuyển khoản
để chuyển trả lại vào tài khoản của từng đơn vị (kể cả đơn vị trung ương đóng ở
địa phương) số tiền mà đơn vị đã nộp về kinh phí công đoàn quý I-1970.
- Mặc khác, báo ngay cho đơn vị
được trả tiền biết, và đơn vị này có trách nhiệm làm giấy ủy nhiệm chi và giấy
nộp tiền (có ghi rõ loại, khoản, hạng, mục thu mà đơn vị phải nộp lợi nhuận
theo đúng mục lục ngân sách mới) gửi đến cơ quan ngân hàng Nhà nước để cơ quan
ngân hàng làm thủ tục chuyển nộp vào ngân sách, theo quy định ở đoạn c sau đây.
b) Cơ quan tài chính xét
duyệt và cấp phát kịp thời kinh phí cho cơ quan công đoàn. Trên lệnh chi tiền,
cần ghi rõ vào phần “chú thích đối với ngân hàng” số tiền mà cơ quan công đoàn
phải chuyển trả cho các đơn vị, theo danh sách đã gửi đến cơ quan tài chính và
ngân hàng Nhà nước.
Sau khi cấp phát, các sở, ty tài
chính có trách nhiệm, cùng với cán bộ chuyên quản xí nghiệp, theo dõi, đôn đốc
các đơn vị nộp trả ngân sách Nhà nước khoản tiền đã trích từ lợi nhuận, và báo
cáo về Bộ Tài chính trước ngày 30-05-1970;
- Số tiền các đơn vị trung ương
đóng ở địa phương đã trích từ lợi nhuận để nộp kinh phí công đoàn quý I-1970,
- Số tiền các đơn vị này đã thu
hồi và nộp trả ngân sách Nhà nước.
- Lý do chưa nộp trả đủ (nếu
có).
Các tài liệu trên đây rất cần
thiết cho việc điều chỉnh ghi chép số thu, chi của kế toán ngân sách 1970 theo
đúng các chế độ mới ban hành.
c) Cơ quan ngân hàng Nhà nước
giám đốc các việc làm trên; theo sự thỏa thuận giữa Bộ Tài chính và Ngân
hàng Nhà nước, các cơ quan ngân hàng Nhà nước phải căn cứ vào các giấy tờ nhận
được (lệnh chi tiền có phần chú thích của cơ quan tài chính, giấy chuyển khoản
của cơ quan công đoàn, giấy ủy nhiệm chi và giấy nộp tiền của đơn vị) mà kiểm
soát lại; nếu đủ thì làm thủ tục sau đây:
- Chuyển khoản từ ghi Nợ tài khoản
cơ quan công đoàn qua chi Có tài khoản đơn vị, để phản ánh việc công đoàn hoàn
trả cho đơn vị số tiền đơn vị đã trích nộp kinh phí công đoàn;
- Đồng thời liền theo đó, ghi
chép ngay việc chuyển nộp từ ghi Nợ tài khoản đơn vị sang ghi Có tài khoản thu
ngân sách, để phản ánh số tiền đơn vị nộp trả ngân sách.
Cần chú ý điểm có tính chất
nguyên tắc là số tiền do công đoàn chuyển trả phải bảo đảm được nộp ngay vào
ngân sách mà không được rút ra chuyển hoặc sử dụng vào việc khác.
Các việc trên đây cần tiến hành
song song trong một thời gian do các ngành thống nhất quy định, và phải làm
xong trước ngày 30-05-1970, để bảo đảm sổ sách kế toán ngân sách 1970 phản ánh
đúng kết quả thi hành các chế độ thu, chi mới.
Thông tư này không thi hành đối
với các tổ chức do các nguồn vốn khác, ngoài vốn ngân sách Nhà nước gánh chịu
tiền lương, như: quỹ đảng, quỹ công đoàn, quỹ bảo hiểm xã hội, quỹ hưu trí, quỹ
nhà trẻ, nhà ăn, v.v…; các tổ chức này vẫn lấy nguồn vốn của mình để nộp kinh
phí 2% cho cơ quan công đoàn.
Bộ Tài chính và Tổng công đoàn
Việt-nam đã thỏa thuận là Tổng công đoàn sẽ quy định việc trích nộp cho thuận
tiện, sau khi bàn bạc với các tổ chức có liên quan.
Thông tư số 07-TC/HCP ngày
31-01-1959 của Bộ Tài chính về việc nộp kinh phí công đoàn nay bãi bỏ.
|
K.T. BỘ TRƯỞNG
BỘ TÀI CHÍNH
THỨ TRƯỞNG
Trịnh Văn Bính
|